Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nâng cao hiệu quả xét xử hành chính ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.46 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ KIỀU MY

NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ KIỀU MY

NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và hành chính
Mã số: 60380102


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Quang

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn này là do
chính bản thân tôi thực hiện, được xuất phát từ nhu cầu học tập và
nghiên cứu của bản thân và được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
PGS. TS. Nguyễn Văn Quang. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự
giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông
tin trích dẫn trong luận văn là trung thực và đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 5 tháng 9 năm 2016
Tác giả luận văn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Hành vi hành chính

HVHC

Quyết định hành chính

QĐHC

Thi hành án dân sự

THADS


Tố tụng hành chính

TTHC

Tòa án nhân dân

TAND

Ủy ban nhân dân

UBND


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Tình hình nghiên cứu
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
6
7. Kết cấu của luận văn
6

Chương 1
7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH VÀ HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH
7
1.1. Xét xử hành chính - khái niệm và đặc điểm
7
1.1.1. Tranh chấp hành chính
7
1.1.2. Khái niệm xét xử hành chính
9
1.1.3. Đặc điểm xét xử hành chính
10
1.2. Vai trò của xét xử hành chính
13
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động xét xử hành chính
16
1.3.1. Hệ thống văn bản pháp luật là cơ sở của xét xử hành chính
16
1.3.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan xét xử hành chính
17
1.3.3. Trình độ của đội ngũ thẩm phán làm công tác xét xử cũng như đội ngũ
những người tiến hành tố tụng khác
18
1.3.4. Ý thức pháp luật của tổ chức, cá nhân với tư cách là những người tham
gia tố tụng hành chính
19
1.3.5. Cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho hoạt động xét xử hành chính
20
1.3.6. Hiệu quả hoạt động thi hành án hành chính

20
1.4. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử hành
chính
21
Chương 2
25
PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH VÀ THỰC TRẠNG XÉT XỬ
HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
25
2.1. Một số nội dung cơ bản của pháp luật về xét xử hành chính ở nước ta
25
2.1.1. Đối tượng xét xử hành chính
25
2.1.2. Thẩm quyền xét xử hành chính
42
2.1.3. Một số vấn đề thủ tục tố tụng hành chính
46
2.1.4. Vấn đề thi hành án hành chính
52
2.2. Thực trạng công tác xét xử hành chính
54
2.3. Những vướng mắc nổi bật trong áp dụng pháp luật khi xét xử hành chính 58
2.3.1. Xác định đối tượng khởi kiện
58
2.3.2. Xác định thẩm quyền
62
2.3.3. Về xác định thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính
64
2.4. Một số vướng mắc, bất cập khác trong xét xử hành chính
66

2.4.1. Vướng mắc, bất cập trong áp dụng pháp luật khi có xung đột
66
2.4.2. Sự tham gia của Hội thẩm nhân dân
67


2.4.3. Vấn đề thi hành án hành chính
68
Chương 3
71
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH Ở
NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
71
3.1. Hoàn thiện pháp luật về tố tụng hành chính: một số vấn đề cần tiếp tục bàn
luận
71
3.2. Đảm bảo tính độc lập trong xét xử hành chính của Tòa án
76
3.3. Một số giải pháp khác
77
KẾT LUẬN
79


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuối của thập niên 1990, trước nhu cầu bức thiết đòi hỏi phải có một cơ
quan tài phán hành chính độc lập làm nhiệm vụ xét xử, giải quyết các khiếu kiện
hành chính, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, ngày 28/10/1995,
Quốc hội nước ta đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tổ

chức TAND trong đó chính thức trao thẩm quyền xét xử hành chính cho hệ
thống TAND kể từ ngày 01/7/1996.
Việc xét xử hành chính của TAND ở nước ta trong 20 năm qua đã đóng
góp tích cực vào công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách tư pháp,
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo pháp chế xã hội. Không thể
phủ nhận vai trò quan trọng của xét xử hành chính trong việc giải quyết các
tranh chấp hành chính của người dân với các cơ quan công quyền trong những
năm qua. Dù vậy, trong thực tiễn, xét xử hành chính vẫn còn bộc lộ nhiều điểm
hạn chế. So với thời điểm trước khi Luật TTHC năm 2010 có hiệu lực thi hành,
xét xử án hành chính đã có bước tiến đáng kể, tuy nhiên hoạt động này vẫn còn
hạn chế cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Tỷ lệ án hành chính sơ thẩm, án hành
chính phúc thẩm bị hủy, sửa còn khá cao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những
hạn chế này, trong đó nổi bật phải kể đến những bất cập, hạn chế của do hệ
thống pháp luật (bao gồm cả pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng) gây ra
nhiều khó khăn, vướng mắc cho việc áp dụng trong hoạt động xét xử; những hạn
chế về thiết chế tổ chức của hệ thống xét xử hành chính, năng lực, trình độ của
đội ngũ của cán bộ làm công tác xét xử hành chính còn nhiều hạn chế,....
Để nâng cao hiệu quả xét xử hành chính làm cho phương thức này thực sự
trở thành trở thành công cụ hữu hiệu trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người dân, tổ chức trong quản lý hành chính nhà nước còn nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn có liên quan cần được tiếp tục bàn luận. Cải cách hành chính
quốc gia, cải cách nền tư pháp, hoàn thiện pháp luật là những nội dung quan
trọng trong quá trình hoàn thiện Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong bối cảnh đất nước thay đổi mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực, tích cực
tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đánh giá đúng thực tiễn hoạt


