Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.46 KB, 66 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành xu hướng phát triển chung của
thế giới. Việt Nam không thể đứng ngoài xu hướng này mà phải nắm bắt cơ hội
để đưa đất nước nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới một cách chủ
động, tích cực, đạt hiệu quả cao. Thực hiện chủ trương đó, trong những năm qua
Việt Nam đã tích cự tham gia vào quá trình này, hiện Việt Nam đã là thành viên
của ASEAN, APEC, ASEM, đã ký kết hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ
và trong năm 2006 Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO và
chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO kể từ ngày 11/01/2007.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng có không ít
thách thức cho các quốc gia đang phát triển. Bởi vì, Hội nhập kinh tế quốc tế
nhằm tới đích là tự do hóa thưong mại, điều này cũng đồng nghĩa với việc phải
dỡ bỏ những rào cản do các nước lập nên nhằm hàng hoá di chuyển giữa các
nước được thuận lợi hơn trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng. Lợi ích lớn nhất của tự
do hoá thương mại là thúc đẩy ngày càng nhiều nước tham gia buôn bán trao đổi
hàng hoá từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tranh thủ được vốn, khoa học-công
nghệ, nguyên liệu, thị trường…, người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn hàng
hoá tốt hơn với giá rẻ hơn. Tuy nhiên không phải ngẫu nhiên mà các nước lại
dựng lên những hàng rào làm ảnh hưởng đến sự lưu thông hàng hoá. Lý do để
các nước làm việc này là nhằm bảo hộ sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh
của hàng hoá bên ngoài. Điều này có ý nghĩa lớn vì sản xuất trong nước mà bị
suy giảm sẽ ảnh hưởng đến công ăn việc làm, ảnh hưởng đến ổn định xã hội;
ảnh hưởng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến cán cân thanh
toán, nguy cơ bệnh tật gia tăng do hàng hoá nhập khẩu…Tự do hoá thương mại
ở những mức độ khác nhau sẽ làm yếu đi hoặc mất dần các hàng rào nói trên và
như thế sẽ làm ảnh hưởng đến mục đích đặt ra khi thiết lập hàng rào.
Trong các rào cản được các nước sử dụng gồm thuế quan và biện pháp phi
thuế quan. Trong đó thuế quan chiếm vị trí quan trọng trong đàm phán thương
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


mại. Bởi vì mục tiêu của đàm phán thương mại là nhằm gỡ bỏ rào cản đối với
lưu thông hàng hoá giữa các nước mà thuế quan là rào cản quan trọng nhất.
Đối với nước ta, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp cho Việt Nam có thêm
cơ hội giao lưu kinh tế với nhiều nền kinh tế, có thêm nhiều đối tác kinh doanh,
mở rộng thị trường, thu hút thêm nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Từ đó có thể tận
dụng được những nguồn lực từ bên ngoài để rút ngắn khoảng cách với các nước
phát triển. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm thấp, cơ sở vật
chất còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ khoa học kỹ thuật còn yếu kém cùng với
hệ thống pháp luật còn chưa hoàn chỉnh, khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam, hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới là rất thấp.Vì vậy,
trong quá trình hội nhập, nhà nước phải áp dụng các chính sách bảo hộ đối với
nền kinh tế để giúp các ngành kinh tế có thể đứng vững trước sự cạnh tranh khốc
liệt của xu hướng toàn cầu hóa. Vấn đề đặt ra ở đây là bảo hộ với những ngành
kinh tế nào, bảo hộ ở mức độ nào mới là hợp lý? Pháp luật thuế nhập khẩu phản
ánh rõ nhất mức độ hội nhập và sự bảo hộ của nhà nước đối nới nền kinh tế. Vì
vậy cần thiết phải xây dựng, hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu như thế nào để
vừa có thể bảo hộ đúng mức, hợp lý dựa trên năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế, đồng thời bảo đảm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và các cam kết của mình
với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế. Hay nói cách khác
pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam cần phải được xây dựng và hoàn thiện như
thế nào để đảm bảo cho việc hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay đạt hiệu quả cao nhất.
Từ những trăn trở trên đây, em đã quyết định chọn đề tài: “Pháp luật thuế
nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ” làm đề tài
khoá luận tốt nghiệp của mình với mục đích được tham gia làm rõ một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về pháp luật thuế nhập khẩu ở nước ta hiện nay, mối quan
hệ giữa pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam với những cam kết quốc tế của Việt
Nam; bước đầu đưa ra những đánh giá những sự tương thích và chưa tương
thích của nó với luật pháp quốc tế và với những cam kết của Việt Nam trong
2

Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, từ đó đề xuất một số những giải pháp
hoàn thiện pháp luật thuế nhập nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Để thực hiện yêu cầu của đề tài đặt ra, kết cấu khoá luận được trình bày
bao gồm ba chương (ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo) cụ thể như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về thuế nhập khẩu và pháp luật về
thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Chương II: Thực trạng pháp luật thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Chương III: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế
nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ NHẬP KHẨU VÀ
PHÁP LUẬT VỀ THUẾ NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU KIÊN HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Khái quát chung về thuế nhập khẩu
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thuế nhập khẩu
Sản xuất hàng hoá phát triển, xuất hiện các quan hệ trao đổi hàng hoá
được thực hiện giữa các tổ chức, cá nhân ở các quốc gia khác nhau. Các quốc
gia đều sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá mang qua cửa khẩu, biên giới
nước mình. Thứ thuế này gọi là thuế quan. Có nước thuế quan chỉ là thuế nhập
khẩu không bao gồm thuế xuất khẩu.
Tùy thuộc vào từng giai đoạn lịch sử và điều kiện kinh tế – xã hội của mỗi
nước mà thuế quan được sử dụng với nhiều mục tiêu khác nhau. Ở những nước
kinh tế phát triển hàng hoá có sức cạnh tranh lớn, thị trường ổn định, thuế quan
với ý nghĩa là công cụ bảo hộ sản xuất trong nước, điều chỉnh hoạt động ngoại

thương ít được coi trọng, thậm chí nhiều nước muốn xoá bỏ. Còn ở những nước
đang phát triển trong đó có nước ta, thuế quan là loại thuế rất quan trọng không
chỉ trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước hàng năm mà quan trọng
hơn, nó còn là công cụ hữu hiệu trong tay Nhà nước để kiểm soát hoạt động
nhập khẩu hàng hóa với nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong nước và thực hiện
các mục tiêu đối ngoại của Chính phủ trong từng thời kỳ... Điều này xuất phát
từ hai lý do:
- Nền sản xuất trong nuớc còn yếu, chưa đủ khả năng cạnh tranh;
- Nguồn tài chính eo hẹp, thu nhập dân cư thấp thì thuế quan là nguồn thu
chính và dễ hành thu.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thuế nhâp khẩu tùy thuộc vào
góc độ tiếp cận.
Xét về phương diện kinh tế, thuế nhập khẩu được quan niệm là khoản
đóng góp bằng tiền của tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước theo quy định
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của pháp luật, khi họ có hành vi nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ qua biên giới một
nước.Với cách tiếp cận này, thuế nhập khẩu được quan niệm như là một quan hệ
phân phối các nguồn lực tài chính, phát sinh giữa các chủ thể là tổ chức, cá nhân
nộp thuế với người thu thuế là Nhà nước.Mặt khác, thuế nhập khẩu còn có thể
được hiểu như là đòn bẩy kinh tế hay biện pháp kinh tế để Nhà nước điều tiết
trực tiếp đối với quá trình sản xuất, tiêu dùng trong phạm vi mỗi quốc gia và chi
phối một cách gián tiếp đối với hoạt động kinh tế trên phạm vi khu vực và toàn
cầu.
Xét trên phương diện pháp lý, thuế nhập khẩu là quan hệ pháp luật phát
sinh giữa Nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá nhân (người nộp thuế), về
việc tạo lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý cho các bên trong quá
trình hành thu thuế nhập khẩu.Quan hệ pháp luật này phát sinh từ cơ sở pháp lý
là đạo luật thuế nhập khẩu do Quốc hội ban hành mà hậu quả pháp lý chủ yếu
của việc áp dụng đạo luật đó trong thực tiễn là làm phát sinh quyền thu thuế cho

