Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Đường lối đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.24 KB, 17 trang )

ĐƯỜNG LỐI
Nội dung: 04 câu đáp án phần thi tự luận, cụ thể như sau:
Câu 1: Phân tích quá trình hình thành tư duy của Đảng về kinh tế
thị trường thời kỳ đổi mới.
Khái niệm: KTTT là nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường. Đó là
cơ chế điều tiết nền kinh tế bởi các quy luật thị trường trong môi trường cạnh
tranh, nhằm mục tiêu lợi nhuận.
KTTT là giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa, trong đó các
yếu tố đầu vào, đầu ra đều thông qua thị trường, các chủ thể trong nền kinh tế
chịu tác động của các quy luật của thị trường và thái độ ứng xử của họ hướng
vào tìm kiếm lợi ích thông qua sự điều tiết cuả giá cả thị trường.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI của Đảng làm rõ nội hàm, mục tiêu cua
nền kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Nền kinh tế thi trưởng định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản. Đây là hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật
của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.
Tính tất yếu của việc phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt
Nam
Điều kiện trong nước
Nền sản xuất hàng hóa Việt Nam sau thời kỳ đổi mới (1986) đã phát triển
mạnh, những yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường được hỉnh thành và phát
triển, vì vậy tất yếu nền kinh tế thị trường xuất hiện. Thời kỳ trước năm 1986,
mô hình phát triển kinh tế tập trung bao cấp đã biểu hiện kìm hãm sự phát triển
kinh tế xã hội, đặc biệt giai đoạn 1975-1986. Đại hội Đảng lần thứ VI đã thực
hiện cuộc cách mạng - đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế mà cốt lõi là
chuyển nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị
trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Sự đổi mới đó đã từng
bước hinh thành và phát triển các yếu tố cơ bản của thị trường như: giá cả hình
thành theo cơ chế tự do; trên thị trường các chủ thể cạnh tranh nhau để tìm kiếm


lợi nhuận; nền kinh tế hoạt động theo các quy luật của thị trường, v.v... Đó là
những điều kiện cho sự hình thành và phát triển KTTT.
Mặt khác, Việt Nam có những tiền đề chính trị-xã hội để nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sàn
và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế là tiền đề
chính trị quan ứọng để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường. Mặt khác, sự đồng thuận của đại đa số nhân dân trong quá trình thực
hiện phát triển kinh tế đất nước để xây đựng chủ nghĩa xã hội đã tạo tiền đề vững
chắc cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển.
Điều kiện quốc tế
Trong lịch sử phát triển các mô hình kinh tế của nhân loại đã ưải qua thỉ
kinh tế thị trường là mô hình kinh tế có hiệu quả nhất. Kinh tế thị trường đã tạo
ra năng suất lao động cao, tạo ra nguồn hàng lớn để đáp ứng nhu cầu ngày càng
1


cao của tiêu dùng (cả về số lượng, chủng loại, mẫu mã và chất lượng) và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực hơn nền kinh tế tự cung, tự cấp; nền kinh tế tập
trung, bao cấp.
Phát triển kinh tế thị trường còn là yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu hướng tất yếu của thời đại, thực
chất đó là sự tham gia của các quốc gia vào “sân chơi” chung cúa nền kinh tế thế
giới - “sân chơi” đỏ là của các nền kinh tế thị trường. Với chủ trương của Đảng
ta là “tích cực và chủ động hội nhập kinh tế thế giới”, tất yếu Việt Nam phải
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.
Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới .
Qua hơn 25 năm đổi mới, tư duy về kinh tế thị trường của Đảng ta ngày càng
hoàn thiện hơn. Nếu ở Đại hội VI, Đảng ta mới khẳng định sự cần thiết phải sử
dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội thì đến Đại hội VII và Đại
hội VIII Đảng đã khẳng định cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo

định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX tiếp tục đánh dấu thêm một bước phát
triển mới trong đổi mới tư duy lý luận kinh tế của Đảng, đã xác định: Phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội X làm sáng tỏ
thêm nội dung cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, đó là nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị
trường, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và
quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại hình thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh
tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức
sản xuất, kinh doanh.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) trong khi khẳng định chủ trương
tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của
các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền
kinh tế quốc dân thống nhất, đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng
hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần thiết cho
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội cũng xác định cơ chế vận hành của nước ta
là "cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước" bằng pháp luật, kế hoạch,
chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có
quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp
tác và liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị
kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh
có hiệu quả; Nhà nước quàn lý nền kinh tế đế định hướng, dẫn dắt các thành
phần kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh
theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế,
bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội.
Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội XI.
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ

nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường chỉ như
2


một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức coi kinh tế thị trường như một
chính thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Đại hội IX
xác định, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là "một kiểu tổ chức
kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu
sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội". Trong
nền kinh tế đó, các thế mạnh của "thị trường" được sử dụng để "phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân"!, còn tính "định hướng xã hội chủ
nghĩa" được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản
lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là "dân giàu, nước mạnh, tiến lên
hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ
cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh, phúc".
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X và XI đã làm sáng tỏ thêm nội
dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường
ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là:
Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bàng,
văn minh" giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời
sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn
lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả
hơn.
Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải
phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi
người, mọi người đều được hưởng những thành quả phát triển, ở đây thể hiện sự

khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản,
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.
Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành
phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền... phát huy tối đa nội lực để
phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế,
định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Để giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm được các vị
trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiệu
quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa vào bao cấp, cơ chế xin - cho
hay độc quyền kinh doanh. Mặt khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu
nền kinh tế phải đuợc dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản
xuất chủ yếu.
Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò
quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3


nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh té thị trường, đảm
bảo quyền lợi chính đáng của mọi người.
Hoàn thiện nhận thức và chủ chương về nền kinh tế nhiều thành phần, đại
hội X khẳng định: "Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân),
hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: Kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thế, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt
động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển

lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh
tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vừng
chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một
trong những động lực của nền kinh tế". Trên cơ sở phát lý luận và tổng kết thực
tiễn, đại hội VI xác định: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển, về lâu dài, kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chấc của nền kinh tế quốc dân.
Trong 5, 10 năm tới, không xác định thành phần kinh tế nào đóng vai trò nền
tảng. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn
hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng, ngày càng phát
triển.

4


Câu 5: Phân tích nội dung đường lối, chính sách Tôn giáo của Đảng và
Nhà nước Việt Nam hiện nay? Liên hệ với thực tiễn ở địa phương.
Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách tôn giáo
Cơ sở lý luận
Đường lối, chính sách củạ Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn giáo được đề
ra trước hết xuất phát từ các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn
giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo. Trong đó có bản chất, nguồn gốc, tính chất
của tôn giáo và cách thức giải quyết vấn đề tôn giáo.
Về bản chất của tôn giáo.
Theo C.Mảc và Ph.Ăngghen, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, là sự
tự ỷ thức, tự cảm giác của con người về thế giới xung quanh mình và về chỉnh
bản thân họ. Trong tác phẩm góp phần phê phản triết học pháp quyền của

Hêghen - Lời nói đầu, C.Mác đã khái quát bản chất của tôn giáo bằng luận điểm:
tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con người chưa tìm được bản thân
mình hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần nữa. Con người sáng tạo ra tôn
giáo, tuy nhiên cái sản phẩm do con người sáng tạo ra ấy lại ữở nên xa lạ vằ
quay lại thống trị con người. Theo cách ấy, con người hiến cho tôn .giáo càng
nhiều thì cái mà con người còn giữ lại được lại càng ít, con người càng trở nên
mất lý trí, đần độn và phụ thuộc hoàn toàn vào tôn giáo, vào thần linh của họ.
về nguồn gốc của tôn giáo.
Theo quan điểm mácxít, tôn giáo có 3 nguồn gốc cơ bản sau đây: nguồn
gốc kinh tế - xã hội, nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý, tình cảm.
Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo là toàn bộ những nguyên nhân về
kinh tế và xã hội tất yếu làm nảy sinh tôn giáo.
Nguồn gốc nhận thức. Tôn giáo là một phạm trù lịch sử và chỉ ra đời khi tư
duy của con người đạt đến một trình độ nhất định. Ở một giai đoạn lịch sử nhất
định, nhận thức, hiểu biết của con người là có giới hạn. Chính vì vậy mà nguyên
nhân hình thành tôn giáo được chỉ ra là do sự ấu trĩ, kém hiểu biết của con
người. Điều đó đã được C.Mác khẳng định: “Giống như thần thánh vốn lúc đầu
không phải là nguyên nhân mà là kết quả của sự nhầm lẫn của lý trí con
người”2. Sự hiểu biết của con người trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể là hữu
hạn, mà thiên nhiên lại là vô hạn, do đó, con người đã khoác cho thiên nhiên một
vỏ bọc thần thánh và tôn giáo ra đời bằng cách đó. Tuy nhiên, nguồn gốc nhận
thức của tôn giáo còn gắn liền với quá trình nhận thức về thế giới khách quan.
Đó là một quá trình phức tạp, đầy mâu thuẫn và không phải không có sai lầm.
Tính phức tạp của quá trình nhận thức ấy đã tạo ra khả năng xuất hiện các quan
niệm sai lầm mang tính hư ảo, thần thánh của các tôn giáo trong lịch sử.
về tính chất của tôn giáo.
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ tôn giáo có những tính chất cơ bản sau:
Tỉnh lịch sử: Tính lịch sử của tôn giáo có nghĩa là tôn giáo một phạm trù
lịch sử, có quá trmh hình thành, phát triển, biến đổi và phán ánh những điều kiện
xã hội nhất địDÌbu C.Mác viêt: “Nhà nước ấy, xã hội ấy, đã sản sinh ra tôn

giáo”1, còn Ph.Ăngghen đã từng khẳng định: Tôn giáo từ trước cho đến nay đều
là sự biểu hiện của những trình độ phát triển lịch sử của từng dân tộc.
5


