Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiêu thụ năng lượng và vấn đề đô thị hóa đến lượng khí thải CO2 ở các quốc gia châu á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THANH HIỀN

ẢNH HƯỞNG CỦA DÒNG VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI, TIÊU THỤ NĂNG
LƯỢNG VÀ VẤN ĐỀ ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN
LƯỢNG KHÍ THẢI CO2 Ở CÁC QUỐC GIA
CHÂU Á

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THANH HIỀN

ẢNH HƯỞNG CỦA DÒNG VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TIÊU, THỤ NĂNG
LƯỢNG VÀ VẤN ĐỀ ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN
LƯỢNG KHÍ THẢI CO2 Ở CÁC QUỐC GIA
CHÂU Á
Chuyên ngành: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN KIM QUYẾN

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tôi nghiên cứu và thực hiện, các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước hội đồng, cũng như kết quả luận văn của mình.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày….tháng….năm 2018
Tác giả


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Tóm tắt luận văn ................................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI .......................................................................................................... 2
1.1.

Lý do chọn đề tài .............................................................................................................. 2

1.2.


Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................................... 4

1.3.

Câu hỏi nghiên cứu .......................................................................................................... 5

1.4.

Phạm vi thu thập dữ liệu và đối tƣợng nghiên cứu ....................................................... 5

1.5.

Phƣơng pháp nghiên cứu................................................................................................. 6

1.6.

Kết cấu đề tài .................................................................................................................... 7

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM .................................................... 8
2.1.

Cơ sở lý thuyết .................................................................................................................. 8

2.1.1.

Dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài.................................................................... 8

2.1.2.

Lý thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm .............................................................................. 10


2.1.3.

Lý thuyết vành ô nhiễm ......................................................................................... 13

2.1.4.

Lý thuyết đƣờng cong Kuznets về môi trƣờng .................................................... 14

2.2.

Bằng chứng thực nghiệm ............................................................................................... 16

2.2.1.

FDI và lƣợng khí thải CO2 .................................................................................... 16

2.2.2.

Tiêu thụ năng lƣợng và lƣợng khí thải CO2 ........................................................ 21

2.2.3.

Vấn đề đô thị hóa và lƣợng khí thải CO2 ............................................................ 26

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................................................... 31
3.1.

Quy trình nghiên cứu ..................................................................................................... 31


3.2.

Dữ liệu nghiên cứu ......................................................................................................... 31

3.3.

Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................................... 32


3.4.

Mô hình và giả thuyết nghiên cứu ................................................................................ 33

3.4.1.

Mô hình nghiên cứu ............................................................................................... 34

3.4.2.

Giả thuyết nghiên cứu............................................................................................ 35

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................................................ 37
4.1.

Mô tả mẫu nghiên cứu ................................................................................................... 37

4.2.

Ma trận tƣơng quan ....................................................................................................... 41


4.3.

Kết quả kiểm định tính dừng ........................................................................................ 45

4.4.

Kết quả hồi quy .............................................................................................................. 47

4.4.1.

Toàn bộ mẫu ........................................................................................................... 47

4.4.2.

Các quốc gia có thu nhập trung bình cận trên .................................................... 50

4.4.3.

Các quốc gia có thu nhập trung bình cận dƣới ................................................... 54

4.5.

So sánh kết quả............................................................................................................... 57

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 60
5.1.

Kết luận ........................................................................................................................... 60

5.2.


Hàm ý chính sách ........................................................................................................... 62

5.3.

Hạn chế của đề tài và hƣớng nghiên cứu tiếp theo...................................................... 64

PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tổng hợp nghiên cứu trước đây................................................................28
Bảng 3.1. Mô tả biến .................................................................................................35
Bảng 4.1. Mô tả thống kê các biến ............................................................................38
Bảng 4.2. Giá trị trung bình các biến theo quốc gia .................................................40
Bảng 4.3. Ma trận tương quan toàn bộ mẫu ..............................................................42
Bảng 4.4. Ma trận tương quan các quốc gia thu nhập trung bình cận trên ...............43
Bảng 4.5. Ma trận tương quan các quốc gia thu nhập trung bình cận dưới ..............44
Bảng 4.6. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị các biến ..............................................46
Bảng 4.7. Kết quả hồi quy ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiêu
thụ năng lượng đến lượng khí thải CO2 toàn bộ mẫu ...............................................49
Bảng 4.8. Kết quả hồi quy ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiêu
thụ năng lượng đến lượng khí thải CO2 của các quốc gia có thu nhập trung bình cận
trên.............................................................................................................................52
Bảng 4.9. Kết quả hồi quy ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiêu
thụ năng lượng đến lượng khí thải CO2 của các quốc gia có thu nhập trung bình cận
dưới ...........................................................................................................................55
Bảng 4.10. Chênh lệch hệ số hồi quy giữa các quốc gia có thu nhập trung bình cận
trên và cận dưới .........................................................................................................58



DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 2.1. Đường cong Kuznets về môi trường .........................................................15


