Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp trong luật doanh nghiệp 2014 và luật đầu tư năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.92 KB, 86 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ BẢO NGỌC

BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 VÀ LUẬT ĐẦU TƯ NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ BẢO NGỌC

BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 VÀ LUẬT ĐẦU TƯ NĂM 2014


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Dương Đăng Huệ

HÀ NỘI - NĂM 2016

LỜI CAM ĐOAN


3
Tôi xin cam đoan rằng Luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi, có
sự hỗ trợ từ Giáo viên hướng dẫn là PGS. TS Dương Đăng Huệ. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho
việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn
khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng
một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức
khác và cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất cứ sự
gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng cũng như kết
quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Bảo Ngọc

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài luận văn này, bên cạnh
sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và
hướng dẫn quý báu của các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè.



4
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến Phó Giáo sư - Tiến sỹ Dương Đăng Huệ – người thầy đã tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên
cứu Luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám
hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học,
Khoa Pháp luật kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè đã luôn ở
cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên
cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.

Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Bảo Ngọc


5
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CTCP

: Công ty cổ phần

DNNN


: Doanh nghiệp Nhà nước

LDN

: Luật Doanh nghiệp

LĐT

: Luật Đầu tư

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn


6
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO KINH
DOANH VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
7
1.1. Khái niệm, nội dung, ý nghĩa của quyền tự do kinh doanh và bảo đảm quyền
tự do kinh doanh
7
1.1.1 Khái niệm quyền tự do kinh doanh
7
1.1.2. Nội dung của quyền tự do kinh doanh
9

1.1.3. Khái niệm bảo đảm quyền tự do kinh doanh
14
1.1.4. Ý nghĩa của quyền tự do kinh doanh và bảo đảm quyền tự do kinh doanh
18
1.2. Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh
21
1.2.1. Pháp luật củng cố tiền đề kinh tế để thực hiện quyền tự do kinh doanh
21
1.2.2. Pháp luật thiết lập tiền đề pháp lý để thực hiện quyền tự do kinh doanh
23
1.2.3. Pháp luật ngăn chặn hành vi cản trở hoạt động kinh doanh thông qua việc
quy định các chế tài pháp lý.
24
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh và bảo đảm quyền tự do
kinh doanh
25
1.3.1. Chế độ chính trị
25
1.3.2. Cơ chế quản lý kinh tế
26
1.3.3. Văn hóa kinh doanh
27
1.4. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong pháp luật một số quốc gia trên thế
giới.
29
1.4.1. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong pháp luật Cộng hòa liên bang Nga
29
1.4.2. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong pháp luật Hàn Quốc
30
CHƯƠNG 2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM

2014 VÀ LUẬT ĐẦU TƯ NĂM 2014 VỀ VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ
DO KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
33
2.1. Những quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về việc bảo đảm quyền
tự do kinh doanh của doanh nghiệp
34
2.1.1. Luật Doanh nghiệp thiết kế nhiều mô hình tổ chức kinh doanh để các nhà
đầu tư tự do lựa chọn
34
2.1.2. Luật Doanh nghiệp mở rộng quyền thành lập, tổ chức lại, giải thể doanh
nghiệp, đồng thời cải cách các thủ tục này theo hướng có lợi cho doanh nghiệp
35


7
2.1.3. Luật Doanh nghiệp hoàn thiện các mô hình quản trị doanh nghiệp theo
hướng bảo đảm sự linh hoạt trong điều hành hoạt động sản xuất – kinh doanh42
2.1.4. Luật Doanh nghiệp mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp trong việc
quyết định các vấn đề phát sinh trong sản xuất – kinh doanh
48
2.1.5. Luật Doanh nghiệp giới hạn sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động
sản xuất - kinh doanh.
54
2.2. Những quy định của Luật Đầu tư năm 2014 về việc bảo đảm quyền tự do
kinh doanh của doanh nghiệp
55
2.2.1. Luật Đầu tư quy định ngành nghề cấm kinh doanh và ngành nghề kinh
doanh có điều kiện
56
2.2.2. Luật Đầu tư quy định thủ tục, trình tự đầu tư thuận lợi hơn cho nhà đầu tư

58
2.2.3. Luật Đầu tư khuyến khíchhoạt động đầu tư ra nước ngoài
62
CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ THỰC THI
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 VÀ LUẬT ĐẦU TƯ NĂM 2014,
GÓP PHẦN BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP
65
3.1. Tình hình thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014
65
3.1.1. Các kết quả đạt được
65
3.1.2. Một số khó khăn, vướng mắc
68
3.2. Kiến nghị giải pháp đưa Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm
2014 vào cuộc sống nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp74
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp và đầu tư
74
3.2.2. Các giải pháp thực thi Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư năm 2014
để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp
79
KẾT LUẬN
85


8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế, ở từng giai đoạn khác nhau,vấn đề
quyền tự do kinh doanh được nhìn nhận dưới các mức độ khác nhau và được ghi