Chủ nghĩa Mác cho rằng, tôn giáo là một phạm trù lịch sử, tôn giáo nào
cững có bắt đầu, có qua trình phát sinh. Tôn giáo nào cũng có quá trình phát
triển và quá trình đó bao giờ cũng dựa trên những điều kiện sinh hoạt vật chất và
xã hội nhất định (dựa trên một phương thức sản xuất nhất định). Tôn giáo bao
giờ cưng biến động cùng với các biến động của lịch sử; ở mỗi dân tộc khác nhau
và mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau tôn giáo sẽ khác nhau (điều đó được minh
chứng qua từng tôn giáo cụ thể). Là một phạm trù lịch sử, theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác, tôn giáo sẽ mất đi trong những điều kiện lịch sử nhất định, tôn
giáo sẽ mất đi khi mà: “Con người không chỉ mưu sự, mà lại còn làm cho thành
sự nữa, thì khi đó, cái sức mạnh xa lạ cuối cùng hiện nay vẫn còn đang phản ánh
vào tôn giáo mới sẽ mất đi, và cùng với nó bản thân sự phản ánh có tính chất tôn
giáo cũng sẽ mất đi vì khi đó không có gì để phản ánh nữa... cho đến khi tôn
giáo chết cái chết tự nhiên của nỏ”1. Tuy nhiên, lại cần phải nhận thức rõ rằng,
quá trình mất đi của tôn giáo là một quá trình lâu dài khó đoán định, tôn giáo
vẫn có thể tiếp tục tồn tại rất lâu dài.
Tính quần chúng: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo là một hiện
tượng xã hội phổ biến và mang tính quần chúng rất rõ rệt. Điều đó trước hết
được thể hiện: tôn giáo có phạm vi tồn tại vô cùng rộng rãi, không châu lục,
quốc gia, dân tộc nào không có tôn giáo; tôn giáo có mặt khắp mọi nơi. Tôn giáo
rất đa dạng phong phú về chủng loại và có một lịch sử truyền giáo từ rất lâu.
Tính chính trị: Trong các xã hội có giai cấp, tôn giáo nào cũng phản ánh lợi
ích giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tôn giáo trong các xã hội có giai cấp bao giờ
cũng tồn tại đồng thời cả 2 xu hướng tích cực và tiêu cực, có nhiều hoạt động
thuần túy tôn giáo song cũng có các hoạt động không thuần túy. Lịch sử nhân
loại đã từng cho thấy có không ít những lực lượng chính trị lợi dụng tôn giáo vì

mục đích ngoài tôn giáo. Chúng lợi dụng thần quyền, giáo lý, đức tin tôn giáo và
tổ chức tôn giáo để phục vụ cho lợi ích của chúng. Hơn thế nữa trong lòng tôn
giáo bao giờ cũng tồn tại nhiều loại lợi ích khác nhau do vậy tôn giáo mang
trong mình nó mâu thuẫn xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhiều lần nhấn mạnh
sự lợi dụng tôn giáo cho những mục đích chinh trị. Tôn giáo là công cụ tinh thần
của tất cả các giai cấp áp bức nhằm tự biện hộ cho sự thống trị giai cấp của
mình. Trong lịch sử và trong xã hội đương đại, những cuộc chiến tranh tôn giáo
hoặc những cuộc thánh chiến đẫm máu đã và đang diễn ra, thực chất vẫn là xuất
phát từ lợi ích và việc bảo vệ cho những lọi ích khác nhau.
Việc đề ra chính sách tôn giáo xuất phát từ phương pháp giải quyết tôn giáo
của chủ nghĩa Mác-Lênin:
+ về thái độ của những người cộng sản đối với tôn giáo.
Để giải quyết vấn đề tôn giáo, trước hết chủ nghĩa Mác đã thể hiện rõ lập
trường quan điểm và thái độ của người cộng sản đối với tôn giáo rằng, cơ sở
khoa học để xây dựng các quan điểm của mình trong giải quyết các vấn đề tôn
giáo là chủ nghĩa duy vật biện chứng, về mặt thế giới quan, thế giới quan duy
vật mácxít đối lập với thế giới quan duy tâm của tôn giáo. Tuy nhiên, những
người cộng sản thừa nhận sự tồn tại khách quan của tôn giáo trong những điều
kiện lịch sử cụ thể và không có thái độ xem thường hoặc phủ nhận nhu cầu tín
ngưỡng tôn giáo và tự do tín ngưỡng tôn giáo của người có đạo. Người có đạo
6


và không có đạo dưới chủ nghĩa xã hội có thể cùng nhau xây dựng một thiên
đường thực sự ứên trái đất này. V.LLênin đã chỉ rõ: “Đối với chúng ta, sự
thông.nhất'của cuộc đấu tranh thật sự cách mạng đó của giai cấp bị áp bức để
sáng tạo một cảnh cực lạc trên trái đất,là quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến
của những người vô sản về cảnh cực lạc trên thiên đường”1.
+ về những bài học lịch sử trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
Cùng với việc nêu rõ thái độ quan điểm nói ừên, chủ nghĩa Mác còn nêu ra

