Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém môn hóa ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.39 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục đích
2. Nhiệm vụ
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
1. Phạm vi nghiên cứu
2. Đối tượng nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
B. NỘI DUNG

Trang
3
3
3
3
3
4
4
4
4
4

I. Cơ sở lý luận
II. Thực trạng

4
5


1. Thuận lợi

5

2. Khó khăn

6

III. Những biện pháp thực hiện
1. Soạn giáo án chi tiết, chuẩn bị kỹ cho tiết dạy

6
6

2. Xác định động cơ học tập cho học sinh

9

3. Gây hứng thú học tập, hình thành sự yêu thích bộ môn

9

4. Dạy phụ đạo vào các buổi ngoại khoá

12

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

13


I. Kết quả thu được

13

II. Bài học kinh nghiệm
III. Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo

14
15
16

1


2


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài
Hoá học là một bộ môn khoa học nghiên cứu về các chất, sự biến đổi của
các chất và ứng dụng của chúng. Ở chương trình THCS, Hoá học cung cấp cho học
sinh một hệ thống kiến thức phổ thông cơ bản và thiết thực. Là một môn học rất
thiết thực với thực tế đời sống và lao động sản xuất, chuyên nghiên cứu về các chất
và sự chuyển hoá của các chất, giúp ta từ các chất ban đầu tạo ra nhiều chất mới.
Nhiều sản phẩm mới và quý không thể thiếu được trong cuộc sống để từng bước
nâng cao chất lượng cuộc sống của con người và đáp ứng toàn bộ yêu cầu của xã
hội. Nhưng, thực tế cho thấy kết quả học tập môn Hoá học của phần lớn học sinh
còn thấp, tỉ lệ học sinh yếu kém còn cao. Vì sao?
Qua thời gian trực tiếp giảng dạy bộ môn tôi nhận thấy có một số nguyên

nhân cơ bản sau: Là môn học được tiếp cận sau nhất trong chương trình giáo dục
phổ thông. Ban đầu mới làm quen với hàng loạt các khái niệm, định luật, học
thuyết và các chất nên học sinh không khỏi bỡ ngỡ. Không ít học sinh quan niệm
rằng Hóa học là môn học trừu tượng, khó hiểu nên đã có thái độ mang tính tiêu cực
đối với bộ môn, nản lòng trước những bài tập yêu cầu có tính suy luận cao. Có thể
nói Hoá học là một môn học khó đối với học sinh THCS vì nó là một môn khoa
học tổng hợp kiến thức của các môn khoa học tự nhiên và xã hội khác. Cho nên sau
khi học xong chương trình lớp 7 các em mới có đủ điều kiện để lĩnh hội kiến thức
của môn học này. Bên cạnh đó một số em học sinh còn cho rằng đây là một môn
phụ, nhiều học sinh còn có tính ỷ lại, lười học nên các em chưa có ý thức để học
tập tốt bộ môn. Ngoài ra, theo tôi còn một nguyên nhân chủ quan nữa đó là: Phải
chăng giáo viên chưa thực sự trăn trở, tâm huyết với từng tiết dạy, chưa phân loại
cụ thể các đối tượng học sinh, chưa thực sự quan tâm đến đối tượng học sinh yếu
kém trong lớp, chưa làm cho học sinh nhận thấy được tầm quan trọng của bộ môn,
và chưa tạo ra được những tiết học thực sự lôi cuốn học sinh?
Tôi đã trăn trở rất nhiều bởi câu hỏi đó và trách nhiệm nghề nghiệp thôi thúc
tôi phải làm thế nào để nâng cao chất lượng học tập của đối tượng học sinh yếu
kém. Vì vậy tôi quyết định tìm hiểu và nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nâng
cao chất lượng dạy học cho học sinh yếu kém môn Hoá học lớp 8 ở trường
Trung học cơ sở Đá Đỏ”.
3


II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục đích
Việc thực hiện đề tài nhằm nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp nâng cao
chất lượng học sinh yếu kém, giảm tỷ lệ học sinh yếu kém môn Hoá học lớp 8 ở
trường THCS nói chung và trường THCS Đá Đỏ nói riêng.
2. Nhiệm vụ
Nghiên cứu lý luận và tình hình thực tiễn về các biện pháp phát triển năng

lực nhận thức, năng lực tư duy và khả năng vận dụng kiến thức của học sinh yếu
kém môn Hoá học. Đề xuất một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu
kém môn Hoá học lớp 8. Thử nghiệm, kiểm tra, khảo sát tính hiệu quả và tính khả
thi của những biện pháp được đề xuất.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
1. Phạm vi nghiên cứu
Quá trình dạy và học môn Hoá học lớp 8 ở trường THCS Đá Đỏ
2. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh yếu
kém môn Hoá học lớp 8.
IV. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn, thống kê số liệu.
- Phân tích thực trạng, tham khảo các tài liệu và ý kiến đồng nghiệp.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác - Lênin thì quá trình nhận thức
thế giới khách quan của con người là “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Vận dụng vào môn Hoá học có thể thấy
là học sinh sẽ xây dựng được các định nghĩa, khái niệm, các tính chất của một
chất... tốt nhất khi các em rút ra chúng từ các hiện tượng thực tế, các thí nghiệm
mà chính các em được làm, được quan sát từ đó áp dụng cho các trường hợp khác
tương tự và vận dụng để làm các bài tập định tính, định lượng, giải thích các hiện
tượng trong thực tiễn. Hoá học là khoa học tự nhiên nghiên cứu các chất có trong
tự nhiên và sự chuyển hoá của chúng. Tính ứng dụng của Hoá học gần với thực tế.
Đối với mỗi một vấn đề trong hoá học ta đều có thể cho học sinh liên hệ với cuộc
sống, sản xuất và công nghiệp.
Các lý thuyết về sự hiểu biết của học sinh như: Lý thuyết hành vi, lý thuyết
nhận thức (lý thuyết của Bruner, lý thuyết phát triển của Piaget, lý thuyết tạo

