Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.54 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM ANH ĐỨC

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM
VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HOÀNG THỊ MINH SƠN

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ
ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi.
Hà Nội, Ngày 31 tháng 07 năm 2016
Xác nhận của giáo viên hướng dẫn

Tên tác giả

PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn


Phạm Anh Đức


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1:LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM
SÁT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM
VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
9
1.1. Khái niệm, đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
9
1.2. Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
16
1.3. Nội dung nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
20
Kết luận chương 1
25
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN
HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN
BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
26
2.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công
tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
26
2.2. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc tiếp

nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
38
2.3. Đánh giá quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
55
Kết luận chương 2
59
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẨM
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG
GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ
KHỞI TỐ
60
3.1. Thực trạng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
60
3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
75
3.2. Các giải pháp khác
79
Kết luận chương 3
87
KẾT LUẬN
88


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự


BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

KSV

Kiểm sát viên

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện Kiểm sát

VKSND

Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
1.

Bảng 3.1 thống kê số tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về

tội phạm và kiến nghị khởi tố từ năm 2011 đến 2015;
2.

Bảng 3.2 thống kê số vụ án hình sự Viện kiểm sát yêu cầu khởi

tố và trực tiếp khởi tố qua kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố từ năm 2011 đến 2015;
3.

Bảng 3.3 thống kê số tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố chưa giải quyết và quá hạn từ năm 2011 đến 2015;
4.

Bảng 3.4 thống kê kết quả kiểm sát trực tiếp việc giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ năm 2011 đến 2015.


6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư pháp hình sự nói chung cũng như quá trình điều tra tội phạm nói riêng là
những lĩnh vực đặc thù thuộc về nhánh quyền lực tư pháp của nhà nước, đây cũng là

những biện pháp mang tính nghiêm khắc nhất của nhà nước nhằm chứng minh, làm
rõ và xử lý những hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội xâm hại đến những giá trị
của quyền con người. Chính vì vậy, đây được xem là những công cụ, biện pháp hiệu
quả để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nhưng đây cũng là lĩnh vực tiềm ẩn
những nguy cơ, những mối đe dọa xâm hại đến quyền con người, quyền công dân
một cách nghiêm trọng nếu việc điều tra, truy tố, xét xử đối với những người bị tình
nghi là thực hiện hành vi phạm tội mà không đảm bảo áp dụng đúng các quy định
của pháp luật dẫn đến tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm thì hiệu quả của việc bảo
vệ các giá trị của quyền con người cũng không còn nữa. Để hạn chế được những
mặt trái của tư pháp hình sự nói chung, của quá trình điều tra vụ án hình sự nói
riêng, việc quy định chặt chẽ khâu giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là rất cần
thiết, tạo điều kiện cho việc khởi tố, điều tra, xử lý người phạm tội được chính xác,
khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật bởi việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có ý nghĩa đặc biệt, nhằm kịp thời
phát hiện hành vi phạm tội xảy ra; trên cơ sở đó, cơ quan có thẩm quyền xác định có
hay không có dấu hiệu tội phạm để xem xét quyết định việc khởi tố hay không khởi
tố vụ án hình sự. Đây là hoạt động mở đầu của mọi hoạt động tố tụng hình sự, là
“đầu vào” của toàn bộ quy trình tố tụng sau này, nếu kiểm sát được chặt chẽ “đầu
vào” thì sẽ đảm bảo hiệu quả các hoạt động tố tụng hình sự, tránh oan sai, bỏ lọt tội
phạm. Là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp, Viện kiểm sát có vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Hoạt động của Viện kiểm sát trong giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm có vị trí, vai trò và ý nghĩa tiên quyết để bảo đảm mọi
hành vi phạm tội, người phạm tội đều được phát hiện và xử lý kịp thời, đúng pháp
luật. Thực tiễn thực hành quyền công tố cho thấy, kiểm sát tốt việc giải quyết tố


