Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC BẮC ÂU (1969 – 2005)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP
. HỒ CHÍ MINH
---------------------------------






Lê Thị Yến Anh




QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM
VỚI CÁC NƯỚC BẮC ÂU
(1969 – 2005)











LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ














Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP
. HỒ CHÍ MINH
---------------------------------





Lê Thị Yến Anh




QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM
VỚI CÁC NƯỚC BẮC ÂU
(1969 – 2005)





Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60 22 54





LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGÔ MINH OANH






Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI trong xu thế chung của thế giới là hòa bình, hữu nghị, hợp tác

và phát triển, hợp tác liên kết với nhau giữa các nước, các tổ chức quốc tế là
những đòi hỏi cần thiết của các quốc gia và là những đòi hỏi tất yếu khách quan
hiện nay.
Ngày nay, mỗi một quốc gia muốn phát triển theo kịp xu thế chung của thế
giới cần phải “mở cửa” trong quan hệ, thực tế đã chứng m
inh không một quốc
gia nào dù lớn hay nhỏ, dù giàu có hay nghèo khổ cũng không thể “khép kín” tự
sản xuất tất cả những sản phẩm phục vụ nhu cầu của mình, vì thế cần phải “mở
cửa” trong quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội và hợp tác văn hóa - giáo dục để trao
đổi học hỏi những kinh nghiệm lẫn nhau.
Ở Việt Nam tư tưởng “mở cửa” đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc
, chính sách ngoại giao mở cửa thông thương tạo
dựng môi trường chung sống thuận lợi giữa nhân dân Việt Nam với các nước bên
ngoài. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ xâm lược nhân dân Việt
Nam đã sử dụng ngoại giao làm vũ khí đấu tranh chiến lược phối hợp cùng với
mặt trận quân sự tạo nên t
hế trận vừa đánh vừa đàm. Trong xu thế chung toàn
cầu hóa trên thế giới, vào tháng 12 năm 1986 tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VI đã thông qua đường lối đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới
về đối ngoại. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ
hàng đầu của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn này là “tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Tuy nhiên, trên thế
giới vẫn còn tồn tại những xung đột, mâu thuẩn gay gắt giữa các nước như chiến
tranh sắc tộc, tôn giáo, xung đột vũ trang, các hoạt động can thiệp lật đổ hoặc
những hoạt động khủng bố còn diễn ra với nhiều hình thức phức tạp khác nhau.

Trên thế giới sau khi chiến tranh lạnh kết thúc với xu thế chung lấy kinh tế
làm trung tâm và quá trình toàn cầu hóa làm cho mối quan hệ giữa các nước lớn

với nhau cũng diễn ra nhiều mâu thuẩn khó có thể nói hết được, các nước lớn vừa
hợp tác nhưng lại vừa mâu thuẩn cạnh tranh với nhau. Điểm nổi bật của xu thế
toàn cầu hóa đặc biệt là toàn cầu hóa kinh tế đã làm cho nền kinh tế trên toàn thế
giới giống như một chỉnh thể mà trong đó nền kinh tế của mỗi quốc gia lại là một
bộ phận có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Tuy tham gia vào quá
trình toàn cầu hóa nhưng mỗi một quốc gia đều hoàn toàn độc lập về chính trị, xã
hội, đồng t
hời quá trình toàn cầu hóa cũng đem lại những tính chất phức tạp ảnh
hưởng nhiều đến tình hình an ninh chính trị, kinh tế của thế giới hiện nay.
Về phía Việt Nam, chủ trương đổi mới của nước t
a đã nhanh chóng được
thực hiện trong đó có mở rộng chính sách đối ngoại với các nước trên thế giới.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ “nhiệm vụ ổn
định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự nghiệp phát

triển khoa học – kỹ thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến
hành nhanh hay chậm điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng
và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại” [25, tr 81].
Đảng và nhà nước Việt Nam đổi mới nhiều chủ trương chính sách và các
phương thức hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại để tăng cường mối quan hệ hợp
tác hữu nghị giữa các nước, Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
một lần
nữa đã xác định quyết tâm muốn mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các
nước trên thế giới, từng bước hội nhập vào xu thế chung của khu vực và quốc tế,
là bạn của tất cả các nước nhằm mục đích học hỏi kinh nghiệm, trao đổi hợp tác
trên nhiều lĩnh vực. Đại hội Đảng lần IX
đã xác định nhiệm vụ: “thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, chính sách đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẳn sàng làm bạn và là đối tác tin cậy
của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế ” [ 28, tr 42 ].


Với chủ trương muốn “làm bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế” Đảng và nhà nước Việt Nam không những đã mở rộng
các quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á mà còn mở rộng
quan hệ hợp tác với nhiều nước phát triển thuộc nhiều khu vực khác nhau trong
đó có Liên minh Châu Âu. Đối với các nước Bắc Âu đây là những nước có quan
hệ hợp tác lâu dài với Việt Nam
, là một trong các đối tác quan trọng của Việt
Nam, các nước này đã và đang ủng hộ giúp đỡ hợp tác tích cực với nước ta trong
cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng
đất nước hiện nay.
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á với những điều kiện tự nhiên, kinh
tế thuận lợi đây là một khu vực có nhiều t
iềm năng để hợp tác phát triển kinh tế
trong nhiều lĩnh vực. Ngoài ra, Việt Nam còn là một thị trường có nhiều tiềm
năng với dân số hơn 80 triệu người, lực lượng lao động dồi dào, đất nước đang
trong giai đoạn phát triển từng bước hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa vì vậy Việt
Nam được đánh giá là một địa chỉ đáng tin cậy để đầu tư và hợp tác.

Trong các mối quan hệ hợp tác quốc tế Việt Nam được Liên minh Châu
Âu đánh giá cao và tích cực đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác kinh tế song phương,
buôn bán hai chiều, các nước Bắc Âu cũng không nằm ngoài quy luật đó các nhà
tư bản Bắc Âu đang từng bước thâm nhập vào thị trường rộng lớn ở Việt Nam.
Sau khi Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước Bắc Âu, trong
giai đoạn đầu Việt Nam
chủ yếu nhận viện trợ không hoàn lại từ các nước Bắc
Âu. Từ khi Hiệp định khung được chính thức ký kết giữa Việt Nam với Liên
minh Châu Âu, mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu được tiến hành
trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, giáo dục đào tạo, y tế,
khoa học kỹ thuật, du lịch… nhằm nhanh chóng thu hút nhiều vốn đầu tư nước

ngoài, học hỏi kinh nghiệm q
uản lý, kỹ thuật công nghệ, thị trường… từ các
nước Bắc Âu để đưa Việt Nam vượt qua tình trạng lạc hậu kéo dài trong nhiều

