Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Giải quyết tranh chấp giữa việt nam với các nước trên biển đông dưới góc độ luật quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1014.68 KB, 91 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Biển Đông đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt kinh tế, quân sự, chính
trị,... Ngày nay, khi đất liền trở nên chật hẹp không đáp ứng được tốc độ tăng
trưởng dân số, năng lượng khan hiếm, các hệ sinh thái bị suy thoái, môi
trường trở nên quá tải, biển và đại dương trở thành miền đất hứa cho tất cả
các quốc gia. Trong bối cảnh đó, các nước ven biển, nhất là các cường quốc
đều có xu hướng “tiến ra biển”, xây dựng chiến lược biển, tăng cường tiềm
lực mọi mặt để khai thác và sử dụng biển.
Là quốc gia nằm ven bờ biển Đông và với chiều dài bờ biển hơn
3.200km, Việt Nam được đánh giá là quốc gia ven biển có các vùng biển giàu
có về tài nguyên thiên nhiên, bao gồm tài nguyên sinh vật và tài nguyên
khoáng sản, đồng thời chiếm vị trí chiến lược quan trọng đối với khu vực và
trên thế giới. Trước cục diện mới, Việt Nam không thể bị động trong cuộc
chơi tiến ra biển.Tiến ra biển là xu hướng không thể đảo ngược.
Xu hướng “tiến ra biển” của các quốc gia đã dẫn đến nhiều tranh chấp về
thực hiện chủ quyền và quyền chủ quyền trên biển. Theo quy định của Công
ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, mỗi quốc gia ven biển đều có
quyền xác định: nội thủy; lãnh hải (rộng không quá 12 hải lý tính từ đường cơ
sở); vùng tiếp giáp lãnh hải (rộng không quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở;
vùng đặc quyền kinh tế (rộng không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở) và
thềm lục địa. Như vậy, các vùng biển của các quốc gia ven biển được mở
rộng đáng kể, và điều đó làm xuất hiện các vùng biển chồng lấn giữa những
nước đối diện hoặc tiếp liền. Cho đến nay, còn khoảng 400 đường ranh giới
trên biển cần được phân định. Những tranh chấp này vốn đã phức tạp càng trở
nên phức tạp hơn khi các quốc gia đẩy mạnh việc khai thác tài nguyên trên
các vùng biển.
Tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông từ lâu đã được xem là một vấn đề quốc
gia và khu vực. Mặc dù được đánh giá như điểm nóng, nhưng tranh chấp tại


đây vẫn chưa gây ra thảm họa chiến tranh, vì bản thân tranh chấp chưa đủ


2

nghiêm trọng thôi thúc các quốc gia gây chiến lẫn nhau. Bởi những chi phí về
mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế và quân sự do chiến tranh gây ra trong thời
kỳ đương đại là rất lớn. Trong khu vực biển Đông, Việt Nam đang phải đối
diện với nhiều tranh chấp liên quan đến các quốc gia khác nhau như Trung
Quốc, Philippines, Malaysia, Bruney, Indonesia, Thái Lan và Campuchia. Để
giải quyết những tranh chấp này, yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia sử
dụng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của nhau và
phù hợp với các quy định của luật quốc tế. Nghiên cứu tất cả những cách thức
để lựa chọn và áp dụng một biện pháp hữu hiệu nhất để giải quyết tranh chấp
trên biển Đông, hay là tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp? Vì vậy, việc
nghiên cứu, tìm hiểu một cách có hệ thống những quy định pháp luật quốc tế
về giải quyết tranh chấp quốc tế trên biển là điều cần thiết và có ý nghĩa lý
luận cũng như thực tiễn sâu sắc. Chính vì vậy, người viết lựa chọn đề tài
“Giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam với các nước trên biển Đông dưới
góc độ luật quốc tế” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của Việt Nam về vấn đề tranh
chấp trên biển chưa thực sự phong phú về số lượng. Ngoài một vài bài báo có
liên quan, vấn đề này hầu như chỉ được đề cập một cách khái quát trong các
sách chuyên khảo về luật biển, có thể nêu ra một số sách và các bài báo liên
quan đến tình hình biển Đông:
- Bộ Ngoại giao, Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của luật biển Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002;
- Nguyễn Bá Diến (chủ biên), Chính sách pháp luật biển của Việt Nam
và chiến lược phát triển bền vững, Nxb, Tư pháp, Hà Nội, 2006;

- Nguyễn Bá Diến (chủ biên), Hợp tác khai thác chung trong luật biển
quốc tế, Nxb, Tư pháp, Hà Nội, 2009;
- Nguyễn Hồng Thao, Những điều cần biết và luật biển, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 1997;


3

- Nguyễn Hồng Thao, “Trung Quốc và tình hình trên khu vực biển
Đông”. Tập san Biên giới lãnh thổ, 14/2004;
- Bạch Quốc An, “Vai trò của Asean trong việc giải quyết tranh chấp về
biên giới lãnh thổ”, Tạp chí Luật học, số 9, 2007;
- Nguyễn Bá Diến, “Vấn đề phân định biển trong Luật biển quốc tế hiện
đại”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật, T.XXIII, số 1, 2007;
- Nguyễn Bá Diến, “Các vùng khai thác chung trong Luật quốc tế hiện
đại”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật, T.XXIV, số 2, 2008;
- Nguyễn Bá Diến, “Khai thác chung dầu khí châu Phi – một số bài học
kinh nghiệm đối với Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, T.12, số 21,
2008;
- Nguyễn Bá Diến, Nguyễn Hùng Cường (2009), Cơ chế giải quyết tranh
chấp trên biển theo Công ước Luật Biển 1982, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Luật học (25), Hà Nội;
- Nguyễn Bá Diến, (2015), Sách chuyên khảo Yêu sách "đường lưỡi bò"
phi lý của Trung Quốc và chủ quyền của Việt Nam, NXB. Thông tin và
truyền thông;
- Huỳnh Minh Chính, “Pháp luật quốc tế và việc vạch biên giới biển giữa
Việt Nam với các quốc gia láng giềng”, Tập san Biên giới lãnh thổ, 4/2003;
- Nguyễn Minh Đức, “Các yêu sách biển của Trung Quốc”, Tập san Biên
giới lãnh thổ, 4/1997;
- Nguyễn Toàn Thắng, “Asean và tranh chấp liên quan đến quần đảo

Trường Sa”, Tạp chí Luật học, số 9, 2007;
- Nguyễn Toàn Thắng, “Thực tiễn áp dụng quy chế pháp lý quốc tế đảo
và công trình nhân tạo trên biển của Việt Nam và một số nước trên thế giới”
chuyên đề thuộc đề tài cấp nhà nước “Cơ sở pháp lý về chủ quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo Trường Sa – Hoàng Sa” (Bộ ngoại giao) do Trung
tâm Luật biển và Hàng hải quốc tế chủ trì, 2009;