những bài học lịch sử bổ ích. trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Đó là bài
học: (1) không thuần túy về tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo. Nếu chi
tuyên truyền trừu tượng, tách rời khỏi cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề tôn giáo
chứng ta sẽ thất bại trong giải quyết vấn đề tôn giáo; (2) không tả khuynh trong
giải quyết vấn đề tôn giáo, thậm chí không thể đồng nhất tôn giáo với kẻ thù của
chủ ngbĩa xã hội; (3) hữu khuynh coi tôn giáo chỉ là nhận thức chưa đầy đủ của
tín đồ các tôn giáo và cứ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thi tôn giáo sẽ tự
tiêu vong.
+ Những vấn đề mang tính nguyên tắc trong giải quyết vấn đề tôn giáo.
Một là, khắc phục dằn ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, phải gắn liền vói
quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Trên cơ sở triết học duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và tổng kết tình hình thực tiễn, chủ nghĩa
Mác đã lý giải cho sự gắn liền giữa 2 quá trình nót trên rằàg: tôn giáo nào cũng
có tính chất 2 mặt (tích cực và tiêu cực) và muốn thay đổi ỷ thức xã hội phải
thay đổi tồn tại xã hội. Hơn thế nữa, tôn giáo không chỉ lả một hỉnh thái ý thức
xã hội mà còn là một thực thể xã hội; tôn giáo mang tính lịch sừ và tồn tại bao
giờ cũng gắn liền với những điều kiện sinh hoạt vật chất và xã hội nhất định.
Tuy nhiên, quá trình nói trên không thể không gắn liền với cuộc đấu tranh trên
lĩnh vực tư tưởng nhằm xây dựng một thế giới quan khoa họ.
Hai là, tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và không tín
ngưỡng tôn giảo. Trong chủ nghĩa xã hội, việc tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn
giáo được coi là một nguyện tắc quan trọng, thể hiện bản chất dân chủ của chế
độ mới (đây là nguyên tắc nhất quán lâu dài). Tự do tín ngưỡng tôn giáo là một
quyền cơ bản của con người, là nhu cầu tinh thần của nhân dân, đang và sẽ tồn
tại lâu dài. Đây là vấn đề đặt ra từ thực tiễn khách quan của tôn giáo, từ nhu càu
tín ngưõng của nhân dân và từ quy luật hình thành mặt tư tưởng cùa tôn giáo.
Tuy nhiên, thực tiễn lịch sử cho thấy: một mặt quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo
và không tín ngưỡng tôn giáo thường bị kẻ xấu lợi dụng; mặt khác còn có nơi,
có lúc cán bộ ta xúc phạm đến tình cảm, đức tin tôn giáo, quyền tự do tín
ngưỡng của giáo dân gây hoài nghi trong nhân dân về chính sách tự do tín

ngưỡng tôn giáo. Vì vậy, đi đôi với việc thực hiện tự do tín ngưỡng tôn giáo phải
đấu ưanh chống lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo.
Ba là, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác là một phạm trù lịch sử và là loại
vấn đề phức tạp, tế nhị, nhạy cảm. Tôn giáo biến động cùng với những biến
động cửa lịch sử. Hơn thế nữa, nhận thức và hoạt động của các giáo hội, của
từng giáo sĩ và mỗi giáo dân là không giống nhau; vai trò, tác động của từng tôn
giáo ở mỗi giai đoạn lịch sử cũng khác nhau do vậy để giải quyết vấn đề tôn
7


giáo cần phải linh hoạt vận dụng các điều kiện cụ thể từng nơi, từng lúc cho phù
hợp. Đối với người mácxít, cần nắm chắc diễn biến, không gian, thời gian của
vấn đề nảy sinh trong tôn giáo để tìm cách giải quyết cho phù họp, không áp
dụng một cách máy móc một phương pháp giải quyểt vấn đề cho mọi nơi, mọi
lúc.
Bốn là, cần phân biệt 2 mặt nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo và lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác tôn giáo bao giờ cũng có 2
mặt: mặt chinh trị và mặt tư tưởng; tôn giáo vừa là nhu cầu tinh thần eủa một bộ
phận nhân dân lại vừa là một vấn đề chinh trị-xã hội và tư tưởng phức tạp. Vì
vậy, việc phân biệt 2 mặt trên vừa liên quan đến lợi ích quốc gia, dân tộc vừa
liên quan đến lợi ích, đức tin, tình cảm của giáo dân. Kịp thời nắm rõ và phân
biệt được 2 mặt nói trên là để có cách giải quyết phù hợp với từng mặt đem lạị
hiệu quả cho công tác tôn giáo.
Việc đề ra chính sách tôn giáo còn xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo trong hoàn cảnh, điều kiện tibtực tiễn của Việt
Nam. Không phải là một nhà tôn giáo học, song tư tưởng về tôn giáo của Hồ Chí
Minh lả một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người- Trong đó

có những vấn đề cơ bản sau: tư tưởng về đoàn kết lương giáo; về tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, không tín ngưỡng tôn giáo và đấu tranh chống
lợi dụng tôn giáo, bài trừ mê tín dị đoan, về cách ứng xử và sử dụng các chức
sắc tôn giáo, v.v... Những quan điểm lý luận về những vấn đề nói trên là cơ sở để
Đảng ta vận dụng vào giải quyết vấn đề tôn giáo và đề ra chính sách tôn giáo.
Cơ sở thực tiễn
Trong những năm gần đây, đặc biệt là thập niên cuối của thế kỷ XX và thập
niên đàu của thế kỷ XXI, cả trên bình diện quốc gia và quốc tế đời sống tôn
giáo, tín ngưỡng phát triển khá sôi động. Hầu hết các tôn giáo lớn đều đang phục
hồi, chấn hưng, phát triển và mở rộng phạm vi, địa bàn truyền giáo. Nếu như
năm 2000, số tín đồ tôn giáo là 4,88 tỷ/6 tỷ đân số, chiếm 81% thì năm 2010 là
5,82 tỷ/6,7 tỷ dân số, tăng lên 87% (còn lại 13% không tôn giáo). Bên cạnh đó
những hiện tượng tôn giáo mới, tà giáo đang phát triển nhanh dưới tác động của
toàn càu hóa (theo thống kê thế giới hiện có khoảng 20.000). Xưng đột dân tộc,
sắc tộc và tôn giáo cũng đang gia tăng (trong vòng 10 năm trở lại đây thế giới có
hàng trăm cuộc xung đột lớn nhỏ)* Chính vì vậy mà các nhà nghiên cứu đã dự
báo thế kỷ XXI là thế kỷ của tôn giáo. Trong khi đó, hầu hết các tôn giáo lớn ở
nước ta cũng đang phát triển. Hiện nước ta có khoảng 22.500.000 tín đồ, chiếm
26% dân số; có 36 tổ chức tôn giáo và một pháp môn tu hành có tư cách pháp
nhân, vấn đề tôn giáo và dân tộc cững đang là những vấn đề phức tạp ở cả 3 khu
vực: Tây Nguyên, Tây Bắc và Tây Nam Bộ; đời sống sinh hoạt tâm linh tinh
thần cũng đang có nhiều biến động. Vỉệc đi lễ chùa, xây dựng và sửa chữa cơ sở
thờ tự cũng đang phát triển nhanH, hiện tượng mê tín dị đoan phát triển khá
phức tạp, v.v... tất cả những tác nhân thế giới và trong nước nói trên đã, đang chi
phối đến tình bình tôn giáo, tín ngưỡng và việc đề ra chính sách tôn giáo của
Đảng và Nhà nước ta.
8


Quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối vói tôn giáo,

tín ngưỡng
Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước
Theo tinh thần Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX, 5 quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về tôn
giáo và công tác tôn giáo, đó là:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trinh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Nước ta eó hiện có gần 24 triệu tín đồ các tôn giáo, chiếm khoảng 27%
dân số cả nước và có trên 80% dân số có đời sống tâm linh. Tín ngưỡng tôn giáo
hiện đang là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đông đảo nhân dân, sẽ tồn tại lâu
dài cùng dân tộc và cùng với chế độ xã hội chủ nghĩa ả nước ta. Tuy nhiên, tín
ngưỡng tôn giáo đang có những biến đổi mạnh mẽ trước biến động của thế giới,
của xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển đi lẽn của đất nước. Vì vậy, quán triệt
quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện: chủ quan, dùy ý chí , phiến điện
ừong nhận thứe và giải quyết vấn đề tôn giáo.
Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Do vậy thực hiện quan điểm này, một mặt phải đoàn kết đồng bào theo
những tôn giáo khác nhau; mặt khảc, phải đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo, giải quyết tốt mối quan hệ người có đức tin, tín
nguõng khác nhau với người theo chù nghĩa vô thần. Quán triệt quan điểm này
cần khắc phục các biểu hiện như phân biệt đối xử, đố kỵ, mặc cảm vi lý do tín
ngưỡng tôn giáo và Ịdên quyết chống âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng tôn
giáo, chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Ba là, nội dung cốt lõi. của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Đây là một tư tưởng chỉ đạọ quan trọng nói lên thực chất của công tác
tôn giáo gắn với mục tiêu là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Mục tiêu trên chính là cơ sở để phát huy sự tương đồng, khắc phục sự dị
biệt của quần chúng có đạo. Đối tượng của công tác vận động quần chúng bao
gồm: tín đồ, chức sắc, nhà tu hành và chức việc trong từng tôn giáo; đồng thời

cũng phải vận động quần chúng không có tôn giáo thực hiện chính sách tôn
giáo. Công tác vận động quần chúng trong công tác tôn giáo bao gồm: công tác
giáo dục, tổ chức phong trào quần chúng, tổ chức các chương trình phát triển
kinh tế - x;ã hội và xây dựng hệ thống chỉnh trị ở địa phương, cơ sở- Quán triệt
quán điểm này cần khắc phục các biểu hiện: hành chính, quan liêu, cửa quyền,
xa rời quần chúng hoặc hữu khuynh theo đuôi quàn chúng.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác
tôn giáo liên quán đến mọi lĩnh vực, mọi mặt của đòi sống xã hội, mọi ngành
mọi cấp từ trung ương đến cơ sở. Trong công tác tôn giáo, Đảng là nhân tố lãnh
đạọ toàn bộ hệ thống chính trị trong quá trình tiến hành công tác; Nhà nước quản
lý hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo thẹo quy định của Hiến pháp, pháp
luật; Mặt trận và các đoàn thể nhân dân quán triệt đường lối chủ trương chính,
sách pháp luật của Đảng, Nhà nước để vận động quần chứng thực hiện tốt chinh
sách tôn giảo. Quán triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện: thiếu cộng
9


tác, phối hợp chặt ehẽ đồng bộ để phát huy sức mạnh tổng hợp; hoặc buông lỏng
quản lý, lấn sân lẫn nhau.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Đây cũng là một quan điểm quan
trọng nhằm xác định rõ các hoạt động tồn giáo (bao gồm hành đạo, quản đạo và
truyền đạo) đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước bảo hộ cho các
hoạt động truyền đạó đúng đắn, đồng thời chống lại mọi hoạt động truyền đạo
trái pháp luật; Nhà nước bảo hộ chính đạo, đồng thời chống lại tà đạo. Quán triệt
quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện như can thiệp thô bạo vào công việc
nội bộ thuần túy tôn giáo; buông lỏng quản lý trước các hành vi vi phạm các quy
định của Hiến pháp, pháp luật trong hoạt động tôn giáo.
Các chính sách cụ thể
Quán triệt các quan điểm chỉ đạo và những nguyên tắc giải quyết vấn đề
tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta còn đưa ra các chính sách cụ thể xủiằm giải