nhận khác nhau trong các văn bản quy phạm pháp luật. Quyền tự do kinh doanh
theo đúng nghĩa của nó chỉ mới được chính thức thừa nhận trong Hiến pháp năm
1992, đặc biệt là trong Hiến pháp năm 2013. Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp
luật không cấm”. Quy định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để công dân
được hưởng một trong những quyền kinh tế cơ bản của mình.
Để bảo đảm quyền tự do kinh doanh được thực hiện, Nhà nước ta đã thiết
lập nhiều cơ chế hữu hiệu nhằm ghi nhận, bảo vệ và cổ vũ các doanh nghiệp đầu
tư, sản xuất, kinh doanh. Sự hội nhập ngày càng mạnh mẽ của đất nước, quan hệ
giao lưu kinh tế ngày càng mở rộng đòi hỏi sự thay đổi tương ứng trong các quy
định của pháp luật. Hệ thống pháp luật được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện; các
chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư được áp dụng đối với cả nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngoài. Trong năm 2014 – năm đầu tiên triển khai thi hành
Hiến pháp 2013, nổi bật trong số những đạo luật được Quốc hội thông qua là
Luật Doanh nghiệpvà Luật Đầu tư. Hai đạo luật này đã tạo điều kiện thông
thoáng hơn để cải thiện môi trường kinh doanh của đất nước.
Bởi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư mới ra đời, thực tiễn áp dụng chưa
lâu nên không phải đối tượng nào, kể cả các doanh nghiệp, doanh nhân cũng có
thể nắm vững được những thay đổi lớn của Luật cũng như thấy được những hiệu
quả mà nó đã, đang và sẽ mang lại, nhất là trong việc tạo ra những chuyển biến
tích cực của môi trường kinh doanh thông qua những quy định hiện thực hóa
quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, làm thế nào để những quy
định mới đó đi vào thực tiễn cũng là một đòi hỏi cần thiết. Với mong muốn làm
rõ vai trò to lớn của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014
trong việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, tôi đã chọn đề tài
“Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp trong Luật Doanh
nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014” làm đề tài luận văn Thạc sỹ Luật
học của mình.



9
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tự do kinh doanh và bảo đảm quyền tự do kinh doanh không phải
là vấn đề mới và đã được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu dưới các góc độ khác
nhau. Có thể kể đến những công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu như:
Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam của PGS.TS Ngô Huy
Cương (2006), Nxb. Tư pháp; Tự do ý chí trong pháp luật Việt Nam của PGS.TS
Ngô Huy Cương (Chủ nhiệm) (2007) – Đề tài nghiên cứu đặc biệt cấp Đại học
Quốc gia Hà Nội; Pháp luật về các hình thức tổ chức kinh doanh của tác giả
Nguyễn Thị Khế (2007), Nxb. Tư pháp; Quyền tự do kinh doanh theo pháp luật
Liên minh châu Âu và Việt Nam – sách chuyên khảo của tác giả Phạm Huy Hồng
và Nguyễn Thanh Tú (2012), Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật; Một số vấn đề
về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam của TS.
Bùi Ngọc Cường (2004), Nxb. Chính trị quốc gia;Tự do kinh doanh và vấn đề
bảo đảm quyền con người tại Việt Nam, sách chuyên khảo của tác giả Mai Hồng
Quỳ (2012), Nxb. Lao động....
Các công trình chuyên sâu liên quan trực tiếp đến đề tài mà tác giả lựa
chọn có thể kể đến: Một số vấn đề cấp thiết cần giải quyết để đảm bảo quyền tự
do kinh doanh của PGS.TS Dương Đăng Huệ (1992) – Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 78/1992; Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm đảm bảo
quyền tự do kinh doanh ở nước ta của tác giả Bùi Ngọc Cường (2001), Luận án
tiến sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; Tự do kinh doanh: Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn của tác giả Bùi Xuân Hải (2011), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
06/2011...
Gần đây, một số luận văn Thạc sỹ Luật học cũng đề cập đến vấn đề quyền
tự do kinh doanh và bảo đảm quyền tự do kinh doanh dưới góc độ pháp luật
hoặc gắn với Luật chuyên ngành, như: Luật Doanh nghiệp 2005 với việc mở
rộng quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam của Trần Anh Tuấn (2006), luận văn
Thạc sỹ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội; Bảo vệ quyền tự do kinh doanh
theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 của Nguyễn Thị Giang (2012), luận

văn Thạc sỹ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội; Bảo vệ quyền tự do kinh
doanh theo pháp luật Việt Nam của Tân Khải Nhân (2013), Luận văn Thạc sỹ
Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội; Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật


10
Doanh nghiệp 2014 của Phạm Thị Hải Ninh (2016), luận văn Thạc sỹ Luật học,
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam;...
Nhìn chung, các bài viết và công trình nêu trên đều thể hiện quan điểm,
góc nhìn khác nhau của các tác giả về quyền tự do kinh doanh, bảo đảm quyền
tự do kinh doanh. Tuy nhiên hầu hết các bài viết kể trên đều trước thời điểm
Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư 2014 được ban hành, và vì vậy, vấn đề bảo
đảm quyền tự do kinh doanh thể hiện trong hai Luật này dường như còn bỏ ngỏ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận về quyền tự do kinh
doanh, bảo đảm quyền tự do kinh doanh và những quy định của Luật Doanh
nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014 nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp.
Quyền tự do kinh doanh được bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp,
không chỉ bằng pháp luật mà còn bởi các biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng,
văn hóa... Trong đó, hệ thống pháp luật có vai trò quan trọng nhất bởi chính
thông qua pháp luật, Nhà nước tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tổ chức, cá nhân
thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài không đi quá sâu vào vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh và
bảo đảm quyền tự do kinh doanh mà chỉ nghiên cứu lý luận về các vấn đề này ở
mức độ cần thiết. Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định cụ thể trong Luật
Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014 để chứng minh rằng, hai Luật này có
vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh

nghiệp ở Việt Nam.
Việc nghiên cứu đề tài cũng không mở rộng ra các văn bản quy phạm
pháp luật khác ngoài Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014. Luật Doanh
nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 và một số văn bản pháp luật trong lĩnh vực
khác được đề cập đến chỉ để nhằm so sánh, minh họa làm nổi bật lên những
điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014 và làm sâu sắc hơn