4

- Nguyễn Toàn Thắng, (2012), Vấn đề phân định biển trong luật quốc tế
và thực tiễn phân định biển giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, Đề tài
khoa học Đại học luật Hà Nội.
Do đó, với mục đích tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất về
pháp lý và thực tiễn liên quan đến tranh chấp và giải quyết tranh chấp trên
biển, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Do thời gian và trình độ nghiên cứu có giới hạn nên người viết chỉ nghiên
cứu những vấn đề cơ bản về “Giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam với các
nước trên biển Đông dưới góc độ luật quốc tế”. Người viết chỉ tập trung đi
sâu làm rõ các vấn đề cơ bản pháp luật quốc tế về giải quyết tranh chấp quốc
tế trên biển và cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.
Phạm vi nghiên cứu là tranh chấp giữa Việt Nam và một số nước ở Biển
Đông như Trung Quốc, Thái Lan và Campuchia, để từ đó đưa ra những giải
pháp tối ưu có thể sử dụng để giải quyết tranh chấp.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề hòa bình giải quyết tranh chấp quốc
tế, là cơ sở pháp lý quốc tế về các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp
quốc tế trong pháp luật quốc tế, trong đó đặt vấn đề giải quyết tranh chấp

Biển Đông trong những biện pháp này.
- Phân tích, đánh giá cung cấp một cái nhìn tổng quan nhất về thực tiễn
quốc tế trong giải quyết tranh chấp trên biển, đặc biệt là thực tiễn tranh chấp
trên biển giữa Việt Nam với các quốc gia.
- Đưa ra các giải pháp dựa trên tình hình Việt Nam trong giải quyết tranh
chấp với các nước ở biển Đông dưới góc độ luật quốc tế; đi đến kết luận được
các giải pháp mang tính khoa học trong vấn đề giải quyết tranh chấp biển
Đông.


5

5. Phương pháp nghiên cứu để thực hiện luận văn
- Vận dụng những quan điểm của Đảng và Nhà nước về chiến lược biển
Việt Nam nhằm xây dựng đất nước trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu
về biển.
- Vận dụng các nguyên tắc, phương pháp duy vật biện chứng của Chủ
nghĩa Mác – Lenin, của Lý luận Nhà nước và pháp luật trong điều kiện cụ thể
của Việt Nam.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp thống kê, so
sánh; phương pháp hệ thống và phân tích tổng hợp; phương pháp quy nạp,
phương pháp suy luận logic,...
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa
học trên những khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất: Phân tích có hệ thống khái quát chung về tranh chấp quốc tế
và giải quyết tranh chấp quốc tế trên biển; tầm quan trọng của giải quyết tranh
chấp trên biển.
Thứ hai: Luận văn đi sâu phân tích thực trạng tranh chấp giữa Việt
Nam và một số nước ở biển Đông (điển hình là tranh chấp với các nước:

Trung Quốc, Thái Lan và Campuchia).
Thứ ba: Đưa ra một số biện pháp trong giải quyết tranh chấp ở biển
Đông và một số giải pháp tối ưu cho Việt Nam theo quy định của luật pháp
quốc tế trong giải quyết tranh chấp trên biển.
7. Bố cục (các chương) của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về giải quyết tranh chấp trên biển
Chương 2: Thực trạng tranh chấp giữa Việt Nam và một số nước ở biển
Đông
Chương 3: Các biện pháp giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam và các
nước ở biển Đông theo góc độ luật quốc tế.


6

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRÊN BIỂN
1.1.

Giải quyết tranh chấp trên biển và cơ chế giải quyết tranh chấp
trên biển theo Công ước luật biển năm 1982.

1.1.1. Giải quyết tranh chấp trên biển và tầm quan trọng của giải quyết
tranh chấp trên biển
Trên cơ sở tôn trọng quan hệ, tăng cường hiểu biết trong các lĩnh vực
quốc tế, việc hợp tác giữa các quốc gia ngày càng gia tăng. Xu hướng hội
nhập ngày càng gia tăng thì số lượng các tranh chấp quốc tế cũng gia tăng,
đặc biệt là tranh chấp về biển, đảo khi xu hướng tiến ra biển ngày càng mở

rộng. Tranh chấp quốc tế là những vấn đề phát sinh giữa các chủ thể của luật
quốc tế thể hiện những bất đồng xung đột về những vấn đề cơ bản của quan
hệ quốc tế cũng như các ý kiến quan điểm khác nhau trong việc giải thích và
áp dụng luật quốc tế.
Tranh chấp quốc tế về biển, đảo là những mâu thuẫn, xung đột giữa các
quốc gia và các chủ thể của luật quốc tế nói chung về những vấn đề liên quan
tới việc giải thích hay áp dụng các quy định của các điều ước quốc tế, đặc biệt
là Công ước của Liên Hợp quốc về luật biển năm 1982, hoặc bất kỳ vấn đề
khác liên quan đến lĩnh vực biển, đảo phát sinh trong quan hệ giữa các bên
hữu quan. Để giải quyết tranh chấp quốc tế hay tranh chấp về chủ quyền biển,
đảo đều phải tuân thủ các căn cứ pháp lý chung được ghi nhận trong Hiến
chương Liên hợp quốc, các điều ước quốc tế hoặc được thực tiễn quốc tế thừa
nhận chung.
Để giải quyết tranh chấp quốc tế như đã trình bày ở trên, trong lịch sử đã
có rất nhiều các giải pháp khác nhau. Tuy nhiên trong thời đại ngày nay, cộng
đồng quốc tế đã thống nhất việc tìm kiếm các giải pháp hòa bình là con đường
hợp pháp duy nhất, như đã được ghi nhận tại Khoản 3 Điều 2 Hiến chương
Liên Hợp quốc: “Tất cả các thành viên giải quyết các tranh chấp quốc tế của
họ bằng biện pháp hòa bình, theo cách không làm nguy hại đến hòa bình, an


7

ninh quốc tế và công lý”1. Và điều khoản tiếp theo, khoản 4 Điều 2 cũng
tuyên bố loại trừ hoàn toàn việc áp dụng các biện pháp vũ lực ra khỏi quan hệ
quốc tế: “Tất cả các Thành viên từ bỏ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong
quan hệ nhằm chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất
kỳ quốc gia nào, hoặc bằng cách khác trái với những mục đích của Liên Hợp
quốc”
Cụ thể hóa các tuyên bố này, khoản 1 Điều 33 Hiến chương Liên Hợp

quốc quy định rõ nghĩa vụ mà các nước thành viên phải tuân theo nhằm giải
quyết tranh chấp theo phương thức hòa bình: “Các bên đương sự trong các
cuộc tranh chấp, mà kéo dài các cuộc tranh chấp ấy có thể đe dọa đến hòa
bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải cố gắng tìm cách giải quyết tranh
chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa
án, sử dụng những tổ chức hoặc những hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện
pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình”
Tuyên bố năm 1970 của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc về những nguyên
tắc của luật pháp quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các
quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên Hợp quốc một lần nữa tái khẳng
định: “Mọi quốc gia do vậy sẽ sớm tìm kiếm và chỉ giải quyết các tranh chấp
quốc tế bằng đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài hoặc tòa án;
sử dụng trung gian khu vực, thỏa thuận hoặc những biện pháp hòa bình khác
do các bên lựa chọn. Trong việc tìm kiếm trong những biện pháp giải quyết
tranh chấp, các bên đồng ý rằng những biện pháp hòa bình sẽ là thích hợp
đối với những hòa cảnh cụ thể và bản chất của tranh chấp”2.
Giải quyết tranh chấp trên biển góp phần xác định chủ quyền quốc gia
đối với các vùng biển, tạo ra sự liên kết giữa các đảo, các cụm đảo, tuyến đảo
với nhau dọc ven biển thành các bộ phận thống nhất của lãnh thổ quốc gia.
Việc xác định chủ quyển còn là phương thức hữu hiệu để bảo vệ các nguồn tài
1

2

Khoản 3 Điều 2 Hiến chương Liên Hợp quốc.

