Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Thế giới nghệ thuật thơ trần đăng khoa thời niên thiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.47 KB, 59 trang )

LỜI CẢM ƠN
Thực tế luôn cho thấy, sự thành công cũng đều gắn liền với những sự hỗ trợ, giúp
đỡ của những người xung quanh dù cho sự giúp đỡ đó là ít hay nhiều, trực tiếp hay
gián tiếp. Trong suốt thời gian qua em đã nhận được sự quan tâm, chỉ bảo , giúp đỡ
của thầy cô, gia đình và bạn bè xung quanh.
Với tấm long biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến quý
thầy cô của trường Đại Học Quảng Bình, đã dùng những tri thức và tâm huyết của
mình để có thể truyền đạt cho chúng em trong vốn kiến thức quý báu trong suốt thời
gian học tập tại trường. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn cô Tuyết đã tận tâm chỉ
bảo hướng dẫn em qua từng buổi học, thảo luận về đề tài nghiên cứu. Nhờ có những
lời hướng dẫn, dạy bảo đó , bài luận văn này của em đã hoàn thành một cách suất sắc
nhất. Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô.
Vì vốn kiến thức em còn hạn chế, không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện


MỤC LỤC


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, so với “văn học người
lớn” thì văn học thiếu nhi hình thành và phát triển một cách thầm lặng, ít được người
ta quan tâm đến. Tuy vậy, bộ phận văn học này đã không bỏ cuộc mà đã tự thân phấn
đấu vươn lên để ngày một phong phú, đa dạng và được đánh giá là “một bộ phận quan
trọng của nền văn học dân tộc”. Ở bộ phận văn học này có sự góp mặt của các bút
danh tiếng đầy tâm huyết: Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Đoàn Giỏi, Võ Quảng, Phạm
Hổ,… Họ viết cho các em với tình yêu thương, sự đồng cảm và trên hết là muốn cung


cấp cho các em những câu chuyện, những vần thơ bổ ích, mang giá trị nhận thức và
giáo dục cao. Đặc biệt, trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã xuất hiện một loạt các
em thiếu nhi làm thơ: Trần Đăng Khoa, Chu Hồng Quý, Cẩm Thơ, Hoàng Hiếu Nhân,
… mà tiêu biểu nhất là Trần Đăng Khoa.
Tuổi thơ tôi và bạn bè tôi đã thuộc làu những câu: trong Hạt gạo làng ta, Nghe
thầy đọc thơ,… Mặc dù chưa hiểu hết cái hay của những câu thơ đó, chúng tôi vẫn
cảm nhận được một cái gì đó rất thân thương, gần gũi. Sau này lớn lên, tôi biết được
tác giả của những vần thơ đã theo mình suốt thời thơ ấu là Trần Đăng Khoa, và càng
thú vị hơn khi biết rằng những bài thơ đó được sáng tác từ khi tác giả còn rất nhỏ.
Tập thơ Góc sân và khoảng trời đã nhận được không ít ý kiến đánh giá, phê
bình, nhưng chỉ đơn thuần là một vài nhận định, phê bình ngắn ngủi, chung chung về
tổng thể tập thơ hay cảm xúc đối với một vài bài thơ mà người viết cho là tiêu biểu.
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi sẽ góp thêm một cách nhìn, cách cảm tương đối
toàn diện và có hệ thống về một nhà thơ từng được mệnh danh là “thần đồng” cũng
như khẳng định lại những đóng góp của nhà thơ này. Từ đó tìm ra những nghệ thuật
thơ riêng biệt tạo nên phong cách thơ của Trần Đăng Khoa.
2. Lịch sử vấn đề
Tập thơ Góc sân và khoảng trời được viết từ năm 1966 đến 1973, in năm
1973 được rất nhiều người quan tâm. Tập thơ đã nhận được một số ý kiến phê bình và
đánh giá về nội dung và nghệ thuật như sau:
2.1. Những ý kiến về giá trị nội dung của tập thơ
Nguyễn Văn Long đã xếp thơ Trần Đăng Khoa vào bộ phận văn học thiếu nhi từ
sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 và có những nhận xét rất hay về tập thơ Góc sân và
3


khoảng trời cũng như về thơ của Trần Đăng Khoa nói chung: “Anh đã viết rất nhiều,
rất hay về nông thôn nhỏ bé của mình. Đến với thơ anh, ta được sống trong bầu không
khí rất riêng, không khí của làng quê nông thôn Việt Nam. Trong đó, ông nêu lên
những ý kiến của nhà nghiên cứu phê bình Nguyễn Đăng Mạnh về “nhà thơ mục

đồng” và khen ngợi “Trần Đăng Khoa luôn cảm nhận đựơc vẻ đẹp trong trẻo, trinh
nguyên, thuần nhất của vùng quê dân dã”.
Dương Thu Hương đã nhận định về thiên nhiên và cuộc sống của người nông dân
trong thơ Trần Đăng Khoa: Qua đó, Trần Đăng Khoa đã bộc lộ một tình yêu quê
hương sâu sắc và truyền cho người đọc tình yêu ấy. Với tất cả bạn đọc nước ngoài, qua
thơ anh, họ cũng hiểu thêm phần nào về phong vị Việt Nam”. Chính cây bút nhỏ này
đã làm cho người ta chú ý nhiều hơn đến Việt Nam không chỉ vì Việt Nam là chiến
trường ác liệt lúc bấy giờ mà còn do Việt Năm xuất hiện một hiện tượng thơ đáng tự
hào. Gerad Gullaume đã thốt lên đầy xúc động khi nói về Trần Đăng Khoa:“Việt Nam,
hồn tôi”.
Phạm Hổ trong tiểu luận “Đọc lại thơ Trần Đăng Khoa” cho rằng Trần Đăng
Khoa đã không viết về những cái gì xa lạ mà viết những cái ở ngay làng quê mà ngày
ngày em trông thấy và “hầu như toàn bộ thơ Trần Đăng Khoa là viết bằng lòng yêu
thương…”
Hoài Thanh đã đề cập đến hình ảnh các chú bộ đội trong thơ các em thiếu nhi mà
đặc biệt là trong thơ Trần Đăng Khoa: “…Hình ảnh chú bộ đội gắn liền với cảnh sắc
yêu dấu, với không khí đầm ấm của quê em lại càng thêm gần gũi…”
Trần Đăng Xuyền đã chỉ ra những nhân tố góp phần làm nên hồn thơ cũng như
một và đặc điểm trong cái nhìn của Trần Đăng Khoa: nhân tố gia đình, cảnh sắc thiên
nhiên ở làng quê, ảnh hưởng của nhà thơ Xuân Diệu, bạn bè, thầy cô và không khí của
thời đại kháng chiến chống Mĩ. Đó là những nhân tố khách quan bên cạnh tài năng
thiên bẩm của Trần Đăng Khoa. “Thơ Trần Đăng Khoa chạm đến bản chất, cái cốt lõi
của làng quê. Quả thật, trong thơ Trần Đăng Khoa luôn có dấu ấn của thời chiến tranh
khốc liệt của của cuộc kháng chiến chống Mĩ nhưng luôn giữ được vẻ trong trẻo, tươi
tắn của tâm hồn trẻ thơ.
Lã Thị Bắc Lý đã nêu những nội dung cơ bản của thơ Trần Đăng Khoa, trong đó
nội dung hàng đầu là thiên nhiên nông thôn bởi theo tác giả thì “đây là mảng nội dung
nổi bật nhất trong thơ Trần Đăng Khoa”. Sự vật trong thiên nhiên thì hầu như ai cũng
4



