‘ LẶNG LẼ ...’ với Nguyễn Thành Long
Nguyễn Thành Long và một cuộc sống khác (Vương Trí Nhàn)
I.
Nguyễn Thành Long và một cuộc sống khác
Những năm 1966-1967 – mà đôi khi người ta hay gọi tắt là khoảng đầu chống Mỹ – khi Đỗ Chu,
Phạm Tiến Duật và nhiều người khác bắt đầu viết đều và cũng hay đến chơi đều đều -những người
viết văn lớp trước, thì một trong những nơi các anh hay đến và rủ tôi cùng đến, là nhà.văn Nguyễn
Thành Long.
Giờ đây, căn phòng gần ba chục mét của anh Long ở phố Dã Tượng có vẻ đã quá hẹp,
người lạ đến chơi thật dễ ái ngại khi nghĩ trên diện tích ấy, cả gia đình (hai vợ chồng và hai cháu
gái) cùng cư ngụ.
Song trong con mắt chúng tôi những năm cuối 60 đầu 70, căn phòng ấy đã quá rộng: đối
với một người viết văn, một chỗ ở như thế thật đã gọi là lý tưởng(!).
Anh Long ngày ấy mới trên bốn mươi, song dáng vẻ thì cũng như lúc về già, nghĩa là
mảnh mai gầy gò bước đi lẫn cách nói chuyện đều chậm rãi, chắc chắn. Trông anh lúc nào cũng
như chìm trong suy nghĩ. Cái đầu khá to khiến cho nét mặt đăm chiêu thêm trĩu nặng hơn. Anh hay
hỏi han chúng tôi về đời sống riêng tư. Vào cái thuở mà giới viết văn còn sống thân mật như trong
một gia đình, với chúng tôi, đấy là một người anh gần gũi. Trong đám anh em ít tuổi anh nào yêu
cô nào hay dẫn cô nào đến chơi anh đều ủng hộ và sẵn sàng làm một thứ trung gian móc nối thêm.
Khoảng đầu 1968, khi đám cưới Đỗ Chu tổ chức trên thị xã Bắc Ninh, anh lấy xe đạp đèo
chị Nguyệt vợ anh vượt 29 cây số về dự. Cố nhiên sự quan tâm chính của anh dành cho chúng tôi
vẫn là sáng tác.
Dễ không ai lại chăm đọc anh em viết trẻ như Nguyễn Thành Long. Và trước vô số những
câu hỏi về nghề nghiệp, cả những câu hỏi thông minh lẫn những câu ngớ ngẩn do bọn tôi đặt ra,
thường anh ngẫm nghĩ tìm câu trả lời thật gọn, nhưng cũng thật thấu tình đạt lý. Đại khái, anh
thường đi tới những kết luận giản dị:
- Nghề của mình khó lắm.
- Phải biết trân trọng nhau, được người nào quý người ấy.
- Trước khi tính chuyện viết lách, phải lo bảo ban nhau về cách sống. “Sống sai là viết sai ngay” -
Nguyễn Thành Long nói dứt khoát như hai với hai là bốn.
Trong ý nghĩ của một số người chúng tôi hồi ấy, Nguyễn Thành Long là nhà văn vừa có vốn liếng
thực tế vừa có học, lại có tấm lòng đôn hậu. Tài năng của anh là do công phu mà nên, có vẻ nó như
một thứ tài có thể cố mà được, nên chúng tôi càng thấy gần.
Về sau này, sự lại chơi của một số anh em trẻ với Nguyễn Thành Long có thưa thớt hơn. Song ân
tình cũ thì mãi mãi vẫn còn - trên bước đường đời của mỗi người, thật nhiều kỷ niệm là những
bước chập chững đầu tiên và những người giơ tay đón ta lúc ấy, bao giờ ta quên nổi! Huống chi,
một người như Nguyễn Thành Long, trong cuộc sống hơn 40 năm cầm bút, thật đã đi đến cùng
trên con đường đã lựa chọn, và một cuộc đời như vậy nếu không phải để ta theo thì cũng luôn luôn
để cho người ta phải so sánh, đối chiếu, rút kinh nghiệm. Ai đó đã nói chí lý “Cuộc sống bao giờ
cũng cao hơn cái chết, ít nhất là một cuộc đời. Nếu không có cái để mà sống thì cũng làm gì có cái
để mà chết”.