động xét xử và các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xét xử hành chính của Tòa án
từ đó có những giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, về

mặt lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động xét xử hành
chính, học viên quyết định lựa chọn đề tài luận văn thạc sỹ luật học: “Nâng cao
hiệu quả xét xử hành chính ở nước ta trong giai đoạn hiện nay: Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn”.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, đã có một số công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn
thạc sĩ, tiến sỹ hoặc các bài viết trên tạp chí đề cập đến những khía cạnh khác
nhau của hoạt động xét xử hành chính, tiêu biểu là:
Các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật:
- “Hoạt động xét xử hành chính ở nước ta”, của tác giả Nguyễn Hoàng
Anh, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 01/2006;
- “Luật Tố tụng hành chính 2010 và vấn đề nâng cao hiệu quả xét xử hành
chính ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, của tác giả Nguyễn Văn Quang, đăng
trên Tạp chí Nghề Luật số 4/2011;
- “Bàn về thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân theo loại việc
bị khiếu kiện”, của tác giả Lê Việt Sơn, đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số
6/2012;
-“Hoàn thiện các quy định về khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc
thuộc thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân “, của tác giả Lê Việt
Sơn, đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2013.
Các công trình nghiên cứu khoa học ở cấp độ thạc sỹ, tiến sỹ, các đề tài
nghiên cứu khoa học:
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng: “Thẩm quyền xét xử
hành chính của Tòa án nhân dân”, năm 2002, Đại học Luật Hà Nội;
- Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Thanh Bình: “Thẩm quyền của Tòa án
nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính”, năm 2003, Đại học
Luật Hà Nội;


- Luận án tiến sỹ của tác giả Hoàng Quốc Hồng: “Đổi mới tổ chức và hoạt

động của toà hành chính đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam hiện nay”, năm 2007, Đại học Luật Hà Nội;
- Luận án tiến sỹ của tác giả Trần Kim Liễu: “Tòa hành chính trong nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, năm 2011, Đại học
Luật Hà Nội;
- Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng: “Thẩm quyền giải quyết
khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử hành chính ở Việt Nam”, năm 2013,
Đại học Luật Hà Nội;
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường do TS Trần Thị Hiền làm chủ
nhiệm: “Luật Tố tụng hành chính năm 2010 và thực tiễn giải quyết các vụ án
hành chính”, năm 2015, Đại học Luật Hà Nội.
Có thể nhận thấy, tất cả những công trình trên đây đều có liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp đến một số vấn đề thực tiễn, lý luận của đề tài nghiên cứu.
Những kết quả nghiên cứu tổng hợp sẽ là nền tảng, tiền đề và là nguồn tài liệu
tham khảo hữu ích để tác giả kế thừa, vận dụng có chọn lọc khi triển khai nghiên
cứu đề tài luận văn.
Tuy nhiên, kể từ khi Luật TTHC ra đời năm 2010 đặc biệt khi Luật TTHC
mới được ban hành năm 2015, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu, đánh giá
một cách toàn diện vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử hành chính cả về
lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu những hạn chế và nguyên nhân tác động
đến xét xử hành chính qua đó đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả của xét
xử hành chính trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở phân tích quy định pháp luật hiện hành về xét xử án hành chính,
luận văn đi sâu vào nghiên cứu, đánh giá hạn chế và nguyên nhân tác động đến
hoạt động xét xử hành chính, từ đó đưa ra cái nhìn tổng quát và đề xuất các ý
kiến để nâng cao hiệu quả xét xử hành chính.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn sẽ đưa ra và giải quyết các vấn đề
sau:



- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến xét xử hành chính và hiệu
quả xét xử hành chính.
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá tổng hợp các quy định pháp luật hiện
hành về xét xử án hành chính, có sự so sánh giữa quy định của Luật TTHC năm
2010, Luật TTHC năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan.
- Phân tích, đánh giá những hạn chế và nguyên nhân tác động đến hoạt
động xét xử hành chính thông qua thực trạng xét xử hành chính (từ năm 2011
đến năm 2015).
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử hành
chính.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong khuôn khổ của Luận văn Thạc sỹ luật học, luận văn tập trung nghiên
cứu một số vấn đề cơ bản liên quan đến hiệu quả hoạt động xét xử hành chính.
Các quy định pháp luật cụ thể được nghiên cứu là các quy định pháp luật về xét
xử hành chính tại Luật TTHC năm 2010, có sự so sánh với các quy định mới về
xét xử hành chính trong Luật TTHC năm 2015. Thực tiễn xét xử hành chính ở
nước ta được nghiên cứu chủ yếu là trong giai đoạn từ năm 2011 đến hết năm
2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê
nin; các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xét xử án hành
chính, tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền, đặc biệt là các
quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, đổi mới hoạt động của các cơ quan tư
pháp.
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên các phương pháp nghiên cứu có tính phổ
quát trong khoa học xã hội và nhân văn như: thống kê, phân tích tổng hợp khái
quát hóa, so sánh đối chiếu… để giải quyết các yêu cầu đặt ra của đề tài luận
văn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn



Luận văn tập trung phân tích những vấn đề lý luận và pháp luật về xét xử
hành chính một cách cập nhật nhất; Phân tích và đánh giá hạn chế và nguyên
nhân tác động đến hoạt động xét xử hành chính thông qua các số liệu (hoặc các
vụ án cụ thể) trên cơ sở những quy định của Luật TTHC năm 2010; những vấn
đề bất cập đã được Luật TTHC năm 2015 giải quyết và đề xuất những giải pháp
để nâng cao hiệu quả xét xử hành chính trong bối cảnh hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH VÀ HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH
1.1. Xét xử hành chính - khái niệm và đặc điểm
1.1.1. Tranh chấp hành chính
Xét xử hành chính được xem là một dạng của hoạt động tài phán hành
chính. Thuật ngữ “tài phán” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “jurisdictio”, trong
tiếng Anh là từ “jurisdiction”. Theo nghĩa rộng thì tài phán được hiểu bao gồm
hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính của Tòa án và hoạt động giải quyết
tranh chấp hành chính thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính [7, tr.2]. Nên
để hiểu rõ khái niệm xét xử hành chính, trước hết cần làm rõ thế nào là tranh
chấp hành chính.
Tranh chấp là một hiện tượng bình thường phát sinh trong đời sống xã hội,
tồn tại cùng xã hội và mang tính xã hội. Trên thực tế, trong hoạt động của các cơ
quan hành chính Nhà nước, cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong
cơ quan Nhà nước có những QĐHC, HVHC không phù hợp với quy định của
pháp luật, xâm phạm quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức dẫn

đến những kiến nghị, khiếu nại, kiện tụng. Thực chất đó là những tranh chấp và
tranh chấp này là tranh chấp hành chính. [42]
Về phương diện khoa học pháp lý, tranh chấp hành chính là các tranh chấp
phát sinh từ quan hệ pháp luật hành chính, nẩy sinh từ việc áp dụng các quy
phạm pháp luật hành chính. Trong đó, quan hệ pháp luật hành chính là “là
những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chấp hành và điều hành của nhà
nước được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật hành chính giữa những chủ thể
mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính”
[40]. Quy phạm pháp luật hành chính “là các quy tắc xử sự chung do cơ quan
Nhà nước, các cán bộ nhà nước có thẩm quyền ban hành, chủ yếu điều chỉnh
những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước
(hay còn gọi là hoạt động chấp hành - điều hành của Nhà nước) có hiệu lực bắt
buộc thi hành đối với những đối tượng có liên quan” [40].


Trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước, các cơ
quan quản lý hành chính nhà nước và những người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính có thể ban hành các QĐHC, thực hiện HVHC ảnh hưởng tới quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là đối tượng của quản lý hành chính
nhà nước. Khi các cá nhân, tổ chức phản đối QĐHC, HVHC của cơ quan hành
chính Nhà nước thì phát sinh tranh chấp. Tranh chấp này là tranh chấp hành
chính bởi nó phát sinh trong hoạt động quản lý nhà nước, giữa một bên là chủ
thể quản lý hành chính Nhà nước, một bên chủ thể là đối tượng chịu sự tác động
của hoạt động quản lý Nhà nước.
Từ những phân tích trên đây, có thể khái quát rằng tranh chấp hành chính là
mâu thuẫn, bất đồng giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước với các đối
tượng quản lý thuộc quyền về quyền, lợi ích, nghĩa vụ pháp lý theo quy định của
pháp luật.
Giải quyết các tranh chấp hành chính là vấn đề được đặt ra với các nhà
nước mà không phụ thuộc vào chế độ chính trị hay thiết chế quyền lực. Xuất

phát từ thực tiễn khách quan cũng như từ các quy định của pháp luật ở nước ta
hiện nay, tranh chấp hành chính được giải quyết theo hai phương thức: một là,
cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính, nghĩa là giải quyết tranh chấp hành
chính bằng cơ quan hành chính nhà nước (cơ chế này cũng bao gồm hoạt động
giải quyết khiếu nại của một số cơ quan độc lập giải quyết khiếu nại như: Thanh
tra Chính phủ, Thanh tra các Bộ...); hai là, cơ chế giải quyết khiếu kiện hành
chính, nghĩa là giải quyết tranh chấp hành chính bằng Tòa án, hay còn gọi là xét
xử hành chính.
Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn, tác giả chỉ đi sâu vào phân tích và
làm rõ khái niệm và các đặc điểm của xét xử hành chính trong các tiểu mục dưới
đây.
1.1.2. Khái niệm xét xử hành chính
Theo Từ điển Luật học, xét xử được hiểu là“Hoạt động xem xét, đánh giá
bản chất pháp lí của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ
pháp lí của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương
ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án


hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính” [27,
tr.869,870].
Theo quy định của pháp luật, chức năng, thẩm quyền xét xử được trao cho
cơ quan Tòa án. Tòa án nhân danh Nhà nước để đưa ra phán quyết đối với
những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của mình, trên cơ sở tuân thủ các nguyên
tắc do phápluật quy định.
Xét xử hành chính, hiểu theo nghĩa rộng, là toàn bộ các hoạt động do Tòa
án tiến hành nhằm đưa ra phán quyết đối với tranh chấp hành chính thuộc thẩm
quyền xét xử của mình bao gồm các hoạt động như thụ lý vụ án hành chính,
nghiên cứu hồ sơ, thu thập tài liệu, chứng cứ, chuẩn bị xét xử và xét xử vụ án
hành chính theo các thủ tục được pháp luật quy định. Hiểu theo nghĩa hẹp, xét
xử hành chính là một giai đoạn của tố tụng hành chính theo đó Tòa án đưa vụ án

hành chính thuộc thẩm quyền xét xử của mình xét xử công khai tại phiên tòa khi
có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật.Với tư cách là một giai đoạn của tố
tụng, xét xử hành chính là giai đoạn trung tâm của tố tụng hành chính.
Mục đích của xét xử hành chính là xem xét tính hợp pháp hay không hợp
pháp của QĐHC, HVHC và xác định có hay không thiệt hại về vật chất do
QĐHC, HVHC đó gây ra đối với cá nhân, tổ chức. Các quyết định, bản án hành
chính là kết quả của hoạt động xét xử hành chính.
Trong Luận văn này, khái niệm xét xử hành chính được sử dụng theo nghĩa
rộng như đã nêu ở trên. Ở nước ta, như đã nêu trên, TAND được chính thức trao
thẩm quyền xét xử hành chính kể từ ngày 01/7/1996 và đây cũng là thời điểm
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chính thức có hiệu lực thi
hành. Cùng với thời gian, pháp luật tố tụng hành chính của nước ta cũng dần
được hoàn thiện, theo đó nội hàm của các khái niệm cơ bản như khái niệm xét
xử hành chính ngày càng được nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn.
1.1.3. Đặc điểm xét xử hành chính
So với xét xử trong các lĩnh vực khác như hình sự, dân sự, kinh doanh
thương mại, lao động, xét xử hành chính có những đặc điểm nổi bật, cụ thể là:
Thứ nhất, về người khởi kiện và người bị kiện trong hoạt động xét xử hành
chính.