11
vai trò của những Luật này trong việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là thông qua phân tích các quy định của
Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư 2014, đặc biệt là những quy định mới so với
các đạo luật đã ban hành trước đây, chứng minh vai trò đặc biệt quan trọng của
hai Luật này trong việc hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh ở nước ta. Ngoài
ra, qua việc nghiên cứu thực tiễn thi hành hai đạo Luật này trong thời gian qua,
luận văn còn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện về mặt quy định
pháp luật cũng như về mặt thực thi pháp luật, bảo đảm quyền tự do kinh doanh
được tôn trọng và thực hiện triệt để hơn nữa trong những năm tiếp theo.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn hướng tới trả lời các câu hỏi sau:
- Thế nào là quyền tự do kinh doanh và bảo đảm quyền tự do kinh doanh?
- Thực trạng quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014
về bảo đảm quyền tự do kinh doanh.
- Thực hiện quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014
đã đạt được những kết quả gì và có vướng mắc như thế nào đối với việc bảo
đảm quyền tự do kinh doanh?
- Giải pháp hoàn thiện Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014 và
đưa các quy định của pháp luật vào cuộc sống để đảm bảo hơn nữa quyền tự do

kinh doanh.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở nắm vững quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó luôn khẳng định quyền tự do kinh doanh
là một trong những quyền cơ bản, quan trọng của công dân. Luận văn vận dụng
các nguyên tắc phương pháp luận của triết học Mác – Lênin, của lý luận nhà
nước và pháp luật làm cơ sở nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc bảo đảm
quyền tự do kinh doanh.
Ngoài ra, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:


12
Phương pháp mô tả, diễn giải, lịch sử - cụ thể được sử dụng để làm rõ các
vấn đề lý luận liên quan đến quyền tự do kinh doanh và bảo đảm quyền tự do
kinh doanh;
Phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, so sánh pháp luật để
phân tích những quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư 2014 thể hiện
vai trò trong việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh;
Phương pháp tổng hợp, phân tích, xã hội học, điển hình hóa được sử dụng
để nêu bật thực trạng thực thi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, từ đó đưa ra
kiến nghị giải pháp hoàn thiện và thực thi pháp luật.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã đưa ra một cái nhìn tổng quát nhất về quyền tự do kinh
doanh và bảo đảm quyền tự do kinh doanh dưới góc độ là một quyền kinh tế
quan trọng của công dân Việt Nam. Luận văn đã khẳng định được rằng chỉ kho
có Hiến pháp 2013 thì quyền tự do kinh doanh mới được thực thi hoàn chỉnh
trong cuộc sống. Quyền này chỉ được bảo đảm hiện thực hóa khi Nhà nước ta
ban hành được một cách đồng bộ nhiều đạo luật khác nhau để giải quyết các vấn
đề khác nhau tác động đến việc thực thi quyền tự do kinh doanh. Trong số các

đạo luật đó, quan trọng hàng đầu là Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư
2014.
Từ thực tiễn thực thi Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014 trong
thời gian qua, tác giả kiến nghị một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật và thực
thi pháp luật đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước ta. Các giải pháp trong
luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan ban hành
pháp luật, thực thi pháp luật, tổ chức cá nhân có liên quan cũng như phục vụ cho
công tác nghiên cứu khoa học.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh và bảo đảm
quyền tự do kinh doanh;
Chương 2: Vai trò của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm
2014 đối với việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp;


13
Chương 3: Kiến nghị giải pháp hoàn thiện và thực thi Luật Doanh nghiệp
năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014 góp phần bảo đảm quyền tự do kinh doanh
của doanh nghiệp.


14
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO KINH
DOANH VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
1.1. Khái niệm, nội dung, ý nghĩa của quyền tự do kinh doanh và bảo
đảm quyền tự do kinh doanh
1.1.1 Khái niệm quyền tự do kinh doanh
Kinh doanh là một trong những hoạt động phong phú, phức tạp nhất của

con người. Dưới góc độ kinh tế. Khi đó, kinh doanh được hiểu là một phạm trù
gắn liền với sản xuất hàng hóa, đó là tổng thể các phương thức, phương tiện,
cách thức được sử dụng để thực hiện các hoạt động kinh tế nhằm mục đích thu
lợi nhuận cao nhất.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm kinh doanh lần đầu tiên xuất hiện trong
Luật Công ty năm 1990, theo đó “kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Cách hiểu về kinh
doanh xuyên suốt và khá thống nhất trong hệ thống pháp luật về thương mại, kinh
tế. Luật Doanh nghiệp (LDN) năm 2014 hiện hành định nghĩa về kinh doanh cũng
tương tự như các Luật trước đây (Khoản 16 Điều 4).
Từ những khái niệm về “kinh doanh” nêu trên, “tự do kinh doanh” có thể
được hiểu đơn giản là hoạt động có ý thức của con người, là khả năng con người
được tự mình, theo ý chí và vì lợi ích của mình mà lựa chọn cách thức thực hiện
quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm để tạo ra lợi nhuận. Tuy
nhiên, “tự do kinh doanh” không chỉ là một khái niệm đơn thuần về mặt kinh tế,
mà nó còn gắn với “quyền” – quyền tự do kinh doanh, vốn là một khái niệm thể
hiện mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân, giữa cá nhân và cộng đồng.
Quyền con người là vấn đề có nội dung rộng lớn, phức tạp và gắn liền với
quá trình hình thành, phát triển của lịch sử nhân loại. Có nhiều học thuyết, quan
niệm về quyền con người, như học thuyết tự nhiên cho rằng quyền con người là
một đặc quyền tự nhiên, không phải do ai ban phát, đứng độc lập thậm chí là cao
hơn quyền lực nhà nước.