Nhà nước và nghĩa vụ đóng thuế cho các tổ chức,cá nhân là người nộp thuế.
Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa qua biên
giới với nước ngoài được điều tiết và kiểm soát bởi hai công cụ chủ yếu là “hàng
rào thuế quan” và “hàng rào phi thuế quan”.Hàng rào thuế quan ở những nước
này được hiểu thực chất là thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa nhập khẩu, chứ
không bao gồm cả thuế xuất khẩu đánh vào hàng hóa xuất khẩu như Việt Nam
hay Trung Quốc. Do có quan niệm khác nhau như trên giữa các nước về nội
hàm khái niệm “thuế quan” nên chính sách thuế quan của các nước cũng có sự
khác nhau. Nhưng khái niệm thuế quan được Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) định nghĩa đồng nhất với thuế nhập khẩu :“Thuế hải quan đánh vào hàng
hóa nhập khẩu gọi là thuế quan.Thuế quan tạo ra lợi thế về giá cả cho hàng hóa
sản xuất trong nước so với hàng hóa tương tự được nhập khẩu và đem lại nguồn
thu cho các chính phủ
1
.”
Tuy nhiên, trên thực tế chưa có một định nghĩa thống nhất, hoàn chỉnh
mang tính pháp lý về thuế nhập khẩu. Dựa trên Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
1
Giáo trình Luật thuế Việt Nam- Đại học Luật Hà Nội
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khẩu năm 2005 và Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 thì thuế nhập khẩu
có thể được định nghĩa là loại thuế đánh vào hàng hóa được nhập khẩu vào
“những khu vực trong lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong
vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, nơi Luật hải quan được áp
dụng”.Từ định nghĩa này, có thể thấy thuế nhập khẩu có đặc điểm sau:
Thứ nhất, thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng hóa được
phép vận chuyển qua biên giới. Khái niệm “hàng hóa” là đối tượng chịu thuế
nhập khẩu có thể hiểu theo nghĩa “là các động sản bao gồm hàng hóa nhập khẩu,
vật dụng trên phương tiện vận tải nhập cảnh, hành lý, tiền, kim khí quý, đá quý,

cổ vật, văn hóa phẩm, bưu phẩm và các loại tài sản khác…Chúng có mã số và
tên gọi theo quy định của pháp luật, được nhập khẩu vào địa bàn hoạt động hải
quan Việt Nam” (khoản 1, khoản 2, điều 4 Luật hải quan sửa đổi, bổ sung năm
2005).
Thuế nhập khẩu không tác động vào đối tượng nhập khẩu là các loại hình
dịch vụ.
Thứ hai, thuế nhập khẩu về bản chất là thuế gián thu, tuy nhiên tính gián
thu chỉ có ý tương đối. Điều này thể hiện ở chỗ, khi một nhà nhập khẩu nộp thuế
nhập khẩu và tự tiêu dùng số hàng hóa nhập khẩu đó chứ không bán ra bên
ngoài thì khi đó khoản thuế nhập khẩu đã nộp có tính chất là thuế trực thu vì
chính người nhập khẩu vừa là người nộp thuế đồng thời là người chịu thuế.
Ngược lại, khi nhà nhập khẩu đã nộp thuế nhập khẩu và bán lại số hàng hóa đó
cho người khác thì số tiền thuế nhập khẩu đã nộp có xu hướng chuyển sang cho
người mua hàng chịu và khi đó, khoản thuế nhập khẩu này lại có tính chất là
thuế gián thu, vì người nộp thuế và người chịu thuế không phải là một. Có điều
này là vì theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 và Luật hải quan
sửa đổi, bổ sung năm 2005 thì không có sự phân biệt tổ chức, cá nhân nhập khẩu
hàng hóa có mục đích kinh doanh hay không kinh doanh.
Thứ ba, thuế nhập khẩu gắn liền với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi
quốc gia trong từng thời kỳ bởi hoạt động ngoại thương là một trong những hình
thức hoạt động cơ bản của kinh tế đối ngoại mà thuế nhập khẩu là công cụ góp
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần thực hiện vai trò quản lý, kiểm soát hoạt động ngoại thương của Nhà nước.
Việc tác động bằng thuế nhập khẩu vào hàng hóa nhập khẩu không chỉ để tạo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn thể hiện cả những chủ trương, chính
sách đối ngoại của nhà nước đó.
Thứ tư, thuế nhập khẩu được quản lý thu bởi cơ quan chuyên trách là cơ
quan Hải quan.
Thứ năm, thuế nhập khẩu bị chi phối bởi nhiều yếu tố đặc biệt là yếu tố

hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia.
1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là một công cụ quan trọng và cần thiết của mỗi nhà nước
để thực hiện các mục tiêu sau:
Thứ nhất, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
Cũng giống như bất kỳ loại thuế nào, thuế nhập khẩu có chức năng tạo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước.Ở nước ta, trong những năm đầu của thập kỷ
90, do Nhà nước có chính sách mở rộng hoạt động ngoại thương nên đã thúc đẩy
các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa phát triển.Theo đó, số thu về thuế xuất,
nhập khẩu cũng tăng nhanh, chiếm tỷ trọng đáng kể (từ 25% đến 30%) trong
tổng số thu về thuế và trở thành khoản thu quan trọng của ngân sách Nhà nước.
Những năm gần đây, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương
mại, Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế
nhưng thuế nhập khẩu vẫn là nguồn động viên một phần quan trọng cho ngân
sách Nhà nước.Theo số liệu công khai ngân sách nhà nước của Bộ tài chính từ
năm 2000 đến năm 2005 thu hải quan luôn chiếm từ 20% đến 25% tổng thu
ngân sách nhà nước. Cụ thể:
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tỷ trọng thu hải quan trong
tổng thu ngân sách nhà nước
20,9 22,1 25,5 23,8 21,3 20,6
(Nguồn: Bộ tài chính)
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ hai, là công cụ điều tiết hoạt động ngoại thương, hướng dẫn tiêu dùng
xã hội
Thuế nhập khẩu là thuế gián thu, việc đánh thuế nhập khẩu cao hay thấp
nó ảnh hưởng đến giá cả, từ giá cả ảnh hưởng sức mua, qua đó nhà nước điều
tiết hoạt động ngoại thương và hướng dẫn tiêu dùng xã hội . Chẳng hạn, Nhà
nước muốn giảm bớt nhập khẩu các hàng hoá mà nhà nước không khuyến khích

