Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.14 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

JOHNNIE PHANTHAVONG

PHÁP LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT Ở
VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KIỀU GIANG

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: luận văn là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Kiều Giang.
Các số liệu, kết luận được trình bày trong luận văn là trung thực, có nguồn
gốc và được trích dẫn rõ ràng. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác
thực và nguyên bản của luận văn./.
Xác nhận của Giáo viên hướng dẫn

Tác giả



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành cảm ơn đến TS.
Nguyễn Kiều Giang - người Thầy đã chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi rất tận
tình trong suốt thời gian thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa sau Đại học, Khoa
Pháp luật Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi thực hiện luận văn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các thành viên trong đại gia đình,
bạn bè đã động viên, ủng hộ, chia sẻ và là chỗ dựa tinh thần giúp tôi tập trung
nghiên cứu hoàn thành bài luận văn của mình./.


BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT
DN

: Doanh nghiệp

TTĐB

: Tiêu thụ đặc biệt

GTGT

: Giá trị gia tăng

NSNN

: Ngân sách nhà nước

XK-NK


: Xuất khẩu nhập khẩu


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU

1

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC
BIỆT VÀ PHÁP LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT

6

1.1. Một số vấn đề lý luận về thuế tiêu thụ đặc biệt

6

1.1.1. Khái niệm thuế tiêu thụ đặc biệt

6

1.1.2.Đặc điểm

8

1.1.3.Vai trò của thuế tiêu thụ đặc biệt

1.2. Khái quát về pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
1.2.1. Khái niệm pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt

10
13
13

1.2.2. Quá trình hình thành và pháp triển pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
ở Việt Nam

14

1.2.3. Nội dung pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt

18

1.2.4.Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt của các nước trên thế giới - Kinh
nghiệm xây dựng pháp luật thuế TTĐB cho Việt Nam
Kết luận chương 1

19
24

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC
BIỆT Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
2.1. Thực trạng pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam

26
26


2.1.1. Quy định về đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế tiêu
thụ đặc biệt

26

2.1.2. Quy định về người nộp thuế

35

2.1.3. Quy định về căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế

36

2.1.4. Quy định về thuế suất

41

2.1.5.Quy định về hoàn thuế, khấu trừ thuế, miễn thuế và giảm thuế tiêu
thụ đặc biệt

45


2.2. Thực trạng thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện
nay

50

2.2.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động thực thi pháp luật thuế
tiêu thụ đặc biệt


50

2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế trong việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ
đặc biệt ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

56
64

CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM
NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ, QUỐC TẾ

65

3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện
nay

65

3.2. Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế tiêu thụ
đặc biệt ở Việt Nam hiện nay
3.2.1 Hoàn thiện pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt

67
67

3.2.2. Tăng cường công tác quản lý, tổ chức thi hành pháp luật thuế tiêu
thụ đặc biệt

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

76
80


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nhà nước và thuế là hai phạm trù luôn gắn liền với nhau. Sử dụng thuế
làm công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế là một sự cần thiết
khách quan đối với mọi Nhà nước. Nhưng mức độ và nội dung sử dụng
công cụ thuế để quản lý, điều tiết kinh tế ở các nước thì không hoàn toàn
giống nhau mà tùy thuộc vào từng Nhà nước nhất định, với tình hình kinh
tế - xã hội nhất định và định hướng phát triển kinh tế cụ thể trong từng thời
kỳ của lịch sử.
Trong bối cảnh tình hình hiện nay, khi mà sự hợp tác kinh tế giữa các
nước đang mở rộng theo xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa, thì việc sử dụng
công cụ thuế để quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế không thể tiếp tục thực
hiện theo những nội dung mang tính truyền thống trước đây nữa, mà nó cần
có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Chính vì vậy, thuế là vấn đề quan
tâm hàng đầu của mọi quốc gia, bất kể quốc gia phát triển hay đang phát triển.
Ở nước ta, thuế và hệ thống thuế đã và đang không chỉ là mối quan tâm
của các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, của các nhà nghiên cứu mà
còn của cả các doanh nghiệp và đông đảo quần chúng nhân dân. Trong giai
đoạn cải cách hệ thống chính sách thuế, nhiều sắc thuế đã được nghiên cứu,
xem xét, sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong thời
đại mới, đảm bảo hiệu quả quản lý của Nhà nước, trong đó có chính sách thuế
TTĐB.
Cùng với những thành quả đạt được, pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt

còn nhiều hạn chế như phạm vi đánh thuế hẹp, nhiều quy định không còn phù
hợp với thực tiễn, thiếu rõ ràng, minh bạch hoặc còn những quy định tản mạn
tại nhiều văn bản khác nhau; cơ chế kiểm soát, đánh giá việc ban hành, thực
thi các quy định về thuế TTĐB vẫn chưa được thực hiện thường xuyên và có
hệ thống. Những hạn chế, bất cập này dẫn tới khó khăn cho cả cơ quan thuế
7


và người nộp thuế. Đồng thời làm giảm ý nghĩa của thuế TTĐB, hạn chế
quyền tự do kinh doanh của công dân, không tạo ra môi trường kinh doanh
bình đẳng, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, nhiều trường hợp gây "bức xúc"
đối với doanh nghiệp và người dân.
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, việc tham gia Hiệp định đối tác kinh tế
chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), tham gia diễn đàn kinh tế ASEAN
(AEC) sẽ tạo ra sức ép về cam kết giảm thuế, mở cửa thị trường. Áp lực về
tăng cường và ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước trở nên bức thiết hơn
bao giờ hết.
Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa và thực trạng của pháp luật về thuế TTĐB
hiện nay, việc nghiên cứu, đánh giá nhằm hoàn thiện pháp luật về thuế TTĐB
là cần thiết và ý nghĩa. Đó là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: "Pháp luật thuế
tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế" làm nội
dung bài luận văn thạc sỹ của mình. Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả
luận văn muốn đi sâu phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật, từ đó đề
xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế tiêu thụ
đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về thuế là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong cải
cách chính sách kinh tế vĩ mô ở các nước trên thế giới và luôn thu hút được
mối quan tâm hàng đầu của các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu và các
cơ quan chính phủ. Ở nước ta, trong thời gian gần đây đã có một số nghiên