năm tiến tới việc chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa.
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước Bắc Âu không
chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn đáp ứng những nhu cầu thực tiển của đất
nước hiện nay, những kết quả nghiên cứu sẽ giúp chúng ta có được những bài
học kinh nghiệm, tìm được những thuận lợi và khó khăn trong mối quan hệ giữa
hai bên đồng t
hời trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp, những chính sách phù
hợp để phát huy mối quan hệ hợp tác ngày càng có hiệu quả hơn.
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ trước
đến nay chưa được các nhà khoa học Lịch sử Việt Nam nghiên cứu. Quá trình
phát triển của Việt Nam trong tương lai đòi hỏi cần phải tiếp cận đến những vấn
đề hội nhập quốc tế và khu vực m
ang nhiều lợi ích cho đất nước một cách khách
quan nhất.
Từ những ý nghĩa khoa học và thực tiển trên chúng tôi quyết định chọn đề
tài “Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu (1969 -2005)” với mong
muốn khái quát, tổng hợp lại mối quan hệ này. Từ đó đưa ra những nhận định về
quá trình phát triển hợp tác giữa Việt Nam
với các nước Bắc Âu trên cơ sở tác
động của tình hình thế giới, khu vực và sự phát triển nội tại của Việt Nam trong
những thời điểm khác nhau.
2. Lịch sử vấn đề
Theo hiểu biết của chúng tôi đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào
nghiên cứu cụ thể về mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu, chỉ có
một số sách đã xuất bản đề cập đến vấn đề này chủ yếu t

rên lĩnh vực kinh tế
nhưng lại được lồng ghép trong mối quan hệ chung của khu vực EU và thế giới.
Ở trong nước có một số sách và công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
“Quan hệ Việt Nam – Liên minh Châu Âu” của tiến sĩ Trần Thị Kim Dung, Nhà
xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Luận án “Quan hệ Việt Nam – Liên

hiệp Châu Âu (1990 -2004)” của tác giả Hoàng Thị Như Ý, Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, 2006; “Thúc đẩy quan hệ thương mại đầu tư giữa liên
hiệp Châu Âu và Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI”
tác giả Bùi Huy Khoát (chủ biên), Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; “Việt
Nam và các nước Tây Bắc Âu trong tình hình mới, Hội nhập quốc tế và giữ vững
bản sắc” tác giả Nguyễn Dy Niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1
995; “Các
quốc gia và vùng lãnh thổ có quan hệ quốc tế với Việt Nam” của Bộ Kế hoạch và
đầu tư, Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2006; “Quan hệ EU –ASEAN trước ngưỡng cửa
thế kỉ XXI. ASEAN những vấn đề và xu hướng” tác giả Bùi Huy Khoát, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; “Hợp tác Á –Âu và vai trò của Việt Nam” tác
giả Nguyễn Duy Quý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Quan hệ kinh tế
thương mại Việt Nam – EU”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
Mặt khác còn có nhiều bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa Việt Nam với
các nước Bắc Âu được đăng tải trên các tạp chí, các báo như : “Khả năng hợp tác
kinh tế Việt Nam - Thụy Điển” của Ho
àng Xuân Hòa, Tạp chí Nghiên cứu Châu
Âu, số 6 năm 1998; “Hợp tác Việt Nam – Đan Mạch hướng tới thế kỷ 21” của
Đỗ Thị Lan Phương, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 5 năm 1999; “Quan hệ
Việt Nam – Na Uy những năm gần đây” của Đỗ Thị Lan Phương, Tạp chí
Nghiên cứu Châu Âu, số 6 năm
1999; “Bước phát triển mới trong quan hệ Việt
Nam - Thụy Điển” của Nguyễn Thanh Lan, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 66
năm 2005; “Cộng hòa Phần Lan và quan hệ hữu nghị hợp tác với Việt Nam” của

Đỗ Thị Lan Phương, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 1 năm 2000; “Đan Mạch -
Một đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam” của Vũ Chiến Thắng, Tạp chí
Nghiên cứu Châu Âu, số 49 năm
2003; “Việt Nam – Đan Mạch: hỗ trợ trên cơ sở
bình đẳng” của Hồng Phúc, Tuần báo quốc tế, số 12 năm 1996; “Việt Nam -Thụy
Điển: Quan hệ hợp tác quốc tế không ngừng phát triển” của Đỗ Lan Phương, Tạp
chí Nghiên cứu Châu Âu, số 3 năm 2000. Ngoài ra còn có một số bài viết khác

được lồng ghép chung với mối quan hệ của EU và thế giới như: “Toàn cầu hóa
kinh tế - một số tác động tới quá trình liên kết kinh tế EU – ASEAN” của tiến sĩ
Nguyễn An Hà, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 20 năm 2003; “Thúc đẩy quan
hệ kinh tế EU –ASEAN: cơ hội phát triển cho các nước thành viên mới của
ASEAN” của Hoàng Xuân Hòa, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 50 năm 2003;
“Thực trạng và triển vọng hợp tác đầu tư Việt Nam – EU” của Nguyễn Duy
Quang, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 1 năm
2000; “Vai trò của Liên minh
Châu Âu đối với sự phát triển thương mại Việt Nam” của Hoàng Xuân Hòa, Tạp
chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2 năm 2000; “Quan hệ Việt Nam – Liên minh Châu
Âu từ 1995 tới nay”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 6 năm 2001; “Tổng quan
về hợp tác Việt Nam – EU năm 2000”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2 năm
2002; “Quan hệ hợp tác Việt Nam với EU về lĩnh vực dầu khí và du lịch” của Vũ
Văn Phúc, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2 năm 2002; “Quan hệ kinh tế Việt
Nam với Liên minh Châu Âu” của Trần Văn Chu, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu
,
số 6 năm 2002; “Đổi mới chính sách đối ngoại nhằm phát triển hợp tác Việt Nam
– Châu Âu trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao” của Nguyễn Hoàng Giáp, Tạp chí
Nghiên cứu Châu Âu, số 54 năm 2003; “Tiến trình hợp tác Á –Âu và sự tham
gia của Việt Nam” của Nguyễn Quang Thuấn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số
59 năm 2004; “Việt Nam trong tiến trình ASEM: cơ hội và thách thức” của
Nguyễn Quang Thuấn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 61 năm