biết, cũng nhận thấy nhưng không ai có được cái nhìn như Trần Đăng Khoa. Đó là một
cái nhìn ngộ nghĩnh, đáng yêu mà lại rất sâu sắc: “Thơ Trần Đăng Khoa luôn gợi cho
bạn đọc cảm nhận về một thiên nhiên nông thôn thuần nhất, tinh nguyên và hết sức thơ
mộng… thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa không chỉ là sự yên tĩnh thơ mộng mà
còn đầy sức sống, luôn luôn vận động và phát triển”. Bên cạnh đó, hình ảnh người
nông dân được nhắc đến. Đó là những người dân lam lũ, cực nhọc, chịu thương chịu
khó. Ngòi bút của Trần Đăng Khoa đã phác họa được “bức chân dung người nông dân
dũng cảm, tự tin và chiến thắng”. Khi viết về điều gì, điều đầu tiên là người cầm bút
phải thật hiểu rõ điều đó và cần nhất là phải có tấm lòng sâu nặng. Viết về người nông
dân quê mình, Trần Đăng Khoa hội tụ đầy đủ các yếu tố đó. Khó có thể tìm thấy ở đâu
có niềm vui tập thể bình dị, trong trẻo như niềm vui đồng ruộng của người nông dân
như trong thơ Trần Đăng Khoa. Qua việc miêu tả cuộc sống ở nông thôn, Trần Đăng
Khoa đã ghi lại “âm vang của thời đại”. Tuy nhiên, Trần Đăng Khoa không đi sâu
miêu tả cảnh, liệt kê, thống kê các số liệu lịch sử mà “dấu ấn của thời đại dội vào thơ
anh đã biến thành hình tượng, thành số phận của một lớp người, một thế hệ trong chiến
tranh”. Thế hệ măng non trong chiến tranh cũng được miêu tả bằng những chi tiết rất
xúc động. Các em thiếu nhi tuy ít được sự quan tâm chăm sóc đầy đủ nhưng vẫn luôn
lạc quan, tin tưởng ở tương lai của dân tộc. Chính Trần Đăng Khoa đã là một ví dụ
điển hình cho điều đó “Điều kì diệu là Trần Đăng Khoa nhìn cuộc chiến tranh tàn
khốc, dữ dội một cách bình thản”.
2.2. Những ý kiến về giá trị nghệ thuật của tập thơ
Ngoài những ý kiến nhận xét, phê bình về nội dung còn có những ý kiến xoay
quanh mặt giá trị nghệ thuật của tập thơ Góc sân và khoảng trời như sau:
Lã Thị Bắc Lý đã nhận xét rằng Trần Đăng Khoa thường “sử dụng biện pháp
nhân hóa để miêu tả cảnh vật”. Trong cái nhìn “vật ngã đồng nhất” của trẻ con thì Trần
Đăng Khoa đã xem chú chó vàng như một người bạn thân quý với cách gọi những sự
vật bằng từ xưng hô: cái na, cu chuối, chị tre, bác nồi đồng, cậu mèo, ông trời, bà
sân…Những cảnh vật thiên nhiên trong tập thơ đều chứa đựng một tâm hồn, một sự
sống lúc nào cũng sẵn sàng đón nhận ánh sáng. Một đặc điểm dễ thấy nhất trong nghệ

thuật của tập thơ là sự liên tưởng, tưởng tượng độc đáo. “…luôn luôn phát hiện ra
những mối liên hệ của chúng hoặc liên tưởng tới những hình ảnh tương đồng khác để
từ đó khái quát lên một cái gì đó cao hơn”. Không dừng lại ở đó, tập thơ còn nhận
5


được những nhận xét về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Anh Ngọc đã hết lời ngợi khen
“thứ ngôn ngữ giản dị, chính xác và giàu hình ảnh có thể gây hiệu qủa tình cảm mạnh
mẽ”.
Chính vì thơ của Trần Đăng Khoa (đặc biệt là tập Góc sân và khoảng trời) chứa
đựng những yếu tố nội dung và nghệ thuật ấy mà vào những năm 1994-1995 Phạm Hổ
đã viết về Trần Đăng Khoa “thơ Trần Đăng Khoa viết lúc còn bé đã chịu sự thử thách
khá dài trên dưới 30 năm với bao nhiêu những đổi thay trong cuộc sống không thể
lường trước… Đến nay, đọc lại thơ Trần Đăng Khoa, tôi vẫn thấy hay, có bài còn hay
hơn”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài “Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu”, chúng tôi
muốn tập trung tìm hiểu thơ Trần Đăng Khoa ở góc độ thế giới nghệ thuật. Tuy tập thơ
được viết từ khi tác giả còn rất nhỏ nhưng vẫn được xem xét như một chỉnh thể nghệ
thuật có sự đan xen, hòa quyện và thống nhất giữa các yếu tố nội dung và hình thức.
Từ đó, chúng tôi cùng người đọc khám phá được cảm nhận và những sáng tạo từ hình
tượng nghệ thuật đến biện pháp nghệ thuật được Trần Đăng Khoa sử dụng trong tập
thơ.
4. Đối tượng nghiến cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa
thời niên thiếu. Trong phần trình bày của tiểu luận, chúng tôi chủ yếu dựa trên văn bản
của tập thơ Góc sân và khoảng trời được Nhà xuất bản Văn học in năm 2006. Trong
đó, chúng tôi chỉ khảo sát và nghiên cứu các bài thơ được Trần Đăng Khoa viết từ năm
1966 đến 1973, in từ trang 16 đến trang 152. Những bài còn lại viết vào năm 1974
được bổ sung sau này, chúng tôi xin phép không khảo sát mà chỉ liên hệ để làm phong

phú thêm ý của các vấn đề.
5. Phạm vi, nội dung nghiên cứu
Trong giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ xin được đi sâu nghiên cứu tìm hiểu thế
giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa qua một điển hình là tập Góc sân và khoảng trời ở
góc độ các cảm hứng chủ đạo của tác giả và một số đặc sắc nghệ thuật nổi bật trong
tập thơ. Trong qúa trình nghiên cứu, chúng tôi có liên hệ, so sánh, đối chiếu với thơ
của Hoàng Hiếu Nhân, Cẩm Thơ, Xuân Quỳnh…để làm nổi bật thế giới nghệ thuật thơ
Trần Đăng Khoa.
6


6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Đây là phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong đề tài của luận văn.
Chúng tôi đã dựa trên một số tài liệu nhận xét, đánh giá của các nhà phê bình nghiên
cứu cùng sự tìm tòi, phát hiện của bản thân trên văn bản của các bài thơ trong tập Góc
sân và khoảng trời để làm cơ sở cho việc tiếp cận và tìm hiểu tập thơ nhằm phục vụ tốt
hơn cho cho đề tài.
6.2. Phương pháp so sánh
Phương pháp này giúp chúng tôi có sự liên hệ, đối chiếu, so sánh những điểm
giống và khác nhau giữa thơ Trần Đăng Khoa và thơ một số em nhỏ lúc bấy giờ trong
cách thể hiện thế giới nghệ thuật thơ, giữa thơ Trần Đăng Khoa lúc còn là thiếu nhi và
khi đã là anh bộ đội. Qua đó, chúng ta sẽ có cái nhìn đúng mức về tài năng, tâm hồn
Trần Đăng Khoa và những đóng góp cho nền văn học thiếu nhi qua tập Góc sân và
khỏang trời.
6.3. Phương pháp thống kê
Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu. Qua việc khảo
sát tập thơ, tôi sẽ thống kê các yếu tố về nội dung và nghệ thuật có tính khái quát trong
tập thơ, những hình ảnh, chi tiết được lặp lại nhiều lần nhằm tìm ra cảm hứng chủ đạo
và các phép tu từ được sử dụng trong tập thơ. Trên cơ sở này, chúng tôi tìm ra những

nét riêng, nét độc đáo của tài năng thơ Trần Đăng Khoa.
7. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài của tiểu luận này là một đề tài mới mẻ. Người ta biết đến Trần Đăng Khoa
như là một thần đồng thơ với Góc sân và khoảng trời. Thế nhưng, mọi người lại ít
quan tâm nghiên cứu tập thơ một cách toàn diện. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi
muốn khẳng định tài năng, phong cách riêng của thơ Trần Đăng Khoa. Đồng thời tiểu
luận sẽ cung cấp một phần kiến thức cho giáo viên cấp I cấp II khi giảng dạy thơ Trần
Đăng Khoa cũng như một số phép tu từ có trong phân môn Tiếng Việt.