1

Tóm tắt luận văn
Nghiên cứu này xem xét tác động của tiêu thụ năng lượng, đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) đến lượng phát thải carbon dioxide (CO2) của 37 quốc gia thu nhập
trung bình ở Châu Á trong giai đoạn 1990 – 2016 dựa trên bộ Chỉ số Phát triển Thế
giới của Ngân hàng Thế giới (World Bank), Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương
mại và Phát triển và Cơ quan Quản lý thông tin năng lượng. Kết quả phương pháp
hồi quy GMM tiêu thụ năng lượng (tiêu thụ năng lượng sơ cấp, tiêu thụ năng lượng
nhiên liệu hóa thạch) và FDI đều có tác động cùng chiều, vấn đề đô thị hóa có tác
động ngược chiều đến lượng phát thải CO2 trong toàn bộ mẫu, các quốc gia có thu
nhập trung bình cận trên và các quốc gia có thu nhập trung bình cận dưới. Hơn nữa,
các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy ở các nước có thu nhập trung bình, cả tiêu thụ
năng lượng nhiên liệu sơ cấp và hóa thạch đều làm tăng đáng kể phát thải CO2 và
dẫn đến vấn đề khí nhà kính ở Châu Á.


2

CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1.

Lý do chọn đề tài

Một trong những khía cạnh có liên quan nhất đến vấn đề hội nhập tài chính

toàn cầu hóa được thể hiện thông qua sự dịch chuyển dòng vốn quốc tế giữa các
quốc gia. Mặc dù khái niệm dòng vốn quốc tế phản ánh nhiều loại hình khác nhau
của vốn, chẳng hạn như dòng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (Official
Development Assistance), dòng vốn đầu tư gián tiếp và dòng vốn đầu tư trực tiếp.
Trong đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được nhiều sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng như các nhà hoạch định chính sách trong thời
gian qua với lý do trong thực tế cho thấy rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
chiếm tỷ trọng lớn trong dòng vốn đầu tư vào một quốc gia. Đồng thời, vai trò của
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình phát triển của quốc gia nhận
vốn đầu tư đã được công nhận bởi các nghiên cứu trước đây. Chẳng hạn như dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp cho quốc gia nhận dòng vốn đầu tư tạo được
nhiều việc làm, giới thiệu và truyền bá các công nghệ kĩ thuật mới, chuyển giao tài
sản vô hình, cải thiện phương pháp tổ chức và gia tăng tính cạnh tranh của quốc gia
so với các đối thủ cạnh tranh. Qua đó có thể thấy rằng chính sách thu hút dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được thực thi ở đa số quốc gia trên giới, đặc biệt
là các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng gây ra một số hệ lụy
tiêu cực cho quốc gia được nhận đầu tư, điều mà ít nghiên cứu trước đây quan tâm.
Theo một số báo cáo mới của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát
triển (United Nations Conference on Trade and Development), dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài thường tập trung vào các ngành nghề có liên quan đến các tài
nguyên thiên nhiên (đặc biệt là nông nghiệp, khai thác khoáng sản, sản xuất nhiên
liệu và hóa chất). Mặc dù trong 20 năm gần đây, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài có xu hướng dịch chuyển sang ngành du lịch, ngành nghề thường được cho


3

rằng ít sử dụng tài nguyên thiên nhiên hơn, nhưng có thể thấy rằng lượng đầu tư
trực tiếp nước ngoài chảy vào các quốc gia đang phát triển vẫn càng ngày gia tăng

đáng kể và chủ yếu tập trung vào các ngành cơ bản của quốc gia và đặc biệt là các
ngành này chủ yếu sử dụng tài nguyên thiên nhiên (UNCTAD, 2004; 2007).
Bên cạnh đó, sự suy giảm chất lượng môi trường có nhiều sự quan tâm sâu
sắc bởi các nhà nghiên cứu và chính phủ của các nước trong những thập kỷ gần đây.
Đồng thời, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng được công nhận rằng có liên
quan đến một số tác động tiêu cực đến chất lượng môi trường của các quốc gia nhận
đầu tư. Trong thực tế, việc dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thật sự đóng vai
trò quan trọng trong việc phát triển bền vững hay không thì phụ thuộc đáng kể vào
cách quản lý bởi chính phủ các nước tiếp nhận đầu tư. Nói cách khác, dòng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài phụ thuộc vào tầm nhìn của Chính phủ về phát triển kinh tế
và quản lý môi trường. Tuy nhiên, việc xác định sự thay đổi trong môi trường do sự
dịch chuyển dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các nước trên toàn cầu và
đặc biệt là dịch chuyển đến các nước đang phát triển thì dường như không dễ dàng
và gây ra những tranh luận phức tạp cũng như các quan điểm khác nhau.
Một mặt, các nhà đầu tư – những người dịch chuyển dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài để tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên, thì dường như họ sẽ tìm kiếm
những quốc gia để đầu tư với mục đích đảm bảo mức lợi nhuận kinh tế đạt được là
cao nhất. Có thể thấy rằng những quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên thường có
khung điều tiết môi trường yếu kém hoặc không hiệu quả (UNCTAD, 2004; 2007).
Do đó khi các nhà đầu tư dịch chuyển dòng vốn đầu tư vào các quốc gia này sẽ
mang theo phong cách “các nước phương Tây” hoặc “các nước công nghiệp”. Khi
đó môi trường sống ở các quốc gia nhận đầu tư có thể gặp phải mối đe dọa cao, kết
quả là lượng khí thải CO2 ở các quốc gia này sẽ có xu hướng gia tăng liên tục và
tương đối cao.
Mặt khác, đầu tư quốc tế cũng có thể mang lại lợi ích cho môi trường tự
nhiên của quốc gia nhận đầu tư. Đặc biệt, sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư trực tiếp