2005; “Tình
hình chính trị - xã hội của EU hiện nay (2001- 2005) và những tác động đến Việt
Nam” của Đinh công Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 62 năm 2005; “Hợp
tác phát triển Việt Nam – EU những kết quả bước đầu” của Nguyễn Hồng Vân,
Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 63 năm 2005…
Ở ngoài nước: có những công trình nghiên cứu như: Brian B., Coping
with Contagion: Europe and the Asian Financial Crisis, Asian Survey,May/June;
Dent C.M., The European Union and East Asia: Geo – Economic Diplomacy

and Crisis Management, Global Change: The Impact of Asia in the 21
st
Century,
Macmillan, London…
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo các nguồn tài liệu từ các Văn kiện của
Đảng, nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, các Hiệp định, các văn bản ký kết
giữa hai nước, các tài liệu liên quan đến mối quan hệ giữa Việt Nam với các
nước Bắc Âu được lưu trữ ở Trung tâm lưu trữ Quốc gia II – TPHCM, các số
liệu của Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tổng cục thống kê…Các
trang web của Đảng Cộng sản Việt Nam (www.cpv.org.vn
),Quốc hội Việt
Nam(www.na.gov.vn
), Bộ Văn hóa - Thể thao du lịch (www.cinet.vnn.vn), Bộ
Ngoại giao Việt Nam (www.mofa.gov.vn
), Tổng Cục thống kê
(www.gso.gov.vn
), Bộ kế hoạch đầu tư (www.mpi.gov.vn), Bộ Công Thương
(www.mot.gov.vn
).....
Còn có một số trang website khác của Đại sứ quán các nước Bắc Âu như:
Đại sứ quán Thụy Điển (www.hanoi.embassy.ud.se

), Đại sứ quán Na Uy
(www.norway.org.vn
), Đại sứ quán Phần Lan ( www.finland.org.vn/en/ ), Đại sứ
quán Đan Mạch ( www.dk-vn.dk
), Tổ chức hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển
(SIDA) (www.Sida.moci.gov.vn
), Chương trình hợp tác nghiên cứu Việt Nam -
Thụy Điển (www.sarec.gov.vn)
...
Nhìn chung tài liệu này tương đối nhiều nhưng không hệ thống và khái
quát các vấn đề về quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu, các số liệu trích
dẫn từ nhiều nguồn có sự chênh lệch nhau, không nhất quán đã gây không ít khó
khăn trong quá trình tổng hợp và phân loại tài liệu của người thực hiện đề tài.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi dựa trên những quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng hai phương phá
p
chuyên ngành là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Đồng thời chúng tôi
cũng vận dụng cơ sở phương pháp luận, các phương pháp liên ngành khác như

phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế, phương pháp nghiên cứu kinh tế… và
các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, thống kê.
Dựa vào phương pháp lịch sử chúng tôi muốn dựng lại toàn bộ quá trình
lịch sử trong mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu qua các sự kiện,
dấu mốc và từng giai đoạn cụ thể của mối quan hệ dưới sự tác động của tình hình
thế giới, khu vực và tình hình phát triển của Việt Nam. Trên
cơ sở của bức tranh
lịch sử toàn cảnh, phương pháp logic vạch ra những bản chất của mối quan hệ
giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu nhằm tìm ra được những thuận lợi, những
khó khăn trong mối quan hệ hợp tác giữa các bên và tìm ra những giải pháp thúc

đẩy mối quan hệ có hiệu quả hơn trong tương lai.
Trong quá trình nghiên cứu và xử lý tài liệu chúng tôi vận dụng những
quan điểm cơ bản tư tưởng của Hồ Chí Minh trong chính sách đối ngoại và
những qua
n điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới .Bên
cạnh đó chúng tôi luôn bám sát vận dụng những quan điểm đánh giá nhận định
của Đảng về tình hình quốc tế và khu vực trong những văn kiện Đảng đặc biệt về
những chính sách đối ngoại và xem
đây là cơ sở mang tính lý luận và định hướng
trong quan điểm và tiếp cận nguồn tài liệu .
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian, giới hạn đề tài trong khoảng thời gian từ năm 1969 đến
năm 2005 trong đó lấy Việt Nam làm chủ thể nghiên cứu chính. Sở dĩ chúng tôi
chọn mốc thời gian từ 1969 – 2005 vì từ năm 1969 Thụy Điển là nước Châu Âu

đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa
trong lúc cuộc chiến tranh chống Mĩ của nhân dân Việt Nam đang diễn ra quyết
liệt. Chúng tôi chọn năm 2005 là mốc kết thúc vì trong năm này Việt Nam đã mở
Đại sứ quán Việt Nam tại Helsinki, sự kiện này đã mở ra một bước tiến trong
mối quan hệ giữa Việt Nam với Phần Lan nhất là trong lĩnh vực thương mại và


đầu tư. Tuy nhiên, để làm rõ hơn nữa mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước
Bắc Âu chúng tôi có đề cập đến mối quan hệ này trong giai đoạn trước năm
1969.
Sở dĩ, chúng tôi không chọn mốc thời gian khởi đầu cho việc nghiên cứu
mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ năm 1945 trước khi hai bên
thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ vì trong giai đoạn nà
y quan hệ giữa hai

bên bị chi phối bởi trật tự hai cực Ianta, quan hệ quốc tế trên thế giới lúc này
được tuân theo chuẩn mực cùng nhau hay khác nhau về ý thức hệ. Ngoài ra,
trong chính sách đối ngoại của các nước Bắc Âu đều thực hiện chính sách đối
ngoại trung lập, không liên kết quân sự vì thế giữa Việt Nam với các nước Bắc
Âu chưa thiết lập được quan hệ chính thức nào.
Năm 1954 được chúng tôi chọn làm mốc khởi đầu cho việc nghiên cứu
mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu trước khi hai bên thiết lập quan
hệ ngoại giao vì trong thời gian này mặc dù thực hiện chính sách đối ngoại trung
lập nhưng các nước Bắc Âu vẫn m
uốn giữ cân bằng trong quan hệ với các nước
lớn. Từ năm 1954 từng nước Bắc Âu đã thiết lập mối quan hệ song phương với
chính quyền miền Nam
Việt Nam. Sau khi nhận thấy nguy cơ sa lầy và thất bại
của Mĩ, cùng với các phong trào đấu tranh của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế
giới phát triển mạnh, nên năm 1969 Thụy Điển là nước Bắc Âu đầu tiên thiết lập
quan hệ ngoại giao với chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước Bắc Âu (Na
Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch) trong điều kiện tình hì
nh thế giới và khu
vực có nhiều biến động do đó những chính sách, biện pháp trong các chính sách
đối ngoại của chính phủ Việt Nam phải phù hợp với tình hình chung của thế giới.
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lấy Việt Nam làm chủ thể nghiên cứu chính
trong mối quan hệ giữa các bên.

5. Đóng góp của luận văn
- Trên cơ sở phân tích, so sánh các tài liệu thu thập được, chúng tôi cố
gắng hệ thống lại hoàn chỉnh mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu
trên nhiều lĩnh vực hợp tác từ năm 1969 đến năm 2005 với những thuận lợi lẫn
khó khăn.