7


8. Dàn ý tiểu luận
Tiểu luận với đề tài “Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu
gồm có 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó, nội dung là
phần trọng tâm, gồm có 3 chương:
Chương I: Trần Đăng Khoa - “thần đồng” của thi ca Việt Nam:
Chương II: Góc sân và khoảng trời - Những nguồn cảm hứng dào dạt:
Chương III: Góc sân và khoảng trời - một số hình thức biểu hiện nổi bật:

8


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TRẦN ĐĂNG KHOA - “THẦN ĐỒNG” CỦA THI CA VIỆT NAM
1. Đôi nét về Trần Đăng Khoa và tập thơ Góc sân và khoảng trời
1.1. Về Trần Đăng Khoa
Trần Đăng Khoa (bút danh cũng là tên khai sinh) sinh ngày 26/ 04/ 1958 tại thôn
Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Bố mẹ Trần Đăng Khoa
thuộc rất nhiều truyện và thơ ca cổ. Anh trai và em gái của Trần Đăng Khoa đều là

những người say mê văn học. Riêng Trần Đăng Khoa, khi học hết vỡ lòng (tương
đương lớp 1 bây giờ) đã ham đọc sách, đã thuộc rất nhiều ca dao và thơ ca cổ.
Trần Đăng Khoa có bài thơ “Con bướm vàng” được đăng báo từ năm Trần Đăng
Khoa 8 tuổi. Tập thơ đầu tiên “Từ góc sân nhà em” in ở Nhà xuất bản Kim Đồng lúc
Trần Đăng Khoa tròn 10 tuổi. Nhà thơ Xuân Diệu đã viết bài giới thiệu Trần Đăng
Khoa trên báo (ngày 6/ 6 /1973) khi tập thơ thứ hai “Góc sân và khoảng trời” được in
năm 1973.
Năm 1975, đang học lớp 10 (tương đương lớp 12 bây giờ), trong đợt tổng động
viên khi cuộc kháng chiến chống Mĩ bước vào giai đoạn cuối, Trần Đăng Khoa tình
nguyện vào quân ngũ.
Khi kháng chiến chống Mĩ giành thắng lợi, đất nước hoàn toàn giải phóng, Trần
Đăng Khoa về học trường Sĩ quan lục quân, rồi tiếp tục học ở trường viết văn Nguyễn
Du (khóa IV). Sau đó, Trần Đăng Khoa được cử sang Cộng Hòa Liên bang Nga học tại
Học viện Văn học thế giới mang tên M. Gorki. Khi trở về nước, Trần Đăng Khoa làm
việc cho Tạp chí Văn nghệ quân đội. Về sau chuyển sang công tác tại Ban văn học
nghệ thuật của Đài tiếng nói Việt Nam.
- Các tác phẩm chính
+ In ở trong nước :
• Từ góc sân nhà em(1968)
• Thơ Trần Đăng Khoa, tập 1 (tuyển 1966-1969, 1970)
• Khúc hát người anh hùng (trường ca, 1975)
• Kể cho bé nghe (1979)
• Thơ Trần Đăng Khoa, tập 2 (tuyển 1969-1975, 1983)
+ In ở nước ngoài:
• Tiếng hát còn tiếp tục (Pháp 1971)
9


• Góc sân và khoảng trời của tôi (Cuba, 1973)
• Cánh diều no gió (CHDC Đức, 1973)

• Con bướm vàng (Hunggari, 1973)
- Các giải thưởng:
• Giải thưởng thơ Báo Thiếu niên Tiền Phong (1968, 1969, 1971)
• Giải thưởng văn học của Bộ lao động - thương binh xã hội (1975) với Trường
ca Khúc hát người anh hùng.
• Giải A cuộc thi thơ Báo Văn nghệ (1981 - 1982) với bài Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn.
• Giải thưởng Báo Người giáo viên nhân dân (1987)
• Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (đợt I năm 2001) với tập thơ Góc
sân và khoảng trời.
1.2. Về tập Góc sân và khoảng trời
Theo Trần Đình Sử, thế giới nghệ thuật chính là “khái niệm chỉ tính chỉnh thể của
sáng tác nghệ thuật (tác phẩm, sáng tác của một tác giả, trào lưu) thịnh hành trong
nghiên cứu văn học hiện đại) ”.
Như vậy, thế giới nghệ thuật là sản phẩm, là kết quả của sự sáng tạo của tác giả
chỉ có trong tác phẩm nghệ thuật. Góc sân và khoảng trời là một chỉnh thể nghệ thuật
có cấu trúc riêng, quy luật riêng với những cảm nhận của tác giả về thiên nhiên ở nông
thôn, về cuộc sống của người nông dân, các anh bộ đội, các em thiếu nhi,… Tiếp cận
thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa trong Góc sân và khoảng trời là tiếp cận hệ
thống nghệ thuật hoàn chỉnh gồm hai yếu tố nội dung và hình thức thống nhất với
nhau. Từ sự tiếp cận đó, ta sẽ khám phá được tư duy nghệ thuật và những sáng tạo độc
đáo của nhà thơ nhi đồng Trần Đăng Khoa.
Tập thơ Góc sân và khoảng trời được Trần Đăng Khoa sáng tác từ năm 1966
-1973 được Nhà xuất bản Văn học phát hành vào năm 2006 gồm 142 bài, trong đó có
9 bài được viết vào năm 1974. Góc sân và khoảng trời được sáng tác trong những năm
tháng dầu sôi lửa bỏng của cuộc kháng chiến chống Mĩ nên chứa đựng rất nhiều yếu tố
của thời đại. Trần Đăng Khoa, với lòng căm thù giặc sâu sắc, đã tố cáo tội ác của giặc
nhưng không phải bằng việc kể ra những sự kiện, thống kê những con số như một nhà
sử học mà như một nhà thơ với những vần thơ “mạnh hơn những tiếng bom”.
Cảm hứng chủ đạo trong tập thơ là tình cảm của Trần Đăng Khoa dành cho quê
hương, đất nước, con người Việt Nam. Đó là tình cảm yêu thương, gắn bó, tự hào, lạc

10


quan và tin tưởng vào ngày toàn thắng của cách mạng. Tập thơ còn thể hiện một năng
lực quan sát rất nhạy bén của Trần Đăng Khoa đối với những cảnh vật, cuộc sống ở
nông thôn. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng Trần Đăng Khoa đã biết sử dụng nhiều cách biểu
hiện khác nhau trong tập thơ để khắc họa, miêu tả thế giới với những sự vật vô cùng
phong phú, đa dạng và sinh động: nghệ thuật tả cảnh, ngôn ngữ chính xác, gợi cảm
khiến hình ảnh quen thuộc trở nên độc đáo và giọng thơ vừa hồn nhiên, trong sáng lại
vừa triết lí, sâu sắc. Tất cả những gì Trần Đăng Khoa nhắc đến trong thơ không xa lạ,
cao siêu mà ngược lại, rất gần gũi, quen thuộc, thân thương. Gần gũi, quen thuộc đến
mức chúng ta không để ý, không nghĩ rằng trăng, cây lúa, con trâu, con mèo, cánh cò,
những đồ vật trong nhà… lại có thể viết thành thơ với những nét vô cùng độc đáo của
nó. Trần Đăng Khoa, với đôi mắt trẻ thơ, với tài năng thiên bẩm cùng với sự học tập,
lao động, sáng tạo nghiêm túc đã viết nên những vần thơ thật hay. Trải qua gần nửa thế
kỉ mà tập thơ của một em nhỏ Trần Đăng Khoa vẫn được đánh giá là hay, là có ý, có
tình. Đây là trường hợp hiếm hoi của nền văn học nước ta từ trước đến nay.
Với phạm vi nghiên cứu của một tiểu luận đại học, chúng tôi xin phép chỉ đi sâu
vào hai vấn đề: nguồn cảm hứng dào dạt làm nên Góc sân và khoảng trời và một số
hình thức biểu hiện đặc sắc làm nên Góc sân và khoảng trời.
2. Những yếu tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Trần Đăng
Khoa
Bất kì một sự thành danh ở lĩnh vực nào cũng phải có sự đóng góp của các nhân
tố khách quan bên cạnh tài năng của chủ thể. Trần Đăng Khoa, sẽ không phải là một
trường hợp ngoại lệ. Vậy, những nhân tố nào đã góp phần hình thành và phát triển hồn
thơ Trần Đăng Khoa, một hiện tượng nổi bật đến mức Trần Đăng Xuyền đã ca ngợi
không tiếc lời là hiện tượng “vô tiền khoáng hậu của nền văn học Việt Nam”?
2.1. Dòng sữa văn học dân gian của quê hương
Tuổi thơ của Trần Đăng Khoa gắn bó máu thịt với thôn Điền Trì, xã Quốc Tuấn một làng quê ven bờ sông Kinh Thầy. Chính cái cảnh sắc quê hương với hương đồng
gió nội, tấm chân tình, mộc mạc của những người dân ở nông thôn Bắc bộ đã tạo môi

trường thuận lợi để hồn thơ Trần Đăng Khoa đâm chồi, nảy lộc, đơm hoa, kết trái.
Cũng như bao trẻ em khác, ngay từ khi còn trong nôi, Trần Đăng Khoa đã được nuôi
dưỡng bằng những dòng sữa ngọt ngào của văn học dân gian qua những điệu chèo Lưu
Bình- Dương Lễ, Quan âm Thị Kính…của bà ngoại, qua những lời kể về tích Hoàng
11