cứu về phân tích, đánh giá tác động của chính sách thuế nói chung và thuế
TTĐB đối với nền kinh tế - xã hội, góp phần quan trọng vào quá trình nghiên
cứu, xây dựng các đề án cải cách pháp luật thuế TTĐB phục vụ cho các mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội, trong số đó có thể kể tới như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Những vấn đề lý luận và thực
tiễn hoàn thiện thể chế tài chính 2011 – 2020”, chủ nhiệm đề tài: Nguyễn
Trọng Nghĩa;
8


- Đề tài nghiên cứu khoa học “Cải cách hệ thống thuế phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2020”, chủ nhiệm đề tài: Quách Đức Pháp;
- “Báo cáo tổng kết, đánh giá 04 năm tình hình thực hiện Luật thuế
TTĐB” của Bộ Tài chính năm 2014;
- “Báo cáo kinh nghiệm quốc tế về chính sách thuế TTĐB” của Bộ Tài
chính năm 2013;
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chưa thể hiện được tính bao quát, hệ
thống đối với các khía cạnh của pháp luật thuế TTĐB, việc đánh giá thực
trạng pháp luật thuế TTĐB chưa được toàn diện trên cả hai phương diện là
thực trạng quy định của pháp luật và thực trạng thực thi pháp luật thuế TTĐB
ở Việt Nam hiện nay.
Vì vậy, đề tài "Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế" mà tôi chọn để viết luận văn thạc sỹ vào
thời điểm này vẫn bảo đảm tính mới của đề tài nghiên cứu.
Theo đó, luận văn này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn như sau:
- Luận văn đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật thuế TTĐB, từ đó
góp phần nâng cao hiệu quả cải cách thuế tại Việt Nam hiện nay;
- Với một số giải pháp được đề xuất tại luận văn được đưa ra trên cơ sở
nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng pháp luật thuế TTĐB tại Việt Nam
sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật về thuế TTĐB trong giai đoạn tới

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng rõ những vấn đề lý luận
và thực tiễn của pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, chỉ rõ những
thành tựu đã đạt được và những khó khăn trong quá trình thực thi các quy
định này; từ đó đưa ra những giải pháp về mặt pháp lý nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ đặt ra của luận văn là:
Làm rõ và đánh giá được hệ thống các quy định của pháp luật điều chỉnh
thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam
9


Đánh giá được quá trình thực thi các quy định về thuế TTĐB. Từ đó,
phân tích được những thành tựu, những hạn chế, tồn tại trong việc thực thi
các quy định này trên thực tế
Đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật thuế TTĐB ở Việt Nam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: tác giả tập trung nghiên cứu và làm rõ các quy
định của pháp luật Việt Nam về thuế TTĐB, từ đó đưa ra một số giải pháp,
kiến nghị để hoàn thiện các quy định đó.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu các quy định về thuế
TTĐB của Việt Nam trong những năm vừa qua.
5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận của các nguyên tắc,
phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và phát
triển nền kinh tế.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả có kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, thống kê, khái quát hoá

để giải quyết nội dung khoa học của đề tài. Đặc biệt, tác giả luận văn rất chú
trọng phương pháp so sánh Luật, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm nổi
bật những ưu điểm và hạn chế của các quy định đó.
6. Những đóng góp của luận văn
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu, kết quả nghiên cứu của các công
trình khoa học liên quan đã được công bố, luận văn tiếp tục nghiên cứu sâu
thêm về các quy định pháp luật thuế TTĐB ở Việt Nam, luận văn dự kiến khi
hoàn thành sẽ có một số đóng góp mới như:
Hệ thống hoá, kế thừa và phát triển các luận cứ khoa học về cơ sở lý luận
của pháp luật về thuế TTĐB ở Việt Nam

10


Luận văn đưa ra những kết quả đạt được, những khó khăn trong quá trình
thực hiện và chỉ ra những nguyên nhân của bất cập, hạn chế trong các quy
định hiện hành về thuế TTĐB của Việt Nam, cũng như đánh giá những mặt
tích cực và hạn chế của thực tiễn thi hành thuế TTĐB trên thực tế
Từ đó, đề xuất một số giải pháp thiết thực góp phần sớm hoàn thiện các
quy định pháp luật về thuế TTĐB cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật thuế TTĐB ở Việt Nam
Các kết quả nghiên cứu này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật học hoặc các nội dung khác có liên
quan. Đặc biệt, kết quả này có ý nghĩa rất lớn trong việc hoàn thiện pháp luật
thuế TTĐB ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
7. Bố cục của đề tài
Kết cấu của luận văn được xây dựng trên cơ sở phù hợp với mục đích,
nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài. Ngoài lời mở đầu, mục lục, kết
luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thuế tiêu thụ đặc biệt và pháp luật

thuế tiêu thụ đặc biệt
Chương 2. Thực trạng pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế, quốc tế
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh
tế, quốc tế.