- Trên cơ sở của mối quan hệ này, chúng tôi đưa ra những nhận xét, đánh
giá để nhìn thấy được những khó khăn trong quá khứ để có
những chính sách
phù hợp. Từ đây rút ra những bài học kinh nghiệm, dự báo những cơ hội và thách
thức trong bối cảnh của tình hình mới, từ đó đề ra những giải pháp hợp lý nhằm
thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị hợp tác có hiệu quả hơn nữa trong hiện tại và
tương lai.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Lịch sử, Qu
an
hệ quốc tế…
6. Bố cục của luận văn
Luận văn bao gồm: phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tham khảo và
phụ lục, nội dung chính của luận văn được triển khai qua 3 chương:
Chương 1: Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ năm 1969
đến năm 1975.
Chương 2: Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ năm
1976
đến năm 2005.
Chương 3: Những thách thức, cơ hội và những giải pháp thúc đẩy mối
quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu.






Chương 1: QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC BẮC ÂU TỪ
NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1975
1.1. Khái quát mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu trước
khi đặt quan hệ ngoại giao cấp đại sứ (1954 -1968)

1.1.1. Đôi nét về các nước Bắc Âu
Khu vực Bắc Âu gồm ba nước nằm trên bán đảo Scandinavia (Na Uy,
Thụy Điển, Phần Lan) và hai nước Aixơlen, Đan Mạch. Khu vực Bắc Âu nằm ở
các vĩ độ cao nhất của châu Âu, có địa hình băng hà cổ, khu vực Bắc Âu có diện
tích khoảng 1.258.423 km
2
trong đó Thụy Điển là quốc gia có diện tích lớn nhất
(449.964 km
2
) phần lớn diện tích ở đây nằm trong vùng khí hậu ôn đới lục địa,
lạnh. Mặc dù, Bắc Âu có những đặc điểm khí hậu chung giống nhau như giá rét
vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hạ. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt về khí hậu
giữa các nước trong khu vực nhất là hai bên dãy núi Scandinavia, Thụy Điển,
Phần Lan nằm ở phía đông nên có mùa đông rất lạnh, tuyết rơi vào khoảng tháng
10 trong năm, còn Na Uy nằm ở phía tây nên có khí hậu ấm hơn, m
ùa đông
không lạnh lắm, mùa hạ mát và mưa nhiều. Đa số cư dân ở Bắc Âu có mức sống
cao, nền kinh tế ở đây phát triển nhanh chóng nhờ biết khai thác hợp lý những
nguồn tài nguyên thiên nhiên sẳn có để phát triển. Nguồn tài nguyên quan trọng
ở Bắc Âu là dầu mỏ, rừng, quặng sắt, đồng, uranium, nguồn thuỷ năng, cá
biển…trong đó nguồn thuỷ điện được xem l
à lợi thế lớn ở Bắc Âu, do có nguồn
thuỷ điện dồi dào và rẻ nên thuận lợi cho công nghiệp phát triển.
Nói đến Bắc Âu là nói đến kinh tế biển, kinh tế biển giữ vai trò quan trọng
và là nguồn thu ngoại tệ lớn của mỗi nước ở khu vực này, ngoài kinh tế biển các
nước Bắc Âu còn phát triển các ngành công nghiệp khai thác dầu khí, công
nghiệp khai thác rừng, sản xuất đồ gỗ, giấy…
Các nước trong khu
vực Bắc Âu có mối quan hệ lịch sử gắn kết lẫn nhau,
năm 1370 các nước Bắc Âu liên minh với nhau thành lập ra Liên minh Kalmar


gồm các nước Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy do Đan Mạch đứng đầu. Đan Mạch
và Thụy Điển là hai quốc gia thường xuyên xảy ra chiến tranh để tranh giành ảnh
hưởng ở bán đảo Scandinavia, thế kỷ XVII – XVIII là thời kỳ phát triển cực
thịnh của nhà nước phong kiến Thụy Điển, Thụy Điển tiến hành chiến tranh thôn
tính các nước láng giềng (Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan) nhưng đến t
hế kỷ XIX
các nước Bắc Âu bị Nga gây chiến và áp đặt sức ảnh hưởng của mình ở khu vực
này.
Thế kỷ XX các quốc gia ở Bắc Âu lần lượt tuyên bố độc lập, thực hiện
chính sách đối ngoại trung lập không đứng về bên nào trong hai cuộc chiến tranh
thế giới. Ngoài ra, để gìn giữ và phát triển mối quan hệ hợp tác giữa các nước
Bắc Âu trên các các lĩnh vực như luật pháp, văn hoá xã hội, ki
nh tế, an ninh quốc
phòng, giao thông vận tải… các nước Bắc Âu đã thống nhất thành lập Hội đồng
Bắc Âu (16/3/1952) Hội đồng Bắc Âu có vai trò cố vấn cho chính phủ các nước
Bắc Âu về những vấn đề có liên quan đến việc hợp tác giữa các nước trong khu
vực.
 Vương quốc Đan Mạch
Đan Mạch nằm ở khu vực Bắc Âu, phía nam giáp Cộng hòa Liên bang
Đức, ba mặt còn lại giáp với biển Bắc v
à biển Bantich, Đan Mạch bao gồm có
một bán đảo (Jutland nối Đan Mạch với Châu Âu) và 500 đảo nhỏ khác nhau.
Đan Mạch còn có hai vùng đất tự trị trực thuộc đảo Greenland (2.166.086 km
2
)
và quần đảo Faroe (1.399 km
2
). Phần lớn lãnh thổ của Đan Mạch là đảo và các
bán đảo, trong đó có 79 hòn đảo có cư dân sinh sống. Mặc dù, Đan Mạch là một

quốc gia có diện tích vào loại nhỏ nhất ở Châu Âu nhưng Đan Mạch lại có mật
độ dân cư khá lớn khoảng 121 người/km
2
, Đan Mạch có bờ biển dài khoảng
7.300 km, lãnh thổ Đan Mạch là một vùng đất thấp hơn mực nước biển nơi cao
nhất cũng chỉ cao 178m. Nằm ở bán đảo Scandinavia Đan Mạch có một vị trí

quan trọng trong việc thông thương buôn bán giữa các nước trên bán đảo
Scandinavia và một phần còn lại của Châu Âu.
Khí hậu của đất nước Đan Mạch tương đối ôn hòa do có dòng hải lưu nóng
Gulf Stream chảy qua đất nước vì thế nhiệt độ trung bình hằng năm khoảng
7,9
0
C, trong đó lạnh nhất là tháng 2 với nhiệt độ trung bình – 4
0
C, tháng 7 là
tháng nóng nhất với nhiệt độ trung bình khoảng 16,6
0
C.
Đan Mạch theo thể chế quân chủ lập hiến, đứng đầu nhà nước hiện nay là
Nữ hoàng Margrethe II (nữ hoàng Margrethe II sinh vào ngày 16/4/1940, năm
1967 bà kết hôn với bá tước người Pháp Henri de Laborde de Monpezat, ngày 14
tháng 1 năm 1972 bà lên ngôi nữ hoàng thay cho vua cha là Frederik IX cai trị
vương quốc Đan Mạch). Thủ tướng Đan Mạch hiện nay là Anders Fogh
Rasmussen thuộc Đảng Tự do. Chính phủ Đan Mạch là một cơ quan hành pháp,
Nữ hoàng chỉ định Thủ tướng, Thủ tướng là người điều hành các thành viên
trong chí
nh phủ và các thành viên trong chính phủ nội các do Thủ tướng lập ra
phải được Nữ hoàng chấp thuận.
Đan Mạch là nước có rất ít tài nguyên khoáng sản, ở Đan Mạch nguồn tài