4


nước ngoài từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển có thể tạo ra điều
kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ hiện đại hơn, đảm bảo hiệu quả cao
hơn trong việc sử dụng tài nguyên và năng lượng, cùng với việc giảm thiểu chất thải
từ quá trình sản xuất. Trong trường hợp này, các nước đang phát triển có thể tránh
được một số giai đoạn gây tổn hại đến môi trường do quá trình công nghiệp hóa, và
kết quả là sẽ giúp giảm thiểu lượng khí thải CO2 ở các quốc gia này.
Ô nhiễm môi trường khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và "sương mù", gây
nhiều bệnh cho con người. Nó còn tạo ra các cơn mưa axít làm huỷ diệt các khu
rừng và các cánh đồng. Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các
loại khí độc như: CO2, đã gây hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan
trọng gây hiệu ứng nhà kính là cacbonic (CO2), nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu
ứng nhà kính, mêtan (CH4) là 13%, nitơ 5%, CFC là 22%, hơi nước ở tầng bình lưu
là 3%... Sự nóng lên của Trái Đất do hiệu ứng nhà kính biểu hiện thông qua các vấn
đề môi trường như mất rừng, mất đa dạng sinh học, băng tan và sự thay đổi mực
nước biển (UNEP, 2007). Các nhà nghiên cứu đã cho rằng sự suy thoái chất lượng
môi trường biểu hiện thông qua sự gia tăng lượng khí thải CO2 là kết quả của các
hoạt động kinh tế trên toàn thế giới.
Do đó, trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ cũng như sự
thay đổi đáng kể của môi trường trong những năm gần đây, cần thiết thực hiện xem
xét mối quan hệ giữa dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và môi trường. Đó là lý
do học viên lựa chọn đề tài “Ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
tiêu thụ năng lượng và vấn đề đô thị hóa đến lượng khí thải CO2 ở các quốc gia
Châu Á trong giai đoạn 1992 – 2016” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
1.2.

Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn có ba mục tiêu chính sau:



5

Đầu tiên luận văn xem xét ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến lượng khí thải CO2 của các quốc gia có thu nhập trung bình ở Châu Á
trong giai đoạn 1992 – 2016.
Tiếp theo, luận văn xem xét ảnh hưởng của tiêu thụ năng lượng đến lượng
khí thải CO2 của các quốc gia có thu nhập trung bình ở Châu Á trong giai đoạn
1992 – 2016.
Cuối cùng, luận văn xem xét ảnh hưởng của vấn đề đô thị hóa đến lượng khí
thải CO2 của các quốc gia có thu nhập trung bình ở Châu Á trong giai đoạn 1992 –
2016.
1.3.

Câu hỏi nghiên cứu

Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu, luận văn sử dụng các câu hỏi nghiên cứu
sau:
-

Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có ảnh hưởng đến lượng khí thải CO2
của các quốc gia có thu nhập trung bình ở Châu Á trong giai đoạn 1992 –
2016 hay không?

-

Tiêu thụ năng lượng có ảnh hưởng đến lượng khí thải CO2 của các quốc gia
có thu nhập trung bình ở Châu Á trong giai đoạn 1992 – 2016 hay không?

-


Vấn đề đô thị hóa có ảnh hưởng đến lượng khí thải CO2 của các quốc gia có
thu nhập trung bình ở Châu Á trong giai đoạn 1992 – 2016 hay không?
1.4.

Phạm vi thu thập dữ liệu và đối tƣợng nghiên cứu

 Phạm vi thu thập dữ liệu
Luận văn thu thập số liệu của các quốc gia có thu nhập trung bình ở Châu Á
trong giai đoạn 1992 – 2016. Cụ thể, luận văn thu thập số liệu của 37 quốc gia có
thu nhập trung bình ở Châu Á.
 Đối tƣợng nghiên cứu


6

Các đối tượng nghiên cứu trực tiếp trong luận văn là lượng khí thải CO2,
dòng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiêu thụ năng lượng, vấn đề đô thị hóa.
1.5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm làm rõ tác động
của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, và mức tiêu thụ năng lượng đến lượng
khí thải CO2 của các quốc gia. Trong đó, các phương pháp định lượng có thể sử
dụng bao gồm phương pháp hồi quy OLS, phương pháp hồi quy hai bước, phương
pháp hồi quy GMM.
Để có thể lựa chọn được phương pháp định lượng phù hợp, luận văn thực
hiện kiểm định tự tương quan và phương sai thay đổi. Tuy nhiên trước khi thực hiện
các kiểm định này, luận văn sẽ kiểm định xem các biến số trong mô hình nghiên
cứu có dừng hay không bằng cách dùng kiểm định nghiệm đơn vị với giả thuyết