II
Khi nhớ lại quá trình sáng tác Lặng lẽ Sa Pa, Nguyễn Thành Long có lần kể rằng nếu chỉ
viết riêng về các nhân vật ở trạm khí tượng thì hơi khó. Nên sau khi đã có tài liệu đầy đủ, để lên
được truyện ngắn, anh phải thêm vào nhân vật người hoạ sĩ già.
Người hoạ sĩ này, cũng tương tự như vai nhà báo trong Buổi sáng Điện Biên, hoặc một
nhà báo khác trong sớm mai nào xế chiều nào không chỉ là loại nhân vật dẫn truyện, mà còn là
hình ảnh tốt đẹp của một loại người khác, những người làm nghề sáng tạo.
Nét đặc biệt của các nhân vật này: họ đều hay đi, say đi, thích xem xét công việc mọi
người đang làm. Tâm hồn ở họ rộng mở và họ biết chan hoà vào chung quanh, chia sẻ vui buồn
cùng mọi người. Và đặc biệt dưới cái bề ngoài lặng lẽ, họ thích đơn độc trong những suy nghĩ về
mình và về chung quanh. Không còn ở lứa tuổi thanh niên nữa, nhưng tâm hồn mỗi người thường
trẻ trung tươi tắn.
Khỏi phải nói, hình ảnh những nhà báo nhà văn hoạ sĩ nói ở đây chính là hình ảnh của
Nguyễn Thành Long.
Một lần cùng đi công tác với Nguyễn Thành Long lên Tuyên Quang, tôi bất ngờ nhận ra rằng sao
nhà văn này đi nhiều và bạn với nhiều người đến thế.
Đến nông trường này, anh có người quen, đến bệnh viện kia, hỏi thăm một lúc, anh lại nhận ra
người quen khác, mà toàn là những bạn bè biết nhau sau các chuyến đi thực tế. Họ là giám đốc
nông trường, giám đốc mỏ, các đội trưởng lao động, các công nhân... Nơi làm việc của họ đôi khi
là những nhà máy xí nghiệp cũ kỹ, sống lay lắt tại một miền quê xa xôi hay một miền rừng heo hút
nào đó. Vậy mà một lần Nguyễn Thành Long đã đến, đã ngồi hàng giờ nghe họ tâm sự, đã đưa
cuộc đời họ vào các sáng tác của mình. Thậm chí, sau khi đã viết xong, Nguyễn Thành Long vẫn
cứ còn nhớ mãi về họ, xem họ như bạn bè, có dịp là nhắc tới họ với những lời thương mến.
Hồi mới vào nghề - cũng là dịp hay đến với Nguyễn Thành Long - tôi tưởng cách quan hệ, cách
làm việc như thế đã là tất cả công việc phải làm đối với một người viết văn. Mãi về sau, tôi mới
hiểu rằng mặc dù đó là cách làm việc chăm chỉ, lương thiện nhưng vẫn chưa đủ. Nhà văn cần một
cái gì hơn thế nữa: Cần sự nhập thân vào hẳn một mảng một khu vực của đời sống (Khu vực theo
nghĩa rộng, khu vực của những vui buồn sung sướng hay thất vọng, chứ không phải khu vực địa
lý). Cần sống chết với các nhân vật riêng mình có, sống chết với những vấn đề thiết thân mà mình
tự đặt ra và giải quyết. Nói chung là cần viết bằng những ao ước băn khoăn vui buồn hàng ngày
của mình, chứ không phải chỉ lo quan sát, ghi chép về người khác. Tôi không đảm bảo là Nguyễn
Thành Long không có những điều kiện làm nên chất văn như thế. Nhưng có vẻ như anh không
thường xuyên huy động đến nó, cả đời cầm bút ít khi anh viết cho mình, nên thường anh chỉ có
những truyện ngắn kỹ về câu cú chữ nghĩa, giỏi về dẫn truyện hoặc tạo không khí, trong đó có
phác hoạ ra vài con người làm cảnh, chứ không có cái mà người ta gọi là thế giới riêng. Kết quả là
những chuyến đi, và những cái viết ra của anh sau các chuyến đi cứ na ná giống nhau, cái sau sa
vào vết mòn của cái trước... Nhưng thôi phán xét về những điều một nhà văn không làm, là điều
nói không bao giờ đến cùng! Trước mắt, hãy biết Nguyễn Thành Long có cái cách đi cách viết,
cách hình thành tác phẩm riêng và công việc đó đã được anh làm nghiêm chỉnh, tận tuỵ. Đối với
những người mới viết, đó là những điều cấp thiết bậc nhất.