vì ảnh hưởng tới đời sống, môi trường, đạo đức xã hội (ví dụ như rượu bia,
thuốc lá, ô tô…) Nhà nước sẽ đánh thuế nhập khẩu cao vào hàng hoá này dẫn
đến giá bán của hàng hoá đó cao, người tiêu dùng không dễ dàng thoả mãn nhu
cầu tiêu dùng của mình nên hạn chế tiêu dùng, sức mua của hàng hoá đó giảm
xuống như vậy buộc nhà nhập khẩu hàng hoá đó hạn chế nhập khẩu vì nhập
nhiều sẽ không tiêu thụ được.
Thứ ba, là công cụ hỗ trợ và bảo hộ nền sản xuất trong nước
Thông qua thuế nhập khẩu, nhà nước gián tiếp tác động vào việc điều tiết
sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu đánh thuế ở mức khác nhau đối với từng
loại hàng hoá nhập khẩu, từ đó điều chỉnh khả năng cạnh tranh của hàng hóa
chịu thuế trên thị trường và từ đó tạo ra sự phân bổ lại nguồn lực trong các
ngành sản xuất. Điều đó thể hiện như sau: khi một ngành sản xuất được nhà
nước chú trọng đầu tư phát triển thì chính sách thuế nhập khẩu dành cho nguyên
liệu, máy móc, trang thiết bị sản xuất phải nhập khẩu từ nước ngoài sẽ thấp
trong khi thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa tiêu dùng lại cao hơn.
So với các loại thuế nội địa khác như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất…thì thuế nhập khẩu có vai trò
khá đặc thù, đó là bảo hộ nền sản xuất trong nước, góp phần tăng khả năng cạnh
tranh của hàng hóa trong nước với hàng hóa ngoại nhập. Điều này xuất phát từ
đặc trưng cơ bản của thuế nhập khẩu là đánh vào các hàng hóa nhập khẩu và sau
đó được cấu thành trong giá cả của hàng hóa đó.Vai trò này của thuế nhập khẩu
được thê hiện như sau:
Đối với hàng hóa nhập khẩu, do bị đánh thuế nhập khẩu nên về lý thuyết,
giá cả của loại hàng hóa này trên thị trường nước nhập khẩu sẽ tăng lên, trong
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khi đó các hàng hóa được sản xuất trong nước do không phải chịu thuế nhập
khẩu nên giá thành sản phẩm của loại hàng hóa này có xu hướng rẻ hơn và do đó
có sức cạnh tranh cao hơn so với hàng ngoại nhập. Điều này cho thấy việc đánh
thuế nhập khẩu thực chất là một biện pháp để bảo hộ nền sản xuất trong nước,

khi Chính phủ nhận thấy những bất lợi nghiêng về phía các hàng hóa được sản
xuất từ các doanh nghiệp trong nước. Đối với nước ta có một số ngành công
nghiệp non trẻ cần được đầu tư, về lâu dài nó có khả năng sinh lợi và phát triển
cần được sự bảo hộ trong khoảng thời gian nhất định. Nhà nước cần có chính
sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho nó phát triển đồng thời có chính
sách thuế quan có tính bảo hộ hợp lý ngành sản xuất trong nước đó theo tinh
thần bảo hộ có chọn lọc – có điều kiện và có thời hạn, phù hợp với tiến trình hội
nhập quốc tế.
Ngoài ra, thuế nhập khẩu còn là cơ sở cho việc đàm phán trong thương
mại quốc tế. Đối với những nước kinh tế phát triển thuế nhập khẩu còn mục tiêu
chính trị: áp dụng chính sách thuế quan ưu đãi với một số quốc gia thân thiện
hoặc sử dụng nó như biện pháp trả đũa trong chính sách đối ngoại hoặc gây sức
ép chính trị với quốc gia khác ;
2. Khái quát chung về pháp luật thuế nhập khẩu
2.1. Khái niệm pháp luật thuế nhập khẩu
Pháp luật về thuế nhập khẩu là danh từ pháp lý dùng để chỉ tập hợp các
quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế,
hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lý các vi phạm, tranh chấp về thuế nhập khẩu,
phát sinh giữa Nhà nước với người nộp thuế.
Xét về phương diện hình thức, pháp luật về thuế nhập khẩu bao gồm các
văn bản quy phạm pháp luật như văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội, nghị
định và nghị quyết của Chính phủ, quyết định và chỉ thị của Thủ tướng Chính
phủ, quyết định, thông tư và chỉ thị của các bộ…Còn xét trên phương diện nội
dung, pháp luật về thuế nhập khẩu lại bao hàm các vấn đề chủ yếu như phạm vi
áp dụng (được thể hiện qua các quy định về chủ thể nộp thuế và đối tượng chịu
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thuế, đối tượng không chịu thuế nhập khẩu), căn cứ tính thuế nhập khẩu, chế độ
miễn giảm thuế nhập khẩu và hoàn thuế nhập khẩu, xử lý vi phạm và giải quyết

tranh chấp về thuế nhập khẩu…
Ngày nay, trong bối cảnh tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc
tế đang trở thành xu hướng toàn cầu thì việc hình thành, thực hiện các điều ước
quốc tế có liên quan đến thuế nhập khẩu là điều tất yếu. Do đó, nội hàm của khái
niệm thuế nhập khẩu không chỉ quy định trong pháp luật quốc gia mà còn bao
hàm cả quy định trong pháp luật quốc tế có liên quan trực tiếp đến thuế nhập
khẩu như Hiệp định CEPT(Common Effective Preferential Tarriff – Hiệp định
ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung), Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ,
Hiệp định WTO…Nguồn của pháp luật thuế nhập khẩu còn là các điều ước song
phương hoặc đa phương khác mà quốc gia tham gia hoặc ký kết. Những Hiệp
định này sau khi có hiệu lực sẽ được áp dụng trực tiếp ngay cho các quan hệ về
thuế nhập khẩu giữa Nhà nước và người nộp thuế hoặc được “nội luật hóa” tại
các nước thành viên hiệp định để áp dụng một cách hiệu quả.
Như vậy, nội hàm của khái niệm “pháp luật về thuế nhập khẩu” phải hiểu
theo nghĩa rộng, bao gồm không chỉ các quy định trong pháp luật quốc gia mà
còn bao gồm cả các quy định trong pháp luật quốc tế về thuế nhập khẩu
2
.
2.2. Những yếu tố chi phối pháp luật thuế nhập khẩu trong điều kiện hiện
nay ở Việt Nam
Trong điều kiện Việt Nam đang ở trong giai đoạn phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế theo xu
hướng chung của thế giới thì pháp luật thuế nhập khẩu bị chi phối bởi nhiều yếu
tố khác nhau, đặc biệt là bị chi phối của các quan hệ kinh tế. Trong rất nhiều yếu
tố chi phối đến pháp luật thuế nhập khẩu thì có một số yếu tố cơ bản sau :
Thứ nhất, chính sách phát triển kinh tế của nhà nước:
Chính sách kinh tế của một quốc gia là sự điều hành của nhà nước đối với
nền kinh tế của một quốc gia. Chính sách kinh tế thực chất thể hiện thái độ, quan
điểm của nhà nước đối với các quan hệ kinh tế và được thể hiện thông qua hệ
2