7

giác, tin báo tội phạm sẽ quyết định chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát

điều tra, kiểm sát xét xử, những bước quan trọng để có thể khẳng định có hay không
có hành vi tội phạm xảy ra, người nào thực hiện hành vi phạm tội, tính chất, mức độ
và hậu quả do hành vi phạm tội đó gây ra như thế nào. Đồng thời, thông qua hoạt
động này để có cơ sở khẳng định việc khởi tố là đúng người, đúng tội và bảo đảm
các căn cứ để xử lý tội phạm, bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội đều phải được xử
lý theo quy định của pháp luật, tránh làm oan, sai, bỏ lọt tội phạm... Như vậy, kiểm
sát giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố là hoạt động không thể
thiếu trong quá trình tố tụng hình sự vì nó bảo đảm cho việc khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không bỏ lọt tội phạm.
Mặc dù trong những năm qua, công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố luôn được chú trọng, góp phần bảo đảm cho
pháp luật được thực hiện nghiêm minh, mọi hành vi xâm hại lợi ích của Nhà nước,
của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được phát hiện xử lý kịp thời
theo pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội nhưng trong quá
trình thực hiện vẫn còn không ít những hạn chế, vướng mắc cần phải được khắc
phục. Do vậy, học viên lựa chọn đề tài “nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp chương trình đào tạo Thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện
kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã có
nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề này, tập trung nghiên
cứu theo những khía cạnh sau:
- Nghiên cứu chung về việc tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
như: Nguyễn Minh Đức (2006), Về chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo tinh
thần cải cách tư pháp, 1 Trong bài viết này, tác giả khẳng định, hiện nay Viện kiểm
sát có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy
Nguyễn Minh Đức, Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo tinh
thần cải cách tư pháp.
1



8

nhiên, tác giả đề nghị ngoài việc tiếp tục giao cho Viện kiểm sát chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, cần tiếp tục nghiên cứu để
tiến tới có thể giao lại nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật cho Viện kiểm
sát; Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học,
Hà Nội; Khuất Duy Nga (2005): Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về
cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời kì đổi
mới, Tạp chí chuyên ngành, Hà Nội; Đỗ Văn Dương (2006): Cơ quan thực hành
quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, Tạp chí chuyên ngành…
- Nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong từng giai đoạn
như: Lê Hữu Thể (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra, Sách tham khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Nghiên cứu về thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong
việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, như:
Nguyễn Duy Hồng (2009), Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố, Tạp chí chuyên ngành. Tại bài viết, tác giả đã đưa ra một số biện pháp
cụ thể để khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm; bắt tạm giữ, khởi tố điều tra không
đúng pháp luật, đồng thời đưa ra biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
quản lý về tội phạm và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố của Viện kiểm sát.
- Hà Thái (2010), Một số vấn đề rút ra từ công tác kiểm sát việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra trên địa bàn
thành phố Hà Nội, Tạp chí chuyên ngành. Trong bài viết, tác giả đã đưa ra thực
trạng công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố, đồng thời cũng đưa ra một số kinh nghiệm trong hoạt động tiếp nhận, kiểm
sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;

Nguyễn Đình Trung (2012), Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố,
Tạp chí chuyên ngành. Tại bài viết, tác giả khẳng định vị trí, vai trò của Viện kiểm