Tuyên bố năm 1970 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc về những nguyên tắc của luật pháp quốc tế điều
chỉnh quan hệ, hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc.



8

nguyên từ biển, sử dụng các nguồn lợi này cho mục tiêu phát triển kinh tế
biển, nâng cao kinh tế quốc gia.
Việc giải quyết tranh chấp trên biển còn ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ
đối ngoại của quốc gia. Các tranh chấp trên biển khi chưa được giải quyết sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động trên các vùng biển đang có tranh chấp giữa
các nước như: bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, nguồn lợi
thủy sản, an ninh hàng hải, nạn cướp biển,... Chính vì vậy, giải quyết tranh
chấp trên biển luôn được sự quan tâm không chỉ các nước có tranh chấp mà
cả các nước trong khu vực và trên thế giới.
1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp trên biển theo Công ước luật biển năm
1982.
Việc giải quyết tranh chấp trên biển trong Luật quốc tế hiện đại chủ yếu
dựa trên các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm
1982 (UNCLOS 1982), có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Công ước luật biển
năm 1982 vừa là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng hỗ trợ các quốc gia trong
việc quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ có hiệu quả các nguồn tài nguyên
thiên nhiên ở biển, vừa là công cụ hữu hiệu để các quốc gia giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ biển.
Vấn đề giải quyết tranh chấp về biển được quy định tại phần XV, từ
Điều 279 đến Điều 299 của Công ước và các bản phụ lục có liên quan, bao
gồm các vấn đề cơ bản như: nguyên tắc giải quyết tranh chấp; trình tự, thủ tục
giải quyết tranh chấp, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp; trình tự,
thủ tục hoà giải (Phụ lục V); tổ chức, thẩm quyền, và thủ tục tố tụng của Toà
án Quốc tế về Luật biển (Phụ lục VI); thẩm quyền, thủ tục và giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài, (Phụ lục VII); về việc giải quyết tranh chấp bằng toà án
trọng tài đặc biệt (Phụ lục VIII),v.v…
Việc đưa vào UNCLOS 1982 các điều khoản bắt buộc về giải quyết các
tranh chấp ở biển được coi là một bước tiến lớn của luật quốc tế nói chung và

của Công ước Luật biển năm 1982. (Khác với Công ước Geneve 1958, khi mà
các điều khoản về giải quyết tranh chấp chỉ được ghi nhận trong một Nghị


9

định thư không bắt buộc và Nghị định thư này đã không được nhiều nước phê
chuẩn). Điều này đã phản ánh đúng xu thế của thời đại, thể hiện ý nguyện của
các quốc gia có biển cũng như không có biển và đã được nhiều đoàn đại biểu
tham gia Hội nghị của Liên Hợp quốc về biển từ 1973-1982 chấp nhận rộng
rãi, kể cả các đoàn đại biểu của các nước xã hội chủ nghĩa mà trước đó đã
kiên quyết phản đối khái niệm về quyền tài phán cưỡng bức của toà án quốc
tế, vì nếu không có các điều khoản về giải quyết tranh chấp thì sự toàn vẹn
của văn bản cuối cùng sẽ bị mất giá trị.
Nguyên tắc nền tảng, được dùng làm cơ sở cho việc giải quyết tranh
chấp theo Công ước 1982, là: Các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh
chấp trong việc giải thích hay áp dụng Công ước bằng các phương pháp hoà
bình theo đúng điều 2, khoản 3 của Hiến chương Liên hợp quốc “ và, vì mục
đích này, cần phải tìm ra giải pháp bằng các phương pháp đã được nêu ở Điều
33, khoản1 của Hiến chương” (Đ. 279). Như vậy, các bên có thể tán thành bất
cứ một cách thức giải quyết tranh chấp nào mà họ lựa chọn. Không một quy
định nào của Công ước ảnh hưởng đến quyền của các quốc gia áp dụng bất cứ
lúc nào, bằng bất kỳ phương pháp hoà bình nào theo sự lụa chọn của mình
một vụ tranh chấp xảy ra giữa họ (Đ. 280). Và :“Khi có một tranh chấp xảy ra
giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công
ước, các bên tranh chấp tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về cách
giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hay bằng các phương pháp hoà
bình khác…” (Đ. 283).
Tại Phụ lục V của Công ước đã trù tính đến việc thành lập một uỷ ban
hoà giải với chức năng “nghe ý kiến của các bên, xem xét các yêu sách và các

ý kiến phản bác của họ, và đưa ra những đề xuất cho các bên với ý định muốn
đạt được một sự hoà giải”. Những người hoà giải có thể làm một báo cáo
không bắt buộc đối với các bên. Nếu không đạt được một giải pháp nào thì sẽ
phải áp dụng các thủ tục bắt buộc dẫn đến những kết luận bắt buộc. Các bên
tranh chấp có thể tuyên bố bằng văn bản chấp nhận quyền tài phán của một
trong các toà án sau: Toà án quốc tế về luật biển, Toà án quốc tế, một toà


10

trọng tài thông thường hoặc toà án trọng tài đặc biệt được thành lập theo Phụ
lục VIII dành cho các loại tranh chấp đã được định rõ trong Phụ lục này. Theo
quy định tại Điều 296 (Tính chất tối hậu và bắt buộc của các quyết định), thì:
các quyết định do toà án có thẩm quyền đưa ra là có tính chất tối hậu (chung
thẩm), và tất cả các bên tranh chấp phải tuân theo. Các quy định về giải quyết
tranh chấp của Công ước đòi hỏi tất cả các quốc gia thừa nhận hoặc phê chuẩn
Công ước phải thực hiện, không được bảo lưu một ý kiến nào. Tuy nhiên các
quốc gia có thể lựa chọn cách thức riêng cho mình đối với việc giải quyết
tranh chấp, hoặc có thể chấp nhận quyết định bắt buộc của một toà án nào đó
và có quyền lựa chọn nhất định về tính chất và thành phần của toà án.
Các điều khoản của Công ước chỉ có thể được áp dụng cho những cuộc
tranh chấp có liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước, không áp
dụng cho những cuộc tranh chấp nảy sinh từ những tình huống rộng hơn
nhưng có ảnh hưởng đến những vấn đề về biển. Các điều khoản bắt buộc về
giải quyết tranh chấp sẽ không được áp dụng cho tất cả mọi cuộc tranh chấp
ngay cả giữa các bên tham gia Công ước được quy định tại điều 298: Những
ngoại lệ không bắt buộc đối với việc áp dụng Mục 2 (Các thủ tục bắt buộc dẫn
tới các quyết định bắt buộc) nếu như khi ký kết, phê chuẩn tham gia Công
ước, hoặc ở bất kỳ thời điểm nào sau đó, một quốc gia có thể tuyên bố bằng
văn bản không chấp nhận các thủ tục giải quyết tranh chấp đã được trù định ở

Mục 2, có liên quan đến một hay nhiều loại tranh chấp sau đây: các tranh
chấp về việc giải thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc
phân định ranh giới các vùng biển hay các vụ tranh chấp về các vịnh hay danh
nghĩa lịch sử, các tranh chấp liên quan đến các hoạt động tăng cường quân sự
hoặc hành động nhằm bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, các tranh chấp đã
được đệ trình Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Chính vì những trường hợp
ngoại lệ đụng chạm đến những vấn đề tranh chấp chính trị và nhất là đến sự
cân bằng giữa quyền tài phán của quốc gia ven biển với quyền của các quốc
gia khác, cho nên nhiều cuộc tranh chấp tiềm tàng có thể sẽ bị loại bỏ. Những