nguyên chủ yếu là đồng ruộng, biển, đất sét và đá vôi tuy nhiên Đan Mạch đã
biết sử dụng những thế mạnh của mình để xây dựng Đan Mạch thành một nước
công nghiệp phát triển cao, công nghiệp chiếm hơn 40% nguồn thu nhập quốc
dân.
Do Đan Mạch là một nước công nghiệp phát triển nên người dân ở đây có

mức sống khá cao, từ trước đến nay ở đất nước này khoảng cách giàu nghèo luôn
ở tỷ lệ thấp hơn so với nhiều nước phát triển khác trên thế giới, nhờ tiếp giáp
biên giới với một trong những quốc gia hùng mạnh trong liên minh Châu Âu là
Cộng hòa liên bang Đức nên Đan Mạch đã hướng các hoạt động kinh tế và chính
trị của mìn
h về phía nam nhưng bên cạnh đó Đan Mạch cũng có những mối quan

hệ chặt chẽ với Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan ở phía bắc (3 nước này chiếm tới
41% trao đổi thương mại của Đan Mạch).
Do có vị trí địa lý thuận lợi nên Đan Mạch có mối quan hệ gắn bó với
những nước Tây Bắc Âu và Mỹ, Đan Mạch luôn ủng hộ cho một Châu Âu thống
nhất, luôn vững mạnh trong kinh tế, chính trị, an ninh và quốc phòng để làm chổ
dựa vững chắc cho Đan Mạch. Đan Mạch là nước đã sớm tham gia vào các tổ
chức quốc tế và khu vực như khối EFTA, Hội đồng Bắc Âu, tham
gia vào tổ
chức NATO nhưng lại không cho phép tổ chức NATO được thiết lập căn cứ hạt
nhân của NATO trên lãnh thổ của mình trong thời gian hòa bình Đan Mạch chỉ
ủng hộ NATO một tổ chức để phòng thủ. Đan Mạch còn tham gia vào các tổ
chức như EMS, UN, OECD, IMF, WTO, Đan Mạch tham
gia vào liên minh
Châu Âu năm 1973 để thúc đẩy mối quan hệ kinh tế, chính trị ở khu vực, mặc dù
tham gia vào liên minh Châu Âu nhưng Đan Mạch vẫn chưa tham gia vào hệ
thống đồng tiền chung Châu Âu (Euro).
 Cộng hòa Phần Lan

Phần Lan nằm trên bán đảo Scandinavia ở khu vực Bắc Âu, phía tây giáp
với Thụy Điển, phía đông và đông nam giáp với Nga, phía bắc giáp với Na Uy
và phía nam giáp Estonia qua vịnh Phần Lan. Gần 1/3 lãnh thổ của Phần Lan
nằm ở phía vành đai Bắc cực, hồ chiếm
1/10 diện tích của Phần Lan với tổng số
khoảng 50.000 hồ trong đó có hồ Saimaa là hồ lớn nhất với diện tích 4.400 km
2
.
Vịnh Bothnia ở phía tây và vịnh Phần Lan ở phía nam vào mùa đông thường
đóng băng các cảng phải sử dụng máy phá băng để tàu thuyền thuận lợi lưu
thông, đất đai ở Phần Lan đa phần là đất băng giá từ khu vực phía tây bắc có núi
cao với đỉnh lên đến 1.342 m còn phần lớn diện tích còn lại là vùng đất thấp hơn
mực nước biển.
Phần Lan có mùa hè ấm, mùa đông rất lạnh và kéo dài nhất là ở phía Bắc.
Do nằm ở gần Bắc cực nhưng có dòng hải lưu nóng Gulf Stream chảy qua lãnh

thổ nên nhiệt độ ở Phần Lan cao hơn hẳn so với các nước khác trên cùng vĩ
tuyến, ở Phần Lan khí hậu có sự khác biệt rõ rệt giữa mùa đông và mùa hè, ở thủ
đô Helsinki nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 5,3
o
C vào ban ngày nhiệt độ
cao nhất ở miền nam Phần Lan đôi lúc lên đến 30
o
C nhưng vào mùa đông tháng
1, tháng 2 nhiệt độ thường xuộng dưới – 20
o
C. Ở phía cực bắc của Phần Lan ở
dưới vùng Bắc cực khi vào mùa hè có lúc mặt trời không lặn trong thời gian rất
lâu khoảng 73 ngày, người ta còn gọi là những ngày “hè đêm trắng” còn vào mùa
đông ở vùng Bắc cực của Phần Lan một mùa đông lạnh và kéo dài mặt trời

không mọc trong 51 ngày liền.
Phần Lan theo chế độ cộng hòa, quyền lập pháp thuộc về quốc hội và tổng
thống, quyền hành pháp thuộc về tổng thống và chính phủ. Tổng thống là người
đứng đầu nhà nước được nhân dân bầu cử theo chế độ phổ t
hông đầu phiếu trong
nhiệm kỳ 6 năm, từ năm 1991 ở Phần Lan không có một vị tổng thống nào được
tại nhiệm quá hai nhiệm kỳ liên tiếp, hiện nay đứng đầu nhà nước ở Phần Lan là
nữ tổng thống Tarja Halonen, bà nhậm chức tổng thống vào năm 2000 và được
tái đắc cử vào năm
2006.
Phần Lan phát triển đồng đều cả về nông nghiệp lẫn công nghiệp, Phần
Lan nổi tiếng về khai thác gỗ, công nghiệp đánh cá cũng phát triển đáng kể bên
cạnh đó việc sản xuất các mặt hàng sữa đủ đảm bảo cho nhu cầu tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu. Từng bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh và phải bồi thường
một khoản tiền lớn vào giữa những năm
1940 nhưng Phần Lan đã vươn lên trở
thành một nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới với những ngành công
nghiệp mũi nhọn có trình độ kỹ thuật cao.
Phần Lan luôn theo đuổi chính sách ngoại giao trung lập giữ cân bằng
trong các mối quan hệ với các nước, không tham gia vào các khối quân sự lớn
trên thế giới, Phần Lan luôn ủng hộ thúc đẩy các hoạt động vì hòa bình, làm giảm
căng thẳng tình hình thế giới Phần Lan là thành viên tích cực của EU, ưu tiên