9

sát trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Tuy nhiên, tác giả cũng cho rằng phạm vi, phương thức kiểm sát cần được nghiên
cứu và thống nhất thực hiện nhằm đảm bảo cho hoạt động kiểm sát đạt hiệu quả cao
hơn;
Thái Hưng (2013), Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Vụ thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra VKSND tối cao, Trang thông tin điện tử VKSND tối
cao;
Nguyễn Huy Thái (2014), Cần sửa đổi bổ sung một số quy định Bộ luật Tố
tụng hình sự về giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; khởi tố
vụ án hình sự, Tạp chí chuyên ngành. Trong bài viết này, tác giả đã nêu được những
bất cập, hạn chế trong việc quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát khi kiểm sát
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều
tra, đồng thời đưa ra một số kiến nghị sửa đổi bổ sung một số quy định của
BLTTHS 2003;
Nông Xuân Trường (2014), Vai trò, trách nhiệm của VKS trong giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm thực trạng và một số giải pháp, Trang thông tin điện tử
VKSND tối cao, Hà Nội;
Nguyễn Đăng Khoa (2014), Bàn về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố nhằm tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
hoạt động điều tra, Tạp chí chuyên ngành.
Những công trình khoa học, những bài viết trên đã tập trung nghiên cứu về tổ

chức, hoạt động, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và
một số công trình, bài viết nghiên cứu về chức năng hoạt động của Viện kiểm sát
trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố nói riêng. Tuy
nhiên cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể về những kết quả
đạt được cũng như những bất cập, vướng mắc chưa được tháo gỡ trong quá trình
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tin báo, tố


10

giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng chất
lượng thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và quy định của pháp
luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát và khảo sát thực trạng thực hiện chức năng này trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, luận văn đưa ra giải pháp
nhằm bảo đảm việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Để đạt được những mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ một số vấn đề chung về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
- Nghiên cứu, phân tích, làm rõ quy định của pháp luật Tố tụng hình sự cũng
như Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
- Làm rõ thực trạng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát, xác
định những hạn chế trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố và chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến những vướng mắc nàylàm cơ sở cho
việc đưa ra giải pháp.
4. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn

Để đạt được các mục tiêu nêu trên, luận văn phải trả lời được các câu hỏi
sau đây:
- Khái niệm của nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là gì? Nhiệm vụ, quyền hạn đó có gì
khác so với những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong các giai đoạn khác
của Tố tụng Hình sự?
- Dựa trên cơ sở nào để quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố? Ý nghĩa của việc
quy định những nhiệm vụ, quyền hạn đó?


11

- Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố như thế nào? So với Bộ
luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã có những sửa
đổi, bổ sung gì để đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố?
- Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có
những khó khăn, vướng mắc, hạn chế nào? Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
đó là gì?
- Những vấn đề cần kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trong
thực tiễn?
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận,
quy định của pháp luật Tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và
thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Cùng với việc nghiên cứu mặt lý luận cơ bản, luận văn nghiên
cứu quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 trong mối liên hệ với BLTTHS
năm 2015 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dânnăm 2014 về nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố mà không nghiên cứu quy định của pháp luật nước ngoài về vấn đề này.
Luận văn cũng không nghiên cứu thực trạng nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
quân sự trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Mặc dù BLTTHS năm 2015 đã được ban hành, nhưng theo Nghị quyết
144/2015/QH13 về việc lùi hiệu lực thi hành của BLTTHS số 101/2015/QH13 từ
ngày 1 tháng 7 năm 2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật


12

hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành, luận văn này ngoài việc phân tích
quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố hình trong BLTTHS năm 2003 tác giả còn đối
chiếu với BLTTHS năm 2015 và chỉ ra những điểm mới đã được khắc phục.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo vềtội phạm và kiến
nghị khởi tố được từ năm 2011 đến năm 2015 trên phạm vi cả nước.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Tác giả dựa trên hệ tư tưởng và phương pháp luận của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng; đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Phương pháp cụ thể: Tác giả sử dụng hệ thống phương pháp phổ biến hiện
nay trong nghiên cứu khoa học như: phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê,

logic,...để giải quyết mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra.
7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn
Luận văn góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Giá trị ứng dụng: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo luật
và đối với những người làm công tác thực tiễn trong việc giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia thành 3 chương với các nội dung sau:
Chương 1: Lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Chương 2: Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố


13

Chương 3: Thực trạng thực hiện và giải pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố


14

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ
KHỞI TỐ

1.1. Khái niệm, đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là những nguồn thông tin
quan trọng về tội phạm và hành vi nguy hiểm xâm hại đến các quan hệ xã hội được
pháp luật hình sự bảo vệ. Việc nghiên cứu để nhận thức đầy đủ tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố có ý nghĩa rất quan trọng về cả mặt lý luận cũng như
thực tiễn áp dụng.
Có nhiều cách hiểu về tố giác, tin báo về tội phạm, tuy nhiên, qua nghiên cứu
lý luận và thực tiễn có thể nêu một khái niệm chung về tố giác, tin báo về tội phạm
như sau: Tố giác, tin báo về tội phạm là những thông tin về tội phạm được quy định
trong Bộ luật hình sự do công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị xã
hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,... (gọi tắt là cá nhân, cơ quan, tổ chức)
cung cấp bằng các hình thức thông tin khác nhau; do các phương tiện thông tin đại
chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú để cho cơ quan có trách nhiệm tiếp
nhận và giải quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự2.
Còn kiến nghị khởi tố được hiểu là: việc các cơ quan Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội, kinh tế thông qua công tác kiểm tra, thanh tra và khi thực hiện các
nhiệm vụ, công tác khác phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, người có hành vi
phạm tội và có văn bản, kèm theo tài liệu liên quan, kiến nghị đến cơ quan có thẩm
quyền để xem xét, khởi tố vụ án hình sự, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội
để điều tra, xử lý.3
2
3

Xem Điều 144 BLTTHS năm 2015
Xem Điều 144 sách đã dẫn



15

Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định của BLTTHS 2003 về tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, ngày 02/8/2013
liên ngành Bộ Công an, Bộ Quốc Phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông Nghiệp và phát
triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch
hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Theo đó, tố giác tội phạm là những
thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng
cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; Tin báo về tội
phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện
thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có
trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; Kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước
khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có văn bản
kiến nghị CQĐT xem xét khởi tố vụ án hình sự.4
Kế thừa các quy định của BLTTHS năm 2003 và Thông tư liên tịch số 06,
BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ khái niệm nguồn tin về tội phạm và khái niệm tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố tại như sau5:
Nguồn tin về tội phạm gồm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lời khai của người phạm tội tự thú và thông tin về tội
phạm do cơ quan tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện.
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu
tội phạm với cơ quan có thẩm quyền;
Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan,
tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm
trên phương tiện thông tin đại chúng;
Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề nghị bằng văn
bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho CQĐT, Viện kiểm sát có thẩm
quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
Điều 3, Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT - BCA - BQP – BTC - BNN&PTNT -VKSNDTC hướng dẫn

thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
5
Xem Điều 144 BLTTHS năm 2015
4


16

Sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo, CQĐT cần xem xét vụ việc có dấu hiệu tội
phạm hay không. Dấu hiệu tội phạm là căn cứ pháp lý để ra Quyết định khởi tố vụ
án hình sự, dấu hiệu tội phạm được thể hiện trong BLHS năm 1999. Theo đó,“Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm
phạm độc lập chủ quyền…”6. Tại thời điểm nhận được thông tin về tội phạm các cơ
quan tiến hành tố tụng không thể ngay lập tức xác định được sự kiện xảy ra có phải
là tội phạm hay không do vậy BLTTHS nước ta quy định chỉ cần xác định có dấu
hiệu tội phạm là đã có căn cứ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, tại
khoản 4 Điều 8 BLHS quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm,
nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm".
Chính vì vậy những cơ sở được quy định trong Điều 100 BLTTHS năm 2003 chỉ là
những tin tức ban đầu về tội phạm. Dựa vào những cơ sở này, các cơ quan có thẩm
quyền phải kiểm tra, xác minh xem có hay không có dấu hiệu tội phạm, tính chất
nguy hiểm cho xã hội có đáng kể hay không để quyết định khởi tố vụ án, không
khởi tố hoặc tạm đình chỉ.
Do vậy, có thể hiểu giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố là: hoạt động tiếp nhận, kiểm tra, xác minh nguồn tin để ra các quyết định khởi
tố, không khởi tố vụ án hình sự hoặc tạm đình chỉ việc xác minh, kiểm tra nguồn tin.
Trong khoa học pháp lý, "thẩm quyền", "nhiệm vụ" và "nghĩa vụ" là các khái
niệm khác nhau. Thẩm quyền là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết
định của các cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy nhà nước do pháp luật quy định7. Khái