11


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ TIÊU THỤ
ĐẶC BIỆT VÀ PHÁP LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT
1.1. Một số vấn đề lý luận về thuế tiêu thụ đặc biệt
1.1.1. Khái niệm thuế tiêu thụ đặc biệt
1.1.1.1 Khái niệm
Thuế vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử. Lịch sử xã hội loài
người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn với sự
hình thành và phát triển của nhà nước. Để duy trì sự tồn tại đồng thời với việc
thực hiện các chức năng của mình, nhà nước cần có nguồn vật chất để thực
hiện những chỉ tiêu có tính chất xã hội. Bằng quyền lực chính trị, nhà nước "
trích thủ" một phần của cải xã hội để có được nguồn vật chất đó. Một trong
những phương thức huy động để tạo nên nguồn lực tài chính này cho nhà
nước chính là thuế.
Mặc dù sự ra đời của thuế mang tính tất yếu khách quan, song cũng phải
thấy rằng quan niệm về thuế ở mỗi thời kỳ lại khác nhau. Trong thời kỳ cổ
đại, khi sức sản xuất chưa phát triển, quan hệ trao đổi diễn ra chủ yếu dưới
hình thức hiện vật thì ý niệm về thuế khoá rất đơn giản và thuế phần lớn được
thể hiện dưới dạng hiện vật và lao vụ. Bước sang thời kỳ hiện đại cùng với
việc mở rộng các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước và sự phát triển của các
quan hệ hàng hoá, tiền tệ, các hình thức thuế ngày càng đa dạng, phong phú

và đã được tiền tệ hoá, nên trong thời kỳ này phần lớn thuế được thể hiện
dưới hình thức giá trị.
Cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối về khái niệm thuế. Với
các góc độ nghiên cứu khác nhau thì thuế được hiểu với các nghĩa khác nhau,
cụ thể:
Theo từ điển tiếng việt, Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân
hoặc các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp… buộc
phải nộp cho nhà nước theo mức quy định. Như vậy, theo cách hiểu thông
12


thường có thể hiểu thuế được biểu hiện bằng tiền hoặc hiện vật, là nghĩa vụ
bắt buộc mà tổ chức, cá nhân phải nộp cho nhà nước theo những điều kiện
nhất định.
Nhà kinh tế học Gaston Jeze trong cuốn “Tài chính công” đã đưa ra một
định nghĩa tương đối cổ điển về thuế: “ Thuế là một khoản trích nộp bằng
tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp
cho nhà nước thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu
của Nhà Nước".
Dưới góc độ kinh tế học, thuế lại được hiểu là: một hình thức phân phối
thu nhập tài chính của nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào
quyền lực chính trị,tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một
cách cưỡng chế và không hoàn lại.
Còn dưới góc độ pháp lý thì: thuế là một khoản thu nộp bắt buộc mà các
tổ chức, cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định.
Như vậy, tùy thuộc vào bản chất của Nhà nước và cách thức Nhà nước
sử dụng, các nhà kinh tế có nhiều quan điểm về thuế khác nhau, mỗi quan
điểm đều nhấn mạnh một chiều theo từng góc độ khác nhau. Mặc dù đến nay
còn nhiều tranh cãi về khái niệm của thuế nhưng các nhà kinh tế đều thống
nhất rằng, để làm rõ bản chất của thuế thì định nghĩa của thuế phải nêu bật

được các nội dung sau:
Thứ nhất, thuế là một khoản thu mang tính bắt buộc. Tất cả chủ thể đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật đều phải nộp thuế.
Thứ hai, thuế mang tính quyền lực nhà nước. Bằng quyền lực chính trị,
nhà nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Chỉ
gắn với yếu tố quyền lực, thuế mới đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ tạo nguồn
thu nhập tài chính cho nhà nước. Chính vì thế, để gắn yếu tố quyền lực nhà
nước cho thuế, các quốc gia đều có xu hướng ghi nhận thuế ở văn bản pháp
luật có hiệu lực cao nhất là các luật thuế.

13


Thứ ba, thuế không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp. Thuế không
phải là khoản phải trả khi các đối tượng nộp thuế đã nhận được một lợi ích
hay quyền lợi cụ thể nào từ phía nhà nước. Bất kỳ ai khi đủ điều kiện đều phải
thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, không phân biệt họ đã nhận được
những lợi ích công cộng nào. Kết quả của việc sử dụng các khoản thu từ thuế
chủ yếu là các sản phẩm công, đây là sự hoàn trả một cách gián tiếp cho
những khoản tiền nộp cho Nhà nước. Người nộp thuế nhận được những lợi
ích này thông qua chi tiêu xã hội, những lợi ích mà người nộp thuế được thụ
hưởng trong xã hội.
Từ những đặc trưng cơ bản của thuế, có thể đưa ra một khái niệm tổng
quát về thuế như sau: "Thuế là khoản trích nộp bằng tiền, mang tính bắt buộc,
tính quyền lực nhà nước, tính không đối giá và hoàn trả trực tiếp do các tổ
chức, cá nhân nộp cho nhà nước khi đủ những điều kiện nhất định nhằm đáp
ứng việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước".
Khái niệm thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế TTĐB thường có ở hầu hết các quốc gia vì đây là một loại thuế dễ
thu, dễ quản lý. Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể về kinh tế xã hội, phong tục

tập quán, chính sách tiêu dùng, yêu cầu động viên ngân sách, khả năng quản
lý, giám sát mà mỗi nước có những quy định riêng về danh mục mặt hàng
chịu thuế, mức thuế suất, phương thức tổ chức quản lý thu. Tuy nhiên, ở Việt
Nam cũng như các nước trên thế giới, các quy phạm pháp luật mới chỉ liệt kê
danh mục những hàng hoá, dịch vụ nằm trong đối tượng chịu thuế tiêu thụ
đặc biệt mà chưa có định nghĩa cụ thể thế nào là thuế tiêu thụ đặc biệt. Từ
những đặc trưng về thuế và những quy định về thuế TTĐB, có thể rút ra khái
niệm về thuế TTĐB như sau: Thuế TTĐB “là loại thuế đánh lên một số hàng
hóa, dịch vụ đặc biệt nhằm hướng dẫn tiêu dùng xã hội và điều tiết một phần
thu nhập của người nộp thuế vào ngân sách Nhà nước”.
1.1.2.Đặc điểm
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra một số đặc điểm của thuế TTĐB như
sau:
14