Trừu, Tống Trân - Cúc Hoa… của mẹ. Đặc biệt hơn, mẹ của Trần Đăng Khoa có thể
đọc ngược Truyện Kiều.
2.2. Truyền thống gia đình
Trần Đăng Khoa xuất thân trong một gia đình có truyền thống Trần Đăng Khoa
bảng và văn học. Nguyễn Hà (ông bác của Trần Đăng Khoa) kể: “Có năm, triều Cảnh
Thịnh, trong Lục bộ mà mấy anh em họ Trần - các cụ tổ Trần Đăng Khoa - đã chiếm
bốn, trong đó, cụ Trần Nhuận Minh Phủ là nhà thơ”.
Từ đó đến đời cha Trần Đăng Khoa thì không thấy xuất hiện trên văn đàn. Đến
đời Trần Nhuận Minh (anh ruột Trần Đăng Khoa) đã có năng khiếu làm thơ văn nhưng
khá khiêm nhường, bật lên trong thời kì đổi mới mà sau này trong một cuộc trả lời
phỏng vấn với báo chí, Trần Đăng Khoa đã cho đó là một sự “lột xác”. Và đến Trần
Đăng Khoa thì đột ngột xuất hiện một giọng thơ mới “hồn nhiên, trong trẻo đến mức
khó tin”. Thời ấy, người ta liên tục kéo đến nhà xem cho biết mặt mũi đứa trẻ ấy ra
sao, có giống như người bình thường không. Thậm chí, có một số nhà xuất bản đã cử
hẳn người đến nhà Trần Đăng Khoa trong thời gian dài để kiểm chứng sự thật tài năng
của cậu bé Khoa (Nguyễn Nghiệp đã theo lời Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên đến nhà
Trần Đăng Khoa cùng sống, cùng đi cất vó, câu cá, cùng đến trường, cùng dự các buổi
sinh hoạt…và chứng kiến những vụ sát hạch của các thầy ở ty giáo dục Hải Hưng và
các vị khách vãng lai). Rồi tất cả đều công nhận “thần đồng thơ Trần Đăng Khoa” là
sự thật chứ không phải là tin đồn.
2.3. Ảnh hưởng từ các nhà thơ, văn bậc thầy
Một điều may mắn là trong quá trình sáng tác, Trần Đăng Khoa đã được gặp và
tiếp xúc với các bậc thầy văn thơ như: Tố Hữu, Huy Cận, Tô Hoài, Chế Lan Viên,…

Những nhà văn, nhà thơ ấy đã dìu dắt rất tận tình để Trần Đăng Khoa vượt qua sự ấu
trĩ mà phát triển tư duy nghệ thuật, nhanh chóng trưởng thành trong việc sáng tác thơ.
Đặc biệt hơn, ngay từ năm 1968, sau khi gặp nhà thơ Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa mới
có ý thức được sự vất vả của việc làm thơ. Đó không phải là một cuộc rong chơi nhàn
nhã mà đó chính là “một công việc sáng tạo cực nhọc, nếu không muốn nói là nghề lao
động khổ ải”. Trần Đăng Khoa đã hiểu đựơc rằng: Thơ cần có tính chân thực nhưng
không phải là sự sao chép nguyên vẹn, thô thiển mà phải được sáng tạo một cách công
phu, linh hoạt. Hầu như, các bài viết của Trần Đăng Khoa đều được nhà thơ Xuân

12


Diệu đọc trước và đóng góp ý kiến. Trong cuộc đời sáng tác, Trần Đăng Khoa chịu ảnh
hưởng sâu sắc của người thầy nghiêm khắc này.
2.4. Sự động viên, giúp đỡ của gia đình và thầy cô, bạn bè
Từ khi biết đọc, biết viết, Trần Đăng Khoa đã hết sức tận dụng tủ sách của anh
Trần Nhuận Minh. Anh là người rất thích làm thơ, ham đọc sách. Anh đã tạo cho mình
một “thư viện nhỏ” ở trong nhà. Trong “thư viện” ấy, có rất nhiều sách như: Bỉ Vỏ
(Nguyên Hồng), Giông tố, Số đỏ ( Vũ Trọng Phụng), truyện ngắn của A. Sekhov, Đỏ
và đen (Stendhal),… Trần Đăng Khoa đã đọc rất nhiều khi chỉ là học sinh cấp I, II.
Bấy giờ, Trần Nhuận Minh là một thầy giáo, một nhà thơ được nhiều người ngưỡng
mộ ở vùng đất mỏ Hồng Gai. Trần Đăng Khoa rất khâm phục tài năng “xuất khẩu
thành thơ” của anh trai mình. Để bù đắp những cái mình không được như thế, Trần
Đăng Khoa đã bí mật làm rất nhiều bài thơ. Người đầu tiên được thưởng thức thơ Trần
Đăng Khoa là bé Thuý Giang. Được anh Trần Đăng Khoa đọc thơ cho nghe, bé Giang
rất thích và cứ đọc đi đọc lại cho bạn bè nghe. Khi mọi người biết chuyện, hỏi ra thì
mới biết những câu thơ đó là của Trần Đăng Khoa.
Và, một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm cho thơ Trần Đăng Khoa
ngày một hay hơn chính là nhờ thầy cô, bạn bè. Những người thầy, người bạn này đã
hết lòng động viên, khuyến khích và bình phẩm, sửa chữa thơ Trần Đăng Khoa. Thầy

giáo Lê Thường đã cho rằng chính tập thể đã phát hiện, cổ vũ và bồi dưỡng tài năng
thơ Trần Đăng Khoa.
2.5. Thời đại kháng chiến chống Mĩ
Một điều không thể thiếu trong những những yếu tố làm nên những trang văn thơ
có giá trị cho đời là yếu tố thời đại mà tác giả đang sống (tất nhiên, tài năng của họ là
chủ yếu). Một Nguyễn Du sống trong xã hội phong kiến nhiễu nhương với những quan
niệm hẹp hòi đã để lại tác phẩm bất hủ là “Truyện Kiều”. Một Hồ Chí Minh trong
những ngày tháng bị giam cầm ở nhà tù Tưởng Giới Thạch chứng kiến nhiều sự bất
công tàn bạo đã viết nên “Ngục trung nhật kí”,… Chúng tôi không dám sánh Trần
Đăng Khoa với Nguyễn Du, Hồ Chí Minh,… mà chỉ muốn nói rằng, hồn thơ Trần
Đăng Khoa được hình thành và phát triển cũng là nhờ một phần vào yếu tố thời đại.
Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ đặt dân tộc ta trước những thử thách gay
gắt. Đó là một thời đại mà vận mệnh của đất nước, tự do và độc lập dân tộc đứng trước
nguy cơ một mất một còn. Đó là một thời đại mà đời sống mà số phận của mỗi người
13


phải gắn chặt với cuộc chiến đấu của dân tộc như lời của Chế Lan Viên: “Những năm
đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt. Nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ
như nhau”. Đó là một thời đại mà với tính chất gay go, quyết liệt của cuộc chiến đấu
chống Mĩ, dân tộc ta phải huy động và phát huy cao độ tất cả sức mạnh vật chất và
tinh thần, phải gắn kết tất cả lại với nhau, không phân biệt tầng lớp, lứa tuổi, giới tính,
tôn giáo,… để tiến hành công cuộc vệ quốc vĩ đại, khẳng định chính nghĩa, tinh thần
và sức sống bất diệt của đất nước và con người Việt Nam.
Trong thời “đất nước đứng lên” như thế, hồn thơ trẻ của Trần Đăng Khoa bỗng
vụt sáng như một hiện tượng lạ chưa từng có trong lịch sử văn học nước nhà. Hồn thơ
đó đã nói lên tiếng nói chung của cả dân tộc, được mọi người đồng tình, ủng hộ và
ngưỡng mộ.
Tóm lại, nếu không có những yếu tố như trên thì hồn thơ của Trần Đăng Khoa sẽ
không được hình thành và phát triển. Hoặc là, nếu có hình thành và phát triển cũng

không thể gây được tiếng vang như ngày hôm nay.