niệm "thẩm quyền" bao hàm hai nội dung chính là quyền hành động và quyền quyết
định của cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước. Quyền hành động là quyền được
làm những công việc nhất định, còn quyền quyết định là quyền hạn giải quyết công
việc đó trong phạm vi pháp luật cho phép (thẩm quyền hành động). Nghĩa vụ là việc
mà theo đó một chủ thể (cá nhân, cơ quan, tổ chức) phải thực hiện hoặc không thực
6

Xem Điều 8 BLHS năm 1999

Viện ngôn ngữ học, (1999),Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn Hóa – thông tin – trung tâm ngôn
ngữ và văn hóa Việt Nam, Bộ giáo dục và Đào tạo, tr 1251, Hà Nội.
7


17

hiện khi tham gia vào một quan hệ pháp luật.
Nhiệm vụ, được hiểu là "công việc phải làm, gách vác"8 hay "công việc phải
làm vì một mục đích và trong một thời gian nhất định" 9. Theo cách giải thích này
thì nhiệm vụ nói chung là công việc mang tính chất bắt buộc đối với chủ thể phải
thực hiện. Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách chủ thể trong quan hệ xã
hội mà chủ thể đó tham gia và được pháp luật quy định. Cùng một chủ thể, nhưng
mỗi quan hệ xã hội khác nhau thì quy định pháp luật xác định nhiệm vụ khác nhau.
Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ của cơ quan VKSND là những hoạt động cụ thể của
VKSND trong một thời gian nhất định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
ngành mình để cùng thực hiện nhiệm vụ của bộ máy nhà nước trên cơ sở quy định
của Hiến pháp và pháp luật.
Nhiệm vụ của VKSND trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố là những yêu cầu cụ thể được pháp luật quy định mà VKSND phải thực
hiện trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

nhằm bảo đảm việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của
các cơ quan có thẩm quyền đúng theo quy định của pháp luật; Bảo đảm việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của các cơ quan có thẩm
quyền nhanh chóng, khách quan, toàn diện và kịp thời; Bảo đảm mọi quyết định tố
tụng của các cơ quan có thẩm quyền ban hành trong việc tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo và kiến nghị khởi tố đúng theo quy định của pháp luật. Nhiệm vụ của
VKSND trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là những
hoạt động do pháp luật quy định mà Viện kiểm sát phải tiến hành, nhằm thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp để bảo đảm cho
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được thực hiện
đúng theo quy định của pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội.
Quyền hạn được hiểu là quyền theo cương vị, chức vụ cho phép10. Dưới góc

8

Sách đã dẫn
Hoàng Phê (Chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

9


18

độ pháp lý, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được xác định theo
phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vị trí công tác và trong phạm
vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của pháp luật11.
Quyền hạn thường gắn chủ thể với một cương vị, tư cách cụ thể. Trong khoa
học pháp lý, quyền hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước
hoặc của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn của cơ quan, tổ

chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ
quan, tổ chức. Quyền hạn của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức là quyền
quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó.
Quyền hạn của VKSND trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố là hệ thống những quyền năng pháp lý được pháp luật quy định mà Viện
kiểm sát được làm để thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố, kiếm sát các
hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo cho việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố có đặc điểm khác với nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát trong các hoạt động khác, giúp chúng ta nhận diện chính xác bản chất, nội
dung cũng như cách thức thực hiện trong hoạt động này. Theo tác giả, nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là một trong những nhóm hoạt động và quyền
năng của Viện kiệm sát được pháp luật quy định khi thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự;