15
Đến khi chủ nghĩa Mác – Lê nin ra đời đã quan niệm đặt con người cũng
như quyền con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Quyền tự do của
con người là khái niệm mang tính lịch sử, hình thành và phát triển trong cuộc
đấu tranh giai cấp vì sự tiến bộ xã hội. Quyền tự do của con người ko phải là

khái niệm trìu tượng cũng không chỉ là quyền cá nhân con người mang tính tự
nhiên bẩm sinh mà luôn gắn với trình độ phát triển và tiến bộ xã hội, chịu sự chi
phối của chế độ chính trị, chế độ kinh tế… Khái niệm quyền tự do của con
người phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân. “Với quan niệm đó,
quyền con người được Chủ nghĩa Mác - Lê nin xem là giá trị được xã hội hóa,
nghĩa là phải được Nhà nước ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật thì mới trở
thành hiện thực.”1.
Như vậy, có thể hiểu quyền con người mang tính chất tự nhiên, không
phải do ai ban tặng nhưng khi chưa được Nhà nước quy phạm hóa bằng pháp
luật thì quyền con người chưa được thừa nhận.
Tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, quyền
tự do kinh doanh được đặt trong chương “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân”. Như vậy, quyền tự do kinh doanh là một trong những quyền
con người, quyền của công dân Việt Nam đã được Hiến định.
Quyền tự do kinh doanh là một trong những bộ phận quan trọng nhất
trong hệ thống các quyền con người, quyền công dân. Đó là quyền trong lĩnh
vực kinh tế, “nhằm phục vụ nhu cầu vật chất của con người, tạo ra giá trị vật
chất cho xã hội và là động lực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của xã hội. Chính
vì vậy, quyền tự do kinh doanh còn là mục tiêu nhà nước cần hướng tới nhằm
phát triển kinh tế, xã hội.”2.
Quyền tự do kinh doanh nằm trong hệ thống các quyền con người, quyền
công dân, bao gồm các quyền trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, giáo
dục, khoa học công nghệ,… Quyền tự do kinh doanh và các quyền khác của
công dân có mối quan hệ mật thiết, bổ trợ, tác động lẫn nhau, vừa là tiền đề, điều
kiện, vừa là kết quả của nhau.
1 Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành
ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.17.
2 Trần Anh Tuấn (2006), Luật Doanh nghiệp 2005 với việc mở rộng quyền tự do kinh doanh ở Việt
Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.8.



16
Qua tìm hiểu về khái niệm kinh doanh nói chung cũng như đặt trong dưới
góc độ tiếp cận là một quyền con người quan trọng, có thể định nghĩa về quyền
tự do kinh doanh như sau: Quyền tự do kinh doanh là khả năng của con người
(cá nhân, pháp nhân) được tự mình (theo ý chí, nguyện vọng và vì lợi ích của
mình) quyết định cách thức thực hiện các hoạt động sản xuất – kinh doanh từ
đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm để tạo ra lợi nhuận. Khả năng này được
Nhà nước ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
1.1.2. Nội dung của quyền tự do kinh doanh
1.1.2.1. Quyền được bảo đảm sở hữu
Ở nước ta, trước thời kì đổi mới, sở hữu tư nhân không được bảo đảm.
Chúng ta chỉ chú trọng và khuyến khích sở hữu tập thể và sở hữu Nhà nước. Kết
quả là kinh tế bị kìm hãm, kém phát triển. Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam năm 1986, chúng ta đã nhận thức ra rằng, sự tồn tại nhiều
hình thức sở hữu (trong đó có sở hữu tư nhân) đối với tư liệu sản xuất là khách
quan, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận và bảo đảm sự tồn tại của
nhiều hình thức sở hữu bao gồm: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân. Các chủ sở hữu là các nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ 3 quyền là:
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản.
Quyền được bảo đảm về sở hữu có ý nghĩa hết sức quan trọng, không
những đối với cá nhân, tổ chức mà còn đối với toàn xã hội. Trong mối quan hệ
với quyền tự do kinh doanh, quyền được bảo đảm về sở hữu là nền tảng, tiền đề,
là nội dung trọng tâm, đồng thời cũng là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nhà đầu tư
thực hiện các nội dung khác của quyền tự do kinh doanh. Chỉ khi có đầy đủ
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thì chủ sở hữu mới có thể sử dụng
tài sản của mình vào quá trình đầu tư. Đồng thời nhà đầu tư không thể tham gia
hoạt động kinh doanh nếu không có quyền sở hữu đối với tài sản; khi nhà đầu tư
có quyền sở hữu tài sản và có mục đích làm gia tăng tài sản (là đối tượng của

quyền sở hữu), khi đó sẽ làm nảy sinh ý định kinh doanh của nhà đầu tư. Như
vậy, cũng có nghĩa là với mục đích làm tăng quyền sở hữu tài sản nhà đầu tư
mới nghĩ tới việc lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh, ngành nghề kinh doanh,
quy mô kinh doanh và địa điểm kinh doanh, tiến hành thành lập doanh nghiệp,