H0: các biến có nghiệm đơn vị (các biến không dừng). Do nếu các biến không dừng
thì có thể gây ra hiện tượng hồi quy giả mạo.
Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng kiểm định Wooldrigde để kiểm tra tự
tương quan và Modified Wald để kiểm tra phương sai thay đổi. Đồng thời, nếu tồn
tại vấn đề tự tương quan hoặc phương sai thay đổi thì luận văn sẽ thực hiện sử dụng
phương pháp hồi quy GMM để ước lượng mô hình nghiên cứu giải thích lượng khí
thải của CO2 của các quốc gia do phương pháp này có thể khắc phục vấn đề tự
tương quan, phương sai thay đổi và đặc biệt là vấn đề nội sinh giữa các biến số
trong mô hình nghiên cứu. Mặt khác, trong trường hợp phương pháp hồi quy GMM
phù hợp thì luận văn cũng sử dụng thêm hai kiểm định để chắc chắn rằng kết quả
thu được từ phương pháp này là đáng tin cậy và có thể dùng phân tích để đưa ra các
hàm ý chính sách. Cụ thể, hai kiểm định này là kiểm định tự tương quan AR(2) và
kiểm định Hansen. Trong đó, kiểm định tự tương quan AR(2) sẽ xem rằng phương
pháp hồi quy GMM đã thật sự khắc phục vấn đề tự tương quan hay không với giả
thuyết H0: không tồn tại tự tương quan. Kiểm định Hansen thì xem xét vấn đề nội


7

sinh đã được giải quyết chưa bằng cách xem mối tương quan giữa phần dư mô hình
và các biến công cụ được sử dụng để khắc phục vấn đề nội sinh với giả thuyết H0:
các biến công cụ không tương quan với phần dư mô hình. Nếu cả hai kiểm định đều
cho thấy không còn tồn tại tự tương quan và nội sinh sau khi sử dụng phương pháp
GMM thì luận văn sẽ sử dụng các kết quả có được để phân tích.
1.6.

Kết cấu đề tài

Luận văn bao gồm 05 chương như sau:
Chương 1. Giới thiệu đề tài

Chương 2. Cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu
Chương 4. Kết quả nghiên cứu
Chương 5. Kết luận


8

CHƢƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ BẰNG CHỨNG THỰC
NGHIỆM
2.1.

Cơ sở lý thuyết

2.1.1. Dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Giai đoạn hiện tại của phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đều cho
thấy dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những yếu tố quan
trọng cho sự phát triển kinh tế bền vững, chất lượng cao và cân bằng ở các quốc gia.
Do đó cần thiết phải thu hút FDI, đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia đang phát
triển và các nền kinh tế mới nổi, vì loại hình đầu tư này thúc đẩy những thay đổi cơ
cấu của nền kinh tế, cho phép đảm bảo phát triển kinh tế bền vững cũng như cho
phép nước nhận đầu tư tích hợp hiệu quả vào quá trình toàn cầu hoá. Theo đó, trong
điều kiện hiện đại của vấn đề toàn cầu hoá và tăng cường dòng vốn trong nền kinh
tế thế giới, các quốc gia phải cạnh tranh khốc liệt để thu hút đầu tư nước ngoài, đặc
biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo OECD, đầu tư trực tiếp nước ngoài được
định nghĩa là một loại đầu tư xuyên biên giới được thực hiện bởi một người dân
trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) với mục tiêu thiết lập lợi ích lâu dài
trong một doanh nghiệp (doanh nghiệp đầu tư trực tiếp) ở một nền kinh tế khác với
nền kinh tế của nhà đầu tư trực tiếp. "Mối quan tâm trong dài hạn" được chứng
minh khi nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% quyền biểu quyết của doanh

nghiệp được nhận dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một tiếng nói hiệu quả
trong quản lý, được chứng minh bằng quyền sở hữu ít nhất 10%, ngụ ý rằng nhà đầu
tư trực tiếp có thể ảnh hưởng hoặc tham gia vào việc quản lý doanh nghiệp; nó
không đòi hỏi sự kiểm soát tuyệt đối bởi các nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, trong thập kỷ qua, nhiều nghiên cứu liên quan đến đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã được tiến hành và các nghiên cứu này đang thể hiện các quan
điểm khác nhau (một số quan điểm trái ngược nhau) đối với vấn đề hội nhập tài


9

chính toàn cầu của quốc gia và các kết quả có thể đạt được từ hội nhập đó. Trong
bối cảnh này, một nghiên cứu đáng quan tâm là nghiên cứu của De Mello (De
Mello, 1999), trong nghiên cứu này tác giả xác định hai kênh mà đầu tư trực tiếp
nước ngoài có thể đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Thứ nhất,
là kết quả của dòng vốn, FDI thúc đẩy sự chấp nhận các công nghệ mới trong quá
trình sản xuất ở quốc gia nhận đầu tư. Thứ hai, đầu tư trực tiếp nước ngoài cung cấp
một sự chuyển giao kiến thức, cả về đào tạo lao động và tích lũy kỹ năng, cũng như
thông qua việc giới thiệu các phương pháp quản lý chất lượng cao và hiệu quả hơn.
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) (Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng
kinh tế các vùng của Việt Nam, Nguyễn Minh Tiến, 2014) đã đưa ra vào năm 1977:
đầu tư trực tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được thực hiện để thu lợi ích lâu dài
trong một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu
tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư còn mong muốn dành được chỗ đứng
trong việc quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường’’.
Một nghiên cứu khác được tiến hành bởi OECD xác nhận kết quả được tìm
thấy bởi de Mello, cũng như khẳng định rằng đầu tư góp phần vào sự gia tăng hiệu
quả của các yếu tố sản xuất và thu nhập của quốc gia. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cả
hai nghiên cứu đều nhấn mạnh một ý tưởng then chốt: tác động từ dòng vốn FDI
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế và công nghệ ở nước nhận đầu tư. Vì vậy, các

nghiên cứu mô tả ở trên cho rằng các nước đang phát triển cần đạt được một mức
độ phát triển kinh tế nhất định để thu được lợi ích tiềm năng từ dòng vốn FDI.
Trong nghiên cứu của Robert Lensink (Lensink và cộng sự, 2000) tác giả mô tả ba
kênh mà dòng vốn FDI chảy vào quốc gia nhận đầu tư và cải thiện tăng trưởng kinh
tế cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế.
Đầu tiên là "kênh cạnh tranh": sự cạnh tranh gia tăng trên thị trường giúp
tăng hiệu quả và năng suất, cũng như đầu tư vào vốn con người và vật chất. Hơn