Thứ nhất, thuế TTĐB có tính chất gián thu.
Tính chất gián thu của loại thuế này thể hiện: Thuế TTĐB đánh vào thu
nhập của người tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ chịu thuế TTĐB một cách gián
tiếp thông qua giá cả của hàng hoá, dịch vụ mà người đó tiêu dùng và người
sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB là người nộp thuế
cho Nhà nước thay cho người tiêu dùng. Như vậy, người sản xuất, nhập khẩu
hàng hoá, kinh doanh dịch vụ sẽ nộp thuế TTĐB và khoản thuế này được
chuyển vào giá bán sản phẩm và chuyển sang cho người tiêu dùng cuối cùng
phải gánh chịu.
Thứ hai, thuế TTĐB có phạm vi hẹp
Mặc dù cũng là thuế tiêu dùng, nhưng khác với thuế giá trị gia tăng, thuế
TTĐB có đối tượng chịu thuế hẹp, chỉ bao gồm một số hàng hoá, dịch vụ Nhà
nước cần điều tiết. Nếu như thuế GTGT đánh vào tất cả các loại hàng hoá,
dịch vụ trừ nhóm hàng hoá dịch vụ nằm trong nhóm không thuộc đối tượng

chịu thuế thì thuế TTĐB chỉ đánh vào 11 loại hàng hoá và 06 loại dịch vụ.
Các loại hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB được pháp luật thuế các nước qui
định hầu như giống nhau gồm : rượu, bia, thuốc lá, xe ô tô, xăng dầu; kinh
doanh cá cược, đua ngựa, đua xe, sòng bạc... Như vậy, đối tượng chịu thuế
chủ yếu là những hàng hóa, dịch vụ có tính chất đặc biệt: là loại xa xỉ phẩm
cần điều tiết thu nhập, hoặc cần định hướng sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng
do việc tiêu dùng có ảnh hưởng tiêu cực đến con người nhưng không thể cấm
tiêu dùng.
Thứ ba, thuế TTĐB có mức thuế suất cao
Thuế TTĐB có phạm vi điều chỉnh hẹp nhưng thường có mức thuế suất
cao. Đây là điểm khác biệt rõ nét với thuế GTGT. Nếu như thuế GTGT chỉ có
mức thuế suất là 0%, 5% và 10% thì thuế TTĐB có thể chịu mức thuế suất lên
tới 150%1. Do đối tượng của thuế TTĐB chỉ áp dụng với một số hàng hoá,
dịch vụ nên Việt Nam và các nước thường áp dụng mức thuế suất thuế TTĐB
1 đối với ô tô dung tích từ 6l trở lên, áp dụng từ ngày 1.1.2017

15


cao để hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng qua đó cũng điều tiết một phần thu
nhập của những người tiêu dùng các hàng hoá dịch vụ có thu nhập cao, đảm
bảo công bằng xã hội. Dưới góc độ điều tiết thu nhập của người có thu nhập
cao khi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ xa xỉ, thuế TTĐB còn góp phần khắc
phục hạn chế về công bằng theo chiều dọc của thuế giá trị gia tăng.
Thứ tư, thuế TTĐB chỉ thu ở khâu sản xuất hoặc nhập khẩu, cung ứng
hàng hoá dịch vụ.
Nhà nước chỉ thu thuế TTĐB một lần ở khâu sản xuất, nhập khẩu hàng
hóa hay kinh doanh các dịch vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB. Khi hàng hoá và
dịch vụ này chuyển qua khâu lưu thông thì không phải chịu thuế TTĐB. Đây
là điểm khác biệt lớn với thuế GTGT. Nếu như thuế TTĐB chỉ đánh một lần

thì thuế GTGT đánh vào phần giá trị tăng thêm của tất cả các khâu, các bước
của quá trình kinh doanh, bao gồm cả sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Chính
vì thế cơ sở kinh doanh được khấu trừ số thuế TTĐB đã nộp đối với nguyên
liệu đã nộp thuế TTĐB nếu có chứng từ hợp pháp. Số thuế TTĐB được khấu
trừ đối với nguyên liệu tối đã không quá số thuế TTĐB tương ứng với số
nguyên liệu dùng sản xuất ra hàng hoá đã tiêu thụ. Vì vậy, việc quản lý thuế
TTĐB đòi hỏi phải kiểm tra, giám sát chặt chẽ, đảm bảo hạn chế đến mức tối
đa sự thất thu thuế TTĐB tại khâu sản xuất, cung ứng dịch vụ hoặc nhập khẩu.
1.1.3.Vai trò của thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế TTĐB có vai trò rất lớn, thể hiện như sau:
Thứ nhất, thuế TTĐB là một trong những công cụ giúp Nhà nước thực
hiện chính sách quản lý đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và nhập khẩu
hàng hoá, dịch vụ.
Bằng các quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế,
người nộp thuế, thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt, các trường hợp hoàn thuế...
pháp luật thuế TTĐB đóng vai trò là khung pháp lý quan trọng giúp Nhà nước
thực hiện chính sách quản lý đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và nhập
khẩu hàng hoá, dịch vụ. Các loại thuế gián thu như thuế TTĐB, thuế giá trị
16