17
tổ chức kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường. Khi quyền sở hữu bị xâm hại,
nhà đầu tư lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp để bảo vệ tốt nhất quyền
lợi của mình. Những hoạt động này chịu sự chi phối của quyền sở hữu đồng thời
là sự hiện thực hóa quyền sở hữu, bảo đảm cho quyền sở hữu được thực hiện.
Mặt khác, chỉ khi quyền sở hữu của nhà đầu tư được bảo đảm thì mới tạo ra tâm
lí yên tâm, thúc đẩy nhà đầu tư hăng hái bỏ vốn vào quá trình kinh doanh.
1.1.2.2. Quyền tự do lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh, ngành nghề
kinh doanh, quy mô kinh doanh và địa điểm kinh doanh.
Quyền tự do lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh, ngành nghề kinh
doanh, quy mô kinh doanh và địa điểm kinh doanh là công đoạn đầu tiên của
quá trình kinh doanh. Theo đó, nhà đầu tư có quyền chủ động lựa chọn theo ý
chí của mình và phù hợp với những quy định của pháp luật.
Mỗi mô hình tổ chức kinh doanh đều thể hiện những ưu điểm nổi bật đáp
ứng tốt nhất những nhu cầu tổ chức kinh doanh của từng chủ thể kinh doanh
trong từng thời kì nhất định. Nhà đầu tư có quyền chủ động lựa chọn mô hình
kinh doanh và thay đổi mô hình kinh doanh theo ý chí của mình trong toàn bộ
quá trình kinh doanh. Quyền tự do lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh sẽ giúp
nhà đầu tư tự chủ, linh hoạt trong tổ chức quản lí doanh nghiệp phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh, phù hợp với yêu cầu ngành nghề, quy mô kinh doanh.
Ngành nghề kinh doanh là lĩnh vực hoạt động thường xuyên, chủ yếu của
nhà kinh doanh. Nhà đầu tư không những được quyền tự do lựa chọn một hoặc
nhiều ngành nghề phù hợp với quy định của pháp luật và khả năng của mình mà
còn được quyền thay đổi các ngành nghề đó toàn bộ quá trình kinh doanh.

Quyền tự do lựa chọn các ngành nghề không những khuyến khích nhà đầu tư
không ngừng tìm tòi, sáng tạo mà còn tạo thuận lợi cho họ linh hoạt thay đổi
ngành nghề kinh doanh đáp ứng yêu cầu của thị trường, mở rộng quy mô kinh
doanh.
Quy mô kinh doanh thể hiện độ rộng lớn về mặt tổ chức hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, quy mô kinh doanh thể hiện ở số lượng lao động được
sử dụng, vốn kinh doanh, sản phẩm... Nhà đầu tư có quyền tự do lựa chọn quy
mô kinh doanh trước khi thành lập doanh nghiệp đồng thời có quyền thay đổi
quy mô trong toàn bộ quá trình kinh doanh.


18
Địa điểm kinh doanh là nơi hoạt động kinh doanh cụ thể của doanh
nghiệp được tổ chức thực hiện. Nhà đầu tư có thể tổ chức kinh doanh tại địa chỉ
đăng kí trụ sở chính hoặc ngoài địa chỉ trụ sở chính. Nhà đầu tư có thể tiến hành
tổ chức kinh doanh tại một hoặc nhiều đại điểm. Nhà nước bảo đảm quyền tự do
lựa chọn địa điểm kinh doanh sẽ giúp nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, giảm giá
thành sản phẩm, thuận lợi trong việc khai thác các nguồn lực, thế mạnh của từng
địa phương.
1.1.2.3. Quyền tự do thành lập và đăng kí kinh doanh, tổ chức lại doanh
nghiệp và rút khỏi thị trường.
Quyền tự do thành lập và đăng ký kinh doanh, tổ chức lại doanh nghiệp
và rút khỏi thị trường có tác động trực tiếp tới sự hình thành và tồn tại của mỗi
doanh nghiệp. Quyền tự do thành lập và đăng ký kinh doanh có ý nghĩa quan
trọng, quyền này đã khai sinh doanh nghiệp. Tự do thành lập doanh nghiệp và
đăng ký kinh doanh là quyền quan trọng của nhà đầu tư, theo đó nhà đầu tư có
quyền tự chủ hành động theo ý chí của mình trong việc thành lập và đăng ký
kinh doanh phù hợp với những quy định của pháp luật. Để thực hiện quyền này,
nhà đầu tư cần chuẩn bị những điều kiện cần và đủ để tạo thành một doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật. Sau đó, nhà đầu tư có thể trực tiếp hoặc

thông qua người đại diện tiến hành đúng và đầy đủ các trình tự thủ tục theo quy
định của pháp luật. Khi thực hiện quyền tự do thành lập và đăng ký kinh doanh
của mình, nhà đầu tư còn có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do của các chủ thể
khác, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và toàn xã hộ. Vì chỉ như vậy nhà đầu tư mới
có thể bảo vệ tốt nhất quyền tự do kinh doanh của mình.
Tự do tổ chức lại doanh nghiệp là việc nhà đầu tư tự chủ động theo ý chí
của mình trong việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp, chuyển đổi
hình thức pháp lý của doanh nghiệp... phù hợp với quy định của pháp luật.
Quyền tự do tổ chức lại doanh nghiệp có vai trò giúp doanh nghiệp linh hoạt
trong tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh, chớp được những vận hội kinh
doanh và hạn chế đến mức tối đa những tác động tiêu cực cho doanh nghiệp,
góp phần bảo đảm tốt nhất quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư.
Quyền tự do rút khỏi thị trường là việc nhà đầu tư có quyền tự chủ chuyển
nhựng vốn góp, cổ phần, yêu cầu doanh nghiệp mua lại vốn góp, cổ phần và


19
những hoạt động khác nhằm rút khỏi thị trường theo ý chí của mình phù hợp với
quy định của pháp luật. Sau khi góp vốn kinh doanh, nhà đầu tư có thể chủ động
rút vốn khỏi quá trình kinh doanh theo ý chí của mình. Tuy nhiên việc rút khỏi
thị trường phải tuân thủ những trình tự thủ tục và điều kiện luật định nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và của các chủ thể có liên quan.
1.1.2.4. Quyền tự do giao kết hợp đồng
Quyền tự do hợp đồng được coi là bộ phận cấu thành quan trọng, là biểu
hiện sinh động nhất của quyền tự do kinh doanh. Thông qua giao kết hợp đồng,
các chủ thể kinh doanh mới thiết lập được quan hệ kinh doanh với các chủ thể
khác theo ý chí của mình và phù hợp với quy định của pháp luật. Quyền tự do
hợp đồng thể hiện thông qua việc các chủ thể kinh doanh có thể tự do lựa chọn
đối tác kí kết hợp đồng, tự do lựa chọn đối tượng của hợp đồng, tự do xác lập,
thực hiện và thay đổi hợp đồng... trên cơ sở phù hợp với những quy định của

