Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.83 KB, 8 trang )

A. MỞ ĐẦU:
Đại biểu quốc hội (ĐBQH) là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Quốc hội, được cử tri Việt Nam
trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các
đại biểu được bầu chịu trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình và trước cử tri cả nước.
Thông qua các đại biểu và thông qua Quốc hội, nhân dân Việt Nam sử dụng quyền lực
của mình để định đoạt các vấn đề của đất nước. Nhận thức rõ được trầm quan trọng của
đại biểu Quốc hội, bài viết dưới đây sẽ phân tích vấn đề “Nâng cao hiệu quả hoạt động
của đại biểu Quốc hội trong giai đoạn hiện nay”.
B. NỘI DUNG:
I .Khái quát về đại biểu Quốc hội:
Đại biểu Quốc hội là những công dân ưu tú trong các lĩnh vực hoạt động của
Nhà nước và xã hội được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra
Địa vị pháp lý đặc biệt của ĐBQH được quy định trong Hiến pháp 1992, Luật tổ
chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội. ĐBQH là nhân tố quan trọng
tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong việc thực hiện các chức năng của Quốc hội.
1. Nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội:
ĐBQH phải chịu trách nhiệm trước cử tri và Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ
đại biểu của mình, phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát cử tri. Để cử tri
thực hiện được việc đó thì ĐBQH phải thường xuyên tiếp xúc, tìm hiểu tâm tư, nguyện
vọng của cử tri. ĐBQH có nhiệm vụ tham gia các kì họp Quốc hội, tham gia quyết định
các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Để việc làm này có hiệu quả thì
trước kì họp Quốc hội, ĐBQH phải tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe nhân dân đóng
góp ý kiến.
ĐBQH phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ quyền
và lợi ích của công dân.... ĐBQH là cầu nối giữa nhân dân và nhà nước.
2. Quyền hạn của đại biểu Quốc hội:
Quyền hạn quan trọng nhất của ĐBQH là tham gia thảo luận, tranh luận, đóng góp ý
kiến về các vấn đề trong kì họp QH, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
ĐBQH có quyền sáng kiến lập pháp, chất vấn Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ
và các thành viên khác của Chính phủ…ĐBQH có quyền yêu cầu cá nhân, tổ chức, đơn


1
vị hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết để chấm dứt những hành vi vi phạm
pháp luật; có quyền tham gia bầu cử và có thể được bầu cử vào cơ quan nhà nước, các
tổ chức của Quốc hội; có quyền biểu quyết các dự án luật, các nghị quyết, tham dự các
kì họp hội đồng nhân dân, phát biểu ý kiến nhưng không được biểu quyết …Luật tổ
chức Quốc hội còn có quy định mới: ĐBQH có quyền kiến nghị với Ủy ban thường vụ
Quốc hội xem xét trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các
chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
ĐBQH nếu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tùy theo mức
độ sẽ bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm. ĐBQH có thể xin thôi làm nhiệm vụ vì lý do
sứ khỏe hoặc vì lý do khác không thể đảm đương được nhiệm vụ đại biểu.
II. Nâng cao hoạt động của đại biểu Quốc hội
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội.
Thực tiễn hoạt động của ĐBQH trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến
tích cực và đạt được hiệu quả đáng kể, Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật quan
trọng và sửa đổi, bổ sung một số luật, đáp ứng với yêu cầu đổi mới, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân, góp phần đưa đất nước phát triển trong thời kỳ đổi mới.
Để đảm bảo cho Quốc hội và ĐBQH thực hiện tốt chức năng và quyền hạn của
mình (như Hiến pháp và luật quy định), Đảng cần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng với Quốc hội và ĐBQH. Để Quốc hội có quyền lực thật sự, cần thường xuyên
đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong mọi hoạt động của Quốc hội, Đảng và Nhà nước
nhằm tập trung trí tuệ toàn Đảng, toàn dân phấn đấu đạt mục tiêu hàng đầu nhất quán là
tất cả để phục vụ lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Trên thực tế phát triển cách mạng
Việt Nam nhiều thập kỷ qua cho thấy: chỉ có dưới sự lãnh đạo của Đảng thì các đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng mới đi vào cuộc sống và mang lại kết quả tốt đẹp.
Đây là yêu cầu rất quan trọng đối với việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt
động của Quốc hội. Nội dung này yêu cầu Quốc hội phải kịp thời thể chế hóa các chủ
trương, đường lối của Đảng thành các quy định của Nhà nước và quán triệt tư tưởng,
định hướng của Đảng đối với những vấn đề mà Quốc hội xem xét, quyết định. Đồng
thời, sự lãnh đạo của Đảng cũng tạo cơ sở, tạo điều kiện để Quốc hội thực hiện đầy đủ

chức năng, nhiệm vụ của mình.