quan hệ với những nước láng giềng Bắc Âu, Nga và các nước vùng Bantich, năm
1950 Phần Lan trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), gia
nhập Liên hiệp quốc năm 1955, trở thành thành viên của Bắc Âu năm 1956, năm
1969 tham gia Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), liên kết với khối
mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA) năm 1961 và trở thành thành viên đầy đủ vào
năm 1986, năm 1973 Phần Lan ký hiệp định tự do thương mại với cộng đồng

kinh tế Châu Âu (E
EC), Phần Lan gia nhập Liên minh Châu Âu năm 1995 và
EMU từ ngày 1 tháng 1 năm 1999. Ngoài ra, Phần Lan còn là thành viên của Tổ
chức quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và nhiều ngân hàng trên thế giới, Phần Lan là
quốc gia duy nhất ở Bắc Âu tham gia đồng tiền chung Euro bắt đầu vào năm
1999.
Trong chính sách đối ngoại của mình Phần Lan luôn coi trọng chính sách
viện trợ và hợp tác phát triển và coi đây là một phần quan trọng trong chính sách
đối ngoại của m
ình, thông qua những viện trợ phát triển của mình Phần Lan
mong muốn hỗ trợ các nước nghèo cải thiện điều kiện kinh tế xã hội và thông
qua đó Phần Lan muốn tăng cường khả năng thu hút đầu tư, thương mại của các
nước này nhằm mục đích từng bước xóa bỏ tình trạng nghèo đói trên thế giới.
 Vương quốc Na Uy
Na Uy nằm ở phía tây của Scandinavia với bờ biển lởm chởm bị chia cắt
bởi nhiều vịnh hẹp và khoảng 50.000 hòn đảo t
rải dài hơn 2500 km, Na Uy có
biên giới đường bộ ở phía đông chung với Thụy Điển, Phần Lan, Nga. Diện tích
lãnh thổ của Na Uy lớn hơn Đức nhưng phần lớn lãnh thổ của Na Uy là núi non
ngoài ra còn có nhiều sông băng và thác nước. Na Uy có diện tích 385.156 km
2
trong đó đất đai ở chính quốc có diện tích 323.759 km
2
, phần còn lại là quần đảo
Svalbard giáp với đảo Greenland thuộc Đan Mạch có diện tích là 61.020 km
2

đảo Jan Mayen có diện tích 377 km
2
.


Do có dòng hải lưu Gulf Stream chảy qua nên Na Uy có nhiệt độ ấm và
lượng mưa lớn, lục địa có bốn mùa riêng biệt với mùa đông lạnh và ít mưa hơn
trong đất liền trong khi đó vùng cực Bắc có khí hậu cận Bắc cực, quần đảo
Svalbard có khí hậu tundra Bắc cực. Trong khi đó, ở bờ biển phía tây thường có
mưa to với lượng mưa hàng năm lên đến 1958 mm, ở Na Uy có sự khác biệt theo
mùa lớn trong ngày, ở các vùng phía bắc Bắc cực mặt trời mùa hè có thể không
bao giờ xuống dưới đường chân trời do đó người ta m
iêu tả Na Uy như là “vùng
đất của mặt trời lúc nửa đêm” nhưng trong mùa hè ở vùng phía nam Bắc cực
người dân Na Uy lại được hưởng ánh sáng của mặt trời trong vòng 20 giờ.
Vương quốc Na Uy theo chế độ quân chủ lập hiến với một chính phủ theo
hệ thống nghị viện, hiến pháp năm
1814 của Na Uy quy định quân chủ lập hiến
theo chế độ cha truyền con nối Vua có nhiều quyền hành nhưng hiện nay vua
Harald V (lên ngôi vào 17/1/1991) chỉ mang tính nghi lễ, có ảnh hưởng như một
biểu tượng thống nhất của quốc gia toàn bộ quyền lực chính trị đều thuộc về cơ
quan hành pháp đứng đầu là Thủ tướng.
Na Uy là một nước có nền kinh tế hỗn hợp có sự kết hợp giữa hoạt động

thị trường tự do và sự sở hữu lớn của nhà nước, chính phủ kiểm soát các ngành
kinh tế chủ chốt như dầu mỏ, sản xuất năng lượng thủy, ngân hàng, chế tạo
nhôm, các dịch vụ viễn thông. Na Uy có nhiều tài nguyên phong phú bao gồm
dầu mỏ, thủy năng, đánh cá, lâm nghiệp, khoáng chất…Na Uy là nước có nhiều
nguồn tài nguyên thiên nhiên so với quy mô của dân số vì thế Na Uy là một trong
những nước có những tiêu chuẩn cao n
hất trên thế giới, những nguồn tài nguyên
quý như dầu khí hay những ngành công nghiệp liên quan đều là những ngành
kinh tế quan trọng, tỷ lệ thất nghiệp ở Na Uy rất thấp.
Sau năm 1945 Na Uy đã thay đổi chính sách đối ngoại của mình từ “trung

lập hạn chế” sang liên minh quân sự, gia nhập vào Liên minh quân sự Bắc Đại
Tây Dương (NATO) nhằm đảm bảo an ninh, quốc phòng cho Na Uy. Na Uy chủ

trương gia nhập vào liên minh Châu Âu (EU) giống như các nước Bắc Âu khác
nhưng chưa được đa số người dân Na Uy đồng ý mặc dù chưa gia nhập EU
nhưng Na Uy vẫn quan hệ kinh tế thương mại hợp tác với các nước thành viên
EU, quan hệ hợp tác với các nước Bắc Âu khác thông qua Hội đồng Bắc Âu,
ngoài ra Na Uy còn đẩy mạnh hợp tác tiểu vùng với các nước xung quanh biển
Baltic.
 Vương quốc Thụy Điển
Thụy Điển nằm ở phí
a đông bán đảo Scandinavia, giáp với Na Uy, Phần
Lan, vịnh Bôtnhia và biển Bantich. Thụy Điển có điểm thấp nhất so với mực
nước biển là 2,4m ở Schonen trãi dài từ phía bắc của Schonen là cao nguyên nam
Thụy Điển, vùng đất này có nhiều đồi núi với nhiều hồ, còn ở miền trung của
Thụy Điển là một vùng đất bằng phẳng nhưng bị chia cắt bởi các đồng bằng lớn,
đồi núi, vịnh hẹp và các hồ. Khí hậu Thụy Điển tương đối ôn hòa do nằm ở gần
Đại Tây Dương với dòng hải lưu Gulf Stream
ấm áp, Thụy Điển có khí hậu ẩm
mưa nhiều, nhiệt độ ít thay đổi giữa mùa đông và mùa hè, mùa đông lạnh và dài
còn mùa hè ấm.
Thụy Điển theo chế độ quân chủ lập hiến,Vua (Carl XVI Gusstaf sinh
ngày 30/4/1946 lên ngôi năm 1973) không có quyền lực chính trị Vua chỉ tham