10

nữa, khi cạnh tranh gia tăng thì có thể khuyến khích những thay đổi tích cực trong
cơ cấu của sản lượng công nghiệp theo hướng các ngành định hướng xuất khẩu.
Kênh thứ hai là “chuyển giao kiến thức” thông qua đào tạo nhân viên ở quốc
gia nhận đầu tư, cũng như thông qua việc giới thiệu các phương pháp quản lý hiệu
quả và hệ thống kiểm soát chất lượng.
Kênh phát triển thứ ba là “chuyển giao công nghệ” là kết quả của các giao
dịch với các công ty nước ngoài.
Theo khái niệm của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987: đầu tư
trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn
bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính Phủ Việt Nam chấp thuận
để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này.
Theo quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam ở quy định tại
khoản 1 điều 2, Luật đầu tư nước ngoài được sửa đổi bổ sung năm 2000 “đầu tư
trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định
của luật này”.
Có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: đầu
tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác

đưa vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào vào quốc gia đó để được quyền sở hữu và
quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó với mục tiêu tối
đa hoá lợi ích của mình.
2.1.2. Lý thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm
Theo giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm (pollution haven hypothesis), các công
ty đa quốc gia thường có khuynh hướng đặt các cơ sở sản xuất của họ ở các quốc


11

gia có các tiêu chuẩn môi trường thoải mái hoặc yếu kém (Kim và Adilov, 2012).
Điều này trở nên đặc biệt quan trọng trong trường hợp các doanh nghiệp tham gia
hoạt động kinh doanh ở các ngành nghề có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng môi
trường của quốc gia nhận đầu tư chẳng hạn như các ngành hóa dầu, sản xuất giấy và
thép. Mặt khác, nếu như quốc gia sở tại yêu cầu các công ty đa quốc gia tuân thủ
các tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt thì điều này sẽ làm gia tăng chi phí hoạt
động của các công ty, do đó, các công ty có khuynh hướng di chuyển cơ sở sản xuất
đến các quốc gia có yêu cầu tiêu chuẩn môi trường thoải mái hoặc ít nghiêm ngặt
hơn với giả định rằng các công ty này nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận (javorcik
và Wei, 2004).
Hơn thế nữa, các nước đang phát triển có xu hướng bỏ qua hoặc xem nhẹ
những lo ngại về môi trường bằng cách giảm hoặc nới lỏng các tiêu chuẩn môi
trường ở các quốc gia này để thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Zhu và
các cộng sự, 2016). Do đó, so với các quốc gia đã phát triển, các quốc gia đang phát
triển thường có các tiêu chuẩn môi trường yếu hơn hoặc ít nghiêm ngặt hơn và bằng
cách thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các quốc gia này có thể đang
gián tiếp “thu hút” ô nhiễm môi trường (Kim và Adilov, 2012). Về mặt lý thuyết, có
thể thấy rằng các quốc gia có tiêu chuẩn môi trường ít nghiêm ngặt hoặc yếu kém
thường thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mặc dù về mặt nghiên cứu
thực nghiệm thì cho thấy các bằng chứng khác nhau có liên quan đến giả thuyết nơi

ẩn giấu ô nhiễm (Javorcik và Wei, 2004). Theo đó, có ba điểm quan trọng trong giả
thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm.
Đầu tiên, như đã đề cập trong phần đầu của chương này, các doanh nghiệp
tham gia hoạt động kinh doanh ở các ngành nghề có ảnh hưởng tiêu cực đến chất
lượng môi trường của quốc gia nhận đầu tư sẽ di dời cơ sở sản xuất của họ từ các
quốc gia có các tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt sang các quốc gia có tiêu chuẩn
môi trường ít nghiêm ngặt hơn. Sự di dời này cũng được khuyến khích bởi sự tự do
hóa thương mại toàn cầu (Aliyu, 2005). Thứ hai, các chất thải nguy hại ở các quốc


12

gia đang phát triển được tạo ra từ các quốc gia đã phát triển chẳng hạn như sản xuất
công nghiệp và năng lượng hạt nhân. Thứ ba, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên
không tái tạo một cách không hạn chế ở các quốc gia đang phát triển. Các tài
nguyên này được các công ty đa quốc gia sử dụng trong quá trình sản xuất của họ
để sản xuất dầu khí hoặc các sản phẩm có liên quan đến dầu khí. Những điểm này
tương đối quan trọng với các nhà hoạch định chính sách khi đưa ra các quyết định
chính sách môi trường (Aliyu, 2005).
Kim và Adilov (2012) đã kiểm định thực nghiệm tính hợp lý của giả thuyết
nơi ẩn giấu ô nhiễm cũng như giả thuyết vành ô nhiễm (pollution halo hypothesis)
bằng cách giải thích ảnh hưởng của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến lượng
khí thải CO2 ở các quốc gia trên thế giới. Các tác giả đã thu thập dữ liệu khí thải
CO2 từ bộ dữ liệu Các chỉ tiêu phát triển Thế giới (WDI) của Ngân hàng Thế giới
(WB). Theo đó, nghiên cứu của các tác giả bao gồm 164 quốc gia trong khoảng 44
năm và chia mẫu nghiên cứu thành các quốc gia đã phát triển và đang phát triển vì
các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến chất lượng môi trường có thể khác biệt ở các quốc gia có thu nhập cao và
thu nhập thấp. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng GDP có tương quan tích
cực với tốc độ tăng của lượng khí thải CO2 ở cả các quốc gia đã và đang phát triển.