4


dựng), lý thuyết xã hội. Sau khi so sánh thì lý thuyết nào người thầy cũng phải
đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn và đánh giá. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh
trung học cơ sở: Lứa tuổi học sinh lớp 8 trường trung học cơ sở trong khoảng từ 13
đến 15 tuổi. Là khoảng thời gian trong độ tuổi dậy thì, giai đoạn này các em có
những biến đổi quan trọng và phức tạp về tâm sinh lí. Tuy nhiên sự biến đổi là
không hoàn toàn như nhau ở mỗi học sinh. Điều đó làm cho thái độ của các em đối
với mỗi môn học cũng được phân hoá (có môn “hay”, môn “không hay, có môn
“cần”, môn “không cần thiết” ...). Ở lứa tuổi này tư duy trừu tượng phát triển
mạnh, nhưng thành phần của tư duy hình tượng – cụ thể vẫn tiếp tục phát triển và
giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc tư duy. Do vậy các em vẫn rất cần đến sự hỗ
trợ của những biểu tượng trực quan về đối tượng để tìm hiểu những dấu hiệu bản
chất, trừu tượng của đối tượng đó. Trong học tập, các em muốn độc lập lĩnh hội tri
thức, muốn có quan điểm và lập luận riêng. Các em thường thích những gì mới lạ,
thích các hoạt động phải liên hệ đến thực tiễn và có thể tạo môi trường cho các em
khẳng định mình.
Nâng cao chất lượng học sinh yếu kém là giáo viên phải bổ sung được
những “lỗ hổng” kiến thức cho học sinh (chủ yếu là những kiến thức có trong sách
giáo khoa) để giải quyết, để giành lại kiến thức mà các em chưa lĩnh hội hết trong
tiết dạy chính trên lớp. Từ đó học sinh có thể hòa nhập theo kịp với các bạn trong
tiết học đang diễn ra trên lớp. Theo tôi học sinh muốn làm tốt hoạt động này thì
bản thân giáo viên cần phải nắm bắt chính xác và đánh giá được mức độ kiến thức
đọng lại ở mỗi học sinh trong mỗi tiết dạy để chuẩn bị lên kế hoạch phụ đạo, thiết
kế nội dung phụ đạo sao cho có hiệu qủa nhất, muốn vậy thì cần phải biết rõ căn
cứ, hiểu và kết hợp giải quyết được các vấn đề sau:
- Tìm hiểu tại sao học sinh sợ ,chán ,học yếu kém học môn hóa học và tìm
cách giải tỏa tâm lí này ở các em.
- Hướng dẫn học sinh tự đánh giá hiểu biết của bản thân về môn học và tự

rèn luyện ý thức học tập.
- Giáo viên xác định được khối lượng kiến thức đối với từng bài học cụ thể
cho đối tượng học sinh yếu kém, để đề ra nội dung ,hình thức và phương pháp dạy
thích hợp nhất.
Như vậy cần ở học sinh phải hoàn toàn tự giác cao trong suy nghĩ và hành
động, tích cực phối hợp với giáo viên, có suy nghĩ ,cân nhắc kĩ lưỡng những thông
tin nhận được để “vá lại lỗ hổng kiến thức” và phản hồi lại kiến thức một cách
chính xác ,khoa học nhất. Muốn vậy giáo viên là người rất quan trọng cần phải có
các hướng dẫn cụ thể để giúp học sinh. Dựa trên những cơ sở đó tôi đã sáng tạo và
sử dụng được một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh
yếu kém trong môn Hoá học.
II. Thực trạng
5


1. Thuận lợi
Nhà trường có đầy đủ cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện và đồ dùng dạy
học cần thiết.
Hoá học là môn học gắn liền với thí nghiệm, thực hành, là bộ môn gắn liền
với thực tế đời sống, giải thích được nhiều hiện tượng trong thực tế cuộc sống hằng
ngày. Đây là cơ sở quan trọng để học sinh tìm thấy hứng thú và sự lôi cuốn trong
môn học.
2. Khó khăn
Do đặc trưng của bộ môn nên một số khái niệm, định nghĩa, định luật đối
với học sinh là khá mới mẻ, trừu tượng yêu cầu phải có sự tư duy, suy luận, sáng
tạo và óc tưởng tượng cao.
Là một môn khoa học tổng hợp kiến thức của các môn khoa học tự nhiên và
xã hội khác nên bắt buộc học sinh phải có kiến thức của các môn liên quan, đặc
biệt là Toán, Vật lí, Sinh học.
Mặt khác, năng lực không đồng đều, do đặc thù là học sinh dân tộc miền núi,