pháp luật. Quyền tự do kí kết hợp đồng có ý nghĩa hết sức quan trọng, thông qua
việc thực hiện quyền này sẽ thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển, bảo đảm
cho các quan hệ kinh doanh thực hiện thực hiện trong hành lang pháp lí an toàn.
Thông qua việc xác lập, thực hiện hợp đồng các chủ thể kinh doanh có thể thực
hiện hoạt động kinh doanh một cách chủ động, sáng tạo và xác lập các biện
pháp tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách tốt nhất.
1.1.2.5. Quyền tự do cạnh tranh
Quyền tự do cạnh tranh là việc doanh nghiệp có quyền tự chủ cạnh tranh
theo ý chí của mình phù hợp với những quy định của pháp luật. Tự do cạnh
tranh không những là quyền quan trọng của doanh nghiệp mà còn là nguyên tắc
cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng ta
buộc phải tuân theo quy định của nền kinh tế thị trường mà trong đó quy luật
cạnh tranh là một thành tố cơ bản không thể tách rời.
Nhà đầu tư có quyền thực hiện tất cả các hành vi cạnh tranh trừ những
hành vi hạn chế cạnh tranh xâm hại đến lợi ích của người tiêu dùng, của Nhà
nước, của những chủ thể kinh doanh khác; và những hành vi cạnh tranh không
lành mạnh. Ví dụ: hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm hại bí mật kinh doanh, ép
buộc trong kinh doanh,... Doanh nghiệp thực hiện quyền tự do cạnh tranh phù


20
hợp với quy định của pháp luật sẽ góp phần bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng,
của Nhà nước và của các chủ thể kinh doanh khác.
Tự do cạnh tranh là nội dung quan trọng của tự do kinh doanh, đồng thời
nó cũng là điều kiện bảo đảm cho quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư được
thực hiện. Tự do cạnh tranh lành mạnh là động lực thúc đẩy, khuyến khích
doanh nghiệp không ngừng sáng tạo, đổi mới, đầu tư nâng cao hiệu quả sản
xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đồng thời là điều kiện quan
trọng giúp doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả quyền tự do kinh doanh.
1.1.2.6. Quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp

Dưới tác động của quy luật cạnh tranh và sự tự do hóa các hoạt động kinh
tế, các tranh chấp trong hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh doanh là điều tất
yếu. Trong bối cảnh đó, quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nhà đầu tư.
Quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là việc doanh
nghiệp có quyền tự chủ lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp theo ý chí
của mình phù hợp với những quy định của pháp luật.
Mỗi hình thức giải quyết tranh chấp đều có những ưu thế phù hợp với đặc
điểm của từng tranh chấp. Khi có tranh chấp xảy ra các chủ thể kinh doanh có
quyền quyết định có đưa vụ việc ra giải quyết tranh chấp hay không. Đồng thời
có quyền tự do lựa chọn một trong các hình thức giải quyết tranh chấp: Hòa giải,
thương lượng, tố tụng trọng tài, tố tụng tòa án. Đặc biệt trong hai hình thức giải
quyết tranh chấp thông qua hòa giải, thương lượng, quyền tự do định đoạt của
các chủ thể được đề cao. Các bên tranh chấp có toàn quyền quyết định về mọi
vấn đề liên quan đến trình tự và nội dung giải quyết tranh chấp, tuy nhiên phải
phù hợp với quy định của pháp luật.
Quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp có vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm các nội dung khác của quyền tự do kinh doanh được
thực hiện. Mặt khác, quyền này góp phần bảo vệ công bằng quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể kinh doanh, góp phần xây dựng môi trường kinh doanh an
toàn, lành mạnh qua đó bảo đảm và khuyến khích nhà đầu tư thực hiện quyền tự
do kinh doanh.
1.1.3. Khái niệm bảo đảm quyền tự do kinh doanh


21
Kinh doanh là hoạt động tạo ra giá trị vật chất cho xã hội, là động lực phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhưng không chỉ mang lại những hiệu quả
tích cực như vậy, kinh doanh bản thân nó cũng ẩn chứa những yếu tố tiêu cực
mà nếu không có sự điều chỉnh phù hợp thì sẽ gây ra những hậu quả cho kinh tế,

xã hội. Nói đến kinh doanh là nói đến việc tìm kiếm lợi nhuận. Tự do kinh
doanh cũng chính là tự do hành động, hoạt động để tạo ra lợi nhuận. Trong bất
kỳ nền kinh tế thị trường nào, tự do kinh doanh cũng có thể dẫn tới tình trạng
các chủ thể chèn ép nhau, tìm cách loại bỏ nhau trong xu thế cạnh tranh khốc
liệt. Lừa đảo, gian lận thương mại, xâm phạm quyền sở hữu... là những hành vi
ngày càng phổ biến trong nền kinh tế. Sự can thiệp của Nhà nước là cần thiết vì
chỉ có Nhà nước mới có đủ năng lực và điều kiện (công cụ) đảm bảo cho nền
kinh tế vận hành một cách bình thường. Chính vì vậy, bảo đảm quyền tự do kinh
doanh vừa là đòi hỏi, vừa là mục đích, vừa là trách nhiệm của Nhà nước.
Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống xã hội.
Hoạt động kinh doanh cũng là đối tượng được Nhà nước quản lý bằng công cụ
này. Do vậy, nói đến bảo đảm quyền tự do kinh doanh là nói đến Nhà nước
thông qua pháp luật để bảo đảm thực hiện quyền này. Bảo đảm trước hết là ghi
nhận. Ở nước ta, quyền tự do kinh doanh không phải mới chỉ được quy định
trong Hiến pháp 2013 mà trong các bản Hiến pháp trước đó đã đề cập đến quyền
này. Tuy nhiên, do điều kiện ở nước ta phải trải qua nhiều biến cố lịch sử khác
nhau ở nhiều giai đoạn nên mức độ quyền tự do kinh doanh cũng có sự điều
chỉnh cho phù hợp với yêu cầu và điều kiện cụ thể. Ngay từ bản Hiến pháp 1946
– bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã xác định: “Quyền tư hữu tài sản của
công dân Việt Nam được bảo đảm” (Điều 12). Với quy định này, quyền tư hữu
về tài sản từ tất cả các nguồn kể cả tài sản do kinh doanh mà có đều được nhà
nước bảo đảm. Với quy định tại Điều 6: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang
quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa.” đã cho thấy sự ghi nhận
về quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Hiến pháp 1959 và 1980 ra đời trong điều kiện của nền kinh tế theo mô
hình tập trung, quan liêu, bao cấp nên tự do kinh doanh như một nguyên tắc hoạt
động của các doanh nghiệp đã không được ghi nhận.