Viện ngôn ngữ học (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn Hóa – thông tin – trung tâm ngôn ngữ và văn
hóa Việt Nam, Bộ giáo dục và Đào tạo, tr 1384, Hà Nội.
11
Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển luật học, NXB bách khoa, tr. 254, tr. 459, Hà Nội.
10


19

Thứ hai, so với nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng khác, đây là hoạt động chỉ do cơ quan duy nhất là Viện kiểm sát tiến
hành theo quy định pháp luật tố tụng hình sự. Theo Hiến pháp và pháp luật hiện
hành, Viện kiểm sát là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát thực hiện
quyền lực nhà nước, trực tiếp tiếp thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước; bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo đảm mọi hành vi xâm
phạm tới lợi ích của Nhà nước, của tập thể và lợi ích hợp pháp của công dân phải
được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật;
Thứ ba, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố được tiến hành khi cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận
nguồn tin về tội phạm, là hoạt động mở đầu của tố tụng hình sự;
Thứ tư, mặc dù đều nhằm thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự, nhưng trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn khác với các
giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử;
Trên cơ sở phân tích, làm rõ khái niệm có liên quan như tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát cũng như đặc
điểm của nó, có thể thấy khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được hiểu như sau:
Nhiệm vụ của VKSND trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố là những hoạt động mà Viện kiểm sát phải tiến hành, các hoạt động
này được pháp luật quy định nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố,
kiểm sát các hoạt động tư pháp để bảo đảm cho việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật,
không làm oan sai, bỏ lọt tội phạm.


20


Quyền hạn của VKSND trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố là hệ thống những quyền năng pháp lý được pháp luật quy định mà
Viện kiểm sát được làm để thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố, kiếm sát
các hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo cho việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, không
làm oan sai, bỏ lọt tội phạm
Mối quan hệ giữa “nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố” và “quyền hạn của Viện kiểm sáttrong giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”
Có thể thấy, giữa “nhiệm vụ của Viện kiểm sát” và “quyền hạn của Viện
kiểm sát” có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ không thể tách rời. Nhiệm vụ, bản
thân nó cũng đã chứa đựng quyền hạn. Nhiệm vụ - quyền hạn tạo nên sự thống nhất
trong trạng thái cân bằng do pháp luật quy định, khi pháp luật trao cho Viện kiểm
sát một nhiệm vụ nào đó thì cũng sẽ trao lại cho cơ quan này những quyền hạn nhất
định để thực hiện nhiệm vụ đó. Ngược lại, nếu VKS có thể sử dụng quyền hạn trong
một giai đoạn cụ thể trong giải quyết vụ án hình sự cụ thể thì có nghĩa là cơ quan
này đã được pháp luật trao cho nhiệm vụ giải quyết vụ án đó và phải thực hiện đầy
đủ nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác. Mối quan hệ giữa nhiệm vụ của
Viện kiểm sát và quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố cũng không ngoại lệ, khi pháp luật Tố tụng hình sự
trao cho Viện kiểm sát những nhiệm vụ nhất định trong giai đoạn tiếp nhận và giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì đồng thời cũng sẽ trao
cho Viện những quyền hạn cụ thể phù hợp để thực hiện những nhiệm vụ đó. Trên
thực tế rất khó để phân biệt hoạt động nào thể hiện nhiệm vụ của VKS và hoạt động
nào thể hiện quyền hạn của VKS trong giai đoạn này, ví dụ: theo quy định tại Điều
86 Bộ luật TTHS năm 2003, Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ,
cơ qua có thẩm quyền phải gửi Quyết định tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp và
nếu thấy việc tạm giữ không đúng pháp luật hoặc không cần thiết thì VKS ra quyết
định hủy bỏ việc tạm giữ. Đây vừa là nhiệm vụ và cũng là quyền hạn của VKS khi