vùng sâu, vùng xa nên một số học sinh khả năng lĩnh hội, tiếp thu kiến thức còn
yếu, chậm, chưa sáng tạo, linh hoạt, khả năng tư duy thấp. Vì vậy khi soạn giáo án
và tổ chức dạy học giáo viên thường bị động về thời gian, rất khó khăn để quan
tâm đến tất cả các đối tượng học sinh.
Học sinh vẫn còn chịu ảnh hưởng của cách truyền thụ trước đây cho nên một
số học sinh ỷ lại, lười suy nghĩ, trong giờ học lơ là không tập trung, không học bài
và làm bài trước khi đến lớp… làm kiến thức bị thiếu hụt lâu dần tỏ ra sợ học, chán
học từ đó bị hổng về kiến thức.
Bên cạnh đó thêm một tồn tại là khi giáo viên đưa ra câu hỏi thì lập tức học
sinh cắm cúi vào sách giáo khoa, không có sự linh động, sáng tạo trong tư duy, có
khi còn sợ bị gọi trả lời, làm tiết học trở nên trầm, rời rạc. Kết quả là giáo viên
thường xuyên bị “cháy” giáo án, học sinh nắm bài hời hợt trở thành yếu kém làm
hiệu quả tiết dạy chưa cao.
III. Những biện pháp thực hiện
1. Soạn giáo án chi tiết, chuẩn bị kỹ cho tiết dạy
1.1 Xác định vị trí bài học trong cấu trúc chương trình, xác định loại bài dạy:
Trước hết bản thân tôi phải nắm vững cấu trúc chương trình sách giáo khoa của
từng lớp học, từng cấp học và cả chương trình của bộ môn, trong khi soạn, giảng
bài, tôi sẽ có các phương pháp phù hợp giúp học sinh vận dụng kiến thức đã học,
xây dựng kiến thức mới hoặc khi giảng xong kiến thức mới, tôi có thể xác định cho
các em hướng để các em học lên các lớp trên. Xác định đúng dạng bài để dạy đúng
6


phương pháp đặc trưng của bộ môn và đúng với phương pháp của từng loại bài
dạy. Đọc kĩ bài dạy để hiểu đúng ý của người viết sách giáo khoa, về kiến thức cơ
bản và cách trình bày kiến thức của tác giả, nắm được mối quan hệ giữa các kiến
thức từ đó khắc sâu được kiến thức trọng tâm cho học sinh và làm cho học sinh
thấy rõ con đường đi đến kiến thức rồi hướng dẫn cho các em phát hiện ra kiến
thức.

Ví dụ: Bài 26: “Oxit” lớp 8. Trước khi vào bài tôi cho học sinh nhắc lại tính
chất hóa học của oxi, lấy ví dụ. Sau đó để tìm hiểu định nghĩa, trước tiên tôi khẳng
định với học sinh: những sản phẩm thu được khi đốt cháy kim loại hoặc phi kim là
những oxit, từ đó yêu cầu học sinh nhận xét thành phần nguyên tố của các oxit đó
và rút ra khái niệm oxit.
1.2 Tiến hành soạn giáo án: Trước tiên tôi xác định hướng trọng tâm của bài
dạy, mục tiêu, phương pháp và sắp xếp các kiến thức của bài thành một hệ thống
kiến thức lôgíc, chặt chẽ. Chuyển tiếp giữa các mục trong bài dạy phải có sự dẫn
dắt theo kiểu dạy học nêu vấn đề và bằng phương pháp thầy thiết kế, trò thi công.
Hệ thống câu hỏi phải lôgic theo hệ thống kiến thức của bài và ngắn gọn, rõ ràng,
phù hợp với 4 đối tượng học sinh để huy động nhiều học sinh làm việc trên lớp (để
các em thấy chương trình mà sách giáo khoa đưa ra không có gì là quá tải, rất phù
hợp). Luôn luôn xác định tạo không khí học tập thoải mái, hứng thú là một trong
những mục tiêu của tiết học. Giáo viên cần chú ý chuẩn bị thật kỹ càng cho các
hoạt động tạo không khí học tập, có như vậy mới không để xảy ra các tình huống
ngoài dự kiến, vừa không đạt mục đích lại có thể gây hiệu ứng ngược.
Ví dụ: Bài 24: “Tính chất của oxi” lớp 8, kiến thức trọng tâm của bài là phần
tính chất hoá học của oxi, tôi đã làm cho học sinh thấy rõ con đường đi đến kiến
thức là bằng thí nghiệm thực tế, để các em nắm được các tính chất hoá học của ôxi
và để hướng dẫn cho các em phát hiện ra kiến thức qua từng thí nghiệm, tôi cho
học sinh thấy rõ các chất đem tác dụng cùng với việc các em quan sát thí nghiệm
và vận dụng vốn kiến thức có sẵn để có thể dự đoán sản phẩm tạo thành sau phản
ứng và dẫn đến kết luận, cụ thể: Tính chất ôxi tác dụng với sắt, tôi cho học sinh
quan sát thí nghiệm biểu diễn, học sinh sẽ xác định được các chất đem tác dụng là
ôxi và sắt, học sinh quan sát thí nghiệm thấy có hạt nóng đỏ bắn ra, các em sẽ đự
đoán sản phẩm là Fe3O4 (màu nâu), từ đó các em rút ra phương trình :
3Fe(r) + 2O2 (k)
Fe3O4 (r)
Ngoài việc hiểu đúng ý nghĩa của người viết sách còn giúp tôi vận dụng
thêm kiến thức của tài liệu tham khảo để mở rộng và nâng cao kiến thức cho học