22

Trước sự biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của những năm cuối thập kỷ
tám, chín mươi thế kỷ trước, đặc biệt là đổi mới về kinh tế đã được Đảng ta đề
xướng và lãnh đạo, Hiến pháp 1992 đã phản ánh đúng quy luật phát triển kinh tế
xã hội. Điều 57 Hiến pháp này đã quy định: “Công dân có quyền tự do kinh
doanh theo quy định của pháp luật.”. Với quy định này, lần đầu tiên, quyền tự do
kinh doanh của công dân được xác lập một cách đầy đủ rõ ràng trong một văn
kiện có hiệu lực pháp lý cao nhất của Nhà nước.
Với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra, đòi hỏi
pháp luật phải được điều chỉnh nhằm bảo đảm các quyền về kinh tế trong đó có
quyền tự do kinh doanh của công dân được bảo đảm đầy đủ hơn. Trong mối liên
hệ đó, Hiến pháp 2013 đã quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.” (Điều 33). Quyền tự do kinh
doanh đang được tiếp tục cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật, bảo
đảm cho mọi công dân đều được hưởng thực quyền của mình trong lĩnh vực
kinh tế.
Có quyền tự do kinh doanh đã là một bước tiến lớn, nhưng có quyền tự do
kinh doanh mà không có cơ chế để bảo đảm cho quyền này được thực thi thì tự
do kinh doanh chỉ là khẩu hiệu tồn tại trên giấy. Vì vậy, bảo đảm quyền tự do
kinh doanh là việc làm rất cần thiết mà Nhà nước phải đảm nhận. Cả hệ thống
pháp luật của Nhà nước ta có trách nhiệm ghi nhận các cơ chế, biện pháp để bảo
đảm quyền này được thực thi trên thực tế. Trong số các đạo luật do Nhà nước ta
ban hành thì LDN và Luật Đầu tư (LĐT) có vai trò cực kỳ quan trọng.
Dưới góc độ pháp lý, có thể hiểu bảo đảm quyền tự do kinh doanh là sự
ghi nhận của Nhà nước về quyền tự do kinh doanh của công dân, đồng thời tạo
ra một hệ thống các cơ chế, công cụ, phương tiện kinh tế, pháp lý để góp phần
làm cho quyền tự do kinh doanh được thực thi trong thực tiễn.
Như vậy, để quyền tự do kinh doanh được bảo đảm thì việc đầu tiên đó là
nó phải được pháp luật ghi nhận.Ở nước ta hiện nay, quyền tự do kinh doanh đã
trở thành một quyền hiến định, tức là nó được ghi nhận trong văn bản pháp có

giá trị pháp lý cao nhất, là xuất phát điểm, là nguyên tắc để hệ thống pháp luật
chuyên ngành triển khai và bảo đảm thực hiện.


23
Không chỉ dừng lại ở việc ghi nhận trong pháp luật, bảo đảm quyền tự do
kinh doanh còn bao gồm việc tạo ra cơ chế tự bảo vệ cho các chủ thể trong hoạt
động kinh doanh và cơ chế bảo vệ quyền này từ phía Nhà nước thông qua pháp
luật. Trước hết, pháp luật quy định những nội dung cụ thể của quyền tự do kinh
doanh cũng như xác lập những hành vi mà chủ thể kinh doanh được thực hiện,
bị nghiêm cấm. Pháp luật góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh lành
mạnh, bình đẳng cũng là cách để đảm bảo hiệu quyền tự do kinh doanh của con
người. Đơn cử như qua các quy định về quyền con người trong Hiến pháp,
quyền tự do kinh doanh của con người không chỉ được xác định rõ ràng, cụ thể
mà nó còn được sự hỗ trợ bởi một số quyền cơ bản khác của công dân tạo nên sự
đồng bộ góp phần bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân. Điều 23 Hiến
pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có
quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước.”. Chúng ta thấy rằng việc xác
định nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần cùng với quyền tự do kinh doanh đã
mở ra một không gian rộng lớn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của công
dân và làm nảy sinh nhu cầu mở rộng quan hệ tìm kiếm thị trường, đối tác,...
Trong mối liên hệ đó, nếu không có quyền “ra nước ngoài và từ nước ngoài về
nước” thì quyền tự do kinh doanh của công dân sẽ bị hạn chế đi rất nhiều.
Trên cơ sở thừa nhận quyền tự do kinh doanh, nhà nước thiết lập các cơ
chế nhằm bảo vệ quyền đó. Nhà nước thiết lập cơ chế tự bảo vệ cho các chủ thể
kinh doanh. Thiết lập cơ chế tự bảo vệ cho các chủ thể là rất quan trọng, vì hơn
ai hết chính các nhà đầu tư phải là người đầu tiên có trách nhiệm bảo vệ quyền
tự do kinh doanh của mình khi bị xâm phạm. Pháp luật hiện nay cho phép các
chủ thể được dùng nhiều phương thức tự bảo vệ mình khi bị xâm phạm đến
quyền tự do kinh doanh, như: thương lượng, hòa giải.