11

trường hợp ngoại lệ ấy cơ bản là làm giảm phạm vi của các điều khoản giải
quyết tranh chấp.
Hệ thống các điều khoản giải quyết tranh chấp ở phần XV Công ước
Luật biển năm 1982 là nhằm dự liệu một loạt các cách thức giải quyết và từ
đó tạo thuận lợi cho các nỗ lực giải quyết của các bên bằng cách này hay cách
khác. Người ta cho rằng Phần XV có thể trở thành một mô hình cho các
phương thức giải quyết tranh chấp trong các Hiệp ước đa phương khác và như
chúng ta đã thấy, nó đã có một hiệu quả nhất định. Hiện nay trong khoa học
pháp lý đang có một xu hướng về việc đưa ra các cách thức giải quyết tranh
chấp trong quan hệ kinh tế thương mại, người ta thường mô tả các cách thức
khác nhau theo một trật tự sắp xếp liên tiếp đi từ phi chính thức đến chính
thức, từ thoả thuận đến bắt buộc. Các bên tranh chấp có thể thoả thuận từng
bước các cách thức khác nhau, theo một trật tự từ đàm phán, hoà giải, trọng
tài cho đến toà án. Đồng thời, tất cả các cách thức giải quyết tranh chấp quốc
tế đều theo nguyên tắc thoả thuận, theo những cách thức mà các bên đã cam
kết từ trước hoặc lựa chọn vào bất kỳ thời điểm nào. Thay vì một trật tự từ
thấp tới cao, Phần XV của Công ước đã đưa ra một loạt các cách thức giải

quyết tranh chấp để từ đó các bên có thể lựa chọn một cách thức thích hợp
cho từng hoàn cảnh và đặc thù của vụ việc tranh chấp.
Yếu tố quan trọng nhất về giải quyết tranh chấp trong Công ước là các
điều khoản quy định các thủ tục bắt buộc dẫn tới các quyết định băt buộc. Các
quốc gia có thể chọn một hoặc nhiều biện pháp về thủ tục giải quyết bắt buộc
như Toà án quốc tế về luật biển, Toà trọng tài đặc biệt dành cho các tranh
chấp về lĩnh vực nghề cá, bảo vệ và bảo tồn môi trường biển, nghiên cứu
khoa học biển hoặc về hàng hải,v.v…
1.2.

Cơ sở pháp lý quốc tế của giải quyết tranh chấp trên biển
Cơ sở pháp lý giải quyết tranh chấp quốc tế nói chung và giải quyết tranh

chấp về biển đảo, được hiểu là các căn cứ pháp lý mà các bên dựa vào hoặc
buộc phải tuân thủ để đảm bảo giải quyết triệt để tranh chấp phát sinh. Nếu
hiểu theo nghĩa rộng và khái quát nhất, cơ sở pháp lý giải quyết tranh chấp


12

quốc tế bao gồm các căn cứ pháp lý được áp dụng để giải quyết tổng thể các
vấn đề, khía cạnh liên quan đến tranh chấp (thủ tục, nội dung). Hệ cơ sở pháp
lý này bao gồm năm nguồn được quy định tại Điều 38, Khoản 1 Quy chế Tòa
án Công lý quốc tế (điều ước quốc tế; nguyên tắc pháp luật chung; án lệ; tập
quán quốc tế; học thuyết (quan điểm) pháp lý của các chuyên gia nổi tiếng, và
hai nguồn được thực tiễn pháp lý quốc tế thừa nhận qua quá trình sử dụng của
các thiết chế tài phán quốc tế và chủ thể luật quốc tế thừa nhận chung (nghị
quyết của các tổ chức quốc tế, pháp luật quốc gia). Cơ sở pháp lý được cộng
đồng quốc tế thừa nhận và sử dụng rộng rãi trong giải quyết tranh chấp quốc
tế, trong đó có tranh chấp chủ quyền biển, đảo gồm các căn cứ sau:

1.2.1. Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
Sở dĩ gọi một số nguyên tắc của Luật quốc tế là những nguyên tắc cơ
bản bởi vì trong hệ thống luật quốc tế tồn tại nhiều nguyên tắc khác nhau,
trong đó có các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ liên quốc gia ở phạm vi toàn
cầu, đồng thời lại có cả những nguyên tắc điều chỉnh quan hệ giữa các nước
cùng khu vực và nguyên tắc điều chỉnh quan hệ trong từng ngành luật cụ thể
của hệ thống luật quốc tế. Trong các nguyên tắc này thì hệ thống các nguyên
tắc cơ bản của Luật quốc tế là những nguyên tắc thể hiện tập trung nhất các
quan điểm chính trị - pháp lý và cách xử sự của các quốc gia trong việc giải
quyết những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của đời sống quốc tế.
Như vậy, các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được hiểu là những tư
tưởng chính trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm, có giá trị bắt buộc chung
(Jus cogens) đối với mọi chủ thể luật quốc tế, nhằm ổn định quan hệ quốc tế
và ấn định khuôn khổ xử sự cho các chủ thể. Trong luật quốc tế, các nguyên
tắc cơ bản tồn tại dưới dạng những quy phạm Jus cogens được ghi nhận ở
điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế mang tính mệnh lệnh, các chủ thể
đều phải tuân thủ tuyệt đối. Bất cứ hành vi đơn phương nào không tuân thủ
triệt để hệ nguyên tắc này đều bị coi là vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc
tế. Ngày nay, các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được ghi nhận rộng rãi


13

trong nhiều văn kiện pháp lý song phương, đa phương khu vực hoặc toàn cầu,
trong đó, quan trọng nhất phải kể đến Hiến chương Liên Hợp quốc năm 1945,
tuyên bố ngày 24/10/1970 về nguyên tắc của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ
hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên Hợp
quốc. Đây được coi là các văn kiện điển hình có tính chất pháp lý và tầm ảnh
hưởng rộng lớn đối với hành vi xử sự của các chủ thể luật quốc tế khi tham

gia vào quan hệ quốc tế. Ngoài ra, có thể kể đến nhiều văn kiện pháp lý quốc
tế và khu vực khác cũng đề cập đến hệ nguyên tắc này như: Định ước
Henxinki năm 1975 về an ninh và hợp tác giữa các nước Châu Âu, Hiệp ước
thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) năm 1976 (Hiệp ước Bali I);
Hiến chương ASEAN năm 2007; Nghị định thư về tăng cường cơ chế giải
quyết tranh chấp của ASEAN năm 2004; Nghị định thư về cơ chế giải quyết
tranh chấp của ASEAN năm 2010;...
Theo nội dung của các văn kiện pháp lý trên, các nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế bao gồm: Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia; Nguyên tắc
cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế;
Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế; Nguyên tắc cấm can
thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác; Nguyên tắc tận tâm, thiện
chí thực hiện các cam kết quốc tế; Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp
tác; Nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết.
Tất cả các nguyên tắc này đều là kim chỉ nam, đường hướng cho vấn đề
giải quyết tranh chấp quốc tế. Nhưng, riêng đối với tranh chấp chủ quyền
biển, đảo, các nguyên tắc trực tiếp và chủ yếu được vận dụng gồm:
Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia với giá trị thể hiện
trên ba phương diện: bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ chứng minh, bảo vệ
chủ quyền biển, đảo của mỗi bên tranh chấp; bình đẳng trong lựa chọn
phương thức quốc tế giải quyết tranh chấp; và bình đẳng trong vị thế giải
quyết tranh chấp.
Thứ hai, nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong
quan hệ quốc tế với giá trị thể hiện trên hai phương diện: cấm hành vi xâm