21

thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Mối quan hệ này không
những có ý nghĩa về mặt lý luận mà cả trong hoạt động thực tiễn. Nhận thức, sử
dụng đúng quyền hạn theo nhiệm vụ, đúng đối tượng, đúng mục đích giúp cho Viện
kiểm sát có sự vận dụng đồng bộ, tổng hợp, linh hoạt nhiệm vụ và quyền hạn qua đó
phát huy tối đa hiệu quả hoạt động. Có thể nói nhiệm vụ và quyền hạn của Viện
kiểm sát nói chung và nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nói riêng là hai bộ phận không tách rời trong
quy định về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát cũng như việc thực hiện các quy định
này trong thực tiễn. Việc thực hiện quyền cũng đồng thời là việc thực hiện nhiệm vụ
của Viện kiểm sát và ngược lại.
1.2. Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.2.1. Cơ sở quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Thứ nhất, Căn cứ vào chức năng cơ bản của tố tụng hình sự.
Trong tố tụng hình sự có ba chức năng cơ bản là chức năng buộc tội, chức
năng gỡ tội và chức năng xét xử. Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện chức năng buộc tội. “Chức năng này được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố...”12;
Thứ hai, Căn cứ vào chức năng của chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Mỗi chức năng tố tụng được thực hiện bởi chủ thể hoặc nhóm chủ thể khác
nhau khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Chức năng tố tụng là chức
năng của chủ thể cụ thể khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự13, là nghĩa vụ
tố tụng chủ yếu của các chủ thể mà thông qua đó thể hiện bản chất tố tụng và vai trò
của các chủ thể đó trong hoạt động tố tụng. Mỗi chủ thể chỉ thực hiện chức năng

vốn có của mình.14 Chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự là chức năng
Nguyễn Văn Huyên, Lê Lan Chi chủ biên (2016), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015, Nhà xuất bản lao
động, tr.26, Hà Nội.
13
Xem: Lê Tiến Châu (2003), Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, tr.11, Hà Nội.
12


22

thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Do vậy, nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố được quy định phù hợp với chức năng của Viện kiểm sát;
Thứ ba, căn cứ vào nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.
Nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng và quan điểm chủ đạo
phản ánh yêu cầu phát triển khách quan của đời sống xã hội, được thể chế hóa bằng
pháp luật, có ý nghĩa quyết định đối với việc xác lập và thực hiện các hoạt động tố
tụng hình sự, các quan hệ tố tụng hình sự cũng như đối với các hình thức và phương
thức thực hiện những hoạt động và quan hệ tố tụng đó15. Việc quy định nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự như nguyên tắc:
Trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự; Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự...
Thứ tư, Căn cứ vào tổ chức Bộ máy nhà nước.
Căn cứ Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua cơ quan đại diện dân
cử. Bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, quyền lực Nhà nước
thống nhất nhưng trong bộ máy nhà nước có sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan Nhà nước

được pháp luật quy định chức năng nhất định để thực hiện quyền lực nhà nước
thống nhất. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan được Hiến pháp quy định hai chức
năng: Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự
Xem: Nguyễn Thái Phúc ( 2003), Dự thảo BLTTHS sửa đổi và nguyên tắc tranh tụng, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 6, Hà Nội..
15
Xem: Đào Trí Úc (2016), Hệ thống những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam theo BLTTHS
năm 2015, Sách “Những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015”, NXB Chính trị Quôc gia do PGS.TS.
Nguyễn Hòa Bình chủ biên, tr.54, Hà Nội.
14