gia tăng, thuế xuất khẩu, nhập khẩu là những loại thuế có ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh, đến tiêu dùng xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến giá
cả, thu nhập và quan hệ cung cầu trên thị trường. Thông qua thuế gián thu,
Nhà nước có thể chi phối đến việc lựa chọn và quyết định sản xuất " cái gì",
sản xuất " như thế nào", " sản xuất cho ai..." Vì thế thuế TTĐB cũng chính là
một trong những công cụ giúp Nhà nước thực hiện chính sách quản lý đối với
các cơ sở sản xuất, kinh doanh và nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Nhà nước có
thể nắm bắt một cách tương đối chính xác số lượng thực tế các cơ sở sản xuất
mặt hàng chịu thuế TTĐB trong nền kinh tế, cũng như năng lực sản xuất của

từng cơ sở sản xuất từng loại mặt hàng chịu thuế TTĐB thông qua việc thu
thuế TTĐB ở khâu sản xuất. Khả năng này giúp Nhà nước có thể sắp xếp có
hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh các mặt hàng chịu thuế TTĐB và
có chính sách điều chỉnh thích hợp đối với cá hoạt động này. Nhà nước sẽ có
chính sách thuế phân biệt bằng việc quy định mức thuế suất cao, thấp khác
nhau đối với từng ngành nghề sản xuất kinh doanh, đối với từng sản phẩm,
dịch vụ, tuỳ thuộc vào sự cần thiết của sản xuất và đời sống xã hội. Chẳng
hạn, việc áp dụng các hình thức ưu đãi ( thuế suất, thời gian miễn giảm
thuế...) đối với hàng hoá, dịch vụ sẽ làm cho giá cả hàng hoá, dịch vụ đó giảm
xuống. Khi giá cả hàng hoá, dịch vụ giảm thì lượng cầu sẽ tăng lên. Để đáp
ứng cho sự gia tăng về cầu hàng hoá, các doanh nghiệp sẽ mở rộng quy mô
sản xuất nhằm thu lợi nhuận nhiều hơn. Ngược lại, khi áp dụng thuế suất cao,
giá tăng sẽ có giảm sút về cầu, thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh thì doanh
nghiệp sẽ tìm lĩnh vực đầu tư mới, sản xuất mặt hàng khác có thể tạo lợi
nhuận nhiều hơn.
Việc thu thuế TTĐB ở khâu nhập khẩu cũng giúp Nhà nước quản lý
được hoạt động nhập khẩu mặt hàng được coi là đặc biệt, không khuyến khích
tiêu dùng. Thuế TTĐB thu vào hàng hoá chịu thuế ở khâu nhập khẩu còn
nhằm hạn chế việc tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài, qua đó
khuyến khích việc tiêu dùng hàng hoá trong nước. Thông qua thuế TTĐB,
17


Nhà nước có thể điều tiết, hướng dẫn tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong nước,
đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế thay thế nguyên
liệu nhập khẩu bằng nguyên liệu sản xuất sẵn có trong nước theo mức độ tỷ lệ
nội địa hoá, góp phần tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước, đặc
biệt trong tiến trình hội nhập hiện nay, làm cho hàng hoá trong nước có sức
cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa cũng như thị trường quốc tế. Điều này
có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chủ trương bảo hộ sản xuất trong

nước mà hầu hết các quốc gia theo đuổi.
Thứ hai, thuế TTĐB là công cụ để Nhà nước điều tiết thu nhập của các
tầng lớp dân cư, hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, góp phần thực hiện công bằng,
bình đẳng xã hội.
Trong cơ chế thị trường, các quy luật khách quan được phát huy tác dụng
một cách tối đa. Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng phân cực đối lập nhau: một bên
là thiểu số người giàu có thu nhập cao còn đại bộ phần dân cư chỉ đạt được
mức thu nhập thấp. Khi nói đến việc điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân
cư, người ta thường nghĩ tới vai trò hàng đầu của thuế trực thu, đặc biệt là
thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, thuế gián thu, điển hình là thuế TTĐB cũng
phần nào đảm đương được vai trò này.
Thuế TTĐB chỉ quy định một số hàng hoá, dịch vụ đặc biệt Nhà nước
không khuyến khích tiêu dùng thuộc diện đối tượng chịu thuế. Những hàng
hoá, dịch vụ Nhà nước không khuyến khích tiêu dùng là những hàng hoá có
khả năng gây ảnh hưởng bất lợi tới sức khoẻ người sử dụng như thuốc lá, rượu,
bia... hoặc chỉ được sử dụng bởi những người có thu nhập cao và rất cao trong
xã hội như: ô tô, tàu bay, du thuyền...; hoặc là những dịch vụ xa xỉ, không thiết
yếu trong đời sống như vũ trường, mát xa, karaoke, casino... Mức độ động viên
của Nhà nước thông qua thuế TTĐB vì vậy thường cao hơn so với mức độ
động viên của các sắc thuế gián thu khác. Hệ quả là đối tượng tiêu dùng các
mặt hàng và dịch vụ cuả thuế TTĐB không thể là mọi tầng lớp dân cư và chỉ là
những tầng lớp có thu nhập cao trong xã hội. Như vậy, bằng thuế TTĐB, Nhà
nước một mặt có thể định hướng tiêu dùng xã hội, qua đó góp phần tích cực
18


vào việc hình thành xu hướng tiêu dùng lành mạnh, phù hợp với các điều kiện
và hoàn cảnh kinh tế của đất nước. Mặc khác, Nhà nước còn có thể huy động
một bộ phần thu nhập của những đối tượng có khả năng tiêu dùng hàng hoá,
dịch vụ không thiết yếu, không khuyến khích tiêu dùng vào NSNN để sử dụng