14

chiếm lãnh thổ biển, đảo quốc gia; cấm hành vi sử dụng vũ lực hoặc các hành
vi đe dọa dùng vũ lực để chiếm đóng hoặc khẳng định chủ quyền đối với

vùng lãnh thổ. Mọi hiện trạng tạo nên bởi kết quả của các cuộc xâm chiếm,
dùng vũ lực hoặc các hành vi đe dọa, cưỡng ép đều không được thừa nhận bởi
pháp luật và cộng đồng quốc tế.
Thứ ba, nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp, nguyên tắc này được
vận dụng trong vấn đề giải quyết tranh chấp chủ quyền biển, đảo với các khía
cạnh khá đầy đủ và toàn diện của nội hàm giá trị nguyên tắc, theo đó: các bên
tranh chấp đều phải giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn, xung đột có liên quan
trên cơ sở hòa bình; các hành vi chiến tranh hoặc sử dụng chiến tranh, vũ lực
làm công cụ giải quyết tranh chấp là vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế;
Các bên phải sử dụng các biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp phát
sinh; Trên cơ sở pháp luật quốc tế, các bên có quyền tự do lựa chọn biện pháp
giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, nguyên tắc tận tâm thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế
(Pacta Sunt Servanda) vận dụng trong vấn đề giải quyết tranh chấp chủ quyền
biển, đảo quốc gia các giá trị về: sự tuân thủ của các quốc gia – chủ thể luật
quốc tế đối với điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên; việc thực thi
và giải thích các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong điều ước
quốc tế một cách thiện chí. Các hành động cố tình giải thích sai quy định, tinh
thần của điều ước đều bị coi là hành vi vi phạm quy phạm Jus Cogens của luật
quốc tế.3
1.2.2. Nguyên tắc đặc thù trong lĩnh vực cụ thể của luật quốc tế
Bên cạnh các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, luật biển cũng như
nhiều ngành luật cụ thể khác, đều chứa đựng những nguyên tắc mang tính đặc
thù riêng của ngành nhằm tạo cơ sở để các bên cùng tuân thủ trong quá trình
giải quyết các vấn đề phát sinh có liên quan.

3

Nguyễn Bá Diến, (2015), Tranh chấp Biển Đông và các phương thức giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế
trong Luật quốc tế hiện đại, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số3, Tr.13,14.



15

Nguyên tắc đặc thù là những tư tưởng chính trị - pháp lý cơ bản, mang
tính bao trùm, chỉ đạo đối với các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực cụ thể,
chuyên biệt của đời sống quốc tế. Đây là hệ nguyên tắc phản ánh yếu tố khác
biệt về đặc trưng giữa lĩnh vực này so với các lĩnh vực khác.
Trong lĩnh vực luật biển, rất nhiều nguyên tắc đặc thù được hình thành
và thừa nhận chung qua thực tiễn quốc tế hoặc ghi nhận trong điều ước quốc
tế (Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, Công ước Geneva
năm 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp, Công ước Geneva năm 1958 về thềm
lục địa,...) cụ thể như: nguyên tắc chiếm hữu thực sự, nguyên tắc “đất thống
trị biển”, nguyên tắc thỏa thuận, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc đường
trung tuyến/ cách đều, nguyên tắc đường biên giới có sẵn (Uti Posidetis),
nguyên tắc Estoppel, nguyên tắc tự do biển cả, Nguyên tắc Vùng – di sản
chung của nhân loại,... Đối với giải quyết tranh chấp chủ quyền biển, đảo, các
nguyên tắc này được sử dụng trong từng trường hợp cụ thể với các khía cạnh
vận dụng khác nhau, trong đó, nguyên tắc thỏa thuận được coi là nguyên tắc
áp dụng với giá trị: thừa nhận quyền bình đẳng tự do thỏa thuận lựa chọn các
giải pháp giải quyết tranh chấp giữa các bên trên cơ sở pháp luật quốc tế;
không một hiện trạng quy thuộc quyền quốc gia đối với các vùng biển, đảo
nào là kết quả của hành vi đơn phương của một bên được thừa nhận nếu vùng
biển, đảo đó đặt ra yêu cầu phân định để đảm bảo quyền lợi chính đáng của
các bên hữu quan.
Nguyên tắc công bằng được áp dụng dưới nhiều khía cạnh khác nhau:
sự công bằng giữa các quốc gia có biển và không có biển trong việc sử dụng
biển cả vì mục đích hòa bình theo quy định pháp luật quốc tế; sự công bằng
trong quản lý, khai thác và phân chia tài nguyên vùng; công bằng trong phân
định các vùng biển chồng lấn. Riêng ở khía cạnh thứ ba, giá trị của nguyên

tắc công bằng thừa nhận và đặt ra yêu cầu các bên phải tính đến các hoàn
cảnh đặc thù ảnh hưởng đến kết quả phân định công bằng vùng biển chồng
lấn.


16

Công bằng có thể là cân bằng tuyệt đối nếu vùng biển cần phân định
tương đối bằng phẳng, đơn giản, không hiện diện yếu tố đặc thù làm sai lệch
đường phân định hoặc vùng xuất hiện yếu tố đặc thù bên phía bờ biển các
quốc gia, nhưng yếu tố này triệt tiêu được cho nhau. Công bằng cũng có nghĩa
là kết quả phân định biển phản ánh đúng thực tế giá trị hiệu lực của các hoàn
cảnh đặc thù có hiện diện, mặc dù tỷ lệ phần trăm phân chia giữa các quốc gia
hữu quan chênh lệch nhau. Công bằng còn có thể được nhìn nhận dưới khía
cạnh phản ánh kết quả phân định biển được coi là “có thể chấp nhận” giữa các
bên, mặc dù trong quá trình thỏa thuận phân định, các bên đã thực hiện những
trao đổi, nhượng bộ mang tính chính trị - ngoại gia hoặc pháp lý khác nhau.
Các nguyên tắc còn lại được các bên áp dụng trong giải quyết nội dung
tranh chấp tùy từng trường hợp cụ thể. Trong khi nguyên tắc “đất thống trị
biển” được sử dụng để khẳng định quyền mở rộng chủ quyền hướng ra biển
từ chủ quyền với lãnh thổ lục địa của quốc gia ven biển, Nguyên tắc Estoppel
lại được sử dụng với mục đích ngăn chặn hành vi bất nhất của một quốc gia
nhằm tạo ra thực tế có lợi cho quốc gia của mình nhưng gây bất lợi và thiệt
hại cho quốc gia khác.4
1.2.3. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế (bao gồm điều ước quốc tế song phương và đa
phương) là thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và
chủ thể của luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh không phụ thuộc vào
việc thỏa thuận đó có được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hay hai
hoặc nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên

gọi cụ thể của những văn kiện đó. Điều ước quốc tế chứa đựng các quy phạm
pháp luật quốc tế, là công cụ, phương tiện quan trọng điều chỉnh, ổn định
quan hệ giữa các chủ thể luật quốc tế, đồng thời, là công cụ xây dựng, phát
triển hoặc cụ thể hóa khung pháp luật quốc tế hiện đại.

4

Nguyễn Bá Diến, (2015), Tranh chấp Biển Đông và các phương thức giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế
trong Luật quốc tế hiện đại, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số3, Tr.15.