14


CHƯƠNG II: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI - NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG
DÀO DẠT
1. Cảm hứng từ cảnh vật thiên nhiên và hình ảnh người nông dân
Cũng giống như các cây bút thiếu nhi thời kháng chiến chống Mĩ, Trần Đăng
Khoa viết về nhiều đề tài mang âm hưởng thời đại: Lòng yêu mến và tự hào về đất
nước anh hùng, niềm kính yêu Bác Hồ, thương mến bộ đội, căm thù giặc, chán ghét
chiến tranh…Nhưng, khác với các bạn, Trần Đăng Khoa dành sự quan tâm đặc biệt
cho cảnh sắc quê nhà với những bài thơ viết về góc sân, khoảng trời, cánh đồng, dòng
sông,… nơi Trần Đăng Khoa sinh ra và lớn lên để rồi đóng góp thêm cho nền thơ ca
Việt Nam một “nhà thơ mục đồng” (theo Nguyễn Đăng Mạnh). Có thể nói, những bài
thơ viết về nông thôn đã góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật của thơ Trần Đăng
Khoa ngay từ thuở nhỏ.
Viết về nông thôn Bắc bộ, trước Trần Đăng Khoa đã có các nhà thơ tiền bối:
Nguyễn Khuyến - nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, Nguyễn Bính - nhà thơ chân quê,
Anh Thơ – người đã vẽ nên “bức tranh quê” bằng thơ, Đoàn Văn Cừ - ca sĩ của đồng
quê,… Vậy mà khi đánh giá về thơ Trần Đăng Trần Đăng Khoa viết về làng quê,
Nguyễn Đăng Mạnh đã đặt Trần Đăng Khoa chỉ ở sau tên Nguyễn Khuyến. Nghĩa là,
thơ Trần Đăng Khoa viết về nông thôn được đánh giá cao hơn các nhà thơ còn lại?
Ông cho rằng: Những nhà thơ của phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) viết về nông
thôn nhưng thực ra, chỉ mới là sự vay mượn đề tài, cảm xúc chứ thực tế họ chưa nhập
thân vào hiện thực đó. Nhận định này có phần chủ quan của nhà phê bình. Chúng ta có
thể đồng tình hoặc không đồng tình. Mỗi người có một cảm nhận riêng khi thưởng
thức văn học. Người viết nêu ra chỉ để nhấn mạnh rằng những bài thơ viết về quê
hương trong Góc sân và khoảng trời rất chân thực, chan chứa, dào dạt niềm yêu
thương và nghệ thuật cũng không kém phần sắc sảo, dù tác giả của các bài thơ đó còn

rất ít tuổi.
Cảm hứng về quê hương trong tập Góc sân và khoảng trời là cảm hứng về cảnh
vật thiên nhiên và cuộc sống của những người dân lao động nghèo ở nông thôn.
1.1. Cảnh vật thiên nhiên
Đây là mảng đề tài được Trần Đăng Khoa thể hiện nhiều nhất trong thơ mình. Là
một người con được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên Trần Đăng Khoa có tấm lòng
yêu thương, gắn bó sâu nặng đối với thôn Điền trì, xã Quốc Tuấn. Trước khi đi tìm
15


những nét đẹp của thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa, ta nên biết nhà thơ được
mệnh danh là “thần đồng” đã bắt đầu sự nghiệp sáng tác như thế nào.
Bài thơ đầu tiên của Trần Đăng Khoa là “Con bướm vàng”. Con bướm vàng hiện
ra rất thật và sống động với đôi cánh chập chờn. Lúc ấy, Trần Đăng Khoa đang ngồi
đun bếp. Nhìn thấy cánh bướm, Trần Đăng Khoa đã đuổi theo hệt như một thi nhân
xúc động trước cái đẹp và muốn nắm bắt cho kì được khoảnh khắc tuyệt vời này. Kết
quả của việc chạy theo chú bướm ấy là nồi cơm bị trương, Trần Đăng Khoa bị mẹ
mắng. Trần Đăng Khoa chỉ đứng im, không dám bảo là tại làm thơ. Cánh bướm vàng
ấy bay là một hoạt động bình thường như các loài vật khác vận động, bắt mồi,... lại
chính là tác nhân khơi dậy một hồn thơ còn đang ẩn giấu bên trong một thân hình bé
con của cậu bé lớp một. Hồn thơ Trần Đăng Khoa đi lên từ bài thơ đầu tiên “Con
bướm vàng” là như vậy đó. Mãi sau này, Trần Đăng Khoa mới tiết lộ ban đầu viết là
“Con bướm vàng – Bay nhẹ nhàng – Trên bờ rào…” Trần Đăng Khoa thấy gì ghi nấy,
hoàn toàn chưa biết thế nào là ý đồ nghệ thuật. Con bướm vàng chao trên bờ rào là thật
chứ không phải là bờ cỏ. Làm gì có “bờ cỏ” ở vườn nhà. Người dân quê, nhất là những
người ở miền Bắc đời sống rất khó khăn, chủ yếu là trồng trọt nên họ rất quý đất, có
miếng nào là tận dụng cho bằng hết, dù chỉ miếng đất cạnh chân rào, hay ô đất bé bằng
bàn tay bên vại nước, không trồng cây thì họ cũng gieo một ít rau thơm hay rau húng
láng.
Từ sự gắn bó, từ lòng yêu thương cảnh sắc thiên nhiên của quê nhà, Trần Đăng

Khoa đã đưa vào thơ mình những hình ảnh hết sức quen thuộc của làng quê Việt Nam.
Đọc thơ Trần Đăng Khoa, không chỉ các em nhỏ mà tất cả chúng ta đều nhận ra sự
quen thuộc ấy. Ở đâu mà chẳng có góc sân, cây trầu, khoảng trời, cánh đồng, cánh cò
bay,… Ở đâu mà chẳng có chẳng có trò chơi thả diều, chọc ếch, câu cá, … Những hình
ảnh đó trong cái nhìn trong trẻo, tinh khiết của trẻ thơ bỗng trở nên có hồn, có thần và
đầy chất thơ. Tuy giống đấy mà lại khác đấy. Khác bởi cảm nhận của mỗi người không
ai giống ai. Đối với một số người, cây bàng, cây dừa, cây lựu, vườn cải hay chiếc máy
cày, cái nồi đồng, cây chổi,… chỉ là những cây, những đồ vật vô tri vô giác. Nhưng đối
với Trần Đăng Khoa tất cả là bạn bè, tất cả đều có hồn, có hành động, tất cả đều ngộ
nghĩnh, đáng yêu.
Cảnh sắc làng quê trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại thường được miêu
tả và cảm nhận trong dáng vẻ của làng quê nông nghiệp cổ truyền. Nguyễn Duy đã viết
16


bài thơ “Hơi ấm ổ rơm” làm cho chúng ta rất xúc động bởi khi đọc lên, từ những dòng
thơ tỏa ra một sự ấm nồng lạ lùng làm cho những ai đang sống ở quê hương thì càng
thêm yêu mến, những ai đang xa quê thì nhớ thương da diết nơi chôn nhau cắt rốn của
mình:
Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta,
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa.
Cái mộc mạc lên hương của lúa,
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người.
Trần Đăng Khoa của chúng ta chưa từng trải nghiệm trong cuộc sống nhưng đã
có bài thơ mà nhiều người nằm lòng:
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy...