quyết có hiệu quả vấn đề tôn giáo trong thời gian tới. Đó là chính sách đối với
tín đồ các tôn giáo, chính sách đối với chức sắc các tôn giáo, chính sách đối với
các tổ chức tôn giáo, chính sách đối với cơ sở hoạt động kinh tế, xã hội, từ thiện
của tôn giáo và chính sách đối với quan hệ quốc tế của tôn giáo.
Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực
hỉện chính sách tôn gỉáo trong thòi gian tói
Phương hướng, nhiệm vụ
Việc thực hiện chính sách tôn giáo trong thời gian tới cần phải quán triệt và
làm tốt những vấn đề cơ bản sau:
Một là, phát huy các bài học kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với tôn
giáo đã được tích lũy trong thời gian qua, trong đó có bài học về việc phải nắm
vững quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo;
xem trọng vai trò của giới chức sắc tôn giáo.
Hai là, thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
về phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đòi sống vật chất và tinh thần của nhân
dân trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Ba là, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng đời sống mói,
củng cố khối đại đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc.
Bốn là, phát huy tinh thần yêu nước cùa đồng bào các tôn giáo, làm thất bại
những âm mưu và thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
Năm là, hướng dẫn các tôn giáo thực hiện đứng đắn đường lối đối ngoại
của Đảng và Nhà nước.
Sáu là, kiện toàn các cơ quan nhà nước về hoạt động tôn giáo; xác định rõ
chức năng; nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
Giải pháp
Để nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo và thực hiện tốt phưcmg hướng,
nhiệm vụ của công tác tôn giáo trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một
số giải pháp cơ bản sau đây:
Nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, đề cao trách nhiệm của hệ
thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo.


10


Tiếp tục nghiên cứu tổng kết thực tiễn, đề xuất chủ trương chính sách về
tôn giảo; tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo; tăng cường công
tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo.
Tăng cường vận động quàn chúng xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở.
Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự quản lý của chính quyền ở cơ
sở về tôn giáo.
Tăng cường công tác tổ chức, cán bộ làm công tác tôn giáo ở cơ sở, nhất là
ở vùng dân tộc thiểu số, vùng nủi và hải đảo.

11


Câu 6: Phân tích nội dung đường lối, chính sách cơ bản về Quyền
con người của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay? Liên hệ với thực tiễn
ở địa phương .
- Khái niệm:
Quyền con người là quyền của tất cả mọi người; đó là những nhu cầu
xuất phát từ nhân phẩm vốn có của con người, được pháp luật ghi nhận và bảo
vệ.
- Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người:
+ Quyền con người là giá trị chung của nhân loại: Quyền con người
khởi nguồn từ phẩm giá con người. Quyền con người có nội dung phong phú
như ngày nay là thành quả chung của nhân loại, là sản phẩm của cuộc đấu tranh
chống áp bức, bóc lột. Là giá trị chung nên tất cả các dân tộc - không phân biệt
chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa - đều có quyền thụ
hưởng và có nghĩa vụ bảo vệ, phát triển giá trị xã hội cao quý này.

+ Trong xã hội có phân chia giai cấp, quyền con người mang tính giai
cấp sâu sắc: Con người xét về bản chất vốn có đặc quyền. Đó là những quyền tự
nhiên, gắn với con người và chỉ có ở con người. Nhưng để trở thành quyền,
những nhu cầu ấy cần phải được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Pháp luật luôn bị
chi phối bởi các chế độ chính trị cụ thể. Nội dung của pháp luật trước hết nhằm
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Trong xã hội Việt Nam, tính giai cấp
của quyền con người thống nhất với tính nhân loại, tính phổ biến của quyền con
người.
+ Quyền con người là giá trị phổ biến song có tính đặc thù: Quyền con
người là giá trị được kết tinh từ những đặc sắc trong việc bảo vệ quyền con
người của mỗi quốc gia và chính nét đặc thù của mỗi quốc gia lại làm phong phú
thêm giá trị nhân quyền. Việc khẳng định tính đặc thù của quyền con người tạo
cơ sở bác bỏ mọi sự sao chép, áp đặt các mô hình dân chủ, nhân quyền; đồng
thời đòi hỏi phải chủ động, sáng tạo trong việc bảo đảm các quyền con người
phù hợp với thực tiễn mỗi quốc gia.
+ Quyền con người gắn với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia: Độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con
người. Không có độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, không thể nói đến nhân
quyền. Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều kiện cần thiết, nhưng nhà
nước phải sử dụng các điều kiện này để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi
thành viên của quốc gia.
+ Quyền con người phải được pháp luật bảo vệ: Thực tiễn cho thấy,
đảm bảo bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các
quyền con người được thực hiện. Mọi yêu cầu hay yêu sách về quyền nếu không
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ thì không thể có bất cứ một quyền con người
nào. Trong phạm vi quốc gia, pháp luật bảo vệ nhân quyền thể hiện ở việc ghi
nhận quyền trong pháp luật, hoàn thiện các thiết chế, bộ máy nhằm bảo vệ ngày
càng tốt hơn trên thực tế.
+ Quyền con người gắn liền với nghĩa vụ công dân: C. Mác từng viết:
Không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà

không có quyền lợi. Trên thực tế, ở bất cứ quốc gia nào, người dân cũng phải
12


thực hiện những nghĩa vụ nhất định, theo quy định của pháp luật. Mỗi cá nhân
trong khi được hưởng thụ các quyền cần tôn trọng tự do của người khác và tôn
trọng TTXH, lợi ích của cộng đồng.
+ Quyền con người là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa: Thực tiễn
cho thấy, nhân quyền là giá trị lớn của nhân loại nhưng đó chỉ là một trong
những giá trị mà nhân loại đã giành được từ cuộc đấu tranh chống lại mọi áp bức
dân tộc, giai cấp. Chế độc XHCN là XH luôn ý thức rõ việc nhận diện đầy đủ
những biểu hiện và nguồn gốc của bất công và tìm phương thức, biện pháp xóa
bỏ những bất công ấy. Đó là một trong những cách thức để tạo ra môi trường,
điều kiện cho việc hiện thực hóa đầy đủ các quyền con người. Việc bảo đảm tối
đa quyền con người là thuộc về bản chất của chế độ XHCN, là mục tiêu hướng
tới của các nhà nước do những người cộng sản lãnh đạo.
- Đường lối, chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
quyền con người:
+ Giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, tạo
tiền đề cho việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam: Không có độc lập dân
tộc, chủ quyền quốc gia không thể có quyền con người đầy đủ. Tuy nhiên, tình
hình chính trị, xã hội bất ổn; tình trạng ly khai và nguy cơ xung đột luôn tìm ẩn
thì cũng không thể bảo đảm đầy đủ, trọn vẹn các quyền con người. Đối với Việt
Nam, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia không tách rời toàn vẹn lãnh thổ,
thống nhất đất nước, đưa đất nước tránh khỏi sự lệ thuộc về kinh tế, được tạo ra
bởi các cường quốc và các định chế toàn cầu.
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, kiện toàn các thiết chế bảo vệ
và thúc đẩy quyền con người: Nhà nước pháp quyền là giá trị chung của nhân
loại. Đảng chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền theo định hướng XHCN
là nhằm tạo ra môi trường, điều kiện tốt nhất để bảo đảm quyền con người ở mỗi

nước. Đó là Nhà nước được tổ chức và vận hành theo nguyên tắc “quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Bên cạnh
việc tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu quả, Nhà
nước từng bước nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ
quan công quyền.
+ Phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa, bảo đảm và nâng cao sự hưởng
thụ các quyền con người: Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng và thúc đẩy
cơ chế thị trường định hướng XHCN phát triển, nhằm tăng nhanh tiềm lực vật
chất cho việc bảo đảm quyền con người; đồng thời, chủ trương thực hiện công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, nhằm bảo đảm
cơ hội sống và phát triển cho mọi thành viên XH. Sự nghiệp phát triển khoa học,
giáo dục luôn được quan tâm và được coi là quốc sách hàng đầu. Bên cạnh đó,
Đảng và Nhà nước chủ trương XD nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, nhằm không ngừng nâng cao sự hưởng thụ văn hóa cho mọi người dân,
đồng thời bảo lưu được những giá trị văn hóa của các dân tộc Việt Nam.
+ Thực hành dân chủ, giữ vững ổn định chính trị, xã hội nhằm thực hiện
đầy đủ các quyền con người: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển,
Đảng và Nhà nước chủ trương tiếp tục đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội, dưới nhiều
13


hình thức sáng tạo như: kết hợp thực hiện dân chủ ở cơ sở với không ngừng dân
chủ hóa mọi lĩnh vực của đời sống XH, nhằm thực hiện ngày càng đầy đủ các
quyền con người. Quá trình dân chủ ở Việt Nam diễn ra tích cực song thận trọng
đã góp phần giữ vững ổn định chính trị XH, hóa giải mọi xung đột, tạo môi
trường hòa bình và các điều kiện thiết yếu cho việc thực hiện quyền con người.
+ Tăng cường giáo dục quyền con người cho mọi tầng lớp xã hội, trước
hết là cán bộ, công chức, viên chức các cấp: Giáo dục quyền con người nhằm
nâng cao tri thức nói chung, để người dân có thể tự bảo vệ và thúc đẩy nhân

quyền. Giáo dục nhân quyền cần hướng tới mọi tầng lớp nhân dân; cần quan tâm
giáo dục nhân quyền cho học sinh, sinh viên, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng
bào trong các tôn giáo. Cần trú trọng giáo dục quyền con người cho cán bộ, công
chức, viên chức các cấp, nhằm nâng cáo trách nhiệm của những người đại diện
nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người.
+ Tích cực mở rộng hợp tác quốc tế về quyền con người: Quá trình hội
nhập quốc tế và phát triển đặt ra yêu cầu ngày càng cao về hợp tác, trao đổi với
bên ngoài. Theo phương châm là bạn và đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế,
Đảng và Nhà nước chủ trương mở rộng quan hệ với tất cả các quốc gia và tổ
chức quốc tế. Với tinh thần tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đã
tham gia vào một số cơ chế quốc tế và khu vực về nhân quyền. Thực tiễn hợp
tác trên lĩnh vực nhân quyền đã cung cấp nguồn lực và kinh nghiệm quý, góp
phần giải quyết tốt nhiều vấn đề cụ thể như: bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em;
bình đẳng giới; xóa bỏ nạn bạo hành gia đình…, đồng thời giúp các đối tác hiểu
rõ hơn thực tiễn bảo đảm, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam.