sinh (ở những lúc cần thiết). Đồng thời tránh được tình trạng dạy sai kiến thức cho
học sinh. Đối với tôi soạn bài là một hình thức giảng thử để phân bố thời gian cho
7


phù hợp với từng phần kiến thức của bài và để bỏ bớt các ngôn ngữ thừa, các câu
hỏi vụng, giúp học sinh hiểu bài một cách chắt lọc, nhẹ nhàng. Trong bài soạn, đối
với các câu hỏi, tùy từng đặc điểm trình độ nhận thức của học sinh, phương pháp
lựa chọn mà quyết định số lượng, chất lượng các câu hỏi thích hợp. Tránh khuynh
hướng hình thức, tránh đặt câu hỏi mà không chuẩn bị trước. Mỗi bài học có một
vài câu hỏi then chốt và cần quan tâm đến tính lôgíc của câu hỏi, câu hỏi phải vừa
sức, phù hợp với đối tượng học sinh, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh hoạt
động độc lập, theo cặp hoặc theo nhóm tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá, và
đánh giá lẫn nhau, kết hợp đánh giá của giáo viên và đánh giá của học sinh. Đặc
biệt với đối tượng học sinh yếu kém cần tạo điều kiện cho các em tham gia hoạt
động bằng cách có câu hỏi gợi mở, gợi ý dẫn dắt cho học sinh trả lời giúp các em
thêm tự tin và hoà nhập với lớp. Tuy nhiên để tiết học có chiều sâu về mặt kiến
thức thì trong mỗi bài dạy giáo viên phải tìm được điểm nhấn của mỗi bài. Từ đó
các em khắc sâu được kiến thức và hiểu sâu hơn.
1.3 Chuẩn bị đồ dùng: Hoá học là một môn khoa học thực nghiệm, từ các thí
nghiệm thực hành để giúp học sinh hiểu bài, vì vậy cần thiết tôi chuẩn bị đầy đủ
các dụng cụ, hoá chất để làm thí nghiệm, bố trí thí nghiệm không cồng kềnh, mang
tính chất thẩm mỹ khoa học thao tác thí nghiệm của giáo viên phải thành thạo, nhẹ
nhàng, khéo léo, giáo viên phải làm thử trước để tránh các trường hợp do hoá chất
bảo quản không tốt hoặc do bố trí thí nghiệm mà dẫn đến thí nghiệm không thành
công, giáo viên phải chuẩn bị để giải thích cho học sinh các tình huống bất trắc xẩy
ra khi làm thí nghiệm. Các thí nghiệm hoá chất và dụng cụ dễ kiếm tôi giao cho
học sinh chuẩn bị trước ở nhà và yêu cầu các em phải đọc kỹ nội dung các thí
nghiệm có trong tiết học, chú ý phương pháp tiến hành, dự đoán trước hiện tượng
và giải thích, học sinh phải chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ mà giáo viên yêu cầu. Tuy

là những những thứ dễ kiếm, rất gần gũi với đời sống nhưng từ đó hình thành trách
nhiệm của các em đối với tiết học, các em sẽ thêm chú ý và ghi nhớ kiến thức dễ
dàng hơn.
Ví dụ: Trong bài 41: “Độ tan của một chất trong nước”, lớp 8: Học sinh có thể
chuẩn bị đường, muối... Ngoài ra, những thí nghiệm khó thành công, chiếm nhiều
thời gian, có các chất độc hại tôi đã thay thế bằng các thí nghiệm quay sẵn hay thí
nghiệm ảo để học sinh quan sát trên màn hình máy chiếu. Thực tế cho thấy khi tiết
dạy có sự chuẩn bị kỹ về phương tiện, đồ dùng, học sinh rất hứng thú học tập,
không khí sôi nổi, xây dựng kiến thức từ thực nghiệm, là cái các em được làm,
được quan sát nên sẽ nắm chắc, hiểu sâu kiến thức.
1.4 Lên lớp giảng bài: Phong thái, tác phong của người thầy khi lên lớp rất
quan trọng, ảnh hưởng lớn đến thái độ, không khí học tập của học sinh. Vào lớp tôi
luôn giữ tinh thần thoải mái và gần gũi với học sinh, nắm sĩ số học sinh, quan sát
8


tổng thể lớp học để chuẩn bị cho học sinh có tư thế, tinh thần tốt nhất để bước vào
tiết học. Nhất thiết phải kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh ở nhà, đặc biệt là học
sinh yếu kém. Kiểm tra bài cũ và vở ghi, vở bài tập, vở nháp. Kiểm tra bài cũ yêu
cầu cần phải kiểm tra được kiến thức trọng tâm của bài, giúp cho học sinh nhớ lại,
khắc sâu một lần nữa để vận dụng khi giải quyết bài mới, câu hỏi hoặc bài tập
kiểm tra phải rõ ràng phù hợp với 4 đối tượng học sinh (Giỏi, khá, trung bình, yếu)
để chống học sinh lười học, hay học vẹt, không kiểm tra nhiều kiến thức với một
học sinh. Thực hiện tôi cho học sinh gấp sách vở lại rồi đặt câu hỏi hoặc nêu bài
tập cho cả lớp, gọi một học sinh lên bảng, cả lớp làm nháp hoặc theo dõi bạn trả
lời, tôi cho 1 học sinh khác nhận xét bổ sung, cuối cùng giáo viên nhận xét, bổ
sung và cho điểm học sinh. Ngoài ra giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi để phục
vụ cho bài học mới mà không liên quan đến kiến thức của bài học ngay trước đó.
Ví dụ: Khi dạy bài “Sự oxi hóa – phản ứng hóa hợp - ứng dụng của oxi”
(Bài 25 - lớp 8)