17

Trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp chủ quyền biển, đảo, điều ước
quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ chứa đựng các quy phạm
trực tiếp điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tranh chấp (nguyên tắc, phương
thức, biện pháp, quy trình thủ tục,... giải quyết tranh chấp) mà bản thân một
điều ước quốc tế còn có thể là mục đích hướng tới của các bên tranh chấp, là
sự hiện thực hóa quá trình thỏa thuận giải quyết tranh chấp của các bên.
Điều ước quốc tế đa phương có vị trí quan trọng trong lĩnh vực biển,
đảo nói chung và giải quyết tranh chấp về biển, đảo nói riêng có thể đề cập
đến như: Hiến chương Liên Hợp quốc năm 1945, Tuyên bố năm 1970 về các
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc
năm 1982, Công ước Geneva năm 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp, Công
ước Geneva năm 1958 về thềm lục địa,... Hiến chương Liên Hợp quốc 1945
và Tuyên bố năm 1970 là sự ghi nhận và cụ thể hóa nội dung của các nguyên
tắc cơ bản của luật quốc tế (trong đó có nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh
chấp), tạo ra khuôn khổ pháp lý chung để các bên tranh chấp cùng áp dụng và
tuân thủ. Bên cạnh đó, Hiến chương còn quy định cụ thể: nghĩa vụ hòa bình
giải quyết tranh chấp quốc tế; các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp

(điều 33, khoản 1); quyền tự do lựa chọn và thỏa thuận lựa chọn các biện
pháp giải quyết tranh chấp; cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ tổ
chức Liên Hợp quốc mà các bên tranh chấp có thể sử dụng (giải quyết tranh
chấp thông qua Đại hội đồng Liên Hợp quốc hoặc Hội đồng Bảo an Liên Hợp
quốc hoặc Tòa án Công lý quốc tế - cơ quan chuyên trách về giải quyết tranh
chấp của Liên Hợp quốc.
Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 chứa đựng các
quy phạm: khẳng định sự tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
trong xác lập, thực thi và giải quyết tranh chấp về chủ quyền biển, đảo; quy
định trực tiếp hoặc gián tiếp thể hiện một số nguyên tắc đặc thù của lĩnh vực
biển, đảo mà các bên cần áp dụng trong vấn đề có liên quan; quy định cụ thể
cách thức, biện pháp và quy định quy chế pháp lý các vùng biển, đảo và các
vấn đề liên quan làm cơ sở để các bên giải quyết nội dung tranh chấp.


18

Công ước Geneva năm 1958 được áp dụng trong giải quyết tranh chấp
chủ quyền biển, đảo ở khía cạnh: đánh giá sự hợp lý trong lập luận của các
bên về thực tiễn thể hiện yêu sách đơn phương các vùng biển thuộc quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia thông qua tính phù hợp và tương
thích với các quy định của Công ước; lựa chọn cơ sở pháp lý áp dụng phù hợp
trong trường hợp các bên là thành viên khác nhau của Công ước Geneva năm
1958 với Công ước Luật biển năm 1982, bởi quy định trong nhiều vấn đề giữa
hai điều ước này có sự khác biệt (ví dụ: quy định về giá trị công bằng trong
phân định biển, quy định về nội hàm khái niệm vùng thềm lục địa).
Điều ước quốc tế song phương có giá trị vận dụng trong giải quyết
tranh chấp chủ quyền biển, đảo bao gồm các điều ước: thể hiện nguyên tắc chỉ
đạo trong giải quyết tranh chấp trên biển giữa các quốc gia; thể hiện kết quả
cuối cùng về phân định vùng biển chồng lấn giữa các quốc gia hữu quan; thể

hiện các dàn xếp tạm thời giữa các quốc gia trước khi tiến đến phân định dứt
điểm vùng chồng lấn; thể hiện quá trình hợp tác giữa các quốc gia hữu quan;
thể hiện kết quả về phân định ranh giới quản lý và chủ quyền các đảo, đá.
1.2.4. Tập quán quốc tế
Tập quán quốc tế là hình thức pháp lý chứa đựng các quy tắc xử sự
chung, hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể luật
quốc tế thừa nhận là luật. So với điều ước quốc tế, quy phạm tập quán vừa có
giá trị độc lập, vừa có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Sự
tồn tại của điều ước quốc tế không loại bỏ giá trị áp dụng của quy phạm tập
quán tương đương về nội dung; tập quán quốc tế có thể tạo điều kiện mở rộng
hiệu lực của điều ước quốc tế và ngược lại. Quy phạm tập quán có thể bị thay
đổi, hủy bỏ bằng con đường điều ước quốc tế và cũng có thể tồn tại trường
hợp sự xuất hiện của một quy phạm tập quán làm thay đổi hoặc loại bỏ hiệu
lực của quy phạm điều ước (ví dụ trường hợp quy phạm điều ước mới được
xây dựng lên từ quy phạm tập quán).
Trong lĩnh vực chủ quyền biển, đảo vốn tồn tại nhiều tập quán quốc tế,
có quy phạm tập quán đi lên từ học thuyết pháp lý và sau đó phát triển thành


19

nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế; cũng có quy phạm tập quán quốc tế ngày
nay đã trở thành nguyên tắc cơ bản hoặc đặc thù của lĩnh vực cụ thể. Điều
quan trọng là khi vận dụng một tập quán quốc tế xác định, các bên tranh chấp
biện dẫn tập quán đó dưới hình thức nào, nguyên tắc hay tập quán hay học
thuyết pháp lý. Điều này còn tùy thuộc vào từng trường hợp và mục đích sử
dụng. Có thể kể đến một số tập quán quốc tế có vai trò quan trọng trong giải
quyết tranh chấp chủ quyền biển, đảo như: tập quán đất thống trị biển, tập
quán công bằng, tập quán Uti Possidetis,...5
1.2.5. Phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế

Phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế là văn bản thể hiện lập luận và
kết luận của các thẩm phán hoặc trọng tài thuộc cơ quan tài phán nhất định về
vụ tranh chấp cụ thể. Qua các phán quyết, nhiều quy phạm pháp luật quốc tế
được cụ thể hóa, giải thích và vận dụng hợp lý, từ đó tạo ra các viện dẫn áp
dụng đối với chủ thể luật quốc tế về các khía cạnh trong vụ tranh chấp tương
tự. Bên cạnh đó, phán quyết cũng tạo tiền đề pháp lý để hình thành lên quy
phạm pháp luật mới của luật quốc tế và tác động tích cực đến cách xử sự của
chủ thể luật quốc tế, đồng thời bổ sung thêm nhiều khiếm khuyết của luật
quốc tế.
Không phải mọi phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế đều trở thành
án lệ và không phải mọi chủ thể luật quốc tế đều công nhận án lệ là một
nguồn luật chính thức của pháp luật quốc gia. Vì vậy, dù được khẳng định vai
trò quan trọng trong đời sống quốc tế, nhưng quá trình viện dẫn, áp dụng các
phán quyết này sẽ có sự chênh lệch trong nhận thức cũng như kinh nghiệm sử
dụng của các bên. Dù vậy, điều này không thể làm giảm vai trò của các phán
quyết nói chung và án lệ nói riêng trong giải quyết tranh chấp quốc tế, nhất là
giải quyết các tranh chấp về chủ quyền biển, đảo. Điều này được giải thích
bởi các quy định luật quốc tế trong lĩnh vực này còn có nhiều quy định chung
và khái quát, chưa rõ ràng để áp dụng và giải thích chính xác. Và quốc gia là
5

Nguyễn Bá Diến, (2015), Tranh chấp Biển Đông và các phương thức giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế
trong Luật quốc tế hiện đại, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số3, Tr.17.