23

thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm
do luật định16.
Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình
sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án.Viện kiểm sát kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi
phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc
vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm đảm
bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm
và người phạm tội, không làm oan người vô tội17.Trên cơ sở Hiến pháp, Điều 2 Luật

tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định cụ thể hơn, theo đó: Viện kiểm
sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ
bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.
1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện xử lý kịp thời
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, theo đúng quy định của pháp luật, không làm
oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội. Chính vì vậy, để mọi
hành vi phạm tội được phát hiện xử lý xử lý đúng quy định pháp luật thì việc xác
định căn cứ cho việc khởi tố vụ án hình sự rất là quan trọng nhằm mở đầu cho
những giai đoạn tố tụng tiếp theo. Tuy nhiên, để có được những căn cứ khởi tố vụ
16
17

Xem Điều 107, Hiến pháp năm 2013.
Xem Điều 23 BLTTHS năm 2003.


24

án cần phải có những thông tin ban đầu được tiếp nhận, xác minh theo những trình
tự thủ tục nhất định được pháp luật quy định.
Pháp luật tố tụng hình sự quy định cho các cơ quan tiến hành tố tụng được
phép tiến hành kiểm tra xác minh nguồn tin, thu thập tài liệu chứng cứ và được ra
một số quyết định tố tụng trước khi khởi tố vụ án hình sự. Để có cơ sở tiến hành các
biện pháp nói trên thì trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là
những thông tin, tài liệu ban đầu về tội phạm được CQĐT thu thập làm căn cứ để
khởi tố vụ án bảo đảm hoạt động điều tra, truy tố và xét xử sau này và đồng thời
cũng gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong giai đoạn này nhằm
bảo đảm việc thu thập chứng cứ đúng trình tự thủ tục quy định của pháp luật, không
làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm. Từ những quy định trên của pháp luật
tố tụng hình sự có thể thấy rằng: việc quy định những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
cho Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố có ý nghĩa rất quan trọng cho quá trình điều tra, xử lý tội phạm.
- Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong
giai đoạn ban đầu nhằm bảo đảm trình tự thủ tục tố tụng cho việc khởi tố vụ án mà
còn có ý nghĩa quan trọng trong việc thu thập các thông tin về hoạt động của các
loại tội phạm giúp cho CQĐT tiến hành các biện pháp điều tra, từ đó làm căn cứ xác
lập các chuyên án để đấu tranh với các loại tội phạm.
- Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố góp phần đảm bảo các quyết định tố
tụng, hoạt động tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm đúng theo quy định của pháp luật, các chứng cứ, tài liệu được
thu thập theo một trình tự thủ tục khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác tạo tiền
đề vững chắc cho quá trình điều tra vụ án; những vi phạm pháp luật trong quá trình


25

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được phát hiện kịp
thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh;
- Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố còn khẳng định mối quan hệ và trách

nhiệm phối hợp trong công tác giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố giữa Viện kiểm sát và các cơ quan có nhiệm vụ, thẩm quyền giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Xuất phát từ những quan điểm của Đảng và nhà nước ta về cải cách tư pháp,
Nghị quyết số 49 của Bộ chính trị nêu rõ tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra18, việc quy định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát nói
chung và nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số
49 của Bộ chính trị, góp phần nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử
các vụ án hình sự, hạn chế đáng kể các trường hợp oan sai và bỏ lọt tội phạm.
Xuất phát từ tính kế thừa những kinh nghiệm lập pháp, nghiên cứu về pháp
luật tố tụng hình sự nói chung, trong đó có các chế định về nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, đây
là vấn đề mang tính cấp thiết, cần phải được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự
để đảm bảo việc điều chỉnh các quan hệ tố tụng hình sự phát sinh trong thực tiễn đời
sống pháp lý và những quy định đó đã được các nhà nghiên cứu pháp luật đưa vào
BLTTHS năm 2003 hiện hành và tiếp tục phát triển, hoàn thiện như các quy định
trong BLTTHS năm 2015.
1.3. Nội dung nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
* Nội dung nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công
tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020
18


×