2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội.
2
Để có được một ĐBQH đủ tiêu chuẩn, xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân,
làm tròn nhiệm vụ ĐBQH trong giai đoạn cách mạng mới, vấn đề hoàn thiện các quy
định của pháp luật bầu cử ĐBQH để đảm bảo yêu cầu “đầu vào” của người đại biểu có
ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết. Theo hướng đó, cần hoàn thiện các quy định của
pháp luật về bầu cử theo hướng sau:
Thứ nhất: Mở rộng phạm vi lựa chọn của cử tri bằng cách tăng số người ứng cử
cho một đơn vị bầu cử; quy định cụ thể trình tự thủ tục tự ứng cử để tạo điều kiện cho
công dân thực hiện quyền tự ra ứng cử.
Thứ hai: Phân bổ hợp lý cơ cấu, thành phần, số lượng ĐBQH phù hợp với đặc
thù của mỗi địa phương và vùng lãnh thổ kết hợp với cơ cấu theo ngành, lĩnh vực hoạt
động, bảo đảm phát huy sức mạnh ý chí đại diện cho toàn dân.
Thứ ba: Hoàn thiện chế định bầu cử ở đơn vị bầu cử, xác định rõ tiêu chí cơ bản
để ấn định số đại biểu được bầu của mỗi tỉnh, thành phố và của mỗi đơn vị bầu cử là số
dân, trên nguyên tắc đảm bảo ngang bằng tính đại diện; nghiên cứu để cho phép một số
địa phương, nhóm xã hội đặc thù có tỷ lệ đại biểu cao hơn; cần thiết khôi phục lại
quyền chọn nơi ứng cử; bỏ những quy định “quá trói” trong hiệp thương cho phép
nhiều người tham gia tranh cử theo đúng tư tưởng của Hồ Chí Minh khi kêu gọi người
tài giỏi ra gánh vác việc nước.
Thứ tư: Hoàn thiện phương thức xác định kết quả bầu cử theo hướng người trúng
cử phải được quá nửa số phiếu bầu; sửa đổi, bổ sung một số chế định về bầu thêm, bầu
lại, bầu bổ sung ĐBQH; làm rõ cách tính tỷ lệ phiếu để xác định kết quả bầu cử; danh
sách người ứng cử trong cuộc bầu cử thêm, bầu cử lại ĐBQH, bầu cử bổ sung ĐBQH.
Nếu thực hiện được các điều kiện trên thì sẽ đảm bảo cho đội ngũ ĐBQH và kì
họp Quốc hội hoạt động có hiệu quả nhất có thể. Ví dụ về trường hợp hoạt động có hiệu
quả tốt như sự kiện Ngài Alexander Tschaeppaet, Thị trưởng TP.Bern (Thụy Sỹ) sẽ trao
giải thưởng cho ĐBQH Nguyễn Đình Xuân nhằm ghi nhận những đóng góp của ông

trong vấn đề bảo vệ các loài gấu của Việt Nam trước nguy cơ tuyệt chủng. Lễ trao giải
thưởng diễn ra từ lúc 10h30-12h30 ngày 20/4/2010, do Đại sứ quán Thụy Sỹ tại Việt
Nam phối hợp với Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV) tổ chức. ĐBQH Nguyễn
Đình Xuân là Ủy viên Ủy ban Khoa học công nghệ và môi trường Quốc hội, ông có
nhiều hoạt động tích cực bảo vệ động vật hoang dã, nhất là loài gấu. Ông từng đích
thân khảo sát tình trạng nuôi nhốt gấu để hút mật bán cho khách du lịch Hàn Quốc tại
TP.Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh) hồi tháng 5/2009.
3
3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu
Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội.
3.1. Trong hoạt động lập pháp.
Hàng năm Quốc hội xem xét, thông qua khoảng từ 8 đến 10 dự án luật, bộ luật;
mỗi kỳ họp khoảng từ 4 đến 5 dự án. Do đặc thù tổ chức và hoạt động của Quốc hội
nước ta, hầu hết các ĐBQH không chuyên trách lại phải đảm nhiệm các công tác khác
nhau ở trung ương hoặc địa phương, điều kiện về thời gian và vật chất dành cho nghiên
cứu chuẩn bị rất hạn chế và mỗi năm Quốc hội chỉ tiến hành 2 kỳ họp. Do đó, ngoài
việc thảo luận, chính thức thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội, việc nghiên cứu
tham gia ý kiến đóng góp vào các dự án luật trong thời gian giữa 2 kỳ họp Quốc hội là
rất quan trọng và cần thiết.
Để đáp ứng yêu cầu đó, đòi hỏi phải có sự đổi mới quy trình lập pháp của Quốc
hội, trong đó có giai đoạn tham gia xây dựng dự án luật của ĐBQH và Đoàn ĐBQH
trước kỳ họp. Giai đoạn này thực chất là giai đoạn ĐBQH tiếp cận và nghiên cứu các
dự án luật. Nhìn chung trong hoạt động lập pháp, ĐBQH có nhiều đóng góp tích cực,
đã có những sáng kiến, cách làm phù hợp trong quy trình xây dựng pháp luật hiện
nay.Về vấn đề này, tại kì họp thứ 4 Quốc hội khoá XII, đã có 47 ĐBQH t ại TP. Hồ
Chí Minh tham gia thảo luận sôi nổi, đóng góp ý kiến vào các điều khoản cụ thể của
các dự án luật và được Quốc hội xem xét thông qua. Với thực tiễn hoạt động như vậy
các ĐBQH đã trở thành lực lượng nòng cốt, chỗ dựa quan trọng trong quá trình thảo
luận, xem xét dự án luật, pháp lệnh. Vì vậy, cần tạo điều kiện thuận lợi để ĐBQH có
thông tin cần thiết về nội dung của các dự án luật, chuẩn bị hệ thống tri thức làm cơ sở