III
Một khía cạnh khác làm nên sự lương thiện trong quá trình hành nghề của Nguyễn Thành Long
là khả năng sống một cách hết lòng với các việc cụ thể trước trang giấy trắng.
Chỉ cần đọc một đoạn văn ngắn của Nguyễn Thành Long, người ta có thể nhận ra ngay rằng đấy
là một người viết kỹ lưỡng. Từng câu một được anh cân nhắc, câu sau không phải cứ nảy sinh tuồn
tuột từ câu trước, mà mỗi câu đều đòi hỏi công sức riêng, năng lượng riêng cho nó. Chữ Nguyễn
Thành Long sít, chặt, nhỏ nhưng dễ đọc. Cả các truyện của anh cũng thế. Đi đâu về, anh cũng
muốn viết, và không phải chỉ viết ký thôi, phải viết truyện mới hả! Viết như một món nợ! Và
người viết này rất sòng phẳng, rất muốn trả nợ cho đâu vào đấy! Thế là có thể anh ngồi hàng tuần
hàng nửa tháng để hý hoáy xếp đặt, dàn truyện. Và có khi để hàng vài tháng, để viết một truyện
ngắn. Còn nhớ có lần Nguyễn Khải, thấy Nguyễn Thành Long sáng tác theo lối câu dầm vậy, đã
nửa đùa nửa thật hạ một câu vui vẻ:
- Viết thế thì đói là phải!
Bản thân Nguyễn Thành Long cũng nói về mình đại ý: “Nhưng có lẽ là giời đầy tôi, tôi cứ phải
lo nhận xét, ghi chép, và đắn đo ở từng chữ như vậy”. Có cảm tưởng là Nguyễn Thành Long rất
nghiệt với mình, với nghề của mình, và trong niềm đau khổ đang phải chịu đựng anh lại ngấm
ngầm cảm thấy có niềm sung sướng. Nếu có một thứ tôn giáo phụng thờ ý nghĩa thiêng liêng của
nghiệp cầm bút thì Nguyễn Thành Long là một tín đồ nồng nhiệt của tôn giáo đó. Tôi nhớ những
lần nói chuyện với anh về đời sống văn học nói chung. Giữa những người viết với nhau, sự đọc
nhau vừa là tình cảm, vừa là công việc, nếu có khắt khe một chút, thì cũng là chuyện thường tình.
Nguyễn Thành Long chăm đọc người khác, và quả thực, thuyết phục được anh, không dễ dàng
chút nào. Nhưng cái sự yêu cầu cao như vậy, là một cách để Nguyễn Thành Long biểu hiện niềm
tin của mình với một ngòi bút nào đó. Ngược lại điều mà tôi nhớ nhất, là những lúc Nguyễn Thành
Long phát hiện ra kẻ làm ăn cẩu thả. Anh dễ dàng đỏ mặt lên vì ngượng thay cho người đó. Không
nói chi nhiều, anh chỉ nhắc đi nhắc lại: “Viết thế là tầm bậy! tầm bậy”, nhưng chỉ một câu đó thôi,
đủ nói lên thái độ của anh là thế nào!
IV
Chẳng những thành kính kỹ lưỡng trong lao động cụ thể - phải nói là ở Nguyễn Thành Long,
nghề viết văn còn được hiểu như một sứ mệnh thiêng liêng, một công việc của cả đời người,
không một chút nào người ta được phép dễ dãi.