Tôi đưa ra các câu hỏi kiểm tra bài cũ như sau:
Nêu tính chất hoá học của ôxi. Viết các phương trình phản ứng minh hoạ.
Sau khi nhận xét và sửa lỗi sai cho học sinh (nếu có) và cho điểm, tôi vẫn
lưu lại ví dụ của học sinh. Sau khi vào bài, để xây dựng khái niệm sự oxi hóa, tôi
yêu cầu học sinh nhận xét các ví dụ mà HS đã làm ở phần kiểm tra bài cũ ( lưu ở
góc bảng). Cho biết các phản ứng này có đặc điểm gì chung? Học sinh có thể nhận
thấy các phản ứng đó đều là sự tác dụng của oxi với chất khác. Sau đó, tôi khẳng
định các phản ứng đó gọi là sự oxi hóa và yêu cầu học sinh nêu khái niệm sự oxi
hóa.
2. Xác định động cơ học tập cho học sinh
Khi thực hiện bất kể công việc gì đó nếu có động cơ, mục tiêu rõ ràng chúng
ta sẽ thấy được ỹ nghĩa của công việc mình đang và sẽ làm. Nếu không có động cơ
và mục tiêu rõ ràng sẽ không thể nỗ lực hết mình và vượt qua mọi khó khăn. Bởi
vây, việc xác định động cơ, mục tiêu học tập cho học sinh là một biện pháp hết sức
cần thiết, đặc biệt là đối với những học sinh dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa,
học sinh yếu kém. Khi đó các em sẽ hình thành được ý thức học tập đúng đắn, có
thái độ đúng mực với việc học, các em sẽ tập trung, chú ý hơn, dành nhiều thời
gian hơn với việc học và kết quả học tập sẽ cao hơn. Bằng sự hiểu biết của bản
thân, thông qua các câu chuyện so sánh về kết quả học tập, về cuộc sống của
những người có động cơ học tập, đạt kết quả cao và những người không được đi
học, lười học, bỏ học... Các em dần dần hình thành được câu trả lời: “Học để làm
gì?”, “Học cho ai?”, “Học như thế nào?” ... Từ đó các em sẽ nỗ lực hơn trong việc
học.
9


3. Gây hứng thú học tập, hình thành sự yêu thích bộ môn
3.1 Hình thành niềm tin cho học sinh
Tôi cho rằng để làm một việc gì đó đạt kết quả tốt thì không thể thiếu yếu tố
niềm tin. Cụ thể ở đây là niềm tin vào chính bản thân các em, vào người giáo viên

và niềm tin vào khoa học. Đặc biệt là với học sinh yếu kém, các em có suy nghĩ tự
ti, sợ gọi lên bảng, sợ gọi trả lời câu hỏi. Vậy sự tự tin là một trong những điều
kiện để các em mạnh dạn hơn, tìm thấy hứng thú trong học tập. Trước tiên, cần
phải tiến hành phân loại học lực của học sinh, nắm chắc những học sinh yếu, phát
hiện học sinh giỏi. Từ đó tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, gần gũi, quan tâm sâu sắc
đến đời sống sinh hoạt của các em. Người giáo viên không chỉ đơn thuần là người
truyền đạt kiến thức mà còn có vai trò như là người cha, người mẹ. Làm cho các
em cảm nhận được sự gần gũi, tình thương của người thầy. Động viên, khích lệ kịp
thời khi các em có những câu trả lời, ý kiến hay bài giải hay. Làm cho các em
mạnh dạn phát biểu ý kiến, trao đổi, từ đó hình thành niềm tin và cố gắng học tập,
tiến tới hứng thú trong học tập. Biến kiến thức của SGK, tài liệu tham khảo thành
kiến thức của mình khi truyền thụ cho học sinh, từ đó tôi đã gây cho học sinh một
niềm tin vững chắc về kiến thức ở người thầy, các em thấy người thầy là thiêng
liêng cao cả và giữa giáo viên và học sinh phải có một khoảng cách nhất định về
kiến thức nhưng rồi lại được quy tụ tại một điểm.
Ngoài ra còn phải tìm hiểu nguyện vọng, ước mơ của học sinh xem sau này
các em muốn làm nghề gì, ước mơ như thế nào. Từ đó qua các câu chuyện, sự hiểu
biết thực tế người thầy sẽ có định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Đây là một
việc làm rất quan trọng, nó sẽ đáp ứng mục tiêu giáo dục của nhà trường THCS đó
là định hướng nghề cho các em. Như vậy ngay từ khi học THCS các em đã có ước
mơ cho tương lai sau này.
3.2 Dùng câu hỏi tạo tình huống gây hứng thú, kích thích sự tò mò cho học
sinh: Trong một số bài giáo viên sử dụng những câu hỏi nhằm kích thích sự tò mò
của học sinh và tạo điểm nhấn của bài, gây sự chú ý để học sinh tập trung chủ động
tư duy sẽ làm khả năng ghi nhớ kiến thức của học sinh dễ dàng hơn.
Ví dụ : Khi dạy bài: Không khí – Sự cháy ( Tiết 42 - Lớp 8)
Giáo viên có thể đặt vấn đề như sau: Có cách nào để xác định thành phần
của không khí? Không khí có liên quan gì đến sự cháy? Tại sao khi có gió to thì
đám cháy càng dễ bùng cháy to hơn? Làm thế nào để dập tắt được đám cháy và tốt
hơn là để các đám cháy không xảy ra?