Xét xử hành chính là xét xử các tranh chấp giữa chủ thể quản lý hành chính
nhà nước và đối tượng bị quản lý phát sinh trong quá trình quản lý hành chính
nhà nước khi chủ thể quản lý hành chính nhà nước ban hành quyết định hành
chính, thực hiện hành vi hành chính. Suy cho cùng, xét xử hành chính về bản
chất là giải quyết mối quan hệ pháp luật phát sinh giữa hai chủ thể chịu sự điều
chỉnh của các quy phạm pháp luật về hành chính. Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức là đối tượng của quản lý hành chính nhà nước, pháp
luật cho phép đối tượng quản lý hành chính nhà nước có quyền khởi kiện chủ
thể quản lý hành chính nhà nước. Theo đó, người khởi kiện luôn là đối tượng bị

quản lý và người bị kiện luôn là chủ thể quản lý hành chính nhà nước.
Nếu như trong quản lý hành chính nhà nước - hoạt động chấp hành - điều
hành, có sự bất bình đẳng nhất định giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước
với đối tượng bị quản lý thì trong hoạt động xét xử hành chính, người khởi kiện
và người bị kiện bình đẳng với nhau về các quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính.
Các chủ thể này đều được tạo điều kiện để tranh tụng công khai, bình đẳng, có
đầy đủ các quyền, nghĩa vụ bảo đảm rằng các quyền, lợi ích hợp pháp đều được
pháp luật bảo vệ mà không có sự phân biệt giữa người khởi kiện và người bị
kiện là cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước.
Có thể nói, xét xử hành chính là hoạt động đặc biệt do Tòa án - nhân danh
Nhà nước thực hiện nhằm xem xét tính hợp pháp hay không hợp pháp của quyết
định, hành vi của một đương sự đặc biệt - bên bị kiện, cũng là một chủ thể nhân
danh nhà nước (trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước).
Thứ hai, đối tượng của xét xử hành chính.
Tranh chấp hành chính nảy sinh từ việc chủ thể quản lý hành chính nhà
nước ban hành QĐHC hoặc thực hiện HVHC nhằm giải quyết các vấn đề thuộc
thẩm quyền của mình. Trường hợp QĐHC hoặc HVHC này xâm phạm quyền và
lợi ích của đối tượng bị quản lý thì họ có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải
quyết. Đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính là các QĐHC, HVHC như đã
nêu trên mà không phải là quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân phi tài sản như
trong các vụ án dân sự.


Tuy nhiên, không phải tất cả các QĐHC, HVHC đều có thể trở thành đối
tượng xét xử hành chính. Những QĐHC, HVHC đáp ứng đầy đủ các điều kiện
được pháp Luật TTHC năm quy định mới là đối tượng xét xử hành chính.
Thứ ba, về áp dụng pháp luật trong xét xử hành chính.
Cũng giống như hoạt động xét xử của Tòa án trong các lĩnh vực khác, hoạt
động xét xử hành chính được thực hiện cũng dựa trên cơ sở quy định của pháp

luật hình thức và pháp luật luật nội dung. Phápluật hình thức trong xét xử hành
chính quy định các trình tự, thủ tục mà Tòa án và các đương sự phải tuân thủ
trong quá trình giải quyết tranh chấp hành chính. Pháp luật nội dung được sử
dụng, dẫn chiếu làm căn cứ để xem xét, đánh giá các vấn đề phát sinh trong
tranh chấp hành chính.
Khác với hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính, theo đó quy trình giải
quyết khiếu nại hành chính được tiến hành dựa trên cơ sở quy định của pháp luật
khiếu nại trong đó có Luật khiếu nại, thì hoạt động xét xử hành chính thực hiện
thủ tục tố tụng chặt chẽ do pháp luật tố tụng hành chính quy định. Chẳng hạn, để
xét xử vụ án hành chính, Tòa án phải mở phiên tòa theo trình tự thủ tục tố tụng
nhất định. Hội đồng xét xử tham gia tiến hành tố tụng trên cơ sở tiến hành các
hoạt động từ thủ tục bắt đầu phiên tòa, hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa,
từ đó làm cơ sở đưa ra bản án, quyết định để giải quyết vụ án. Phiên tòa diễn ra
công khai, trên cơ sở hồ sơ vụ án và diễn biến thực tế tại phiên tòa để có căn cứ
xem xét toàn diện, đầy đủ hơn việc giải quyết vụ án.
Áp dụng pháp luật nội dung trong xét xử hành chính nhằm mục đích đánh
giá tính hợp pháp, đúng đắn của các QĐHC, HVHC bị kiện cũng như các vấn đề
có liên quan khác. Thực tiễn xét xử hành chính, cho thấy, hai vấn đề chính được
xem xét chủ yếu trong xét xử hành chính: một là, QĐHC, HVHC có được ban
hành, thực hiện đúng thẩm quyền hay không; hai là, QĐHC, HVHC có vi phạm
các quy định pháp luật có liên quan, dẫn đến việc xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của các cá nhân, tổ chức là đối tượng của quản lý hành chính Nhà
nước hay không. Theo đó, việc áp dụng pháp luật nội dung trong xét xử hành
chính cũng dựa trên cơ sở hai nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh hai nhóm
vấn đề nêu trên.