gia vào các hoạt động mang tính lễ nghi như khai mạc quốc hội hàng năm, chủ trì
hội đồng cố vấn đối ngoại hoặc nhận thư ủy nhiệm của các đại sứ từ các nước
đến nhận nhiệm sở tại Thụy Điển. Quyền lực thuộc về quốc hội và chính phủ.
Thụy Điển có nền công nghiệp phát triển cao, ở Thụy Điển có các ngành
kinh tế chính gồm
công nghiệp chế tạo (chế tạo ô tô hoặc động cơ máy bay) công

nghiệp chế tạo là một ngành công nghiệp lớn nhất trong tất cả các ngành công
nghiệp Thụy Điển có nhiều công ty lớn với các công ty chế tạo xe cơ giới như
công ty Volvo, Scania, Saab, Saab AB; công nghiệp gỗ và giấy chiếm 16% giá trị
sản xuất công nghiệp của Thụy Điển trong đó có 4 công ty lớn, công nghiệp chế

tạo máy với các công ty lớn như Electrolux, SKF, Tetra – Pak, Alfa – Laval và
công nghiệp điện – điện tử với công ty Ericsson, ABB…
Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 1 và thứ 2 do theo đổi chính sách
ngoại giao trung lập nên nước này đã không bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh,
chính phủ Thụy Điển tích cực tham gia cùng nhân dân thế giới vào các cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình, chống chạy đua vũ trang và ủng hộ các phong
trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước khu vực Á, Phi
– Mĩ Latinh. Sau
năm 1945 để thích ứng với thời cuộc mới Thụy Điển vẫn tiếp tục duy trì chính
sách không liên kết quân sự, không gia nhập vào NATO tuy nhiên trong chính
sách đối ngoại của mình Thụy Điển đã điều chỉnh mối quan hệ với Châu Âu đặc
biệt Thụy Điển xin gia nhập vào Liên hiệp châu Âu (trở thành thành viên chính
thức của EU vào năm 1995) tham gia cơ chế quan hệ đối tác vì hòa bình với
NATO, ngoài ra Thụy Điển còn chú trọng đặt quan hệ đối
ngoại với khu vực
châu Á đặc biệt là Đông Nam Á và Đông Bắc Á đây là 2 khu vực quan tâm của
Thụy Điển trong chính sách hợp tác phát triển.
1.1.2. Khái quát mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu trước khi
đặt quan hệ ngoại giao cấp đại sứ (1954 -1968)
Hiệp định Giơnevơ được ký kết năm 1954 Việt Nam bị chia cắt làm hai
miền, m
iền Bắc tiến hành khôi phục kinh tế và tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa,
Đảng và nhân dân miền Bắc phục hồi và nâng cao sản xuất trong đó đặc biệt là
sản xuất nông nghiệp bên cạnh đó nhà nước còn chú ý đến công tác phục hồi các
tuyến giao thông vận tải mang tính chất mở đường và tăng cường sản xuất công

nghiệp, thủ công nghiệp trong đó chú trọng đền những xưởng sản xuất
công
nghiệp nhẹ, sản xuất những mặt hàng nhu yếu phẩm phục vụ cho nhu cầu đời
sống của nhân dân. Năm 1954 ở miền Nam để phá hoại hiệp định Giơnevơ Mĩ đã
dựng lên một chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, tháng 9 năm 1954 Mĩ quyết
định viện trợ cho chính phủ Ngô Đình Diệm ở miền Nam và cử tướng L.Colins

sang Việt Nam làm đại sứ ở Sài Gòn, để xây dựng chính quyền thân Mĩ vững
mạnh ở miền Nam ngăn chặn sự lan rộng của phong trào cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc Ngô Đình Diệm ra sức xây dựng chính quyền mới ở miền Nam
Việt Nam thành một quốc gia vững mạnh với đạo quân cảnh sát và đạo quân sen
đầm, Mĩ giúp đỡ chính quyền Sài Gòn xây dựng một đội quân thiện chiến được
trang bị vũ khí tương đối hiện đại và được sự huấn luyện cũng như điều khiển
trực tiếp từ các cố vấn quân sự Mĩ ở Sài Gòn.
Trong giai
đoạn năm 1954 -1968 chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa
ở miền Bắc vừa chú trọng khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm mục
đích lớn nhất tiến tới thống nhất nước nhà, để phục vụ cho nhiệm vụ chiến lược
xây dựng chủ nghĩa x
ã hội ở miền Bắc Đảng và nhân dân miền Bắc đã tăng
cường mối quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, tăng cường đoàn kết với các
phong trào cách mạng thế giới, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
1.1.2.1. Quan hệ giữa Việt Nam cộng hòa với
các nước Bắc Âu (1954 – 1968)
Mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu trong giai đoạn này chủ
yếu được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ giữa chính quyền của Ngô Đình Diệm
với chính phủ các nước Bắc Âu, do bị chi phối của trật tự hai cực Ianta nên mối
quan hệ này được quyết định trên ý thức hệ cùng nhau hoặc khác nhau về ý thức
hệ, trong đường lối chính sách đối n
goại của mình các nước Bắc Âu luôn theo

đuổi chính sách đối ngoại trung lập giữ mối quan hệ gắn bó với các nước lớn, các
khối, mong muốn quan hệ với các nước lớn như Tây Bắc Âu và Mĩ (trong đó có
Đan Mạch và Na Uy là những đồng minh của Mĩ, Na Uy luôn luôn lo ngại sự
ảnh hưởng từ Nga vì thế Na Uy ủng hộ Mĩ trong mọi chính sách đối ngoại quốc
tế) với mục đích làm chổ dựa đảm bảo an ninh quốc phòng cho đất nước.
Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch
đã ủng hộ Mĩ trong các quan hệ
quốc tế và đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ Việt Nam cộng hòa ở miền Nam
Việt Nam, Đan Mạch công nhận Việt Nam cộng hòa vào ngày 1 tháng 3 năm

1957 và thiết lập mối quan hệ ngoại giao với nhà nước Việt Nam cộng hòa vào
ngày 30 tháng 5 năm 1962; Na Uy công nhận Việt Nam cộng hòa vào ngày 16
tháng 8 năm 1962 và đặt quan hệ ngoại giao vào 11 ngày sau đó; Thụy Điển
công nhận Việt Nam cộng hòa vào ngày 3 tháng 7 năm 1958 và đặt mối quan hệ
ngoại giao giữa hai chính phủ vào ngày 30 tháng 5 năm 1962 [79].
Có nhiều cá nhân từ các nước Bắc Âu đã đến thăm viếng Việt Nam cộng
hòa nhằm thắt chặt thêm mối quan hệ giữa hai bên, trong năm 1957
nhân chuyến
sang Nhật dự hội nghị P.E.N văn hào Đan Mạch Kelvin Lindemann đã sang Việt
Nam và xin yết kiến tổng thống trong thời gian ông lưu lại Sài Gòn với mục đích
thu thập các tài liệu có liên quan đến cuộc chiến đấu của quân đội Việt Nam cộng
hòa chống lại cộng sản để viết sách báo. Vào ngày 5 tháng 9 năm 1958 ký giả
Eralph Oppenhejm quốc tịch Đan Mạch mang giấy thông hành số 002800 đã đến
Sài Gòn, ký giả Eralph Oppenhejm
đang viết sách và làm ký giả cho tờ
Manchester Guardian ở London, ký giả Đan Mạch thực hiện chuyến viếng thăm
này đến các nước Viễn Đông và Đông Nam Á nhằm mục đích thu thập tài liệu để
xuất bản một quyển sách về các nước Á châu [75].
Năm 1958 Bộ ngoại giao và văn phòng Phủ tổng thống Việt Nam cộng hòa
đã đón tiếp các cá nhân và đại diện của chính phủ hoàng gia Đan Mạch