Đây có lẽ là một quan niệm về văn học thấy có ở nhiều người, nhất là những người lớn lên và
làm văn nghệ từ sau 1945 trở đi. Cùng với khói lửa của cuộc chiến tranh, những trang sách trang
báo của chúng ta đã ra đời và trở thành vũ khí, được trang nào quý trang ấy. Lâu dần, cái ý nghĩa
cao quý mà chúng ta mang lại cho nghề văn càng trở thành một sự tự ràng buộc. Nguyễn Thành
Long là một trong những người chấp nhận sự ràng buộc đó vừa tự nguyện vừa thích thú.
Ở chỗ này, tôi nhớ một chi tiết có ý nghĩa đối chiếu:
Để phác hoạ lại sinh hoạt văn chương nước mình hồi đầu thế kỷ, nhà văn Nguyễn Công Hoan
từng viết Đời viết văn của tôi. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Hoan rất đồ sộ, trong các
truyện ngắn truyện dài của ông, các nhà phê bình đã tìm được nhiều điều có ý nghĩa. Vậy mà ngay
từ khi đang viết khoẻ cũng như về cuối đời khi nhìn lại quá trình viết của mình, Nguyễn Công
Hoan vẫn không khỏi ngả sang một cách nói bông đùa. Ông viết: “Làng văn, từ xưa đến giờ, quả
là cái chợ”. Khi đọc đến chỗ này, Nguyễn Thành Long không bằng lòng. Trong cuốn Đời viết văn
của tôi (bản của Thư viện Hội Nhà văn Việt Nam) bên cạnh câu văn trên của Nguyễn Công Hoan,
Nguyễn Thành Long ghi bằng mực đỏ hai chữ “nói bậy”.
Xét trong quan hệ hàng ngày, giữa hai người không có chuyện gì. Trong khi kể lại những kỷ
niệm về đời văn của mình với Hà Nội, Nguyễn Thành Long thường vẫn nhắc nhở đến sự giúp đỡ
của Nguyễn Công Hoan. Trước 1975, gia đình cụ Hoan ở Hàng Bông Nhuộm, nhà Nguyễn Thành
Long ở Dã Tượng, hai nhà rất gần nhau. Thường khi, nếu tối hôm trước, đài phát thanh có đọc bài
nào của Nguyễn Thành Long, thì hôm sau, Nguyễn Công Hoan đi đâu vẫn rẽ vào nhà Nguyễn
Thành Long chơi, để nêu một vài nhận xét thân tình.
Thế nhưng, đứng về quan niệm nghề văn, những ý nghĩ bông đùa của Nguyễn Công Hoan là điều
mà Nguyễn Thành Long hoàn toàn không thể chia sẻ.
Sự nghiêm trang của Nguyễn Thành Long cũng như sự bông đùa ở Nguyễn Công Hoan có lẽ là
hai phía có thật, cùng có ở nghề văn, cùng có ở cuộc đời này nói chung. Những nhà văn lớn trên
thế giới, thường cùng lúc, cảm thấy cả hai phương diện ấy của cùng một đối tượng. Nhà văn Pháp
Simone de Beauvoir có lần bảo: “Thật là buồn khi nghĩ rằng nghề văn có lắm ý nghĩa đến thế,
trong khi nó chỉ có thế”. Một nhà văn khác: “Kiếp nhân sinh nghiêm chỉnh một cách rầu rĩ”. Một
nhà văn khác nữa: “Cuộc đời là một tấn hài kịch, nhưng đó là cái trò hài khiến người ta cười ra
nước mắt”. Nguyễn Công Hoan và Nguyễn Thành Long thì khác, mỗi người sống với một phía
của cái chân lý hai mặt nói trên, và đẩy nó đến cùng. Về trường hợp Nguyễn Công Hoan, đấy là
câu chuyện chúng ta sẽ bàn trong một dịp khác. Còn về Nguyễn Thành Long, thì có thể nói ngay
rằng không phải là anh lên gân lên cốt gì cả, mà tự anh đã nghĩ thế. Một trong những nhà văn chơi
thân với Nguyễn Thành Long là Huy Phương có lần nói đùa với tôi: “Ông Long là cái loại nhà văn
khi viết toàn ngước nhìn lên các ngọn cây” - theo tôi hiểu, ở đây Huy Phương muốn nói đến một
thứ tâm thế học trò ở ngòi bút nhiều người đương thời, trong đó có Nguyễn Thành Long và ở một
dạng nào đó, ở chính Huy Phương nữa. Cái chất thư sinh sẵn có ban đầu trong ta không mất đi với
thời gian, mà thật kỳ lạ (hay thật khốn khổ?), nó cứ theo ta trong suốt cuộc đời cầm bút. Và rút cục
cái yếu tố dẫn người ta đến với nghề đôi khi lại là yếu tố giữ người ta lại, không sao bay lên được!