Nhưng dòng vốn đầu tư trực tiếp có tác động cùng chiều đến tốc độ tăng của lượng
khí thải CO2 ở các quốc gia đã phát triển và có tương quan âm với tốc độ tăng của
lượng khí thải CO2 ở các quốc gia đang phát triển. Do đó, các tác giả đã kết luận
rằng, ở các quốc gia đang phát triển, các công ty nước ngoài ít gây ô nhiễm hơn so
với các doanh nghiệp trong nước điều này hàm ý rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài mang đến công nghệ sạch hơn cho các quốc gia đang phát triển. Phát
hiện này phù hợp với giả thuyết vành ô nhiễm (Kim và Adilov, 2012).
Mặc dù dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài làm gia tăng tốc độ tăng của
lượng khí thải CO2 ở các quốc gia đã phát triển. Nhưng theo các tác giả thì điều này
tương đối hợp lý và có thể được giải thích như là các công ty nước ngoài di dời cơ


13

sở sản xuất từ các quốc gia đã phát triên đến các quốc gia đã phát triển khác nhưng
quốc này gia phải có các tiêu chuẩn môi trường ít nghiêm ngặt hơn (Kim và Adilov,
2012). Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào các quốc gia đã phát triển sẽ
làm gia tăng mức ô nhiễm của quốc gia nhận đầu tư trong khi đó dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài chảy ra sẽ làm giảm tốc độ tăng của mức ô nhiễm. Các tác giả
đã kết luận rằng hệ số dương của biến “FDI” ở các quốc gia đã phát triển là phù hợp
với giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm. Phát hiện này cũng đồng thời ủng hộ giả thuyết
vành ô nhiễm và giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm, do đó các tác giả kết luận rằng hai
giả thuyết này không mâu thuẫn với nhau (Kim và Adilov, 2012).
2.1.3. Lý thuyết vành ô nhiễm
Giả thuyết vành ô nhiễm cho rằng sự gia tăng trong dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài không nhất thiết liên quan đến sự gia tăng trong mức độ ô nhiễm của
quốc gia nhận đầu tư bởi vì các công ty đa quốc gia có thể tiến hành kinh doanh một
cách thân tiện với môi trường của quốc gia nhận đầu tư bằng cách sử dụng công
nghệ xanh hơn hoặc công nghệ sạch hơn (Kim và Adilov, 2012). Điều này cũng có
thể làm tăng nhận thức về sự bảo vệ môi trường ở các quốc gia nhận đầu tư (Zhu và

các cộng sự, 2016).
Kim và Adilov (2012) đưa ra một số lý do tại sao giả thuyết vành ô nhiễm
hợp lý hơn. Đầu tiên, các quốc gia nhận đầu tư có thể thiết lập các tiêu chuẩn môi
trường cao hơn cho các doanh nghiệp nước ngoài so với các tiêu chuẩn môi trường
được áp dụng cho các công ty nội địa. Hơn nữa, các công ty nước ngoài có thể thận
trọng hơn vì họ không chắc chắn về các quy định của địa phương mà họ kinh
doanh, và để né tránh việc vi phạm các quy định môi trường ở địa phương mà họ
hoạt động, các doanh nghiệp này sẽ sản xuất các sản phẩm ít có tác động đến chất
lượng môi trường so với các doanh nghiệp nội địa. Một cách giải thích khác cho giả
thuyết vành ô nhiễm là các công ty đa quốc gia có thể tiếp cận với các phương pháp
sản xuất khác ít gây ra ô nhiễm cho môi trường hơn so với các công ty nội địa.


14

Ngoài ra, các công ty đa quốc gia có thể cảm thấy áp lực hơn khi sử dụng các công
nghệ xanh hơn ở các nước nhận đầu tư để ngăn chặn các vấn đề tiêu cực cho các
quốc gia chủ đầu tư (Kim và Adilov, 2012).
Mặc dù giả thuyết vành ô nhiễm dường như nói lên quan điểm ngược lại với
giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhễm, nhưng Kim và Adilov (2012) tìm kiếm bằng chứng
ủng hộ cho cả hai giả thuyết và kết luận rằng cả hai giải thuyết không phải mâu
thuẫn với nhau. Điều này có thể hợp lý bởi vì giả thuyết vành ô nhiễm tập trung vào
việc một công ty hoạt động như thế nào tại nơi mà nó đặt cơ sở sản xuất ở một quốc
gia chứ không phải tập trung vào việc phân tích tại sao công ty lại lựa chọn nơi đó
để đặt cơ sở sản xuất.
Một số nghiên cứu thực nghiệm khác cũng đã ủng hộ quan điểm của lý
thuyết vành ô nhiễm. Các nghiên cứu này bao gồm Eskeland và Harrison (2003),
Atici (2012), Zhu và các cộng sự (2016) và Abdouli và Hammami (2017).
2.1.4. Lý thuyết đƣờng cong Kuznets về môi trƣờng
Đường cong Kuznets về môi trường phản ánh mối quan hệ giữa phát triển