(Hạt gạo làng ta)
Không một chút cầu kì mà rất chân thật. Dưới sự khắc nghiệt của khí hậu, những
con vật, cỏ cây như ngừng hoạt động trong khi con người vẫn phải đối mặt:
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy…
Sinh ra và lớn lên ở nông thôn, gắn bó với ruộng đồng nên hơn ai hết, Trần Đăng
Khoa hiểu rằng hạt gạo trong cuộc sống có một vị trí vô cùng quan trọng. Trong những
năm tháng chiến tranh thì giá trị của nó càng tăng lên gấp bội. Để có được hạt gạo,
người nông dân đã rất vất vả, phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Và như đã
nói, trong chiến tranh thì có biết bao người nông dân đang làm đồng đã chết vì bom
Mĩ. Thế nên, hạt gạo “gửi ra tiền tuyến – gửi về phương xa” lại kết tinh thêm tình cảm
thiết tha, sâu nặng của hậu phương đối với tiền tuyến. Tố Hữu khi nhận định về thi ca,
đã viết: “Bài thơ hay làm cho người ta không thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình
17


người”. Với bài thơ này, Trần Đăng Khoa đã làm cho chúng ta cảm nhận được tình
người đó. Trần Đăng Khoa đã khiêm nhường cho rằng bài thơ của mình hay là nhờ
được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc. Không khó khăn để tìm ra những em bé có
những câu, những ý như Trần Đăng Khoa viết “hạt gạo làng ta” nhưng mãi mãi chúng
ta sẽ không tìm được ai khác ngoài Trần Đăng Khoa với câu “hạt vàng làng ta”.
Cánh đồng làng Điền Trì cũng được Trần Đăng Khoa nói đến. Đó là nơi sản xuất,
trồng trọt của xóm làng. Đó là nơi tuổi thơ để mặc cho cánh diều thỏa sức tung bay.
Ngày ngày đứng trước sân nhà nhìn thấy cánh đồng nên nó trở nên quen thuộc với tất
cả những người nơi đây. Riêng Trần Đăng Khoa với giác quan tinh tế, nhạy cảm đã
phát hiện:

Cánh đồng làng Điền Trì
Sớm nay sao mà rộng
Sương tan trên mũi súng
Trên sừng trâu cong veo
(Cánh đồng làng Điền Trì)
Trần Đăng Khoa ngạc nhiên trước sự đổi thay cánh đồng bởi sau khi gặt hái xong
thì người dân bắt đầu cấy mạ cho một vụ mùa khác. Từ một cánh đồng chỉ trơ gốc rạ
nay bỗng nhiên tươi màu xanh của mạ trong sương sớm chưa tan. Hình ảnh đơn sơ làm
sao mà cũng đẹp làm sao. Trong con mắt yêu thương thì tất cả sự vật đều trở nên đáng
yêu, cho dù sự vật đó đối với người khác là bình thường.
Bên cạnh góc sân, cánh đồng thì dòng sông Kinh Thầy là nơi Trần Đăng Khoa
hết lòng thương mến. Chính dòng sông này đã tắm mát cho Trần Đăng Khoa. Chính
dòng sông này đưa nước vào tưới mắt cho đồng ruộng, cây trái. Sông Kinh Thầy trong
thơ Trần Đăng Khoa có “Hàng chuối lên xanh mướt – Phi lao reo trập trùng”. Vậy
thôi, nhưng người đi xa vẫn nhớ hoài, vẫn mong có ngày được trở về đi dọc bờ sông,
vùng vẫy trong dòng nước mát như thuở ấu thơ.
Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa còn có cả thế giới loài vật, đồ vật. Chúng
hiện ra với một dáng vẻ vô cùng sinh động, đáng yêu. Trần Đăng Khoa có thể trò
chuyện thân mật với con trâu – người bạn vô cùng thân thiết của nông dân:
Trâu ơi, ăn cỏ mật
Hay là ăn cỏ gà
Đừng ăn lúa đồng ta…
18


Trâu ơi, uống nước nhá…
Trâu cứ chén cho no
Ngày mai cày thật khỏe
Đừng lo đồng nứt nẻ…
(Con trâu đen lông mượt)

Những con vật trong thơ của một em bé đều có những nét đáng yêu: con mèo
(Đánh tam cúc), con gà (Nói với con gà mái, Ò ó o…), con chó (Sao không về Vàng
ơi), chim (Tiếng chim chích chòe, con chim hay hót),... Trong bài Buổi sáng nhà em,
tất cả hiện lên thật sinh động trong cái nhìn và sự liên tưởng của trẻ thơ. Mèo dậy rửa
mặt trong tư thế hết sức đỏm dáng “cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng”. Cái Na,
cu Chuối nghịch ngợm đứng vỗ tay cười. Chị Tre “chải tóc bên ao”, nàng Mây thì “ghé
vào soi gương” trong khi bà Sân đã “vấn chiếc khăn hồng đẹp thay” từ khi “Ông trời
nổi lửa đằng đông”.
Nó cũng đáng thương, nhỏ bé trước cuộc đời:
Trong giấc mơ em
Có gặp con cò
Lặn lội bờ sông
(Tiếng võng kêu)
Nhưng con cò ở đây có thêm những nét mới. Nó “đánh nhịp bay vào bay ra” như
những “chớp trắng trên sông Kinh Thầy”. Nó không còn đơn côi một mình trong đêm
tối mà trong bầy đàn, trong số đông và xuất hiện vào ban ngày, trong nắng đẹp của trời
quê yên ả. Và nếu trước kia tác giả dân gian thấy “con cò đi đón cơn mưa” trong “tối
tăm mù mịt” với vẻ cam chịu, thụ động, mệt mỏi, chẳng biết “ai đưa cò về” thì đối với
Trần Đăng Khoa:
Con cò
Trắng muốt
Bay ra đón cơn mưa...
Mừng đón cơn mưa
(Con cò trắng muốt)
Với một thái độ chủ động, tự tin, những con cò này trở thành tượng trưng cho tư
thế cứng cỏi, dũng cảm, cho tâm hồn trong trắng, thanh cao và ngay thẳng của con
người, làng quê Việt Nam đang vượt lên trên những thử thách khắc nghiệt. Nó góp
phần làm cho thiên nhiên ở làng quê Việt Nam tự ngàn xưa đã đẹp, hữu tình nay càng
19



thêm đẹp, thêm hữu tình hơn. Đối với người lớn, thiên nhiên được miêu tả và cảm
nhận chủ yếu bằng kinh nghiệm, bằng lí trí và đôi lúc là cảm nhận bằng tâm trạng, nỗi
niềm riêng của mình. Còn trẻ con thì không thế. Đối với chúng, thiên nhiên chứa đựng
những điều kì diệu, bí ẩn, thú vị và chúng rất muốn chiêm ngưỡng, khám phá. Chính
thiên nhiên với tất cả sự phong phú, đa dạng của những sự vật đã giúp cho trẻ em nhận
thức, hình thành tư duy và từ đó phát triển trí tưởng tượng, làm giàu tâm hồn của các
em. Các em sáng tác một cách ngẫu hứng, không chủ ý, không theo một đề tài nhất
định. Hãy đọc một số bài thơ của các em nhỏ, ta sẽ nhận ra một điều trùng hợp ngẫu
nhiên là các em miêu tả rất nhiều về thiên nhiên. Bên cạnh việc miêu tả, các em cảm
nhận được sự thay đổi của cảnh vật, thời tiết cho dù sự thay đổi đó rất nhỏ mà đôi khi
chúng ta không để ý đến. Ánh trăng được Trần Đăng Khoa nhắc đến rất nhiều trong
thơ mình (hơn 10 lần). Trẻ em ở nông thôn ngày ấy rất thích chơi trước sân nhà vào
những ngày trăng sáng. Các trò chơi mang đậm tính dân gian: xỉa cá mè, mèo đuổi
chuột,… Với Trần Đăng Khoa, trăng không chỉ là một người bạn thân thiết cùng em
chơi, chia sẻ bao điều suy nghĩ mà còn là một người bạn thơ. Vẻ đẹp của trăng làm cho
mọi vật như lặng đi:
Hàng cây cau lặng đứng
Hàng cây chuối đứng im
Con chim quên không kêu
Con sâu quên không kêu
Chỉ có trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em…
(Trăng sáng sân nhà em)
Người đọc thích và khen ngợi thơ Trần Đăng Khoa không chỉ ở cách miêu tả thật
hay, chân thật mà còn ở chỗ các sự vật đều có hồn, đều biến chuyển, vận động như con
người. Trẻ em thường lầm tưởng những điều chúng trông thấy thực sự và những điều
chúng tưởng tượng từ thực tế ấy. Bởi thế, thơ của chúng miêu tả về sự vật vừa quen mà
cũng vừa lạ lùng, ngộ nghĩnh, đáng yêu. Những chuyển đổi âm thầm của vạn vật được
Trần Đăng Khoa cảm nhận một cách tinh tế: trời trở gió heo may, sắp mưa, tiếng gió