Bên cạnh hình thức tự bảo vệ, pháp luật còn xây dựng thêm những cơ chế,
theo đó, Nhà nước sẽ can thiệp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp khi doanh nghiệp có yêu cầu. Trước hết, đó là việc bảo vệ quyền tự do
kinh doanh bằng biện pháp hành chính. “Với phương thức này, chủ thể có quyền
yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có biện pháp can thiệp để các chủ thể khác
không xâm phạm đến quyền tự do kinh doanh của mình. Tuy nhiên, trên thực tế,
nhiều khi quyền tự do kinh doanh lại bị xâm phạm bởi chính các cơ quan quyền


24
lực nhà nước.”3. Ví dụ như trong hoạt động đăng ký kinh doanh thì không ít
trường hợp cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ ghi nhận ngành nghề kinh doanh có
trong hệ thống mã ngành của Việt Nam mà không ghi nhận những ngành nghề
không có trong hệ thống. Đây là hành vi xâm phạm đến quyền tự do kinh doanh
vì không đúng với tiêu chí “công dân được làm những gì mà pháp luật không
cấm.”.
Để bảo đảm cho công dân thực hiện quyền tự do kinh doanh, Nhà nước còn
phải thiết lập những thiết chế chuyên trách để giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong hoạt động sản xuất – kinh doanh. Bởi vậy, việc xây dựng hệ thống các cơ
quan tư pháp mà trung tâm là Tòa án được hết sức chú trọng. Thông qua Tòa án,
các chủ thể có quyền khởi kiện chính cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân
khác khi họ xâm phạm quyền tự do kinh doanh của mình.
Như vậy, để bảo đảm quyền tự do kinh doanh, pháp luật nước ta đã ghi
nhận và xây dựng nên nhiều cơ chế và thiết chế tương ứng. Không có các cơ
chế, thiết chế này thì quyền tự do kinh doanh chỉ còn là khẩu hiệu tồn tại trên
giấy mà không thể được thực hiện trong thực tiễn.

1.1.4. Ý nghĩa của quyền tự do kinh doanh và bảo đảm quyền tự do
kinh doanh
1.1.4.1. Ý nghĩa chính trị

Một chế độ xã hội được coi là tiến bộ về mặt chính trị khi ở xã hội đó, các
công dân có được nhiều quyền về tự do. Số lượng quyền về tự do càng nhiều,
càng rộng, càng sâu sắc thì tính tiến bộ của xã hội đó càng cao. Trong các quyền
tự do ấy của công dân có quyền tự do kinh doanh với tư cách là một quyền kinh
tế cơ bản của công dân. Vì vậy, việc ghi nhận một cách chính thức quyền này
trong Hiến pháp và việc bảo đảm thực hiện quyền này bằng cả hệ thống pháp
luật là một biểu hiện không thể thiếu của một xã hội tiến bộ, văn minh.

3 Tân Khải Nhân (2013), Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ
Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa luật, Hà Nội, tr.20,21.


25
Trên quan điểm như vậy, việc ghi nhận và bảo đảm quyền tự do kinh
doanh có ý nghĩa chính trị sâu sắc ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1.1.4.2. Ý nghĩa pháp lý
Về mặt pháp lý, tự do kinh doanh và bảo đảm quyền tự do kinh doanh
không chỉ là những khái niệm đơn thuần mà còn là một nguyên tắc chỉ đạo trong
việc xây dựng và thực hiện pháp luật kinh tế. Nó vừa đặt ra những yêu cầu, vừa
là mục đích hướng tới cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh
tế của nước ta hiện nay.
Khi tự do kinh doanh được ghi nhận là một quyền cơ bản của công dân thì
không ai có thể cản trở quyền tự do đó. Cùng với việc quy định nội dung của
quyền tự do kinh doanh, pháp luật còn đặt ra các biện pháp bảo đảm thực hiện
quyền tự do đó. Hai yêu cầu đó gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng được đặt ra đối
với việc xây dựng, thực hiện pháp luật kinh tế. Công nhận và đảm bảo quyền tự
do kinh doanh còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Như vậy, bảo đảm tự do kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế cũng như quá
trình xây dựng một nhà nước pháp quyền ở nước ta.

1.1.4.3. Ý nghĩa kinh tế
Tự do kinh doanh là điều kiện và động lực cho sự phát triển kinh tế. Nó là
cơ sở quan trọng cho việc giải phóng và thúc đẩy mọi tiềm năng trong xã hội,
tạo ra cơ hội đầu tư, cơ hội việc làm cho mọi người trong xã hội. Lịch sử phát
triển của xã hội Việt Nam là một minh chứng rõ nét cho việc không có quyền tự
do kinh doanh thì không có sự phát triển về kinh tế. Thời kỳ kinh tế tập trung,
quan liêu, bao cấp, mọi hoạt động kinh doanh đều rất hạn chế, các doanh nghiệp
chủ yếu là vừa và nhỏ, bị Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất
kinh doanh, thành phần kinh tế tư nhân không có điều kiện phát triển. Nó đã thủ
tiêu cạnh tranh, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích
thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Thu nhập
quốc dân và năng suất lao động thấp, không đảm bảo được nhu cầu tiêu dùng
của xã hội. Thậm chí, lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều
thiếu...


×