cho mục tiêu công cộng, góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Thứ ba, thuế TTĐB là công cụ quan trọng được sử dụng nhằm ổn định
và tăng cường nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Nộp thuế là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc của các đối tượng nộp thuế2.
Thông qua chế độ thu thuế TTĐB, Nhà nước động viên một phần thu nhập
đáng kể của người tiêu dùng vào ngân sách Nhà nước.
Đặc thù các đối tượng chịu thuế TTĐB là những hàng hóa, dịch vụ xa xỉ
phẩm, hoặc các hàng hóa, dịch vụ đặc biệt cần điều tiết tiêu dùng, do đó mức
thuế suất thuế TTĐB đều được áp dụng rất cao ở tất cả các nước. Trung bình
thuế TTĐB chiếm khoảng 15- 18% trong tổng số thuế gián thu và chiếm từ 910% tổng số thu từ thuế và phí hàng năm của Nhà nước [35][36]. Do đó, thuế
TTĐB có vai trò rất quan trọng nhằm ổn định và tăng cường nguồn thu cho
NSNN. Đặc biệt trong thời kỳ hiện nay, khi kinh tế - xã hội càng phát triển, hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước để
giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp
giáo dục, y tế... cũng ngày càng gia tăng. Thêm vào đó, việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế dẫn đến cơ cấu thu ngân sách cũng thay đổi theo hướng nguồn thu
từ tích luỹ trong nước được tăng dần và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong
tổng thu NSNN. Thuế TTĐB cũng sẽ góp phần nâng cao tỷ trọng thu nội địa để
ổn định thu cho ngân sách nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. Khái quát về pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
1.2.1. Khái niệm pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
Pháp luật thuế TTĐB là một bộ phận quan trọng trong pháp luật thuế của
các quốc gia. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, khung pháp lý
về thuế TTĐB của Việt Nam xuất hiện muộn hơn. Để điều chỉnh các quan hệ
2 Điều 47 Hiến pháp 2014: Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định

19


xã hội phát sinh giữa Nhà nước với các tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu

hàng hoá và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB, nhà nước
phải sử dụng pháp luật. Vì vậy có thể hiểu: "pháp luật thuế TTĐB là tổng hợp
các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành,
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, nộp
thuế, quản lý và quyết toán thuế tiêu thụ đặc biệt".
Từ khái niệm thuế TTĐB và các nghiên cứu cơ bản về pháp luật thuế
TTĐB, có thể rút ra điểm đặc trưng của pháp luật thuế TTĐB so với các quy
định của pháp luật về thuế khác là pháp luật thuế TTĐB có phạm vi tác động
tương đối hẹp. Xuất phát từ nội dung được pháp luật điều chỉnh cho thấy thuế
TTĐB chỉ áp dụng đối với những đối tượng có hành vi tiêu dùng những hàng
hoá, dịch vụ có tính chất đặc biệt là đối tượng chịu thuế theo quy định của
pháp luật thuế TTĐB. Trong khi đó, pháp luật thuế GTGT có phạm vi tác
động rộng, điều tiết các đối tượng trong xã hội.
1.2.2. Quá trình hình thành và pháp triển pháp luật thuế tiêu thụ đặc
biệt ở Việt Nam
Ở nước ta, tiền thân của thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành là thuế hàng hóa
được ban hành năm 1951. Ðến năm 1990 Bộ tài chính soạn thảo dự án luật
thuế mới, đổi thuật ngữ thuế hàng hóa thành thuế tiêu thụ đặc biệt và được
Quốc hội thông qua vào ngày 30/6/1990. Đạo luật đầu tiên về thuế TTĐB đánh
vào sáu mặt hàng sản xuất trong nước là: thuốc lá, rượu, bia, pháo, bài lá và
vàng mã. Thời kỳ này, các loại hình dịch vụ chưa bị đánh thuế TTĐB. Sau đó,
diện đánh thuế được thu hẹp xuống còn 4 loại hàng hoá chịu thuế là thuốc lá
điếu, rượu, bia và pháo trong Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế TTĐB năm 1993.
Nhằm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt tiếp tục được Quốc hội sửa đổi bổ sung vào năm
1995. Lần sửa đổi, bổ sung này đánh dấu một nước phát triển trong quá trình
hoàn thiện pháp luật thuế TTĐB, thể hiện ở chỗ đạo luật này đã mở rộng diện
các mặt hàng chịu thuế TTĐB và đánh vào không chỉ những hàng hoá sản
20



xuất trong nước mà còn đánh cả vào hàng hoá nhập khẩu. Cụ thể, theo Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TTĐB năm 1995, các mặt hàng
chịu thuế gồm: thuốc lá điếu, rượu, bia, pháo, xăng và ô tô nhập khẩu từ 24
chỗ ngồi trở xuống. Xăng và ô tô nhập khẩu từ 24 chỗ ngồi trở xuống là
những mặt hàng mới được đưa vào danh mục mặt hàng chịu thuế TTĐB. Việc
đánh thuế TTĐB vào ô tô nhập khẩu nói trên phần nào phản ánh chính sách
bảo hộ ngành sản xuất ô tô trong nước của Chính phủ Việt Nam trong giai
đoạn này.
Để thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương
Đảng khoá VIII về việc mở rộng diện đánh thuế TTĐB hoặc tăng mức thuế
đối với những mặt hàng cần hạn chế tiêu dùng, đồng thời để phối hợp đồng
bộ với Luật thuế GTGT bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1999,
ngày 20 tháng 5 năm 1998, Quốc hội đã thông qua Luật thuế TTĐB mới thay
thế Luật thuế TTĐB năm 1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
thuế TTĐB năm 1993 và năm 1995.
Luật thuế TTĐB năm 1998 được xây dựng trên cơ sở xem xét các yếu tố
khách quan có khả năng ảnh hưởng tới nền sản xuất trong nước và tổng thu
NSNN. Hai yếu tố có tác động lớn tới những thay đổi chủ yếu của Luật thuế
TTĐB năm 1998 là việc đưa Luật thuế GTGT vào áp dụng trong thực tiễn và
sự kiện Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
Thứ nhất, bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm 1999, Luật thuế GTGT có
hiệu lực thay thế Luật thuế doanh thu dẫn đến chi phí cho nguyên vật liệu để
sản xuất mặt hàng chịu thuế TTĐB tăng lên. Điều đó được lý giải bởi thuế
GTGT đầu vào của nguyên vật liệu sản xuất mặt hàng chịu thuế TTĐB lớn
hơn thuế doanh thu phải nộp theo Luật thuế doanh thu trước đây. Do vậy, cần
phải giảm bớt thuế suất thuế TTĐB để không ảnh hưởng tới giá cả của mặt
hàng chịu thuế.
Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam sẽ phải cắt giảm
thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng, từ đó làm giảm số thu NSNN từ thuế