trở mình trăn trở trong đêm thu, nhịp thở của cái ngõ nhỏ, tiếng sâu, tiếng hạt sương
đọng mật, “tiếng cây lách cách đâm chồi” và tuyệt vời hơn nữa là tiếng rơi của chiếc lá
đa “tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Câu thơ này đã được mọi người hết lời
20


khen ngợi. Nghiêng gợi tả hình dáng nhiều hơn nên khi mới đọc ta cứ nghĩ rằng người
viết đã trông thấy chứ không phải nghe thấy.
Đọc thơ Trần Đăng Khoa, ta như được sống với những hình ảnh dung dị nhất về
một miền quê yên bình, ấm áp tình người. Tất cả những sự vật, sự việc, con người
dưới con mắt trẻ thơ thông minh, đầy sáng tạo đã đi vào thơ đong đầy kỉ niệm. Một
phút đứng ở bờ ao nhìn hoa khế rụng, nghe tiếng chim hót, một lần sang nhà bạn thấy
chú bù nhìn, một mầm hoa dại ven đường,… cũng gợi cho Trần Đăng Khoa niềm
thương mến thiết tha. Tất cả hồn quê được Trần Đăng Khoa lưu giữ bằng thơ để những
ai mỗi khi nhớ quê hương đọc lên cảm thấy mình đã tìm được một đồng hương, một tri
âm.
Viết về thiên nhiên thành công như thế, phải thừa nhận rằng bên cạnh tâm hồn,
tài năng của mình Trần Đăng Khoa còn học tập rất nhiều từ văn học dân gian và các
nhà văn, nhà thơ bậc thầy. Những học tập đó được vận dụng một cách linh hoạt, sáng
tạo. Trong bài Đám ma bác Giun ta thấy thấp thoáng hình bóng ca dao:
Con cò mắc dò mà chết
Mẹ con bìm bịp đổ thóc nếp ra xay
Cà cuống uống rượu la đà
Con cóc, con ngóe nhảy ra chia phần
Từ nhà văn Tô Hoài, Trần Đăng Khoa đã học để viết “Bờ tre vẫn chú dế mèn
vuốt râu” (Gửi bạn Chi-lê) dựa vào “Dế mèn phiêu lưu kí” và “Hạt mẩy uốn cong –
Chim ngói bay theo đàn” dựa vào đoạn văn “Tháng năm chim gáy đi ăn đôi, tháng
mười chim gáy vềtheo đàn”. Từ nhà văn Anđecxen, Trần Đăng Khoa viết “Chim co
chân ngủ - Lim dim cành tre” dựa vào hình ảnh con cò “đứng một chân vững ra phết”,
“Cô gió chăn mây trên đồng” dựa vào hình ảnh của cô bé chăn cừu trong truyện. Từ

nữ sĩ Anh Thơ, Trần Đăng Khoa viết “Bố em đi cày về - Đội sấm – Đội chớp – Đội cả
trời mưa” dựa vào bài Chiều xuân: “Ngoài đường lội, một vài người về chợ - trĩu gánh
hàng như trĩu cả quang mưa”.
1.2. Hình ảnh người nông dân
Bên cạnh thiên nhiên thì con người cũng được Trần Đăng Khoa miêu tả chân
thực, sinh động. Chủ yếu là những người nông dân với đời sống nhọc nhằn, vất vả mà
tâm hồn trong trắng, mộc mạc và giàu nghĩa tình. Người nông dân mà Trần Đăng
Khoa gần gũi và yêu thương nhất chính là bố mẹ của mình. Là con nhà nông, Trần
21


Đăng Khoa am hiểu tường tận công việc bố mẹ làm hàng ngày. Những vần thơ em viết
về bố mẹ cũng chính là viết về người nông dân nói chung ở quê hương mình.
Hạt gạo làng ta như một khúc hát yêu thương, ca ngợi những người nông dân. Ai
cũng biết rằng để có được hạt gạo thì người nông dân phải làm lụng rất vất vả: “ Giọt
mồ hôi sa – Những trưa tháng sáu –Nước như ai nấu – Chết cả cá cờ - Cua ngoi lên bờ
- Mẹ em xuống cấy…”. Ta thấy có sự đối lập giữa hai hình ảnh Cua ngoi lên bờ và Mẹ
em xuống cấy. Từng nhánh mạ tươi non, thẳng đều tăm tắp đều có giọt mồ hôi của mẹ
nhỏ xuống. Người viết sống ở miền Nam, quanh năm đối mặt với cái nóng cứ ngỡ rằng
miền Bắc cũng chẳng hơn gì. Nhưng khi đọc bài Ao nhà mùa hạn mới biết mình đã sai:
Mùa mưa mà mưa chẳng đến
Đáy sâu nẻ toác khi nào
Rêu nằm mơ những sấm sét
Rồi khô trên cọc cầu ao…
Cái nắng như muốn hủy diệt tất cả. Rêu là loại thực vật dễ sống, chỉ cần không
khi hơi ẩm cũng đủ để chúng tồn tại. Thế nhưng thời tiết khắc nghiệt, mưa chỉ còn là
niềm mơ ước. Và chúng đã chết khô. Trong khi đó con người, nhất là người nông dân
vẫn phải ra đồng lao động. Người đọc như được Trần Đăng Khoa truyền sang nỗi thấm
thía, xúc động mạnh mẽ xen lẫn cảm thông, biết ơn những con người ngày đêm lao
động, cống hiến thầm lặng cho cuộc sống này. Những câu thơ “chạm vào bản chất của

nông dân quê hương” . Giọt mồ hôi gợi cho ta liên tưởng đến câu ca dao:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày .
Nếu như mẹ em đứng cấy bất chấp cả cái nắng gay gắt, dữ đội của mùa hè Bắc
bộ thì bố em là người hùng trong cơn mưa: “Bố em đi cày về - Đội sấm – Đội chớp –
Đội cả trời mưa…”. Bức chân dung của người nông dân không bị mưa gió làm nhạt
nhòa mà ngời sáng như một tâm điểm của đất trời. Nắng mưa hay thậm chí là những
thiên tai nào khác là điều mà người nông dân phải chống chọi, phải vượt qua. Sức
mạnh của họ không phải là sức mạnh thần thánh mà chính là sức mạnh đã trải qua
những năm tháng lao động vất vả cùng với niềm tin bất diệt: Cuộc kháng chiến của
dân tộc ta sẽ chiến thắng, đất nước ta sẽ thống nhất hoàn toàn. Niềm tin đó là động lực
thúc đẩy họ lao động và chiến đấu trong lạc quan. Trên cánh đồng lúc nào cũng có
tiếng nói, tiếng cười:
22