cho việc thảo luận, thông qua các dự án luật tại kỳ họp có hiệu quả, chất lượng
3.2.Trong hoạt động giám sát.
Hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội
rất đa dạng và phong phú, thông qua hoạt động xem xét báo cáo công tác giữa năm và
hàng năm của các đối tượng bị giám sát; xem xét việc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của các đối tượng chịu sự giám sát; việc tổ chức các đoàn giám sát thực tế và
thông qua việc xem xét trả lời chất vấn.
Để tạo điều kiện, bảo đảm cho ĐBQH, Đoàn ĐBQH thực hiện tốt quyền giám
sát của mình, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội,
cần quan tâm một số vấn đề sau:
4
Thứ nhất: Cần tăng cường hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, các
ĐBQH và Đoàn ĐBQH. Để các cơ quan của Quốc hội thực hiện tốt, hiệu quả hoạt động
giám sát, cần tăng cường các cơ quan này về mọi mặt (cán bộ và cơ sở vật chất); đồng
thời, bằng mọi cách nâng cao chất lượng ĐBQH, bảo đảm cho ĐBQH có điều kiện và
khả năng để đảm nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ của mình. Mặt khác, phải củng cố,
tăng cường hoạt động của các Đoàn ĐBQH với tính chất là tổ chức hoạt động của các
Đoàn ĐBQH với tính chất là tổ chức hoạt động của ĐBQH ở địa phương.
Thứ hai: Trong điều kiện của nước ta, để bảo đảm cho hoạt động chất vấn của
ĐBQH đạt được kết quả, qua đó tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội đối với hoạt
động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, có thể
kết hợp chế định tín nhiệm với chế định chất vấn. Theo đó, sau khi nghe các quan chức
của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trả lời chất
vấn, căn cứ vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người bị chất vấn, Quốc hội có thể
tiến hành biểu quyết tín nhiệm đối với cá nhân đó. Để trả lời chất vấn tức là ĐBQH
phải có kĩ năng đối thoại.
Thực tế hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của ĐBQH vẫn tồn tại nhiều
khuyết điểm, trong hai ngày 17 và 18/3/2010 tại Chương trình tập huấn cho ĐBQH, GS
- TS Nguyễn Lân Dũng, ĐBQH tỉnh Đăk Lăk có nói: “ Nhiều ĐBQH phát biểu mất
nhiều thì giờ quá, nói những chuyện không phải tầm quốc gia. Đó là chưa nói đến

chuyện họ phát biểu rất giống nhau: Hoặc ca ngợi, hoặc kêu ca, hoặc xin xỏ. Phải nói
thẳng những chuyện tầm quốc gia. Muốn có tầm, ít mất thời gian của Quốc hội , đại
biểu phải theo dõi thông tin qua nhiều kênh, chắt lọc vấn đề bức xúc của người dân để
đặt câu hỏi chứ không phải đợi đến kỳ họp Quốc hội mới chuẩn bị…”. Để hạn chế mặt
tiêu cực này ông Dũng cho rằng kỹ năng tập huấn cho ĐBQH quan trọng hơn cả là kỹ
năng đối thoại. “Mình phải có thông tin thì mình mới nói ở Quốc hội được. Mình phải
nói đúng chứ còn những chuyện khác (cử chỉ, thái độ…) người ta có thể tha thứ. Cơ
bản là ĐBQH nói cái gì, có hợp với lòng dân không, có thiết thực không và có tác dụng
không. Tôi nghĩ cái đó là trí tuệ. Mà trí tuệ muốn có là phải tiếp xúc, phải lắng nghe,
phải thu thập, phải có nhiệt huyết và phải can đảm. Nhiều người ngại vì đụng đến
chuyện này chuyện kia… Và tôi xin nhấn mạnh là không được từ chối tiếp xúc với cử
tri, dù cử tri đó không thuộc địa bàn mình ứng cử. Mình phải biết lựa chọn vấn đề
đúng. Đại biểu phải tìm hiểu, nghiên cứu và chịu mất thì giờ về những vấn đề mình
quan tâm. Và khi gửi cái gì cho cơ quan chính quyền thì phải thấy đúng mới gửi”.
5

×