3.3. Sử dụng các “bài thơ”, câu văn vần giúp học sinh ghi nhớ kiến thức:
10


Đối với học sinh yếu kém, khả năng tư duy, ghi nhớ kiến thức chậm hơn, khó khăn
hơn. Vì vậy tôi đã sử dụng các bài thơ dạng văn vần như bài ca hoá trị, bài ca
nguyên tử khối... để học sinh học thuộc.
Ví dụ 1: Bài 5: Nguyên tố hoá học – Lớp 8 Phần nguyên tử khối
Để học sinh thêm hứng thú và ghi nhớ nguyên tử khối dễ dàng giáo viên có
thể cho học sinh học thuộc bài ca nguyên tử khối như sau:
BÀI CA NGUYÊN TỬ KHỐI
Hidro (H) là 1
12 cột Các bon (C)
Nitơ (N) 14 tròn
Oxi (O) trăng 16.
Natri (Na) hay láu táu
Nhảy tót lên 23
Khiến Magie (Mg) gần nhà
Ngậm ngùi nhận 24.
27 Nhôm (Al) la lớn
Lưu huỳnh (S) giành 32
Khác người thật là tài
Clo (Cl) ba nhăm rưỡi (35,5).

Kali (K) thích 39
Canxi (Ca) tiếp 40
(55) Mangan (Mn) cười
Sắt (Fe) đây rùi: 56.
64 Đồng (Cu) nổi cáu
Bởi kém kẽm (Zn) 65

80 Brom (Br) nằm
Xa Bạc (Ag) 108.
Bari (Ba) buồn chán ngán
(137) Một ba bẩy ích chi
kém người ta còn gì!
Thủy ngân (Hg) hai linh mốt(201)
Còn tôi..., đi sau rốt...!

Ví dụ 2: Bài 10: Hoá trị – lớp 8
Sau khi học xong và giới thiệu hoá trị của các nguyên tố, giáo viên có thể cho học
sinh học bài ca hoá trị như sau:
BÀI CA HOÁ TRỊ
Kali (K), iot (I), hidrô (H)
Natri (Na) với Bạc (Ag), Clo (Cl) một loài
Là hoá trị I em ơi!
Nhớ ghi cho kỹ kẻo rồi phân vân...
Magiê (Mg), chì (Pb), kẽm (Zn) thuỷ ngân (Hg)
Oxi (O), đồng (Cu), thiếc (Sn) cũng gần Bari (Ba)
Cuối cùng thêm chú Canxi (Ca)
Hoá trị II đó có gì khó khăn!
Bác nhôm hoá trị III lần.
In sâu trí nhớ khi cần có ngay.
Cacbon (C) , silic (Si) này đây
11


Có hoá trị IV không ngày nào quên.
Sắt (Fe) kia rồi cũng quen tên
II , III lên xuống cũng phiền lắm thôi.
Nitơ (N) rắc rối nhất đời!

I , II , III , IV khi thời lên V.
Lưu huỳnh (S) lắm lúc chơi khăm
Xuống II lên VI khi nằm thứ IV.
Phot pho (P) nói đến không dư
Có ai hỏi đến thì ừ rằng V.
Em ơi , cố gắng học chăm
Bài ca hoá trị suốt năm cần dùng!
Ví dụ 3: Bài 37: Axit – Bazơ – Muối
Phần giới thiệu bảng tính tan trong nước của các axit – bazơ – muối, sau khi giới
thiệu bảng tính tan, cho học sinh tìm hiểu cách sử dụng bảng tính tan, tìm hiểu tính
tan của các hợp chất, giáo viên có thể cho học sinh tham khảo bài thơ sau:
TÍNH TAN CỦA MUỐI
Loại muối tan tất cả
Là muối nitrat (-NO3)
Và muối acetat (-COOH)
Bất kể kim loại nào
Những muối hầu hết tan
Là clorua (-Cl), sulfat (=SO4)
Trừ bạc chì clorua
Bari, chì sulfat
Những muối không hòa tan
Carbonat (=CO3), photphat (PO4)
Sulfur (=S) và sulfit (=SO3)
Trừ kiềm, amoni
Sau đó cho học sinh đối chiếu với bản tính tan, tìm các loại hợp chất:
Muối nitrat (-NO3), clorua (-Cl), sunfat (=SO4), cacbonat (=CO3), photphat
(PO4), sunfur (=S) và sulfit (=SO3), là dãy nào, là những muối nào trong bảng tính
tan …
Hàng ngày yêu cầu các học sinh khá giỏi trong lớp kiểm tra và hướng dẫn
cách ghi nhớ. Có tuyên dương với các bạn đã hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình các

bạn học yếu.
3.4 Liên hệ thực tế cuộc sống và hiểu biết xã hội:

12


Trong chương trình sách giáo khoa mới thông thường sau mỗi bài đều có
phần “Em có biết” giáo viên nên cho các em đọc trong tiết dạy của mình. Đây là
những thông tin rất bổ ích mà các em cần biết để có những kinh nghiệm trong cuộc
sống và hiểu biết về thế giới xung quanh mình. Sau đây tôi xin trích một vài thí dụ
điển hình.
Ví dụ : Bài 36 Nước (Tiết 54 - lớp 8) Qua phần “Em có biết” học sinh thấy
được vai trò của nước trong đời sống và sản xuất, chống ô nhiễm nguồn nước,
ngoài ra còn một số thông tin sau:
Để có được một tấn sản phẩm, lượng nước cần tiêu thụ như sau: Than cần từ
3 - 5 tấn nước, dầu mỏ từ 30 - 50 tấn nước, giấy gừ 200 - 300 tấn nước, gạo từ
5000 - 10.000 tấn nước, thịt từ 20.000 - 30.000 tấn nước.
Ngoài ra còn rất nhiều bài viết về phần “em có biết ” rất hay, giáo viên
không nên bỏ qua phần này và có thể phân tích thêm cho các em hiểu những điều
điệu kỳ có ở xung quanh mình và thêm yêu môn học.
4. Dạy phụ đạo vào các buổi ngoại khoá
4.1 Tổ chức các buổi phụ đạo: Khâu chuẩn bị, soạn giáo án của giáo viên kỹ
lưỡng, cẩn thận, trau chuốt. Không khí học tập trên lớp sôi nổi, phương pháp phù
hợp, học sinh hoạt động tích cực. Song, với đối tượng học sinh yếu kém, các em
vẫn chưa thể nắm vững trọng tâm kiến thức, chưa thể vận dụng kiến thức. Thời
gian một tiết học không thể đủ để giáo viên quan tâm sâu sắc đến tất cả mọi đối
tượng học sinh. Đặc biệt với những lớp có sự phân hoá khả năng, năng lực học
sinh rõ rệt. Vậy, phụ đạo học sinh yếu kém ngoài các tiết dạy chính khoá là một
biện pháp không thể thiếu để nâng cao kết quả học tập, giúp học sinh vá lại lỗ hổng
kiến thức để các em bắt kịp những kiến thức mới, hoà nhịp cùng các bạn trong lớp.

Hoạt động này được tổ chức vào những buổi các em tự học tên lớp. Thời gian từ
một đến hai tuần hoặc học xong hai, ba bài sẽ tổ chức phụ đạo một buổi. Các bước
thực hiện biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém là:
- Lên danh sách học sinh của từng lớp.
- Yêu cầu học sinh xem lại kiến thức đã học.
- Giáo viên nắm bắt những kiến thức cần bổ sung lại cho học sinh.
- Giáo viên soạn bài, chuẩn bị cho buổi phụ đạo.
- Tổ chức phụ đạo và kiểm tra kết quả, khả năng tiếp thu bài của học sinh
cuối mỗi buổi phụ đạo.
13


Trong mỗi buổi phụ đạo cần giải đáp ngay những nghi vấn của học sinh giúp
học sinh xác định chính xác kiến thức. Giảng lại, giảng kỹ những kiến thức khó,
phức tạp, dễ nhầm lẫn. Chữa và hướng dẫn giải các bài tập trong sách giáo khoa,
sách bài tập.
4.2 Chia nhóm học sinh, hình thành nhóm bạn cùng tiến.
Để giúp các em học sinh yếu kém tự học ở nhà tôi đã chia lớp thành các
nhóm, mỗi nhóm từ 2 đến 4 học sinh. Trong mỗi nhóm có 1 học sinh khá là nhóm
trưởng kèm cặp các học sinh còn lại. Nhiệm vụ của nhóm trưởng là hướng dẫn các
bạn trong nhóm tự học, làm bài tập, giải đáp các thắc mắc của các bạn trong nhóm,
kiểm tra việc tự học ở nhà của các bạn trong nhóm và báo cáo lại với giáo viên bộ
môn, từ đó giáo viên sẽ có kế hoạch bồi dưỡng, phụ đạo kịp thời. Với các em học
sinh ăn ở sinh hoạt trong khu bán trú của trường việc hình thành và quản lý các
nhóm học tập là khá thuận lợi. Còn đối với những học sinh ở ngoại trú tôi sắp xếp
phân nhóm gồm những em ở gần nhà nhau.
4.3 Sưu tầm hệ thống bài tập tương tự, cùng dạng cho học sinh làm ở nhà:
Sau các buổi phụ đạo, giáo viên phải có các bài tập, câu hỏi tương tự các bài
tập vừa hướng dẫn trên lớp giao về nhà để học sinh làm. Mục đích để các em một
lần nữa tái hiện lại kiến thức và vận dụng để làm bài tập giúp ghi nhớ và khắc sâu

kiến thức. Đến buổi phụ đạo hôm sau giáo viên sẽ kiểm tra bài làm của học sinh.
Những học sinh làm tốt phải được khen, khích lệ kịp thời. Tôi đã phối hợp
với giáo viên chủ nhiệm các lớp và đề nghị tuyên dương các em có tiến bộ trước
lớp trong các buổi sinh hoạt lớp. Khi sự cố gắng của mình có kết quả và được giáo
viên ghi nhận, động viên, khích lệ kịp thời các em sẽ thêm tự tin vào bản thân, tinh
thần học tập sẽ tốt hơn.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết quả thu được
Trong năm học 2015 – 2016 tôi đã áp dụng đề tài này vào giảng dạy, sau một
học kì tôi thấy chất lượng học sinh được nâng cao rõ rệt, đặc biệt là đối tượng học
sinh yếu kém, kiến thức “hổng” của các em được bổ sung đáng kể. Các em đã rất
hứng thú mỗi khi học, hoà nhập cùng các bạn, trong lớp hăng say phát biểu xây
dựng bài và luôn hoàn thành tốt những nội dung mà tôi đưa ra. Có thể nói biện
pháp này đã trở thành một yếu tố quan trọng để hình thành ở học sinh thói quen
học tập tốt.
Kết quả học tập môn Hoá học khối 8 năm học 2014 – 2015
14