kinh tế và chất lượng môi trường (Abdouli và Hammami, 2017). Do dòng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài có mối tương quan dương với tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia (Lee, 2013), cho nên mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và chất lượng môi
trường có thể bị tác động bởi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chẳng hạn như
ở Malaysia, các dạng tàn phá môi trường chẳng hạn như lượng khí nhà
kính(greenhouse gas emissison), phá rừng và mất đa dạng sinh học, đã càng ngày
gia tăng bởi sự gia tăng trong các hoạt động kinh tế trong thập kỳ vừa qua. Mà trong
đó dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng các dạng này
(Hitam và Borhan, 2012).


15

Nguồn: Kuznet (1995)

Hình 0.1. Đƣờng cong Kuznets về môi trƣờng
Theo lý thuyết của đường cong Kuznets về môi trường, mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và sự tàn phá môi trường có thể được xem như là mối quan hệ
hình chữ U ngược. Nói cách khác, khi phát triển kinh tế của một quốc gia làm gia
tăng mức độ tàn phá môi trường ở đất nước này, mặc dù mức độ tàn phá môi trường
sẽ suy giảm khi thu nhập đạt được một mức độ nhất định (Abdouli và Hammami,
2017). Theo giả thuyết của đường cong Kuznets về môi trường thì có hiểu rằng
không cần thiết có can thiệp về mặt chính sách đối với các vấn đề môi trường bởi vì
tăng trưởng kinh tế có thể giải quyết những vấn đề này khi thu nhập người dân được
cải thiện (Fodha và Zaghdoud, 2010). Cole (2004) đã xem xét vấn đề mở rộng hơn
khi giải thích đường cong Kuznets về môi trường có thể giải thích bởi giả thuyết nơi
ẩn giấu ô nhiễm vì giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm có thể giải thích được sự dịch
chuyển của các công ty đa quốc gia đến các quốc gia có các tiêu chuẩn môi trường
ít nghiêm ngặt hoặc nới lỏng và điều này sẽ đẫn đến sự gia tăng trong mức độ ô



16

nhiễm của các quốc gia nhận đầu tư (Cole, 2004). Tuy nhiên, theo giả thuyết vành ô
nhiễm, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước có thể làm suy giảm các yếu tố có tác động
tiêu cực đến môi trường, khi đó đường cong Kuznets về môi trường sẽ xuất hiện do
sự suy giảm trong mức độ ô nhiễm của quốc gia nhận đầu tư. Cho nên cả giả thuyết
nơi ẩn giấu ô nhiễm và vành ô nhiễm đều có liên quan đến đường cong Kuznets về
môi trường.
Kuznets (1995) đã đưa ra ý tưởng về một đường cong ngược U (EKC Đường cong Kuznets môi trường). Ông cho rằng, trong giai đoạn đầu của tăng
trưởng kinh tế, Chính phủ có xu hướng nới lỏng các quy định về môi trường để thu
hút FDI vì áp lực tăng trưởng cao và quy mô tích lũy vốn của toàn nền kinh tế còn
hạn chế. Nhờ FDI, thu nhập bình quân đã được cải thiện; tuy nhiên, với mức tăng
thu nhập trung bình, ô nhiễm môi trường cũng tăng lên. Ở giai đoạn này, mức tiêu
thụ nhiên liệu lớn đã dẫn đến lượng phát thải CO2 lớn vào môi trường vì các nước
chủ yếu khai thác tài nguyên thiên nhiên dưới dạng thô, công nghệ sản xuất bị lạc
hậu, mức độ quản lý yếu. Khi thu nhập trung bình tăng lên một mức độ nào đó và
cuộc sống được cải thiện, mọi người bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của
chất lượng cuộc sống và chất lượng của môi trường sinh thái xung quanh. Ngoài ra,
cùng với các điều kiện kinh tế được cải thiện, hội nhập kinh tế và lợi thế của các
nước phát triển sau sẽ giúp các quốc gia, doanh nghiệp và công dân có thể lựa chọn
công nghệ xanh, sạch và thân thiện với môi trường. Ô nhiễm môi trường sẽ giảm
tốc, ngược lại và sau đó giảm, do đó chất lượng môi trường sẽ được tăng cường.
2.2.