14


Câu 9: Phân tích thực trạng đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát
triển KT tri thức ở Việt Nam thời gian qua và đề xuất những giải pháp thúc
đẩy CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở ở địa phương trong
thời gian tới?
1/ Khái niệm :CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý KT-XH, từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ,
phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động XCH cao.
2/ Đánh giá thực trạng đầy mạnh CNH-HĐH gắn với phát triển kinh
tế tri thức ở Việt Nam thời gian qua và để xuất giải pháp thúc đẩy thời gian

tới.
*CNH thời kỳ trước đổi mới :
- CNH thiên về phát triển công nghiệp nặng.
- CNH trong cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp
- Chủ lực thực hiện CNH là Nhà nước và kinh tế quốc doanh
- Nguồn lực chủ yếu của CNH, HĐH dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất
đai và nguồn viện trợ của các nước XHCN
CNH theo mô hình kinh tế khép kín, hướng nội và hướng về công nghiệp nặng
*CNH thời kỳ đổi mới :
- CNH được đặt trong tổng thể một nền kinh tế thống nhất,cơ cấu ngành
được chuyển dịch dần phù hợp trình độ, xuất phát điểm của đất nước
- CNH, HĐH trong cơ chế thị trường định hướng XHCN
- CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân với sự tham gia của mọi thành phần kinh
tế trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo
a/ Thực trạng và giải pháp:
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi
mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, là một trong ba đột phá chiến
lược trong 10 năm tới. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa
vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối
bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó, cơ chế thị trường
được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn
lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp
pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh". Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật
đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng

cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển
văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
15


khác và phân phối theo hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Bảo đảm vai trò
quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bằng
pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực
kinh tế.
Để thực hiện các định hướng trên, cần phải :
(1) Phát triển mạnh các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp. Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về sở hữu toàn
dân mà Nhà nước là đại diện đối với đất đai, tài nguyên, vốn và các tài sản công
để các nguồn lực này được quản lý, sử dụng có hiệu quả. Đẩy mạnh đổi mới, cổ
phần hoá, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước; xây dựng một số tập
đoàn kinh tế mạnh, đa sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối. Cơ
cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà
nước để doanh nghiệp nhà nước thực sự trở thành nòng cốt của kinh tế nhà
nước. Phát triển mạnh kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến khích
phát triển mạnh kinh tế tư nhân, loại hình doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp theo
quy hoạch và quy định của pháp luật. Thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ
hiện đại, thân thiện môi trường.
(2) Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Phát
triển đa dạng, đồng bộ, ngày càng văn minh, hiện đại các thị trường hàng hoá,
dịch vụ. Phát triển vững chắc thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, vận
hành an toàn, được quản lý, giám sát hiệu quả. Phát triển và kiểm soát có hiệu
quả thị trường chứng khoán. Phát triển lành mạnh thị trường bất động sản, tập
trung vào đổi mới, hoàn thiện các thể chế về quyền sử dụng đất đai. Phát triển

mạnh thị trường khoa học và công nghệ gắn với việc bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ; thị trường lao động gắn với tăng cường quản lý nhà nước...
(3) Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục
đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức đảng,
chất lượng tham mưu trong việc xây dựng, lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện
các chủ trương, đường lối về phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới và nâng cao vai
trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo
đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế. Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, quản lý kinh tế phù hợp với cơ
chế thị trường. Tiếp tục hoàn thiện các chính sách thuế, cơ chế quản lý giá, chính
sách tiền lương, tiền công; chính sách động viên, phân phối và sử dụng ngân
sách nhà nước hợp lý, hiệu quả.
- Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh, bền vững. Đổi mới mô hình
tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang
phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; vừa mở rộng quy mô, vừa chú
trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững; từ tăng trưởng chủ yếu dựa
vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và sử dụng lao động giá rẻ sang tăng
trưởng chủ yếu do áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất
lượng cao, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, phát triển công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng và sức cạnh
16


tranh lớn gắn với phát triển kinh tế tri thức; gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường...
Theo định hướng đó cần phải :
Một là, phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại,
tiếp tục tạo nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng độc lập,

tự chủ của nền kinh tế. Ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh
thuộc các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, chế biến, công
nghiệp năng lượng, luyện kim, hoá chất, công nghiệp công nghệ thông tin và
truyền thông. Phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ nông
nghiệp, nông thôn.
Hai là, phát triển nông nghiệp toàn diện, hiệu quả, bền vững theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy ưu thế của nền nông nghiệp nhiệt đới
gắn với giải quyết tốt các vấn đề nông dân, nông thôn. Khuyến khích tập trung
ruộng đất, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, phát triển sản xuất nông nghiệp
hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Gắn sản xuất với chế biến
và tiêu thụ, mở rộng xuất khẩu. Xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh,
giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân.
Ba là, phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị gia
tăng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh như các dịch vụ tài chính, ngân
hàng, thương mại, du lịch, viễn thông, vận tải, y tế, giáo dục, khoa học, công
nghệ. Hình thành một số trung tâm dịch vụ lớn ở các vùng, trong đó có trung
tâm có tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Bốn là, tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về kết cấu hạ tầng. Hoàn
thiện quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng cả nước. Tập trung các nguồn lực xây
dựng, hoàn thiện hệ thống giao thông thiết yếu. Hiện đại hoá một số sân bay,
cảng biển quan trọng. Phát triển đồng bộ, từng bước hiện đại hệ thống thuỷ lợi;
xây dựng, củng cố hệ thống đê biển, các công trình ngăn, xả lũ, hệ thống cung
cấp nước sạch, các công trình xử lý nước thải, bảo vệ môi trường.
Năm là, phát triển hài hoà giữa các vùng đô thị và nông thôn. Đẩy mạnh
phát triển các vùng kinh tế trọng điểm tạo động lực cho nền kinh tế, đồng thời
hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn. Hình thành hệ thống đô thị phân
bổ hợp lý ở các vùng; phát triển hài hoà giữa thành thị và nông thôn.

17




×