Giáo trình Luật thuế Việt Nam-Đại học Luật Hà Nội
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thống pháp luật. Pháp luật thuế nhập khẩu nằm trong hệ thống các chính sách
quản lý vĩ mô nền kinh tế của quốc gia nên khi hệ thống này có sự thay đổi thì
bản thân pháp luật thuế nhập khẩu cũng có sự thay đổi để phù hợp với toàn bộ
hệ thống. Điều này thể hiện rõ nhất khi có sự thay đổi trong chính sách kinh tế
đối ngoại.
Pháp luật thuế nhập khẩu thể hiện chính sách thương mại quốc tế của
quốc gia. Chính sách thương mại gồm hai dạng điển hình là chính sách tự do
hóa thương mại và chính sách bảo hộ mậu dịch. Hai xu hướng này tuy về mặt lý
thuyết chúng trái ngược nhau nhưng trên thực tế chúng lại tồn tại song song với
nhau. Chính sách tự do hóa thương mại nhằm thúc đẩy khả năng cạnh tranh bình
đẳng giữa hàng hóa trong nước với hàng ngoại nhập thông qua việc cắt giảm
thuế xuất khẩu hoặc các biện pháp khuyến khích khác để thúc đẩy xuất khẩu,
xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế nhập khẩu để hàng hóa nước ngoài tràn vào nhằm mở
rộng thị trường nội địa, đặc biệt là hàng hóa nước mình sản xuất với chi phí cao.
Đây là quá trình giảm bớt sự can thiệp mang tính chất bảo hộ của nhà nước vào
hoạt động thương mại, theo đó vai trò của nhà nước chỉ nên giới hạn ở việc tạo
ra môi trường phù hợp cho các quan hệ thương mại.Chính sách bảo hộ mậu dịch
lại bảo hộ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài
bằng cách áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu cao đối với một số mặt hàng nhập
khẩu. Pháp luật thuế nhập khẩu có chức năng đặc thù là bảo hộ nền sản xuất
trong nước, chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong
nước với hàng hóa nước ngoài. Nhưng trong điều kiện hộ nhập kinh tế quốc tế,
xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng trở thành xu hướng tất yếu trên thê
giới thì pháp luật thuế nhập khẩu cũng phải theo xu hướng giảm dần mức thuế
suất. Như vậy, pháp luật thuế nhập khẩu luôn bị ảnh hưởng của chính sách
thương mại quốc tế trong quá trình hội nhập.
Thứ hai, những yêu cầu và cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của các quốc gia, trong đó có
Việt Nam. Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001), Đảng ta nhận
định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển vá các tập đoàn kinh tế
tư bản xuyên quốc gia chi phối,chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực
vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”. Như vậy, các quốc gia
không thể đứng ngoài xu hướng toàn cầu hóa mà phải nắm bắt những cơ hội của
nó để đưa đất nước nhanh chóng hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc
tế thể hiện qua việc một quốc gia tham gia vào các tổ chức hay liên minh kinh tế
quốc tế giữa hai nước, trong khu vực hay trên thế giới. Sự tham gia đó được
chứng nhận thông qua việc quốc gia tiến hành ký kết các điều ước quốc tế song
phương hoặc đa phương và quốc gia đó phải tuân thủ những điều ước đó một
cách nghiêm túc ngay khi điều ước đó có hiệu lực.Để làm được điều này thì
quốc gia thành viên phải xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp với quy chế
của điều ước quốc tế đã ký kết. Luật thuế nhập khẩu là một trong hệ thống pháp
luật quốc gia, nó là loại thuế phản ánh rõ nhất tiến trình hội nhập của quốc gia
đó nên khi xây dựng hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu thì mỗi quốc gia phải
“nội luật hóa” các cam kết quốc tế về thuế nhập khẩu bằng cách bổ sung, ban
hành các quy định mới về thuế nhập khẩu hoặc sửa đổi những quy định cũ về
thuế nhập khẩu để phù hợp với các cam kết đó.
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ ngày
7/11/2006 và chính thức trở thành thành viên của WTO từ này 15/01/2007.
Trước khi gia nhập tổ chức này, Việt Nam đã tiến hành cải cách hệ thống pháp
luật (như Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi, bổ sung năm 2005 là một
ví dụ) để tương thích với các quy chế của WTO. Sau khi gia nhập WTO, Việt
Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật bổ sung, hướng dẫn thực hiện
các quy định pháp luật thời kỳ hậu WTO.Như vậy, những yêu cầu về hội nhập
kinh tế quốc tế và viêc thực hiện các cam kết thương mại quốc tế đã ảnh hưởng

rất lớn đến hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật thuế nhập khẩu.
Thứ ba, nhu cầu thu ngân sách của nhà nước
Ngân sách nhà nước được hình thành để Nhà nước thực hiện việc điều tiết
các hoạt động kinh tế xã hội, đồng thời tạo ra các hàng hóa, dịch vụ công cộng
phục vụ cho người dân. Thuế, trong đó có thuế nhập khẩu là nguồn thu chủ yếu
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của ngân sách nhà nước. Thuế nhập khẩu tuy có chức năng chính là bảo hộ nền
sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài nhưng đối với
Việt nam - một nước đang phát triển thì thuế nhập khẩu là một nguồn thu quan
trọng của ngân sách nhà nước. Những số liệu về tỷ trọng của số thu hải quan so
với tổng thu ngân sách nhà nước từ trong nhưng năm qua đã thể hiện rõ điều đó
(từ năm 2000 đến năm 2005 số thu hải quan luôn chiếm hơn 20% trong tổng thu
ngân sách nhà nước). Khi hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ký kết và thực
hiện các cam kết về thương mại quốc tế, trong đó có những cam kết cắt giảm
thuế nhập khẩu. Việc cắt giảm này cũng gây ra những tác động đến nguồn thu
ngân sách nhà nước. Khi thuế nhập khẩu bị cắt giảm, giá cả một số mặt hàng
như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu nhập khẩu từ nước ngoài cũng giảm theo.
Từ đó, những sản phẩm sản xuất trong nước cũng tăng lên về sản lượng và giảm
giá thành. Việc hàng hóa trong nước tăng về số lượng và giảm về giá thành sẽ
thúc đẩy nhu cầu mua sắm, tiêu dùng trong nước và làm tăng thu ngân sách nhà
nước từ các loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh
nghiệp…Mặt khác, khi Việt Nam thực hiện các cam kết thương mại quốc tế thì
những nước thành viên khác cũng phải cắt giảm thuế quan, điều này sẽ kích
thích các doanh nghiệp trong nước tăng lượng hàng xuất khẩu và từ đó sẽ tăng
thu ngân sách từ các hoạt động xuất khẩu đó. Như vậy, việc cắt giảm thuế nhập
khẩu sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước và tăng nguồn thu
ngân sách nhà nước. Tuy nhiên việc giảm thuế nhập khẩu cũng làm cho nguồn
hàng nhập khẩu trở nên dồi dào với giá thành thấp, từ đó đặt hàng hóa trong
nước vào tình thế phải cạnh tranh khốc liệt với hàng hóa ngoại nhập. Các doanh

nghiệp trong nước sẽ phải tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh, nâng cao
chất lượng đồng thời hạ giá thành sản phẩm nếu như không muốn bị loại ra khỏi
cuộc chơi. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu cũng làm giảm đi một một nguồn thu
khá quan trọng của ngân sách nhà nước và cũng giảm đi một phần thu từ các
loại thuế khác có liên quan đến nhập khẩu như thuế giá trị gia tăng hàng nhập
khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt…Như vậy, viêc cắt giảm thuế nhập khẩu vừa làm
giảm nguồn thu ngân sách nhà nước từ hàng nhập khẩu nhưng đồng thời lại làm
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tăng nguồn thu tương ứng cho ngân sách nhà nước từ các loại thuế khác. Số thu
ngân sách nhà nước sẽ không thay đổi nhiều nếu như Việt Nam thực hiện các
cam kết thương mại quốc tế.Tuy nhiên sẽ có sự thay đổi trong cơ cấu thu ngân
sách nhà nước. Vì vậy, khi tiến hành xây dựng chính sách pháp luật thuế nhập
khẩu thì phải tính đến nhu cầu thu ngân sách nhà nước để bảo đảm cho ngân
sách quốc gia có được nguồn thu ổn định lành mạnh.
Thứ tư, thực trạng kinh tế -xã hội của quốc gia
Pháp luật bao giờ cũng là sự phản ánh dưới hình thức pháp lý các quan hệ
xã hội, một sự phản ánh lệ thuộc vào những biến đổi xã hội. Để phát huy được
vai trò, tác dụng của mình trong đời sống xã hội, pháp luật luôn phản ánh đúng,
đầy đủ hiện thực khách quan, những tiến trình đang diễn ra trong cuộc sống xã
hội. Nếu không có những khảo sát, đánh giá từ thực tiễn cuộc sống thì không thể
có cơ sở khoa học và thực tiễn xác đáng để xây dựng và thực hiện pháp luật,
không phát huy được vai trò của nó trong cuộc sống.
Đối với pháp luật thuế nhập khẩu có mục tiêu quan trọng là công cụ
khuyến khích hộ trợ bảo vệ nền sản xuất trong nước việc ban hành sửa đổi, bổ
sung bộ phận pháp luật này cần thiết căn cứ thực trạng phát triển của nền sản
xuất trong nước, sức cạnh tranh của hàng hoá nước mình trên thị trường quốc tế.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế các quốc gia phải cam kết
giảm thuế quan theo lộ trình nhất định. Vì vậy mỗi quốc gia cần phải nghiên cứu
đánh giá những lợi thế so sánh trong từng ngành hàng cụ thể để xác định những