V
Theo như chính Nguyễn Thành Long từng kể, thì trước 1945 tức hồi còn học tú tài ở Hà Nội,
anh đã có bài viết, in trên Thanh nghị là một tờ báo tập hợp được nhiều trí thức có uy tín thời ấy.
Con đường đi của người trí thức trong lòng xã hội thuộc địa, từng là vấn đề day dứt lòng anh, và
trở thành chủ đề của một vài cuốn sách - chắc chắn là còn non nớt và còn chưa kịp xuất bản - của
anh bấy giờ. Vấn đề trí thức cũng sẽ ám ảnh Nguyễn Thành Long trong suốt cuộc kháng chiến:
một mặt lăn lộn với công nông không bỏ qua một chuyến đi thực tế nào đó Chi hội văn nghệ Khu
Năm bấy giờ tổ chức; mặt khác, luôn luôn anh sục sạo săn tìm sách vở để xem người khác đã làm
văn nghệ như thế nào, và bản thân mình nên làm theo cách nào. Trong hoàn cảnh của Khu Năm xa
xôi, các anh vẫn tìm đọc từ Người mẹ, Suối thép, Người Xô viết chúng tôi cho tới cả Sự hồi sinh
của nền văn hoá Pháp của Garaudy. Đúng theo cách làm của kháng chiến, sau khi đọc xong một số
tác phẩm anh đã tóm tắt lại để người khác cùng đọc. Bởi vậy, trong danh mục sách của Nguyễn
Thành Long đã in ở Khu Năm, mới có cuốn Kể lại một số tiểu thuyết Xô viết. Và về sau, khi làm
báo Văn học, Nguyễn Thành Long còn viết nhiều bài về văn học nước ngoài, ký tên Phan Minh
Thảo, cũng như nhặt ra kinh nghiệm viết văn của nhiều người in rải rác, rồi sau tập hợp thành cuốn
sách nhỏ, mang tên Sổ tay viết văn ký tên Lưu Quỳnh.
Có lẽ những chi tiết này càng cắt nghĩa rõ thêm về sự hấp dẫn của Nguyễn Thành Long đối với
một số anh em viết trẻ những năm đầu chống Mỹ mà trên kia tôi vừa nhắc tới. Trong căn phòng
chật hẹp của Nguyễn Thành Long lúc ấy, thỉnh thoảng đến chơi, tôi thường gặp Chính Yên, Huy
Phương, Trần Đĩnh, về sau là Ngô Quân Miện và một vài người khác. Ngoài những mảnh vụn thời
sự trong nước quốc tế, cùng những “chuyện làng chuyện xóm” lặt vặt vơ vẩn xảy ra hàng ngày
trong giới cầm bút, tôi thấy đặc biệt ở nhóm bạn của Nguyễn Thành Long có một loại chuyện
khác. Những cuốn sách tiếng Pháp (thường là loại sách bỏ túi) mà Hội Nhà văn được biếu, các số
Lettre Francaise, Europe, Lettres Sovietique, Revue Roumanie... về đều đều được các anh truyền
tay, kèm theo những nhận xét như của người trong cuộc:
- Thế mới biết đảng Pháp họ quý một nhà văn ngoài đảng như thế nào. Elsa Triolet chết mà
L’humanité viền đen cả mấy số liền.