21


nhập khẩu. Để đảm bảo tổng thu NSNN không bị ảnh hưởng, cần phải lấy lại
số thu đáng lẽ có thể huy động được từ thuế nhập khẩu nếu không sửa đổi
Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Mở rộng diện hàng hoá, dịch vụ chịu thuế
TTĐB là giải pháp khả thi áp dụng trong trường hợp này.
Chính vì thế, Luật thuế TTĐB năm 1998 được xây dựng theo hướng mở
rộng đối tượng chịu thuế TTĐB, theo đó, không chỉ hàng hoá mà cả dịch vụ
được coi là không thiết yếu đều phải chịu thuế, không có sự phân biệt về
nguồn gốc hàng hoá. Nói cách khác, hàng hoá, bất kể được sản xuất trong
nước hay nhập khẩu, nếu thuộc danh mục chịu thuế TTĐB đều làm phát sinh
nghĩa vụ nộp thuế của cơ sở sản xuất hoặc nhập khẩu mặt hàng đó.
Tại kì họp thứ ba, Quốc hội khoá XI, ngày 17 tháng 6 năm 2003, Luật
thuế TTĐB năm 1998 đã được sửa đổi, bổ sung. Một trong những điểm mới
của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TTĐB năm 2003 là sửa
đổi về đối tượng chịu thuế, vẫn theo hướng mở rộng diện chịu thuế TTĐB
như đưa thêm dịch vụ kinh doanh xổ số, kinh doanh giải trí có đặt cược vào
danh mục dịch vụ chịu thuế.
Nhằm đảm bảo cho các quy định trong pháp luật thuế TTĐB thống nhất
với các cam kết của Việt nam khi gia nhập WTO, đặc biệt tránh phân biệt đối
xử giữa hàng hoá sản xuất trong nước với hàng hoá nhập khẩu, tại kỳ họp thứ
tám, Quốc hội khoá XI, ngày 29/11/2005, Luật thuế TTĐB năm 1998 và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TTĐB năm 2003 lại tiếp tục được
sửa đổi. Theo đó, lần sửa đổi này Luật thuế TTĐB đã sửa đổi giá tính thuế và
thuế suất đối với một số mặt hàng thuộc diện chịu thuế TTĐB.
Như vậy, Luật thuế TTĐB năm 1998 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế
TTĐB năm 2003, 2005 đã đạt được những mục tiêu đề ra trong giai đoạn đầu,
khi mới được ban hành. Tuy nhiên, trước sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước; trước yêu cầu ổn định kinh tế vĩ mô, giảm nhập siêu, kiềm chế lạm

phát, tránh gây đột biến trong sản xuất, tiêu dùng, đảm bảo nguồn thu NSNN
và nhằm thực hiện các cam kết của Chính phủ Việt Nam khi gia nhập WTO
22


cũng như đảm bảo tính phù hợp với thông lệ quốc tế, Quốc hội khoá XII đã
thông qua Luật thuế TTĐB mới ngày 14 tháng 11 năm 2008. Luật này thay
thế toàn bộ Luật thuế TTĐB năm 1998 và các luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế
TTĐB năm 2003 và 2005. Luật mới tiếp tục mở rộng diện các hàng hoá và
dịch vụ chịu thuế TTĐB đồng thời quy định Biểu thuế suất thuế TTĐB theo
hướng hạ thấp mức thuế suất hơn so với mức thuế suất trong luật cũ.
Trải qua một quá trình áp dụng, Luật thuế TTĐB năm 2008 tiếp tục bộc
lộ nhiều điểm hạn chế, bất cập về đối tượng chịu thuế và không chịu thuế,
mức thuế suất chưa thỏa đáng, hình thức văn bản chưa tạo thuận lợi cho quá
trình áp dụng luật. Chính vì thế tháng 12 năm 2011, Chính phủ cho sửa đổi
một số quy định trong Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật (Nghị định số 113/2011/NĐ-CP ngày 08/12/2011 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 26/2009/NĐ-CP ngày 16/3/2009). Các nội dung sửa
đổi theo hướng quy định rõ ràng, minh bạch về đối tượng không chịu thuế, trị
giá tính thuế, khấu trừ thuế nhằm tạo thuận lợi hơn cho người nộp thuế, đồng
thời ngăn ngừa các trường hợp lợi dụng, trục lợi để trốn thuế, góp phần tạo
môi trường bình đẳng, lành mạnh.
Trước bối cảnh kinh tế - xã hội đất nước và yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt Việt Nam đã ký kết tham gia Hiệp định
đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, ngày 26 tháng 11 năm 2014, Quốc hội
khoá 13 đã ban hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi năm 2014. Đồng thời,
tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định về thuế TTĐB trong Luật thuế giá trị
gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế sửa đổi năm 2016
(có hiệu lực từ 1/7/2016). Những sửa đổi, bổ sung của Luật thuế TTĐB được
đánh gía là đảm bảo số thu cho NSNN một cách hợp lý trên cơ sở hài hoà lợi