đến thăm,
lúc 11 giờ ngày 14 tháng 2 năm 1958 tại phòng khánh tiết của Dinh Độc Lập
tổng thống Việt Nam cộng hòa và bộ trưởng ngoại giao đã có buổi tiếp kiến với
đặc sứ Đan Mạch Gunnar Seidenfaden đến trình ủy nhiệm thư lên tổng thống đi
cùng với ngài đặc sứ Đan Mạch còn có ông lãnh sự Đan Mạch Arne Smidt [75].
Mối quan hệ song phương giữa Việt Nam cộng hòa với các nước Bắc Âu
trong giai
đoạn 1954 -1968 được thắt chặt hơn dựa trên cơ sở mối quan hệ gắn bó
lâu dài giữa các nước Bắc Âu với Mĩ. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Việt Nam
cộng hòa với các nước Bắc Âu chỉ được thiết lập về mặt chính trị còn quan hệ
hợp tác kinh tế thì vẫn chưa xuất hiện.

1.1.2.2. Quan hệ giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa với các nước Bắc Âu
(1954 – 1968)
Từ năm 1960 trở đi khi Mĩ đã đưa vào chiến trường miền Nam Việt Nam
một số lượng lớn lực lượng cố vấn quân sự Mĩ, tăng cường trang bị cho quân đội
Sài Gòn nhiều trang thiết bị vũ khí hiện đại như máy bay, xe bọc thép, vũ khí,
phát động “chiến tranh đặc biệt” với hình thức một cuộc chiến tranh mới,
Mĩ còn
mở rộng chiến tranh ra toàn bộ chiến trường Việt Nam với cuộc “chiến tranh cục
bộ” Mĩ coi miền Nam Việt Nam là điểm chốt cuối cùng ngăn chặn sự lan rộng
của chủ nghĩa cộng sản ra cả khu vực Đông Nam Á. Nhận thấy Mĩ đang có nguy
cơ sa lầy ở chiến trường Việt Nam đồng thời trong thời gian này nhân dân t
oàn
thế giới đã đẩy nhanh các hoạt động đấu tranh trong đó có các phong trào đấu
tranh của nhân dân tiến bộ thế giới ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, bảo vệ hòa
bình. Các cuộc đấu tranh ủng hộ cho cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân
Việt Nam không chỉ diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa mà nó còn được sự
hưởng ứng của những tầng lớp trẻ tuổi ở một số nước tư bản phát triển như Pháp,
Canad

a, Anh, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Nhật Bản… và các nước ở khu vực Bắc
Âu như Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch.
Các nước tư bản lớn trong đó có các nước Bắc Âu đã có sự thay đổi trong
mối quan hệ với chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, họ lên án cuộc chiến
tranh do Mĩ đang gây ra cho nhân dân Việt Nam và bắt đầu giúp đỡ cho chính
phủ Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Các nước Bắc Âu tổ chức các hoạt động và
diễn đàn nhằm ủng hộ nhân dân Việt Nam, năm 1967 hội nghị quốc tế
Stockholm được tổ chức ở Thụy Điển với mục đích ủng hộ nhân dân Việt Nam
chống Mĩ, tháng 1 năm 1967 Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 13 đã quyết định
đưa mặt trận ngoại giao trở thà
nh một mặt trận quan trọng để đánh Mĩ tiến tới
thống nhất đất nước. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tăng cường mở rộng
mối quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, Đảng cử nhiều phái đoàn sang

các khu vực địa phương ở các nước Bắc Âu tham gia vào các cuộc mít tinh và
các cuộc họp “đoàn kết với Việt Nam”. Bên cạnh đó, những thông tin chiến sự từ
các phương tiện thông tin của báo chí trong và ngoài nước về tội ác chiến tranh
của Mĩ đặc biệt là những vụ giết người trên đường phố Sài Gòn, vụ thảm sát dã
man người dân ở làng Sơn Mỹ (Sơn Tịnh, Quảng Ngãi), các công trình bệnh
viện, nhà máy hoặc trường học ở Hà Nội, Hải Phòng bị máy bay Mĩ tàn phá.
Những tội ác chiến tranh của Mĩ đã làm thức tỉnh lương tri của nhiều
người dân Châu Âu trong đó có các nước Bắc Âu. Các phong t
rào đấu tranh ủng
hộ cho nhân dân Việt Nam phát triển nhanh chóng ở Bắc Âu với những hình thức
phong phú và đa dạng, ở Thụy Điển xuất hiện những tổ chức như Ủy ban Thụy
Điển vì Việt Nam, Ủy ban viện trợ thuốc men cho
Việt Nam, Những nhà vật lý
trẻ ủng hộ Việt Nam, Nhóm ủng hộ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam …Ngoài ra, còn phải kể đến các tổ chức quần chúng như Công đoàn,

Thanh niên, Sinh viên, Phụ nữ, Hội hữu nghị …cũng rất tích cực và tham gia các
hoạt động ủng hộ Việt Nam [14, tr 383]. Nhân dân Việt Nam không thể nào quên
hình ảnh của ông Olof Palme sau này là Thủ tướng của Thụy Điển ông đã tham
gia cùng với nhân dân Thụy Điển xuống đường rước đuốc phản đối cuộc chiến
tranh xâm lược Việt N
am của chính phủ Mĩ vào năm 1968.
1.2. Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ năm 1969 đến năm 1975
1.2.1. Quan hệ giữa chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà với các nước
Bắc Âu từ năm 1969 đến năm 1975
Giai đoạn 1969 -1975 mối quan hệ giữa Việt Nam
với các nước Bắc Âu
diễn ra song song giữa chính quyền Việt Nam cộng hòa ở miền Nam Việt Nam
và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hoạt động ngoại giao của chính quyền
cách mạng Việt Nam trở nên phong phú và đa dạng hơn, hai hoạt động ngoại
giao song song giữa chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chính phủ cách
mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam với các nước Bắc Âu diễn ra đồng

×