Việc áp dụng pháp luật nhằm xác định thẩm quyền ban hành QĐHC,
HVHC chủ yếu dựa trên các văn bản quy phạm pháp luật quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước. Chẳng hạn,

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Luật tổ chức
Chính phủ năm 2015, Luật tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 và các
văn bản khác quy định chi tiết chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan hành
chính Nhà nước cụ thể.
Việc áp dụng pháp luật nhằm xem xét tính đúng đắn của QĐHC, HVHC
phụ thuộc vào lĩnh vực cụ thể của quan hệ pháp luật hành chính phát sinh tranh
chấp. Như đã nêu trong phần trên của Luận văn, tranh chấp hành chính phát sinh
từ quan hệ quản lý hành chính nhà nước trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
môi trường, an sinh xã hội... Theo đó, để giải quyết một tranh chấp hành chính
cụ thể, Tòa án sẽ căn cứ vào các quy phạm pháp luật nội dung trong lĩnh vực đó,
như: Luật Đất đai, Luật Giáo dục, Luật An sinh xã hội, Luật Bảo vệ môi trường,
Luật Doanh nghiệp... Điều này cho chúng ta thấy rõ sự phức tạp của việc áp
dụng pháp luật nội dung trong xét xử hành chính, nhằm giải quyết ổn thỏa các
tranh chấp hành chính phát sinh trong quản lý hành chính nhà nước.
1.2. Vai trò của xét xử hành chính
Thứ nhất, xét xử hành chính có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là đối tượng của quản lý hành chính
nhà nước.
Hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính diễn ra trên hầu
khắp các lĩnh vực và thường xuyên tác động trực tiếp đến lợi ích của người dân
nên nguy cơ vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là rất lớn. Khi tình
trạng khiếu nại hành chính có xu hướng ngày càng tăng, việc giải quyết của các
cơ quan hành chính ngày càng tỏ ra kém hiệu quả thì cần thiết phải tìm ra những
giải pháp mới hữu hiệu hơn để giải quyết vấn đề này. Đó chính là thiết lập cơ
chế giải quyết tranh chấp hành chính thông qua hoạt động xét xử của Tòa án.
Tòa án với chức năng xét xử đã khẳng định được vị trí, vai trò, tầm quan trọng
của mình trong đời sống xã hội. Vai trò của Tòa án đã được khẳng định trong
nhiều bản Hiến pháp của Việt Nam qua các thời kỳ và tiếp tục được ghi nhận tại
khoản 3 Điều 102 Hiến pháp 2013: “Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ



quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [73]. Quy
định này hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với chức năng xét xử của Tòa án, trong
đó hoạt động xét xử hành chính với những đặc thù riêng biệt đã đóng góp vai trò
quan trọng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong mối quan hệ
giữa nhà nước và công dân. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của Tòa án và rất phù
hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013, coi con người là trọng tâm và mục đích
quyền lực nhà nước.
Ở Việt Nam, việc xét xử hành chính được coi là một công cụ mới có hiệu
quả để bảo vệ các quyền công dân. Xuất phát từ mối quan hệ bất bình đẳng giữa
chủ thể quản lý hành chính và đối tượng quản lý, cá nhân, tổ chức, có quyền và
lợi ích hợp pháp bị hoạt động quản lý hành chính xâm hại rất có thể có những
hành vi tự vệ tương xứng như trong quan hệ pháp luật dân sự. Cá nhân, tổ chức
cũng có rất ít cơ hội cho việc thỏa thuận trong trường hợp xảy ra tranh chấp
trong quản lý do tính chất đơn phương mệnh lệnh của hoạt động này. Khởi kiện
là cách thức bảo vệ quyền lợi của cá nhân tổ chức một cách hiệu quả và mang
tính chủ động trước sự ảnh hưởng từ hoạt động quản lý hành chính. Điều này
xuất phát từ đặc trưng của cơ chế khiếu kiện được thực hiện khi có sự tham gia
trực tiếp của người có quyền và lợi ích bị xâm hại vào quá trình giải quyết.
Thông qua việc khởi kiện vụ án hành chính, các QĐHC, HVHC sai trái, ảnh
hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức sẽ bị hủy bỏ hoặc bị
buộc chấm dứt.
Hoạt động xét xử hành chính góp phần bảo vệ quyền lợi của công dân khi
có hành vi xâm phạm từ QĐHC, HVHC của cơ quan Nhà nước hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước. Đây là yêu cầu quan trọng của quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ này có sự đóng góp của cả hệ thống chính trị, trong đó có cơ quan
thực hiện quyền tư pháp với hoạt động xét xử hành chính của Tòa án các cấp.
Pháp luật quy định công dân có quyền khởi kiện vụ án hành chính nhằm đảm

bảo mục tiêu của nhà nước pháp quyền XHCN đó là thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ nhân dân, đảm bảo kỷ cương xã hội. Hoạt động xét xử
hành chính phù hợp với đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của nhà