ngành hàng sản xuất nào cần được bảo hộ, mức độ bảo hộ và thời hạn bảo hộ…
Đối với hàng hoá có uy tín trên trường quốc tế có khả năng cạnh tranh cao thì
không cần sự bảo hộ mà lấy đó làm cơ sở cho việc đàm phán về thuế quan với
các quốc gia khác...Qua đó có những cơ sở cho việc đàm phán thương mại và
quy định mức thuế đối với từng nhóm hàng hoá nhập khẩu trong pháp luật thuế
nhập khẩu của mình. Từ thực trạng hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá để phát
hiện ra hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế và tác
động cụ thể của nó đối với nền kinh tế quốc gia mình để từ đó ban hành sửa đổi,
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bổ sung các quy định của pháp luật thuế nhập khẩu nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia
mình trong khuôn khổ cho phép.
Ngoài những yếu tố trên, pháp luật thuế nhập khẩu còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác như ý chí chủ quan của nhà lập pháp, trình độ chuyên môn, ý
thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu hay
trình độ nhận thức của người dân…
3. Những nguyên tắc và quy định của WTO về thuế quan và những vấn đề
có liên quan đến thuế quan
WTO là một tổ chức lớn, gồm nhiều thành viên với hệ thống luật lệ khá
rộng và phức tạp. Trong các quy định về thuế quan ngoài hiệp định chung về
thuế quan và thương mại (GATT 1994) còn rất nhiều hiệp định cụ thể hoá các
điều trong GATT 1994 có liên quan đến thuế quan. Nhìn chung, mục tiêu của
các hiệp định trong WTO đều hướng tới mục tiêu tự do hoá thương mại cạnh
tranh công bằng, bình đẳng trong thương mại…
- Tự do hoá thương mại là việc dỡ bỏ những rào cản do các nước lập nên
nhằm làm cho luồng hàng hoá di chuyển từ nước này sang nước khác được
thuận lợi hơn trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng. Những hàng rào nói trên là thuế
quan, giấy phép nhập khẩu, quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, yêu cầu
kiểm dịch, phương pháp đánh thuế …Các hàng rào nói trên đều là những đối
tượng của các hiệp định mà WTO đang giám sát và thực thi. Trên cơ sở lý

thuyết lợi thế so sánh, lợi ích lớn nhất của tự do hoá thương mại là thúc đẩy
ngày càng nhiều nước tham gia buôn bán trao đổi hàng hoá từ đó thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Với người tiêu dùng hàng hoá lưu thông dễ dàng hơn đem lại lợi
ích cho họ cơ hội lựa chọn hàng hoá tốt hơn với giá rẻ hơn. Tuy nhiên không
phải ngẫu nhiên mà các nước lại dựng lên những hàng rào làm ảnh hưởng đến sự
lưu thông hàng hoá. Lý do để các nước làm việc này là nhằm bảo hộ sản xuất
trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hoá bên ngoài. (Điều này có ý nghĩa
lớn vì sản xuất trong nước suy giảm sẽ ảnh hưởng đến công ăn việc làm, ảnh
hưởng đến ổn định xã hội), tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước (thông qua
thu thuế quan); tiết giảm ngoại tệ (chi mua hàng hoá nhập khẩu); bảo vệ sức
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khoẻ cho con người và động thực vật khỏi những hàng hoá kém chất lượng hay
có nguy cơ bệnh tật…Tự do hoá thương mại ở những mức độ khác nhau sẽ làm
yếu đi hoặc mất dần các hàng rào nói trên và như thế sẽ làm ảnh hưởng đến mục
đích đặt ra khi thiết lập hàng rào.
3.1. Các nguyên tắc chung về thuế quan và thương mại
Trong hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) có đặt ra bốn
nguyên tắc nền tảng, cụ thể gồm:
Thứ nhất, Chỉ được phép bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quan,
không cho phép hạn chế định lượng trừ những trường hợp đặc biệt.
Mặc dù GATT chủ trương về một nền thương mại tự do toàn cầu, nhưng
GATT cũng công nhận rằng do trình độ phát triển của các nước còn khác nhau
và mỗi nước cũng có những mục tiêu riêng cần theo đuổi nên GATT cho phép
các nước duy trì bảo hộ chống lại sự cạnh tranh của nước ngoài. Sự bảo hộ này
được phép duy trì với hai điều kiện: ở mức độ hợp lý và thể hiện thông qua thuế
quan.
Bảo hộ ở đây có nghĩa là bảo vệ hỗ trợ cho sản xuất trong nước thông qua
thuế quan và hàng rào phi thuế quan. (Hàng rào phi thuế quan là những biện
pháp phi thuế quan mang tính cản trở đối với thương mại mà không dựa trên cơ

sở pháp lý, khoa học hoặc bình đẳng như hạn ngạch, cấm nhập khẩu, giấy phép
nhập khẩu, quyền kinh doanh nhập khẩu, yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng hàng
hoá, kiểm dịch, phương pháp xác định trị giá tính thuế hải quan; quy định về
xuất xứ hàng hoá…). Bảo hộ hợp lý sẽ giúp cho nền sản xuất trong nước có điều
kiện vươn lên thích nghi dần với môi trường cạnh tranh quốc tế. Nhưng nếu bảo
hộ tràn lan không có điều kiện, không có thời hạn thì sẽ đem lại hiệu quả xấu
cho nền kinh tế vì nó làm suy yếu môi trường cạnh tranh, dẫn đến doanh nghiệp
ỷ lại vào bảo hộ của nhà nước mà không chịu sự vận động trên thị trường bằng
chính năng lực của mình.
Việc bảo hộ thông qua thuế quan để bảo đảm tính minh bạch và dễ đoán
trước. Thuế quan thể hiện bằng đại lượng rõ ràng là những con số, do đó người
ta dễ dàng nhận thấy mức độ bảo hộ dành cho một mặt hàng, ngành hàng .Thuế
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quan cao tức mức bảo hộ cao vì như vậy hàng hoá tương tự của nước ngoài khó
xâm nhập thị trường. Thông qua đàm phán và lịch trình giảm thuế quan của một
nước, người ta cũng sẽ dễ dàng hơn trong việc dự đoán tốc độ cắt giảm thuế
quan, đồng nghĩa với những thay đổi trong mức độ bảo hộ và mức độ mở cửa thị
trường. Chính vì thế thuế quan chiếm vị trí quan trong trong đàm phán thương
mại. Sở dĩ như vậy vì mục tiêu của đàm phán thương mại là nhằm gỡ bỏ rào cản
đối với lưu thông hàng hoá giữa các nước mà thuế quan là rào cản quan trọng
nhất.
Chỉ bảo hộ bằng thuế quan hay nói cách khác phải thuế quan hoá tức là sự
lượng hoá tác dụng bảo hộ của các biện pháp phi thuế quan. WTO cho phép các
nước thành viên WTO được nâng mức thuế suất thuế quan lên để bù lại việc bỏ
bảo hộ bằng các biện pháp phi thuế quan.
Hạn chế định lượng: thể hiện dưới các hình thức cụ thể như hạn ngạch,
cấm, giấy phép, chỉ tiêu… là những biện pháp phi thuế quan điển hình gây cản
trở luồng di chuyển tự do của hàng hoá giữa các nước. Đây thường là những
biện pháp võ đoán ít dựa trên những căn cứ khoa học mà chủ yếu nhằm bảo hộ