- Bản dịch Con người năm tháng cuộc đời của Ehrenburg vừa được nhà Gallimard cho in. Khối
chuyện được xới ra, bây giờ mọi người mới thấy có lý. Về già mà Ehrenburg còn bợm thật. Người
ta bảo đọc xong cuốn hồi ký này, tự nhiên không ai muốn giở lại tiểu thuyết của ông ta nữa.
- Cái tay Kataev cũng lạ. Hồi ký gì mà như đánh đố, vừa thật vừa giả. Nhưng mà một cuộc đời
như thế thì phong phú thật. Hình như Elsa Triolet có nói ở đâu đó rằng vì Kataev mà Maiakovski
tự tử đấy.
- Chỉ là giọt nước cuối cùng thôi.
- Nói xuôi nói ngược gì cũng cần sự thật. Chính tôi thích hơn cả, lại là cách viết trần trụi của
Malaparte. La Peau mới thật là khinh bạc cay đắng mà lại quý phái chứ.
... Giờ đây, hơn hai chục năm đã qua đi, tôi cũng nhớ không thật rõ tất cả những chuyện lặt vặt
nói trên, tôi nghe từ miệng ai nói ra và nội dung có đúng là thế không. Nhưng cái này, thì xin bảo
đảm chắc chắn: không khí bạn bè ở chỗ Nguyễn Thành Long, là một không khí trí thức. Các anh
vừa sống, vừa viết, vừa quan tâm tới một đời sống văn hoá khác, mà các anh yêu mến và sống hết
lòng. Lúc đang say chuyện thỉnh thoảng các anh chêm vào một vài câu tiếng Pháp. Tôi không hiểu
được những câu nói ấy, nhưng nhìn nét mặt của các anh, biết rằng phải làm thế, người nói mới
diễn tả được hết ý nghĩ của mình, và nỗi sung sướng đang đến trong lòng mình. Từ câu chuyện
nghe lỏm được qua miệng những Chính Yên, Trần Đĩnh, Huy Phương, Nguyễn Thành Long, tôi
bỗng cảm thấy cái đời sống văn học mình đang có phần can dự, như được kéo dài ra, nối mãi vào
cả cái khu vực bao la huyền diệu, là toàn bộ đời sống văn học thế giới hiện đại. Đôi lúc, có cảm
tưởng rằng những quyển sách mà tôi chỉ ngắm nhìn, những tác giả mà tôi chỉ nghe tên cũng như
đang sống đâu đây, họ cùng gợi nên những vui buồn yêu ghét trong lòng tôi, như những Nguyễn
Đình Thi, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Khải, Tô Hoài... mà tôi hằng gặp.
Cũng phải nói thêm rằng, bên cạnh Nguyễn Thành Long viết truyện ngắn, Nguyễn Thành Long
làm báo và làm xuất bản, trong tôi còn một Nguyễn Thành Long dịch giả, đúng hơn là một
Nguyễn Thành Long tiếp cận những tìm tòi mới trong văn xuôi hiện đại. ý tôi muốn nói tới cuốn
Roméo Juliet và bóng tối của nhà văn Tiệp Khắc Jan Otchenasek do anh dịch ra tiếng Việt. Đấy là
một thể nghiệm nhằm sử dụng những tìm tòi của các bậc thầy văn xuôi hiện đại như M. Proust,
James Joyce vào việc biểu hiện những nội dung hiện thực và cách mạng. Không nghi ngờ gì nữa,
đó cũng là điều băn khoăn thường xuyên của Nguyễn Thành Long. Nhiều anh em trong nghề biết
rằng một vài thủ pháp kỹ thuật mới của văn xuôi đã được áp dụng dè dặt trong các truyện ngắn
loại như Con trai con gái cụ Hồ (in lại ở Giữa trong xanh). Trong đời sống văn học ở Hà Nội từ
1975 về trước, những tìm tòi loại đó âm thầm bé nhỏ, không đáng kể gì hết. Song, với típ người
cầm bút như Nguyễn Thành Long thì nó là cả một nhu cầu nội tại, kể cả nhiều khi biết rằng đeo