nước luôn đề cao các nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
nguyên tắc bình đẳng, công khai, minh bạch trong xây dựng và thực hiện pháp
luật.
Thứ hai, xét xử hành chính có vai trò quan trọng trong kiểm soát quyền lực
nhà nước.
Hoạt động xét xử hành chính có tác động phát huy hiệu quả hoạt động của
nền hành chính nhà nước, bởi vì với bản chất dân chủ, Nhà nước ta luôn quan
tâm đến việc thu hút sự tham gia đông đảo của nhân dân lao động vào hoạt động
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tiếp thu những kiến nghị, giải pháp, khiếu nại,
tố cáo từ phía người dân nhằm tăng cường hoạt động của bộ máy nhà nước có
hiệu quả, phục vụ quyền và lợi ích của nhân dân. Hoạt động xét xử hành chính
là công cụ bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý hành chính nhà
nước, góp phần nâng cao hiệu quả, tăng cường hiệu lực của hoạt động quản lý
hành chính.
Khía cạnh đầu tiên của việc bảo đảm pháp chế là kỷ luật là ngăn chặn sự
lạm quyền trong quá trình quản lý hành chính, ngăn chặn việc vượt quá giới hạn
thẩm quyền được trao, ngăn chặn việc sử dụng thẩm quyền sai mục đích hoặc
không hành động trái pháp luật. Xét xử hành chính sẽ góp phần làm cho bộ máy
hành chính nhà nước nâng cao trách nhiệm, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao trách nhiệm, bổn phận của cán bộ,
công chức trong thi hành công vụ, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do dân chủ, lợi
ích hợp pháp của công dân. Bên cạnh đó, hoạt động này còn là biện pháp kiểm
tra, giám sát hữu hiệu hoạt động đối với cơ quan hành chính nhà nước, tránh
được hiện tượng lạm quyền, lộng quyền, trốn tránh trách nhiệm, quan liêu… góp
phần xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, năng động, có hiệu quả, đáp

ứng ngày một tốt hơn dịch vụ hành chính công. Tiếp đó, xét xử hành chính bảo
đảm cho hoạt động quản lý được thực hiện đúng nội dung, hình thức và công
bằng giữa các cá nhân, tổ chức với tư cách là đối tượng quản lý cũng như công
bằng giữa các cá nhân, tổ chức có liên quan. Với ý nghĩa như vậy Tòa án có điều
kiện loại bỏ hoặc chấm dứt những hoạt động hành chính sai trái hoặc khẳng định
tính đúng đắn của hoạt động hành chính (nếu yêu cầu khởi kiện là không có cơ
sở) từ đó nâng cao hiệu quả và hiệu lực của hoạt động quản lý.


Thực chất, vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lý
hành chính nhà nước là vai trò phái sinh của hoạt động xét xử hành chính. Nó
xuất hiện như là hệ quả của việc bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức
khởi kiện. Bởi lẽ, hoạt động xét xử hành chính của Tòa án luôn mang tính thụ
động, bởi, nếu không có yêu cầu khởi kiện thì hoạt động xét xử sẽ không thể
phát sinh.
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động xét xử hành chính
1.3.1. Hệ thống văn bản pháp luật là cơ sở của xét xử hành chính
Như đã phân tích trong phần trên của Luận văn, xét xử hành chính được
thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật cả về hình thức và nội dung. Nên
muốn hoạt động xét xử hành chính đạt được hiệu quả cao thì trước hết hệ thống
các quy định pháp luật (bao gồm cả pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung)
phải ngày càng hoàn thiện theo các tiêu chí đồng bộ, toàn diện, thống nhất, phù
hợp, khả thi, đáp ứng các yêu cầu về ngôn ngữ và kỹ thuật xây dựng pháp luật.
Đối với quá trình xây dựng Luật TTHC cũng như quá trình xây dựng các
văn bản pháp luật khác, các cơ quan soạn thảo Luật hiện nay đã áp dụng một
quy trình đánh giá tác động của dự án Luật (Quy trình RIA) nhằm định hướng
hiệu quả quá trình điều chỉnh quan hệ pháp luật khi Luật được ban hành. Báo
cáo số 22/BC-TANDTC ngày 10/04/2015 trình Quốc hội [18] đã nhìn nhận hiệu
quả của hoạt động xét xử hành chính Việt Nam trước thời điểm Luật mới được
ban hành như sau: “thực tiễn qua hơn 3 năm thi hành Luật TTHC cho thấy, một

số quy định của Luật đã bộc lộ những hạn chế, bất cập (như: các quy định về
thẩm quyền xét xử của từng cấp Tòa án; quyền và nghĩa vụ của người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng; thủ tục tranh tụng tại phiên tòa...). Những
hạn chế, bất cập của Luật TTHC là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến tình trạng các bản án, quyết định hành chính bị sửa, bị hủy chiếm tỷ lệ cao;
hiệu lực thi hành các bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính chưa
bảo đảm; công tác xét xử các vụ án hành chính của TAND chưa đáp ứng được
sự mong đợi của người dân và toàn xã hội”. Báo cáo cũng chỉ ra các tiêu chí
đánh giá tác động của Dự án Luật này theo từng nội dung, trong đó nhấn mạnh
việc phân tích tác động theo 04 yếu tố: (1) Xác định vấn đề; (2) Mục tiêu; (3)
Phương án lựa chọn; và (4) Tác động của phương án lựa chọn.