sản xuất trong nước. WTO coi những biện pháp này làm hạn chế rõ rệt tác dụng
của tự do thương mại, đồng thời lại không thể tính toán, dự đoán được trước nên
yêu cầu xoá bỏ chúng. Thay vào đó nhu cầu bảo hộ nếu có sẽ phải thể hiện
thành thuế quan.
Các biện pháp tương tự thuế quan: Là từ chỉ các loại phí, lệ phí hoặc phụ
thu áp dụng đối với hàng nhập khẩu cao quá mức cần thiết do đó làm tăng chi
phí nhập khẩu. Các biện pháp này đòi hỏi người nhập khẩu nộp một khoản tiền
nhất định nhưng đây lại không phải là tiền trả cho thuế nhập khẩu. Vì thế chúng
được gọi là tương tự thuế quan. Các biện pháp này cũng có tác dụng bảo hộ nhất
định nên đôi khi cũng được coi là một hàng rào phi thuế quan và bị yêu cầu loại
bỏ.
Thứ hai, Thuế quan phải giảm dần và bị ràng buộc không tăng trở lại.
Ngay sau khi kết thúc đàm phán, các nước phải giảm thuế quan nhưng
không phải giảm ngay mức đã thoả thuận trong vòng đàm phán mà việc giảm
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thuế quan thường diễn ra từ từ qua một số năm để các ngành sản xuất trong
nước có thể thích nghi dần với việc giảm bảo hộ qua thuế quan. Các mặt hàng
công nghiệp thường giảm thuế quan trong thời hạn 5 năm với mức giảm bằng
nhau cho mỗi năm. Các mặt hàng nông sản thường được giảm thuế quan trong 6
năm.
Sau mỗi vòng đàm phán, thuế suất mà các nước thoả thuận với nhau được
ghi vào một bản gọi là danh mục thuế quan. Mỗi nước có một bản danh mục
riêng. Thuế suất ghi trong bản danh mục này được gọi là thuế suất ràng buộc tức
là sau này nước đó sẽ không được phép tăng thuế suất cao hơn mức thuế suất đã
ghi trong danh mục. Như vậy nếu đã đưa ra danh mục thuế quan là mặt hàng đó
đã bị ràng buộc, những mặt hàng không đưa vào danh mục thuế quan thì được tự
do tăng mức thuế suất.
Thuế suất trần là một sự nới rộng của thuế suất ràng buộc. Thông thường
sau khi đàm phán, các nước phải áp dụng thuế suất đã đạt được tại đàm phán và

không tăng lên quá mức này. Nhưng đối với một mặt hàng nào đó, nước đàm
phán có thể đưa ra một mức thuế cao hơn mức thuế đang áp dụng gọi là mức
thuế suất trần. Sau này, nước đó có thể tăng thuế quan lên đến mức thấp hơn
hoặc bằng thuế thuế suất trần mà không bị coi là vi phạm GATT. Trong trường
hợp này, thuế quan bị ràng buộc không phải ở mức thuế đang áp dụng mà là
mức thuế suất trần. Như vậy thuế suất trần có tác dụng như là một sợi dây bảo
hiểm cho quá trình giảm thuế quan.
Về nguyên tắc sau khi đã ràng buộc thuế quan thì sẽ không được tăng thuế
suất quá mức ràng buộc. Tuy nhiên có ngoại lệ, nếu một nước thực sự muốn
tăng mức độ bảo hộ với một mặt hàng nào đó đã trót cam kết ràng buộc ở mức
thuế suất thấp, nước đó cần phải đàm phán với các nước cung cấp chủ yếu mặt
hàng đó để được phép tăng thuế suất cao hơn thuế suất ràng buộc (hoặc cao hơn
thuế suất trần nếu mặt hàng đó có chỉ định thuế suất trần). Thông thường, nước
đó phải đánh đổi bằng cách chịu nhượng bộ ở một mặt hàng khác. Còn trong
trường hợp khẩn cấp, khi lượng hàng nhập khẩu tăng đột biến đe doạ đến sản
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
xuất trong nước thì nước có thể tăng thuế quan quá mức ràng buộc, nhưng chỉ
sau một quá trình điều tra khách quan và đủ căn cứ.
Danh mục thuế quan: đó là tập hợp tất cả các cam kết thuế quan và những
ưu đãi khác của một nước thành viên WTO sau các vòng đàm phán thương mại.
Theo điều II của GATT danh mục thuế quan là những cam kết ràng buộc có tính
pháp lý.
Danh mục thuế quan bao gồm mã số, mô tả hàng hoá, thuế suất ràng
buộc, ngày đạt được thoả thuận ưu đãi và quyền đàm phán ban đầu.
Các danh mục thuế quan của vòng đàm phán Uruguay chia làm hai phần:
nông nghiệp và phi nông nghiệp. Cả hai phần đều có thuế suất cơ sở và thuế suất
ràng buộc, quyền đàm phán ban đầu, các loại thuế và phí khác. Ngoài ra trong
phần nông nghiệp còn nêu thời gian thực hiện và biện pháp tự vệ đặc biệt.
Thứ ba, nguyên tắc không phân biệt đối xử bao gồm cả đối xử tối huệ quốc

và đối xử quốc gia.
Tối huệ quốc có nghĩa là việc dành cho một nước những ưu đãi thương
mại không kém hơn những ưu đãi dành cho một nước thứ ba. (Điều I, GATT)
Đãi ngộ quốc gia là việc dành cho hàng hoá nước ngoài sau khi trả thuế
hải quan , những ưu đãi không kém thuận lợi hơn hàng hoá sản xuất trong nước
cùng loại. Quy chế này thể hiện sự đói xử công bằng hàng hoá nhập khẩu và
hàng hoá nội địa , tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các nguồn hàng hoá
này.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử lúc đầu chỉ áp dụng cho hàng hoá và
thương nhân, về sau này mở rộng ra áp dụng cho cả dịch vụ, vốn đầu tư, nhà đầu
tư…
Các nước trong ASEAN dành cho nhau thuế suất thấp hơn với thuế suất
đánh vào hàng hoá của các nước ngoài ASEAN thì có phải là một sự vi phạm
nguyên tắc tối huệ quốc không? Đây không phải là một sự vi phạm mà là một
trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc tối huệ quốc (Điều XXIV của GATT). WTO
công nhận các nước thuộc một thoả thuận khu vực có thể dành cho nhau những
ưu đãi lớn hơn so với ưu đãi dành cho các nước thành viên WTO nằm ngoài sự
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thoả thuận khu vực đó. Như vậy các nước ASEAN có thể dành cho nhau không
chỉ thuế suất ưu đãi thấp hơn mà còn có thể là tiêu chuẩn kỹ thuật ít ngặt nghèo
hơn.
Hàng hoá xuất nhập khẩu tiểu ngạch không phải chịu các quy định của
GATT. Điều này có nghĩa là hai nước có chung biên giới có thể áp dụng những
ưu đãi đặc biệt như bỏ thuế quan, giảm bớt thủ tục hải quan cho các hàng hoá
buôn bán theo phương thức này mà không sợ vi phạm nguyên tắc đãi ngộ tối
huệ quốc. Tuy nhiên hàng hoá xuất nhập khẩu tiểu ngạch vẫn có thể bị điều
chỉnh bởi các hiệp định khác của WTO như các điều kiện về kiểm dịch động,
thực vật, chống bán phá giá và tự vệ.
3.2. Các quy định về xác định trị giá hải quan