20

các bên tranh chấp có thể nghiên cứu và vận dụng tới để xây dựng và đưa ra
các luận cứ, luận chứng của mình nhằm chứng minh, bảo vệ chủ quyền biển
đảo quốc gia hoặc bác bỏ lập luận của đối phương.

Một số phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế trong lĩnh vực biển
đảo có thể kể đến như: phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế, Tòa án quốc
tế về luật biển, các tòa trọng tài.6
1.2.6. Học thuyết (quan điểm) pháp lý của các chuyên gia có chuyên môn
cao nhất về luật quốc tế.
Học thuyết (quan điểm) pháp lý của các chuyên gia nổi tiếng chứa
đựng các lập trường, quan điểm, tư tưởng về một vấn đề nhất định của khoa
học pháp lý quốc tế, được hình thành qua nhiều hoạt động khác nhau như:
phân tích các quy phạm pháp luật quốc tế, đưa ra quan điểm, lập luận về
những vấn đề của khoa học pháp lý quốc tế,... Đây được coi là nguồn luật khá
quan trọng bởi từ học thuyết pháp lý, dù không trực tiếp tạo ra các quy phạm
pháp luật quốc tế nhưng lại tác động tích cực đến quá trình phát triển của hệ
thống luật, đồng thời tác động tới nhận thức của con người về khoa học pháp
lý. Học thuyết pháp lý cũng có giá trị hỗ trợ để xây dựng và thực hiện luật
quốc tế được thuận lợi.
Trong giải quyết tranh chấp chủ quyền biển, đảo có một số học thuyết
pháp lý có giá trị lớn như: học thuyết tự do biển cả, học thuyết không thừa
nhận, học thuyết Estoppel, học thuyết đất thống trị biển,... Ngày nay, các học
thuyết này đều đã phát triển nguyên tắc pháp luật chung. Riêng đối với
nguyên tắc không thừa nhận (Non – Recognition) với giá trị không thừa nhận
mọi hiện trạng được tạo ra từ hành vi sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực,
ngày nay được thể hiện trong hai nguyên tắc cơ bản và quan trọng của cộng
đồng quốc tế, đó là nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp và nguyên tắc
cấm sử dụng hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

6

Nguyễn Bá Diến, (2015), Tranh chấp Biển Đông và các phương thức giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế
trong Luật quốc tế hiện đại, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số3, Tr.18.



21

1.2.7. Nghị quyết của các tổ chức quốc tế
Nghị quyết của các tổ chức quốc tế là văn kiện pháp lý tồn tại dưới
dạng văn bản và thể hiện quan điểm chung của tổ chức quốc tế đó về một vấn
đề nhất định liên quan đến thành viên của tổ chức hoặc vấn đề mang tính nội
bộ chung nhằm hiện thực hóa các mục tiêu, chiến lược tổ chức đề ra.
Nghị quyết của tổ chức quốc tế tồn tại dưới nhiều tên gọi và hình thức
văn bản khác nhau, với giá trị mang tính khuyến nghị hoặc bắt buộc tùy từng
trường hợp cụ thể và theo quy định về quy chế hoạt động của tổ chức đó.
Trong hệ thống các tổ chức quốc tế, nghị quyết của tổ chức Liên Hợp
quốc (Nghị quyết của các cơ quan Đại Hội Đồng và Hội đồng Bảo an) cũng
như nghị quyết của tổ chức quốc tế khu vực (thường thể hiện với nhiều tên
gọi khác nhau nhưng cùng chứa đựng các quy phạm mang tính quyết nghị của
tổ chức đó) có vai trò quan trọng hơn cả. Các nghị quyết này được sử dụng
dưới hai khía cạnh: viện dẫn đến nội dung của nghị quyết để xây dựng luận
cứ, luận chứng chứng minh hoặc bác bỏ một vấn đề nhất định; sử dụng các
phương thức khác nhau theo quy định của pháp luật quốc tế để đạt được một
nghị quyết về giải quyết tranh chấp.7
1.3.

Các biện pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp trên biển
Hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế được coi là nguyên tắc cơ

bản và nền tảng của pháp luật quốc tế hiện đại. Cùng với nguyên tắc cấm sử
dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế đã góp phần làm thay
đổi về chất của luật quốc tế hiện đại. Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945
tại Điều 2, khoản 3; Công ước Luật Biển 1982, Điều 279 đã ghi nhận nguyên
tắc này. Đây là nguyên tắc không có bất cứ ngoại lệ nào, các quốc gia và các

chủ thể khác của luật quốc tế buộc phải tuân thủ triệt để. Nội dung cơ bản của
nguyên tắc được thể hiện ở các điểm chính sau:
- Tất cả các quốc gia sẽ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện
pháp hòa bình, không phương hại đến hòa bình, an ninh, và công lý
7

Nguyễn Bá Diến, (2015), Tranh chấp Biển Đông và các phương thức giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế
trong Luật quốc tế hiện đại, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số3, Tr.18.


22

quốc tế. Các biện pháp hòa bình có thể là đàm phán, trung gian, hòa
giải, trọng tài, Tòa án hoặc các biện pháp hòa bình khác do các bên
thỏa thuận lựa chọn;
- Các quốc gia trong tranh chấp có nghĩa vụ từ bỏ bất kỳ hành vi nào có
thể làm trầm trọng thêm tình hình hiện tại và gây nguy hiểm cho hòa
bình, an ninh thế giới;
- Các tranh chấp quốc tế được giải quyết trên cơ sở bình đẳng về chủ
quyền giữa các quốc gia, phù hợp và tự do lựa chọn cách thức giải
quyết tranh chấp.
Căn cứ vào bản chất, thẩm quyền và thủ tục giải quyết tranh chấp, các
biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế quy định tại Điều 33 Hiến chương
Liên Hợp quốc có thể được chia thành hai nhóm cơ bản:
Nhóm một: Các biện pháp ngoại giao: gồm đàm phán, điều tra, trung
gian, hòa giải, giải quyết trước các tổ chức quốc tế khu vực bằng các hiệp
định khu vực. Chúng có đặc điểm cơ bản là giải quyết tranh chấp bằng đối
thoại, thương lượng thông qua các diễn đàn, Hội nghị quốc tế do các bên
tranh chấp hoặc bên thứ ba tổ chức (có thể là các tổ chức quốc tế liên chính
phủ như ASEAN, Liên minh Châu Âu EU, liên minh Châu Phi AU hoặc các

quốc gia...)
Nhóm hai: Các biện pháp tài phán (Tòa án công lý quốc tế và Trọng tài
quốc tế) với đặc điểm cơ bản là giải quyết tranh chấp mang tính pháp lý theo
trình tự, thủ tục tố tụng tư pháp.
1.3.1. Các biện pháp ngoại giao
1.3.1.1.

Biện pháp đàm phán, thương lượng

Đàm phán giải quyết tranh chấp quốc tế thực chất là diễn đàn ngoại
giao do các bên tranh chấp hoặc bên thứ ba tổ chức để các bên tranh chấp tiến
hành thương lượng, thỏa thuận tìm kiếm giải pháp giải quyết hòa bình các
tranh chấp có liên quan. Tuy nhiên, Hiến chương Liên Hợp Quốc không quy
định cụ thể về định nghĩa, nguyên tắc, nội dung, cách thức thực hiện, trình tự
thủ thục giải quyết tranh chấp bằng đàm phán, thương lượng.