Cũng như vậy, việc xây dựng các văn bản pháp luật khác phải đảm bảo đạt
được các mục tiêu, các tiêu chí nhất định mà các cơ quan lập pháp đề ra trên cơ
sở thực tiễn khách quan.
Trên cơ sở đó, quá trình đánh giá hiệu quả của xét xử hành chính cũng sẽ
dựa trên việc đánh giá kết quả của quá trình áp dụng quy phạm pháp luật cũng
như sự đáp ứng, hoàn thành các tiêu chí như đã đề ra ban đầu. Cho nên, hiệu quả
xét xử hành chính chỉ có được khi hệ thống pháp luật là cơ sở của xét xử hành
chính đảm bảo phát triển đồng bộ, toàn diện, đáp ứng được các yêu cầu về kĩ
thuật lập pháp cũng như phù hợp với thực tiễn khách quan.
1.3.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan xét xử hành chính
Theo quy định của Luật Tổ chức TAND, về mặt tổ chức, Toà án nhân dân
vẫn có mối liên hệ với Hội đồng nhân dân cùng cấp và một số cơ quan, tổ chức
khác trong bộ máy quản lý Nhà nước. Việc tổ chức mô hình cơ quan xét xử theo
đơn vị hành chính lãnh thổ và những mối quan hệ phụ thuộc về tổ chức, nhân sự
giữa tòa án địa phương với chính quyền địa phương đã gây ra ảnh hưởng không
nhỏ đến tính độc lập trong xét xử của tòa án, đặc biệt là trong xét xử các vụ kiện
hành chính mà người bị kiện là các cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong bộ

máy hành chính nhà nước ở cùng địa phương. Nên vấn đề đặt ra là hoạt động xét
xử hành chính liệu có đảm bảo tính khách quan hay không.
Quá trình xét xử hành chính sẽ không còn ý nghĩa, nếu Tòa án trong quá
trình giải quyết tranh chấp chịu sự tác động của chủ thể bị kiện hay bất kỳ cơ
quan Nhà nước nào khác.
Những hạn chế về tổ chức của hệ thống Tòa án xét xử hành chính và ảnh
hưởng của nó đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử hành chính là
điều đáng được bàn luận. Cho nên, để hoạt động xét xử hành chính sẽ đạt được
hiệu quả thì cơ quan Tòa án phải được tổ chức cho phù hợp để bảo đảm năng lực
xét xử và bảo đảm được độc lập xét xử.
1.3.3. Trình độ của đội ngũ thẩm phán làm công tác xét xử cũng như đội ngũ
những người tiến hành tố tụng khác
Trình độ của đội ngũ thẩm phán và những người tiến hành tố tụng khác làm
công tác xét xử hành chính (hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký Tòa án) là


một yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả của hoạt động xét xử hành chính.
Bởi hoạt động xét xử hành chính từ khi thụ lý, xem xét, đánh giá và đưa ra phán
quyết cuối cùng đều được thực hiện, giám sát bởi những người tiến hành tố tụng.
Nhận thức pháp luật của những người tiến hành tố tụng, đôi khi bao gồm cả ý
chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng, chính là yếu tố quyết định kết
quả cuối cùng của giải quyết tranh chấp hành chính.
Chất lượng đội ngũ thẩm phán và những người tiến hành tố tụng khác làm
công tác xét xử vụ án hành chính đòi hỏi phải hiểu biết sâu về lĩnh vực chuyên
môn quản lý hành chính nhà nước cũng là một thách thức rất lớn đặt ra cho cơ
quan làm công tác xét xử hành chính ở nước ta.
Với việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo các Nghị
quyết của Đảng, Quốc hội, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính
trị[46], trong đó yêu cầu đối với công tác cán bộ là: “Rà soát đội ngũ cán bộ tư
pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh”, “Xây dựng

đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp,
theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu
chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm,
kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ” và “Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư
pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt
Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực”… thì năng lực của thẩm
phán và cán bộ Tòa án đang càng ngày càng được phát triển, nâng cao để phù
hợp với đòi hỏi của thực tiễn khách quan.
1.3.4. Ý thức pháp luật của tổ chức, cá nhân với tư cách là những người tham
gia tố tụng hành chính
Ý thức pháp luật của người dân là một yếu tố đóng vai trò khá quan trọng
trong việc đánh giá nhiều vấn đề của nước ta, trong đó có vấn đề hiệu quả xét xử
hành chính. Ý thức của người dân đối với hoạt động xét xử hành chính phản ánh
sự hiểu biết, sự nhìn nhận vai trò và lựa chọn sử dụng trong các tình huống phát
sinh liên quan tới mình. Sự ý thức còn phản ánh thái độ của người dân đối với
quá trình xây dựng pháp luật liên quan; quá trình các cơ quan nhà nước áp dụng
pháp luật vào thực tiễn và sự ủng hộ các phán quyết xét xử hành chính và tự


nguyện thi hành. Nó không những thể hiện bộ mặt của hoạt động quản lý hành
chính nhà nước mà còn thể hiện bộ mặt của hoạt động xét xử hành chính. Ý thức
pháp luật của người dân thấp thì họ sẽ khó có thể nhận thức đúng đắn về các quy
định pháp luật liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của chính bản thân họ. Từ
đó, sẽ dẫn đến việc người dân mơ hồ, hoang mang trong hành trình bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có tranh chấp với chủ thể quản lý nhà
nước. Bởi thế, khi Tòa án xét xử hành chính đương nhiên sẽ gặp vướng mắc vì
việc thực hiện sai, không đúng những quy định của pháp luật tố tụng hành chính.
Nếu ý thức pháp luật của người dân cao, thì sẽ hạn chế tối đa việc thực hiện sai
các quy định của pháp luật tố tụng hành chính, điều này giúp cho Tòa án tiến