Bằng chứng thực nghiệm

2.2.1. FDI và lƣợng khí thải CO2
Tobey (1990) đã sử dụng phương trình Heckscher – Ohlin – Vanek (HOV)
để kiểm tra giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm bằng cách sử dụng các dữ liệu của 23

quốc gia. Trong nghiên cứu này, tác giả đo lường mức độ nghiêm ngặt của các tiêu
chuẩn môi trường dựa vào thang đo điểm từ 01 (tiêu chuẩn môi trường nới lỏng


17

nhất) đến 07 (tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt nhất). Qua đó tác giả tìm thấy
rằng mức độ nghiêm ngặt của các tiêu chuẩn môi trường ở các quốc gia đã phát
triển đạt 6.1 và cả quốc gia đang phát triển thì có mức độ nghiêm ngặt của các tiêu
chuẩn môi trường đạt 3.1. Tác giả cho rằng sự phân bổ của các ngành công nghiệp
có tác động tiêu cực đến chất lượng môi trường thì không bị ảnh hưởng bởi sự khác
biệt về mức độ nghiêm ngặt của các tiêu chuẩn môi trường. Nghiên cứu đưa ra một
số giải thích cho kết quả này và trong số đó, hợp lý nhất theo tác giả là mức độ chi
tiêu môi trường ở các quốc gia có mức độ nghiêm ngặt của các tiêu chuẩn môi
trường không đủ lớn đủ để cho thấy một ảnh hưởng đáng kể (Tobey, 1990). Điều
này được chứng minh trong nghiên cứu của Gross man và Krueger (1993) khi xem
xét các tác động của hiệp định Thương mại Tự do Bắc mỹ (NAFTA) đến chất lượng
môi trường của các quốc gia. Các tác giả đã nghiên cứu tác động của chi phí giảm
thiểu ô nhiễm của các ngành công nghiệp ở Mỹ dựa vào mô hình thương mại và đầu
tư giữa Mỹ và Mexico trong giai đoạn 1977 đến 1988 và các tác giả kết luận rằng sự
khác biệt trong chi phí giảm thiểu ô nhiễm môi trường là tương đối nhỏ và không
đóng vai trò quan trọng khi so với chi phí sản xuất (Grossman và Krueger, 1993).
Eskeland và Harrison (2003) không tìm được bằng chứng thực nghiệm nào
về nơi ẩn giấu ô nhiễm. Các tác giả đã sử dụng số liệu của 04 quốc gia đang phát
triển để kiểm tra giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm. Các quốc gia này bao gồm Mexcio,
Venezuela, Morocoo và Cote d’Ivoire. Các tác giả tập trung phân tích tác động của
chi phí giảm thiểu ô nhiễm đến các thành phần của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài và đến vai trò của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc cải thiện
chất lượng môi trường của quốc gia nhận đầu tư bằng cách sử dụng nhiều nhiều
công nghệ tiết kiệm năng lượng và nguồn nhiên liệu sạch (Eskeland và Harrison,

2003). Đồng thời, các quy định môi trường cũng được các đưa vào mô hình nghiên
cứu bằng cách sử dụng một tham số đại diện cho chi phí giảm thiểu ô nhiễm. Ngoài
ra, trong mô hình nghiên cứu này, chi phí giảm thiểu ô nhiễm được thay thế bởi ba
cách đo lường cho mức độ ô nhiễm như ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước và độc
tính. Kết quả của nghiên cứu không cho thấy rằng các nhà đầu tư nước ngoài tập


18

trung hoạt động kinh doanh vào các ngành nghề có tác động tiêu cực đến chất lượng
môi trường của các quốc gia nhận đầu tư như giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm đã đề
cập. Hơn nữa, các tác giả cũng không tìm ra mối tương quan có ý nghĩa thống kê
nào giữa các tiêu chuẩn môi trường và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đang
chảy vào các nước đang phát triển. Do đó, các tác giả đã kết luận rằng không có
bằng chứng thực nghiệm nào cho thấy có sự hủy hoại môi trường từ việc thu hút
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Eskeland và Harrison, 2003).
Javorcik và Wei (2004) đã kiểm tra giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm bằng cách
sử dụng dữ liệu dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào từ nhiều quốc gia
đến 25 quốc gia nhận đầu tư ở Đông Âu và Liên Xô cũ. Các tác giả xem xét ở một
khía cạnh khác bằng cách phân tích ảnh hưởng của tham nhũng của quốc gia nhận
đầu tư bởi vì tỷ lệ tham nhũng của các quốc gia nhận đầu tư càng cao có thể ngăn
cản chính sách thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, hơn thế nữa, tham
nhũng có tương quan đáng kể với các quy định môi trưởng lỏng lẻo. Nghiên cứu
này tập trung vào việc phân tích vào dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào
các ngành sản xuất của quốc gia nhận đầu tư vì ngành này được kỳ vọng sẽ có các
tác động đáng kể đến chất lượng môi trường hơn so với các ngành dịch vụ. Để đo
lường mức độ ô nhiễm của ngành công nghiệp, các tác giả đã áp dụng phương pháp
tiếp cận của Eskeland và Harrison (2003) bằng cách đo lường mức độ ô nhiễm và
chi phí giảm thiểu ô nhiễm. Ngoài ra các tác giả cũng xem xét mức độ ô nhiễm của
các công ty đa quốc gia đang tìm kiếm địa điểm đầu tư cũng như tính nghiêm ngặt

về các tiêu chuẩn môi trường của quốc gia nhận đầu tư. Điều này cho phép các tác
giả kiểm tra liệu dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có chảy vào các quốc gia có
tiêu chuẩn môi trường lỏng lẻo, ít nghiêm ngặt và liệu các ngành công nghiệp có
mức độ ô nhiễm cao có thực hiện tham gia các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, vì
các nghiên cứu trước đây chỉ giải thích một trong hai mối quan hệ này.
Bằng cách phân tích cả hai khía cạnh, các tác giả có thể kiểm tra xem ngành
công nghiệp “bẩn” có khuynh hướng đặt cơ sở sản xuất ở các quốc gia có các tiêu


×