ích giữa nhà nước với người sản xuất, kinh doanh và với người tiêu dùng.
Những sửa đổi, bổ sung này nhằm phát huy tốt hơn vai trò hướng dẫn sản
xuất và tiêu dùng, đảm bảo đánh thuế cao vào những mặt hàng cao cấp hoặc
quá trình sản xuất và tiêu dùng có nhiều ngoại ứng tiêu cực cho xã hội, thúc
23


đẩy tăng trưởng xanh và bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân
và điều chỉnh có lộ trình để đảm bảo sự thích ứng của các doanh nghiệp. Bên
cạnh đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế TTĐB cũng góp phần tăng tính cạnh
tranh so với các nước trong khu vực, các nước có điều kiện tương đồng với
nước ta, phù hợp với xu thuế cải cách thuế và thông lệ quốc tế.
Như vậy, mặc dù thuế TTĐB ở Việt Nam ra đời khá sớm nhưng pháp
luật thuế TTĐB vẫn còn chưa đồng bộ và hoàn thiện, nảy sinh nhiều bất cập
trong quá trình áp dụng.
1.2.3. Nội dung pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
Xét về hình thức, pháp luật về thuế TTĐB gồm các văn bản quy phạm
pháp luật như: văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội, nghị định và nghị quyết
của Chính phủ; quyết định và chỉ thị của Thủ tướng chính phủ; quyết định,
thông tư và chỉ thị của các bộ...Còn xét về phương diện nội dung, pháp luật
thuế TTĐB ở Việt Nam sẽ được xem xét dưới các bộ phận của Luật thuế
TTĐB, cụ thể như sau:
Thứ nhất về phạm vi điều chỉnh: Luật thuế TTĐB năm 2008, sửa đổi bổ
sung năm 2014 quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế,
người nộp thuế, căn cứ tính thuế, hoàn thuế, khấu trừ thuế và giảm thuế
TTĐB. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ nghiên cứu nội dung pháp luật thuế TTĐB
theo những nội dung sau:
- Đối tượng chịu thuế
- Đối tượng không chịu thuế
- Người nộp thuế

- Căn cứ tính thuế
- Hoàn thuế, khấu trừ thuế và giảm thuế TTĐB
Thứ hai, về đối tượng điều chỉnh: đối tượng điều chỉnh của Luật thuế TTĐB
năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 được chia thành hai nhóm bao gồm:
- Một là, nhóm chủ thể quyền lực là các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền trong lĩnh vực thu thuế, xem xét và quyết định miễn, giảm thuế TTĐB.
24


Bao gồm: Bộ tài chính, Tổng cục thuế và các cơ quan thu có thẩm quyền. Bộ
tài chính và Tổng cục thuế chủ yếu tiến hành xem xét và quyết định các
trường hợp miễn hoặc giảm thuế TTĐB cho đối tượng nộp thuế khi có hồ sơ
xin miễn, giảm thuế TTĐB của đối tượng nộp thuế do cơ quan thu gửi lên.
Cơ quan thu bao gồm: cơ quan thuế, cơ quan hải quan, cơ quan tài chính
và các cơ quan khác được uỷ quyền. Các cơ quan này có trách nhiệm hướng
dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thu nộp thuế TTĐB và áp dụng các chế tài khi
cần thiết.
Hai là, nhóm chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế TTĐB bao gồm: các tổ chức,
cá nhân có sản xuất, nhập khẩu hàng hoá và kinh doanh dịch vụ thuộc đối
tượng chịu thuế TTĐB. Đối với tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh
xuất khẩu mua hàng hoá thuộc diện chịu thuế TTĐB của cơ sở sản xuất để
xuất khẩu nhưng không xuất khẩu mà tiêu thụ trong nước thì tổ chức, cá nhân
có hoạt động kinh doanh xuất khẩu là người nộp thuế TTĐB.
1.2.4.Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt của các nước trên thế giới Kinh nghiệm xây dựng pháp luật thuế TTĐB cho Việt Nam
Trong lịch sử, thuế TTĐB đã xuất hiện từ rất sớm. Từ thời Hy Lạp và La
Mã cổ đại, các loại thuế đánh vào việc tiêu dùng hàng hoá như thuế đánh vào
hàng hoá nhập khẩu và thuế TTĐB đã được áp dụng. Tuy nhiên, xét về
phương diện tạo thu nhập cho nhà nước vào thời kỳ đó, thuế TTĐB không có
vai trò quan trọng bằng thuế nhập khẩu3.
Cùng với thời gian, vai trò của thuế TTĐB ngày càng được coi trọng.

Các quốc gia đã xem loại thuế này như một công cụ cần thiết nhằm tạo lập và
tăng cường nguồn thu cho NSNN. Ở Mỹ, ba năm sau khi Quốc hội Mỹ được
trao quyền thu thuế từ công dân Mỹ, năm 1792, sắc thuế đầu tiên được ban
hành chính là thuế TTĐB, đánh vào rượu whisky4. Ở Úc, để tăng thu cho
NSNN, năm 1824, chính quyền New South Wales đã đặt ra hai thứ thuế là
3 Xem: Stan Ross, Philip Burgess and Richard E. Krever, Income Tax: A Critical Analysis, The
Law Book Company Limited 1991, tr.1; Encyclopedia Britannica (15thed.1973-1974), tr.1077
4 Xem "Tax History":

25


×