hành xét xử nhanh gọn, hiệu quả hơn rất nhiều. Đặc biệt, yếu tố nhận thức này
đặc biệt có ý nghĩa ở giai đoạn lựa chọn phương thức khởi kiện hành chính và
thi hành các bản án hành chính.
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của Nhà nước là cần thiết trong
việc nâng cao ý thức pháp luật của người dân nói chung và ý thức pháp luật khi
tham gia tố tụng hành chính nói riêng.
1.3.5. Cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho hoạt động xét xử hành chính
Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ, khối lượng vụ án hành chính mà Tòa án thụ
lý, giải quyết có xu hướng gia tăng, nên việc xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết
bị, phương tiện phục vụ hoạt động xét xử hành chính không những là nội dung
mà còn là yêu cầu, nhiệm vụ cần thiết được gắn liền với quá trình đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa án trong xét xử hành chính theo yêu cầu cải cách tư
pháp.
Yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và xét
xử hành chính nói riêng, theo lộ trình cải cách tư pháp đến năm 2020 đòi hỏi
công tác này không những đảm bảo yêu cầu trước mắt mà còn phải đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ lâu dài, với chủ trương tăng biên chế, mở rộng quy mô... Do đó,
trong điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phương tiện làm việc vừa thiếu, vừa
lạc hậu, các điều kiện đảm bảo cho hoạt động xét xử hành chính còn chưa đáp
ứng với yêu cầu đổi mới và yêu cầu hội nhập quốc tế.
1.3.6. Hiệu quả hoạt động thi hành án hành chính


Hạn chế của phương thức giải quyết vụ án hành chính bằng con đường tòa
án ở nước ta còn thể hiện ở việc thiếu vắng một cơ chế hữu hiệu đảm bảo thi
hành các phán quyết của tòa án đối với các vụ án hành chính. Dù luật pháp hiện
hành đã có những quy định về cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành các bản
án, quyết định của tòa án trong lĩnh vực xét xử vụ án hành chính cũng như các
biện pháp chế tài (bao gồm cả những biện pháp chế tài nghiêm khắc nhất xử lý
các cá nhân có trách nhiệm trong việc thi hành các bản án, quyết định của tòa

án) hoạt động thi hành án trong lĩnh vực này vẫn chủ yếu dựa vào thiện chí của
các chủ thể có trách nhiệm. Phán quyết của tòa án đối với các vụ án hành chính
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong quản lý
hành chính trong nhiều trường hợp không được đảm bảo thi hành trên thực tế.
Trong các quy phạm pháp luật của nước ta, cũng có những chế tài hết sức
nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm trong hoạt động quản lý hành chính
Nhà nước, nhưng đó là chế tài hình sự, được áp dụng khi xét xử vụ án hình sự
hay có cơ quan riêng phụ trách thi hành án như khi xét xử vụ án dân sự. Còn
trong hoạt động xét xử hành chính vẫn chưa có cơ chế thi hành đủ nghiêm khắc,
hay cơ quan độc lập thực hiện thi hành án để đảm bảo bản án hành chính được
thực thi. Đây là một yếu tố khiến hoạt động xét xử hành chính ở nước ta chưa
thực sự hiệu quả.
1.4. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử hành
chính
Với chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với việc Việt Nam
trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế và đã gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới (WTO); đồng thời, để thể chế hóa quan điểm, định hướng của Đảng
về cải cách tư pháp được xác định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 [46] cụ thể là: “Mở rộng thẩm
quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ
thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Toà án; tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ
quan công quyền trước Toà án”.
Do đó, việc nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử hành chính là một đòi hỏi
của thực tiễn khách quan. Mà một trong những vấn đề quan trọng cần phải thực


thi là việc điều chỉnh hệ thống pháp luật là cơ sở của hoạt động xét xử hành
chính.
Tháng 9/1995, Quốc hội thông qua Luật Tổ chức TAND chính thức trao

thẩm quyền xét xử hành chính cho Tòa án từ ngày 01/7/1996. Nếu như trước đó,
khi Tòa án chưa được trao chức năng xét xử các khiếu nại hành chính, việc giải
quyết khiếu nại còn có nhiều hạn chế như: chưa công khai, chưa thực sự khách
quan, cũng như còn nhiều khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng pháp luật khiếu
nại trên thực tế... Điều này dẫn đến việc tình hình khiếu nại diễn ra hết sức phức
tạp. Nhằm tăng cường bảo vệ quyền lợi của cá nhân, tổ chức, và nâng cao trách
nhiệm của cơ quan quản lý hành chính Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VII, tại Hội nghị lần thứ 8 đã ra Nghị quyết về việc “Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một
bước nền hành chính”, trong đó chỉ đạo “Đẩy mạnh giải quyết các khiếu kiện
của dân...xúc tiến việc thành lập tòa án hành chính để xét xử các khiếu kiện của
dân đối với các quyết định hành chính”. Ngoài ra, còn phải kể tới các chủ
trương, định hướng cải cách tư pháp đã được xác định trong các nghị quyết, văn
kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW,
Kết luận số 79-KL/TW, Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị và Văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ XI. Thực hiện các chủ trương này, hoạt động xét xử các
khiếu kiện hành chính được chính thức giao cho Tòa án.
Mặc dù công cụ cho hoạt động xét xử ở giai đoạn này là Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung tạo sự hoàn thiện hơn
về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính, tuy nhiên dường như vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu thực tiễn.
Để phù hợp với chính sách mở cửa, để thể chế quan điểm của Đảng và Nhà
nước về cải cách tư pháp, ngày 24/11/2010, Quốc hội khóa XII đã thông qua
Luật TTHC. Theo quy định của Luật TTHC thì thẩm quyền giải quyết các khiếu
kiện hành chính tại TAND được mở rộng; trình tự, thủ tục giải quyết cũng có
những sửa đổi, bổ sung quan trọng tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và toàn diện hơn để
Toà án nhân dân giải quyết các khiếu kiện hành chính có hiệu quả.
Tuy nhiên, theo Tờ trình số số 04/Ttr-TANDTC ngày 10/4/2015 về Dự án
Luật TTHC (sửa đổi) có nhận định: “qua thực tiễn hơn 3 năm thi hành Luật



×