23

Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, tồn tại nhiều loại hình đàm phán quốc
tế như tư vấn, tham vấn, tham khảo ý kiến, trao đổi ý kiến, hội nghị. Luật
quốc tế không quy định quy tắc tiến hành đàm phán giải quyết tranh chấp. Tất
cả những vấn đề liên quan đến đàm phán giải quyết tranh chấp quốc tế sẽ do
các quốc gia là các bên tranh chấp chủ động xây dựng hoặc dựa vào sự tư vấn,
hỗ trợ của các tổ chức quốc tế hoặc các quốc gia khác.
Công ước Luật biển năm 1982 quy định tại Khoản 1 Điều 283 về nghĩa
vụ ban đầu của các quốc gia khi xảy ra tranh chấp: “Khi có một tranh chấp
xảy ra giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích áp dụng
Công ước, các bên tranh chấp tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về
cách giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hay bằng các phương pháp

hòa bình khác”8.
Mặc dù không có quy định cụ thể đối với từng phương thức giải quyết
tranh chấp nhưng đối với các tranh chấp về lãnh thổ biên giới trên biển Công
ước có ghi nhận những quy định tương ứng. Điều 15 Công ước về việc hoạch
định ranh giới lãnh hãi giữa các quốc gia có bờ biển liền kề hoặc đối diện
nhau quy định: “Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau,
không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến
mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận
ngược lại...”
Mục đích, thành phần, cấp tham gia, hình thức của đàm phán do chính
các quốc gia hữu quan thoả thuận với nhau. Tuy nhiên, việc tiến hành đàm
phán, kết quả của đàm phán phải hoàn toàn theo các nguyên tắc bình đẳng
giữa các quốc gia, không dùng vũ lực hoặc đe doạ bằng vũ lực, không can
thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Đàm phán có thể được tiến hành
theo mô hình đàm phán song phương hoặc đàm phán đa phương, có thể trực
tiếp hoặc thông qua việc trao đổi công hàm. Đàm phán có thể diễn ra ở cấp
8

Khoản 1 Điều 283 Công ước Luật biển năm 1982


24

các nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ, đại diện toàn quyền của
các nhà nước hoặc thông qua các Hội nghị ngoại giao, các cơ quan đại diện
ngoại giao của các quốc gia ở nước ngoài... Trong đó, các cuộc đàm phán cấp
cao có vai trò quyết định. Trong các cuộc đàm phán này, các bên thường thảo
luận về những nguyên nhân cơ bản làm phát sinh tranh chấp để thống nhất áp
dụng biện pháp giải quyết tranh chấp. Kết quả đàm phán trực tiếp phụ thuộc

rất nhiều vào uy tín, trình độ, kiến thức chuyên môn của đại diện các quốc gia
tham gia đàm phán. Đàm phán thường kết thúc bằng việc các bên tranh chấp
sẽ ký kết một trong các loại văn kiện quốc tế như Bản ghi nhớ (aide
mémoire), Nghị quyết (révolution, décision); Hiệp ước, Hiệp định
(traité, accord)...
Có thể khẳng định rằng, đàm phán là một biện pháp hòa bình nhằm
giải quyết tranh chấp quốc tế được áp dụng từ lâu đời, phổ biến, hiệu quả và
linh hoạt nhất. Bởi lẽ, đàm phán tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi nhất để các
bên tranh chấp trực tiếp bày tỏ quan điểm, lập trường, yêu sách của mình về
vấn đề tranh chấp và cùng nhau thương lượng, nhượng bộ giải quyết. Mặt
khác, giải quyết tranh chấp bằng đàm phán trực tiếp sẽ hạn chế được sự can
thiệp từ bên ngoài, có khả năng làm phức tạp thêm vụ việc tranh chấp. Thực
tiễn cho thấy, đàm phán có thể được áp dụng là biện pháp khởi đầu và cũng
có thể là biện pháp sau cùng để các bên giải quyết tranh chấp khi các bên đã
giải quyết bằng các biện pháp khác. Theo tinh thần của Điều 15 thì cơ chế
đàm phán, thỏa thuận vẫn được coi trọng để giải quyết tranh chấp giữa các
quốc gia. Cơ chế này vẫn tiếp tục được đề cao khi các quốc gia tiến hành phân
định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tại Điều 74 và Điều 83.
Từ khi chưa gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),
Việt Nam đã tuyên bố ủng hộ Tuyên bố của các Bộ trưởng Ngoại giao các
nước ASEAN ngày 18 tháng 3 năm 1995. Trong tuyên bố của mình, Việt
Nam khẳng định: mọi tranh chấp chủ quyền đối với các quần đảo ở Biển
Đông cần phải được giải quyết thông qua thương lượng hòa bình. Đồng thời,
Việt Nam kêu gọi các bên liên quan kiềm chế, cam kết không sử dụng hoặc


25

đe dọa sử dụng vũ lực. Như tại Điều 10 Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về phân định

lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh Bắc
Bộ có hiệu lực từ ngày 30 tháng 6 năm 2004 quy định: “Mọi tranh chấp giữa
hai Bên ký kết liên quan đến việc giải thích hoặc thực hiện Hiệp định này phải
được giải quyết thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị”.
1.3.1.2.

Biện pháp trung gian, môi giới, hòa giải

Trung gian là biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế thông
qua bên thứ ba, bên không tham gia tranh chấp. Bên thứ ba có nhiệm vụ đảm
nhiệm chức năng trung gian có thể là đại diện các quốc gia, tổ chức quốc tế
hoặc cá nhân có uy tín lớn trên trường quốc tế. Họ có thể tham gia tự nguyện
hoặc được một trong các bên tranh chấp đề nghị, có nhiệm vụ đưa các bên
tranh chấp ngồi vào bàn đàm phán và tham dự tiến trình đàm phán cùng các
bên tranh chấp.
Bên trung gian có thể đóng vai trò chủ tọa các trong các cuộc đàm
phán, đưa ra giải pháp giúp các bên lựa chọn giải quyết tranh chấp. Thế
nhưng, dù với tư cách nào, bên trung gian cũng phải tuân thủ vai trò trung
gian của mình là không thiên vị cho bất cứ bên nào trong vụ tranh chấp,
không được lợi dụng để can thiệp vào vụ tranh chấp.
Môi giới được coi là phương pháp đặc biệt của việc giải quyết các tranh
chấp bằng phương pháp hòa bình thông qua con đường ngoại giao, bên thứ ba
với sự nhất trí và tin cậy của các bên tranh chấp sẽ đảm nhận việc thuyết phục
các bên tranh chấp chấp ngồi vào bàn đàm phán. Đây là biện pháp hòa bình
nhằm giải quyết tranh chấp quốc tế không được đề cập cụ thể trong Điều 33
Hiến chương Liên Hiệp quốc, nhưng biện pháp này được áp dụng rất nhiều
trên thực tế. Theo đó, các cá nhân có uy tín lớn như nguyên thủ, cựu nguyên
thủ quốc gia, Tổng thư ký, nguyên Tổng thư ký Liên Hiệp quốc hoặc những
người đứng đầu các tổ chức quốc liên chính phủ khác tự nguyện hoặc được
các bên tranh chấp đề nghị đứng ra thuyết phục các bên tranh chấp gặp gỡ,

tiếp xúc để giải quyết tranh chấp.Ví dụ, năm 1966 Liên Xô đã làm môi giới,


×