(Khi chưa áp dụng đề tài)
Khối

Sĩ số

8

33

Giỏi
SL

00

Khá
%
0

SL
05

%
15,2

T bình
SL
%
18
54,5

Yếu
SL
10

Kém
%
30,3

SL
00

%

0

Kết quả học tập môn Hoá học khối 8 năm học 2015 – 2016
(Sau khi áp dụng đề tài)
Khối

Sĩ số

8

17

Giỏi
SL
00

Khá
%
0

SL
4

%
23,5

T bình
SL
%
12

70,6

Yếu
SL
01

Kém
%
5,9

SL
00

%
0

Qua bảng kết quả chúng ta nhận thấy rõ rằng, sau khi áp dụng đề tài, tỷ lệ
học sinh yếu giảm rõ rệt, thay vào đó là tỷ lệ học sinh khá, trung bình tăng lên. Nói
chung chất lượng của học sinh yếu kém ở các lớp thực nghiệm đã có sự chuyển
biến tích cực khá rõ nét so với khi chưa áp dụng đề tài này, thể hiện qua kết quả
học tập của các em.
II. Bài học kinh nghiệm
Trong quá trình giảng dạy, giúp đỡ, nâng cao chất lượng học sinh yếu kém
của bộ môn Hoá học, tôi đã vận dụng đề tài này và rút ra một số kinh nghiệm như
sau:
Giáo viên phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề
để cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực, tạo
hứng thú cho các em trong từng tiết học, phải phối kết hợp chặt chẽ với gia đình
học sinh, với giáo viên chủ nhiệm, với các giáo viên bộ môn có liên quan, với các
tổ chức đoàn thể trong nhà trường, với chính quyền địa phương, tạo môi trường

giáo dục tốt nhất cho các em.
Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua
các phong trào, các hoạt động ngoài giờ, tạo cho các em động cơ ham học. Trong
việc uốn nắn các em, giáo viên phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội,
không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các em, xem học sinh là con em
của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em, đặc biệt đây là đối
tượng học sinh học sinh dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, để từ đó có biện pháp
giáo dục phù hợp. Các em cũng thích được động viên khen thưởng, giáo viên
không nên dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em
có niềm tin để các em an tâm học tập.
Tóm lại, nếu giáo viên tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh
với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì
chắc chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát
huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của người thầy và sự cố
gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập
tốt nhất sẽ đến với các em.
15


III. Kết luận và kiến nghị
Qua quá trình thực hiện đề tài, tôi có một số kiến nghị sau: Việc dạy cho HS
yếu, kém vất vả chẳng khác gì bồi dưỡng HS giỏi. Để một HS yếu kém hiểu được
thực chất vấn đề rất khó khăn. Những em vì lơ là học tập mà học yếu thì “chữa” rất
dễ nhưng những em có “chỉ số IQ” thấp thì một tiết dạy phải dành thời gian gấp
đôi, gấp ba người thường. Với những người không thực sự tâm huyết với nghề thì
việc phụ đạo HS yếu, kém chỉ mang tính hình thức chứ không có tác dụng gì. Vậy,
giáo viên phải cần có sự tâm huyết với nghề, học sinh cần phải có sự nỗ lực, cố
gắng cao, gia đình cần thực sự quan tâm đến con em mình, phối hợp chặt chẽ với
gia đình để giáo dục các em. Ban giám hiệu cần tạo mọi điều kiện tốt nhất có thể
để giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho việc đổi

mới phương pháp giảng dạy, tăng cường trang thiết bị về cả số lượng lẫn chất
lượng. Nên chia lớp theo đối tượng học sinh để giáo viên thuận lợi hơn trong việc
soạn giáo án. Phải đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá để phát huy tính chủ động
sáng tạo của học sinh, phải biên soạn chương trình sách giáo khoa phù hợp với học
sinh. Từng bước cải thiện đời sống cho giáo viên, có những chế độ khen thưởng
thỏa đáng, kịp thời để khích lệ, động viên giáo viên yên tâm công tác, hoàn thành
tốt nhiệm vụ trồng người.
Trên đây là một số biện pháp tôi đã áp dụng để nâng cao chất lượng học sinh
yếu kém tại đơn vị. Trong một khuôn khổ và phạm vi nghiên cứu, áp dụng đề tài
còn hạn hẹp, chắc chắn sẽ không khỏi thiếu sót, rất mong sự đóng góp chân thành
của hội đồng hoa học nhà trường và đồng nghiệp để đề tài ngày càng được hoàn
thiện và áp dụng rộng rãi hơn.
Người viết

Đinh Thị Thu

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học hóa học phần 1 – Nguyễn Thị Sửu chủ biên
2. Phương pháp dạy học hóa học ở trường phổ thông – Nguyễn Xuân Trường
16


3. Sách giáo khoa Hóa học 8 – Nguyễn Cương chủ biên
4. Sách giáo viên Hóa học 8 – Nguyễn Cương chủ biên

Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
...........................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
17



.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................

18



×