Xác định trị giá để tính thuế hải quan là một vấn đề dễ gây mâu thuẫn
giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Cơ quan hải quan thay mặt nhà nước luôn
muốn thu được nhiều tiền thuế cho ngân sách. Trong khi đó các doanh nghiệp
luôn muốn phải trả tiền thuế ở mức thấp nhất để khỏi tăng chi phí cho sản phẩm
nhập khẩu. Chính mâu thuẫn này đã trở thành một chướng ngại cho lưu thông
hàng hoá quốc tế.
Mâu thuẫn thường phát sinh khi xác định tên gọi của hàng hoá nhập khẩu
mà chuyên môn gọi là áp mã. Trong trường hợp có những hàng hoá gần tương
tự nhau nhưng mức thuế suất khác nhau, thì Hải quan thường muốn chọn dòng
thuế có mức thuế suất cao, trong khi đó doanh nghiệp luôn muốn chọn dòng
thuế có thuế suất thấp.
Việc xác định hàng hoá có tên gọi tương ứng với dòng thuế nào đôi khi là
công việc vô cùng phức tạp, phải căn cứ vào thành phần, cấu tạo, hàm lượng,
chất lượng công dụng của hàng hoá. Trường hợp khó khăn phải nhờ đến cơ quan
giám định mới có thể xác định tên gọi của hàng hoá.
Có hai phương pháp đánh thuế đối với hàng nhập khẩu là:
- Đánh thuế theo tỷ lệ % giá trị hàng hoá hay còn gọi là thuế theo giá trị
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Đánh thuế theo đơn vị đo lường (khối lượng, thể tích, dung tích) gọi là
thuế tuyệt đối. Ví dụ 8.500 USD/ 1 xe ô tô cũ nhập khẩu (không kể đến giá trị
của hàng hoá).
Ngoài ra còn phương pháp thứ ba chính là sự kết hợp của hai phương
pháp trên (thuế gộp) như thuế suất 30% + 8.500 USD/ Xe ô tô cũ nhập khẩu loại
từ 16- dưới 24 chỗ ngồi.
Ngày nay hầu hết các nước đều sử dụng phương pháp đánh thuế % hay
cho phương pháp đánh thuế theo giá trị vì lý do:
Một là, đảm bảo được sự công bằng, trị giá hàng nhập khẩu càng nhiều thì
thuế phải trả càng lớn;
Hai là, dễ tính toán - Tổng số hàng hoá nhập khẩu có thể đo bằng nhiều

đơn vị khác nhau nhưng đều có thể quy về một đơn vị chung là giá trị, do đó dễ
dàng so sánh thuế suất, số tiền thuế thu được;
Ba là, dễ thương lượng cắt giảm trong đàm phán thương mại.
Hiệp định trị giá hải quan WTO (gọi tắt là ACV) không yêu cầu các nước
thành viên áp dụng phương pháp đánh thuế theo giá trị mà chỉ đề ra phương
pháp để xác định trị giá hàng hoá bị đánh thuế.
ACV quy định về phương pháp xác định trị giá hàng hoá bị đánh thuế vì
số thuế quan phải trả bằng thuế suất nhân với giá trị của hàng hoá. Như vậy số
thuế quan phải trả phụ thuộc vào sự biến thiên của hai yếu tố trên. Trong khi
thuế suất đã công bố rõ ràng và ít thay đổi thì giá trị hàng hoá lại có thể khác
nhau do biến động giá trên thị trường và đặc biệt là căn cứ vào đâu để xác định.
Nếu giá trị hàng hoá tính cao hơn giá trị thực tế thì số thuế quan phải nộp tăng
lên, tức là hàng hoá khó xâm nhập vào thị trường nội địa hơn. Như vậy ý nghĩa
của việc đàm phán cắt giảm thuế quan sẽ không còn nữa . Vì vậy cần phải có
quy định về phương pháp xác định giá trị hàng hoá để tính thuế quan. Đó chính
là mục đích của hiệp định ACV (Hiệp định thực hiện điều VII của GATT 1994).
Hiệp định ACV yêu cầu cơ quan hải quan xác định trị giá hàng hoá bị
đánh thuế trên cơ sở giá ghi trên hợp đồng, hoá đơn (gọi là trị giá giao dịch). Trị
giá giao dịch không phải chỉ gồm giá ghi trên hợp đồng mà còn có thể bao gồm
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
một số chi phí khác: tiền hoa hồng, môi giới, tiền đóng gói, lệ phí giấy phép,
cước phí vận chuyển và bảo hiểm. ACV không cho phép tính các loại chi phí
sau vào giá trị giao dịch: cước vận tải nội địa sau khi nhập khẩu, chi phí lắp ráp,
duy tu bảo hành sau khi nhập khẩu các loại thuế trả sau khi nhập khẩu.
Nếu thương nhân cố tình khai giá hàng hoá thấp xuống để giảm số thuế
phải nộp (gian lận thương mại). Đây là khó khăn lớn khi áp dụng ACV. ACV
cho phép hải quan từ chối chấp nhập giá hàng hoá do thương nhân khai khi có lý
do để nghi ngờ tính trung thực, đúng đắn của các chi tiết hoặc chứng từ do
thương nhân xuất trình trong một số trường hợp sau đây:

- Khi việc mua bán không thực sự diễn ra;
- Khi giá hàng hoá bị hạ thấp do mối quan hệ giữa người mua và người
bán;
- Khi hợp đồng mua bán đặt ra một số điều kiện hạn chế việc sử dụng
hàng hoá.
Nếu thương nhân không đồng ý với lý do mà hải quan đưa ra để bác bỏ trị
giá giao dịch của họ thì thương nhân có quyền giải thích, chứng minh về tính
trung thực, tính chính xác của giao dịch do mình khai báo. Nếu cơ quan hải
quan vẫn chưa bằng lòng với việc giải thích, chứng minh thì thương nhân có
quyền yêu cầu cơ quan hải quan cho biết lý do bằng văn bản để thương nhân có
thể khiếu nại lên cấp cao hơn hoặc đến trọng tài, thanh tra.
Trường hợp Hải quan bác bỏ trị giá giao dịch do thương nhân khai và
thương nhân không muốn giải thích chứng minh thì ACV có đưa ra 5 phương
pháp mang tính trung lập, khách quan để xác định giá trị giao dịch. Các phương
pháp này xếp theo thứ tự ưu tiên và chỉ khi nào không thể áp dụng phương pháp
ưu tiên cao hơn thì mới sử dụng đến phương pháp tiếp theo. Bảng giá tối thiểu
không áp dụng nữa.
Năm phương pháp xác định trị giá giao dịch xếp theo thứ tự ưu tiên là:
- Xác định theo trị giá giao dịch của hàng hoá giống hệt .
- Xác định theo trị giá giao dịch của hàng hoá tương tự;
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Khấu trừ: Trị giá giao dịch xác định bằng cách lấy giá bán của hàng hoá
giống hệt hoặc tương tự trên thị trường nước nhập khẩu trừ đi các yếu tố như
thuế, chi phí vận chuyển bảo hiểm, lãi.
- Cộng dồn: trị giá giao dịch xác định bằng cách cộng dồn chi phí sản xuất
hàng hoá với một khoản chi phí và lãi ở mức phổ biến đối với loại hàng hoá đó.
- Suy luận: là sự áp dụng của bốn phương pháp trên một cách linh hoạt
tức là chỉ ước lượng ở mức tương đối.
3.3. Các quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng

Trợ cấp là việc chính phủ dành cho doanh nghiệp những lợi ích mà trong
điều kiện bình thường doanh nghiệp không thể có. Những lợi ích đó có thể phát
sinh từ việc Chính phủ trực tiếp cung cấp tiền (cho không, cho vay với điều kiện
ưu đãi cấp thêm vốn ); chính phủ bảo lãnh trả các khoản vay; Chính phủ hoãn
các khoản thuế phải thu ; Chính phủ cung cấp hoặc mua hàng hoá , dịch vụ với
giá cả thuận lợi cho doanh nghiệp…
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM) không
bắt buộc các nước phải bỏ tất cả các khoản trợ cấp mà chỉ cấm hoặc hạn chế
những loại trợ cấp gây tác động tiêu cực đến thương mại của nước khác.
Tuy nhiên WTO cũng có sự phân loại trợ cấp thành 3 loại là :
- Trợ cấp bị cấm sử dụng (trợ cấp đỏ) gồm các hình thức trợ cấp xuất
khẩu, trợ cấp để sử dụng hàng trong nước thay thế cho hàng nhập khẩu.Ngoài
việc Chính phủ trực tiếp cấp tiền cho doanh nghiệp để giúp xuất khẩu, những
hoạt động sau cũng thuộc phạm vi trợ cấp xuất khẩu:
+ Cung cấp nguyên liệu đã được hưởng trợ cấp để sản xuất hàng xuất
khẩu;
+ Miễn thuế trực thu ví dụ như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp có được
do xuất khẩu;
+ Hoàn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu sản xuất ra hàng xuất khẩu
quá mức đã sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu;
+ Hoàn thuế quá mức đánh được khấu trừ đối với hàng xuất khẩu;
+ Cho vay tín dụng xuất khẩu với lãi suất thấp hơn chi phí;
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Trợ cấp được phép sử dụng nhưng có thể bị kiện (trợ cấp vàng): là
những loại trợ cấp mang tính đặc trưng, không phổ biến. Đối tượng nhận những
trợ cấp này chỉ giới hạn trong một hoặc một số doanh nghiệp hoặc một một số
ngành sản xuất hoặc một khu vực địa lý nhất định. Việc sử dụng loại trợ cấp này
chỉ được dừng ở mức độ không gây tác động tiêu cực đến quyền lợi của các
nước khác, nếu không thì nước sử dụng trợ cấp này có thể bị các nước liên quan

áp dụng các biện pháp như thuế đối kháng hoặc kiện ra cơ quan giải quyết tranh
chấp của WTO.
Tác động tiêu cực được coi là xuất hiện khi :
+ Hàng nhập khẩu được trợ cấp gây tổn hại cho sản xuất trong nước của
nước nhập khẩu: sản lượng hàng hoá sản xuất trong nước bị giảm đáng kể, số
người thất nghiệp trong ngành này tăng;
+ Làm mất giá trị các ưu đãi thuế quan đã đạt được. Trong đàm phán
thương mại, nước xuất khẩu và nước nhập khẩu đã đạt được sự cân bằng nhất
định về thuế quan, nay do hàng được trợ cấp tràn vào nên sự cân bằng không
còn nữa.
+ Có khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi của các nước khác:
khi tổng trị giá trợ cấp vượt quá 5% giá hàng; bù lỗ, xoá nợ…
- Trợ cấp được phép tự do sử dụng (trợ cấp xanh): là trợ cấp mang tính
phổ cập, không phân biệt giữa các ngành hay doanh nghiệp và dựa trên những
tiêu chí khách quan, hoặc dạng trợ cấp không tính phổ cập nhưng được tự do sử
dụng như trợ cấp cho công tác nghiên cứu của doanh nghiệp hoặc để hỗ trợ đáp
ứng các tiêu chuẩn môi trường hoặc để phát triển sản xuất ở các vùng lạc hậu
hoặc trợ cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nước nhập khẩu không được tự do áp dụng thuế đối kháng khi có dấu
hiệu hàng nhập khẩu được trợ cấp. Mà khi có dấu hiệu trợ cấp, nước nhập khẩu
phải tiến hành điều tra theo một quy trình nêu trong hiệp định SCM và khi cơ
quan điều tra đưa ra kết luận khoa học, khách quan về sự tồn tại của trợ cấp thì
nước nhập khẩu mới được áp dụng thuế đối kháng.
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cơ quan điều tra của nước nhập khẩu do chính phủ nước này thành lập
hoặc chỉ định. Khi áp dụng thuế đối kháng không có mức cố định mà thuế suất
này tuỳ thuộc vào mức độ tổn hại đối với sản xuất trong nước của nước nhập
khẩu. Kết quả điều tra cho thấy nếu giá trị trợ cấp nhỏ hơn 1% của giá trị hàng
hoá được trợ cấp hoặc lượng hàng hoá được trợ cấp không đáng kể thì chấm dứt

điều tra hoặc bác đơn khiếu lại (điều khoản tối thiểu)
3.4.Các quy định về phá giá và thuế chống bán phá giá
Phá giá là hành động của bản thân doanh nghiệp. Việc bán sản phẩm,
hàng hoá dưới mức giá thành chỉ có thể thực hiện dựa trên tiềm lực tài chính của
chính doanh nghiệp đó. Nếu không thì họ sẽ bị phá sản. Cũng giống như trợ cấp,
bán phá giá là việc doanh nghiệp bán sản phẩm với giá thấp đều là hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Nhưng trong trợ cấp doanh nghiệp chỉ có thể bán hàng
với giá thấp khi có trợ cấp từ chính phủ.
Trong trường hợp cần đánh thuế chống bán phá giá thì cũng cần điều điều
tra tương tự như khi áp dụng thuế đối kháng. Để có thể áp dụng thuế chống bán
phá giá thì trước hết phải có đơn khiếu nại về tình trạng hàng hoá nhập khẩu bán
phá giá, trên cơ sở đó chính phủ nước nhập khẩu mới được tiến hành điều tra.
kết quả điều tra phải cho thấy rõ:
- Số lượng nhập khẩu mặt hàng bị coi là bán phá giá hoặc trợ cấp tăng lên
đáng kể xét về trị tuyệt đối hoặc tương đối.
- Giá của mặt hàng nhập khẩu thấp hơn mặt hàng tương tự sản xuất trong
nước, kéo giá xuống hoặc làm cho giá mặt hàng tương tự không thể tăng lên.
- Và do đó gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại đến ngành sản xuất tương
ứng của nước nhập khẩu.
Chủ thể đứng ra khiếu nại về tình trạng hàng nhập khẩu phá giá hoặc có
trợ cấp là Bộ quản lý ngành hàng, hoặc đại diện một nhóm các nhà sản xuất có
sản lượng đáng kể của mặt hàng đó. Khi doanh nghiệp đứng ra khiếu nại thì phải
tập hợp được hơn 50% số đơn vị sản xuất trong ngành ủng hộ và sản lượng của
các đơn vị này phải chiếm ít nhất 25% sản lượng toàn ngành.
25

×