Nơi này mấy bác cày
Đâu nghiêng nghiêng chiếc nón…
Nơi kia là mấy chị
Thì thòm tát gầu dai…
Nơi ấy mấy cô cấy
Ngửa tay phí mặt trời
Mạ bén hàng thẳng đứng
Hồn nhiên trong tiếng cười
(Cánh đồng làng Điền Trì)
Cả cuộc đời gắn bó với ruộng đồng, với lũy tre làng, cây đa, bến nước… nhưng
khi đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng lên đường chiến đấu, không một chút đắn đo, do
dự. Hình ảnh chú dế mèn điềm nhiên vuốt râu (trong Gửi bạn Chi-lê) là tư thế của
người nông dân ung dung, sẵn sàng ra chiến trường chiến đấu bảo vệ từng tấc đất,
ngọn rau cho quê hương, đất nước mình. Để rồi có người ngã xuống ở vùng đất xa xôi

nào đó của Tổ quốc, có người trở về với thân thể không còn nguyên vẹn, lại tiếp tục
làm bạn với cái cuốc, cái cày, con trâu, tiếp tục lao động, tiếp tục cống hiến. Ở thời kì
sau (1975 đến nay), thơ của các em thiếu nhi vẫn viết về thiên nhiên, về con người,
nhất là những người thân xung quanh mình nhưng không có được cái không khí khẩn
trương, sôi nổi như Trần Đăng Khoa và các bạn của mình đã viết trong thời đại kháng
chiến chống Mĩ.
Tình cảm của con người và cảnh vật nơi đồng ruộng được Trần Đăng Khoa thẩm
thấu và đưa vào bài Khi mùa thu sang. Cảnh vật không lạ nhưng ăm ắp tình làm cho
Trần Đăng Khoa muốn kêu to lên “Thu sang rồi đấy! Thu sang!”. Chúng tôi nghĩ, thơ
hay không chỉ ở các con chữ đọc lên nghe mượt mà, êm dịu mà cốt ở cái tình của tác
giả đối với đối tượng được thể hiện. Nếu tác giả không xúc động, không có cái tâm mà
chỉ muốn phô diễn sự lạ thì làm sao có thể thổi hồn vào các con chữ được? Chúng tôi
rất tán đồng ý kiến cho rằng Trần Đăng Khoa đã sáng tác “không chỉ bằng tâm hồn của
một cậu bé lớn lên cùng những trò chăn trâu, thả diều, bắt cá mà thực sự còn bằng máu
thịt của người nông dân”. Ai đã hòa nhịp thở của mình với từng thay đổi rất nhỏ của
của vạn vật mới có thể cảm nhận được: “Mùi bùn đang ngấu – Mùi phân đang hoai –
Vôi chưa tan hẳn - Còn hăng rãnh cày…” để rồi say sưa, ngây ngất: “Trời đất đêm nay

23


– Như chim mới hót – Như rượu mới cất – Như mật mới đong… Thịt da ta cũng – Tỏa
hơi ruộng đồng…” (Hương đồng). Thiên nhiên và con người hòa làm một:
Đất trời cách một gang mây
Và tôi cùng với luống cày tỏa hương…
(Đồng chiều)
2. Cảm hứng từ những người thân yêu
Khi bàn về thơ thiếu nhi, giáo sư Vân Thanh cho rằng: “Tình cảm gia đình trong
thơ các em viết chưa nhiều. Thực ra lỗi không phải ở các em. Các em làm thơ vì một
nhu cầu tự nhiên của tâm hồn, những gì các em không sống, không biết hay chưa thể

nghiệm sâu thì các em chưa nói đến”. Đối với Trần Đăng Khoa thì khác. Bên cạnh
thiên nhiên, cuộc sống lao động ở nông thôn và những tình cảm đối với Bác Hồ, bộ đội
thì Trần Đăng Khoa viết khá nhiều về người thân của mình. Những người gắn bó với
Trần Đăng Khoa nhất thì phải nói đến: Bà, bố mẹ, anh Minh, bé Giang và cháu bé
Minh Hà (gọi Trần Đăng Khoa bằng chú). Tất cả những người này đã góp phần hình
thành và nuôi dưỡng hồn thơ Trần Đăng Khoa.
Trong cả tập thơ chỉ có một bài Mưa là Trần Đăng Khoa viết về bố. Điều này
không có nghĩa là Trần Đăng Khoa không yêu bố mà là một hiện tượng tâm lí bình
thường. Người bố cho dù có thương con mức nào cũng ít thể hiện, vẻ ngoài thường
lạnh lùng, nghiêm khắc. Thế nên, trong ca dao dân ca hay trong văn học viết cũng ít đề
cập đến bố. Trong khi đó, mẹ là cảm hứng vô tận của thơ, nhạc, họa…Trong các loại
hình nghệ thuật đó, mẹ được ví với cái cao cả, lớn lao như sông dài, như biển rộng,
như núi cao,… Trần Đăng Khoa viết về mẹ không như những người lớn đã viết. Bằng
tấm lòng yêu thương tha thiết, Trần Đăng Khoa nhận thức được những vất vả, gian lao
mà mẹ phải trải qua từ khi cưu mang con cho đến khi con trưởng thành. Mẹ của Trần
Đăng Khoa là hình ảnh của những bà mẹ trong các cuộc kháng chiến. Hạt gạo làng ta
làm bao người xúc động về tính chân thật, sức gợi cảm của từ ngữ qua hình ảnh người
mẹ phải đối mặt với cái nắng hè như đổ lửa trên lưng, phải ngâm chân trong “nước
như ai nấu” để cấy mạ, để làm ra hạt gạo làng ta. Trần Đăng Khoa còn nhận thức được
những vất vả của mẹ:
Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc
Mẹ ngày đêm khó nhọc
24


Đó là nguyên nhân sâu xa làm cho “mẹ ốm”:
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan
Hiểu được điều đó nên Trần Đăng Khoa luôn chăm chỉ làm các công việc nhà để

bố mẹ đỡ mệt nhọc. Thực tế thì Trần Đăng Khoa đã làm rất nhiều việc: luộc khoai, thổi
cơm, nhổ cỏ vườn, quét sân (Khia mẹ vắng nhà), ru em ngủ (Tiếng võng kêu),…
Những việc làm tuy nhỏ nhưng đã thể hiện lòng yêu thương của một đứa con hiếu
thảo. Hơn thế, Trần Đăng Khoa còn làm nhiều trò khi Mẹ ốm:
Ngâm thơ, kể chuyện rồi thì múa ca
Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con sắm cả ba vai chèo
Anh Minh là người mà Trần Đăng Khoa rất ngưỡng mộ tài “xuất khẩu thành
thơ”. Trong tập thơ có bài Nhận thư anh diễn tả nỗi vui mừng đến nỗi bàn tay bóc thư
mà “ngón tay cứ ríu vào nhau” của Trần Đăng Khoa. Tuy anh ở xa, khá lâu mới về
thăm nhà nhưng tình cảm của Trần Đăng Khoa dành cho anh rất sâu đậm. Anh Minh
không chỉ là anh mà còn là người bạn, là thầy giáo đã bồi dưỡng cho Trần Đăng Khoa
từ những quyển sách trong “thư viện nhỏ” mà anh mua từ đồng lương giáo viên ít ỏi
của mình. Anh chữa giúp Trần Đăng Khoa bài thơ, góp ý để thơ Trần Đăng Khoa ngày
càng hay hơn. Sau này khi trưởng thành nhà thơ Trần Đăng Khoa có làm bài thơ Gửi
bác Trần Nhuận Minh được mọi người đánh giá cao. Trải qua bao bộn bề cuộc sống
nhưng tình nghĩa anh em không bao giờ phai nhạt. Trong bài thơ đó, hay nhất là ước
muốn:
Thung thăng em với bác
Ta cưỡi thơ ra đồng.
Trong thơ Trần Đăng Khoa, những em bé trong thời chiến vẫn có những nét hồn
nhiên, ngây thơ của lứa tuổi chúng và cũng có những “kinh nghiệm, những suy nghĩ
già dặn so với tuổi. Chúng biết cách ngụy trang trên đường đến trường, biết cách tự
chăm sóc cho mình, biết cách tạo ra những trò chơi cùng các con vật nuôi trong nhà
khi không còn ai khác.
Ngoài tình cảm dành cho những người thân trong gia đình, Trần Đăng Khoa còn
có những bài thơ viết tặng cho các nhà thơ, nhà văn - những người thầy đã dạy bảo,
dẫn dắt Trần Đăng Khoa từ những bước đi đầu tiên trên con đường nghệ thuật chông
25



×