Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Hồ chí minh kế thừa và phát triển giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.32 KB, 26 trang )

Câu 1: Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại
Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại”. Ở đây, xin làm rõ phần nào nhận định đúng đắn của Đảng ta về tư tưởng vĩ đại của Người.
1-Tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Khi tôn vinh Người là
danh nhân văn hóa kiệt xuất và Anh hùng giải phóng dân tộc, tổ chức UNESCO đã ghi nhận: Nhà văn hóa kiệt xuất
Hồ Chí Minh là kết tinh của truyền thống văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam và những tư tưởng của Người là
hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy
hiểu biết lẫn nhau… Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho mình
một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những giá trị truyền thống tốt đẹp và cao quý.
Trước hết đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Đây là một trong
những tài sản có giá trị nhất trong hành trang của Hồ Chí Minh lúc ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Nó là cơ sở
xuất phát, là động lực, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam đã có quá trình lịch sử hàng ngàn năm với nội dung phong phú và sâu sắc như: yêu nước gắn liền với yêu quê
hương, yêu con người Việt Nam, yêu truyền thống văn hóa quý giá. Thời kỳ phong kiến, yêu nước có nội dung trung
quân ái quốc, lợi ích giai cấp thống trị phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động trong sự nghiệp chống xâm lược, bảo
vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh đã làm phong phú nội dung của chủ nghĩa yêu nước. Yêu nước đối với Người là gắn liền với yêu
nhân dân. Người nói, lòng thương yêu nhân dân và nhân loại của Người không bao giờ thay đổi…Người có một ham
muốn tột bậc là làm sao nước ta được độc lập, dân ta có cơm ăn, áo mặc và được học hành. Người đã nêu ra chuẩn
mực “trung với nước, hiếu với dân” và phát triển những nội dung mới của chủ nghĩa yêu nước. Đó là yêu nước dựa
trên quan điểm giai cấp công nhân, yêu nước mở rộng ra thành tình yêu vô cùng rộng lớn đối với nhân dân lao động,
những người cùng khổ, đối với giai cấp công nhân các nước trên thế giới. Trên cơ sở tư tưởng của giai cấp công nhân,
Người đã nêu ra nội dung mới: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã
hội thì nhân dân mình mới ngày một ấm no thêm, Tổ quốc ngày một giàu mạnh thêm.
Trong các giá trị truyền thống Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái là
những nét hết sức đặc sắc. Truyền thống này hình thành một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu
đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Người Việt Nam gắn bó với nhau trong tình làng, nghĩa xóm.
Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh). Người
thường nhấn mạnh, nhân dân ta đã từ lâu sống với nhau có tình có nghĩa. Tình nghĩa ấy được Người nâng lên cao đẹp


hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Ngay cả khi tiếp thu lý luận MácLênin-đỉnh cao của trí tuệ nhân loại-cũng phải trên nền tảng của giá trị truyền thống. Người nhấn mạnh: Hiểu chủ
nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu kinh sách mà sống không có tình nghĩa
thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được…Tư tưởng đại nhân, đại nghĩa ở Hồ Chí Minh là phấn đấu vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của con người, là cứu nước, độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, tạo mọi điều
kiện cho con người phát triển. Trong văn hóa đạo đức Việt Nam, chữ “Nghĩa” có ý nghĩa là lẽ phải, ngay thẳng.
Nguyễn Trãi đã từng nói: Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên “công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”,
Hồ Chí Minh lấy chữ nghĩa để phân rõ bạn thù. Ai làm điều gì có lợi cho nhân dân, cho Tổ quốc đều là bạn. Bất kỳ ai
làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc đều là kẻ thù.
Trong những giá trị truyền thống cao đẹp của dân tộc, Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh thần cộng đồng, một lối
sống thành thực, thân ái, những thuần phong mỹ tục, trở thành những yếu tố đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngay từ năm 1947, trong khi cuộc chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết liệt, người đã nói đến đời
sống mới của một người, một nhà, một làng và khắp cả nước. Xoay quanh hạt nhân của đời sống mới là cần, kiệm,
liêm, chính. Hồ Chí Minh đã nói đến thuần phong mỹ tục, không có cờ bạc, hút xách, bợm bài, trộm cắp. Người nhắc
đến tục ngữ “lá lành đùm lá rách”, “đói cho sạch rách cho thơm”. Và, nếu một mình no ấm mà nỡ để đồng bào xung
quanh đói rét…, thì dù giàu cũng không hưởng được. Người nói: Cách cư xử đối với đồng bào thì nên thành thực, thân
ái, sẵn lòng giúp đỡ…Nhiều lần, Người nhấn mạnh đến việc xây dựng và phát triển thuần phong mỹ tục, tức là phát
triển một trong những giá trị truyền thống. Mặt khác, khi trân trọng giữ gìn thuần phong mỹ tục, Hồ Chí Minh luôn
gắn với việc phê phán, bài trừ đồi phong, bại tục. Người đã nói đến việc “khôi phục vốn cũ” với một tinh thần trân
trọng các giá trị của người xưa để lại như: tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân…Song, Người yêu
cầu xóa bỏ cái xấu (tính lười biếng, tham lam…), sửa đổi các phiền phức (cúng bái, cưới hỏi quá xa xỉ…).
2- Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Nói đến văn hóa nhân loại có tầm cỡ vĩ đại nhất và ảnh hưởng lớn nhất đối với Hồ Chí Minh là phải nói đến chủ nghĩa
Mác-Lênin. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã tiếp thu phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và ứng dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của
đất nước, đưa cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi vĩ đại và cống hiến nhiều vào kho tàng lý luận mác-xít cũng như phương
pháp hoạt động sáng tạo của cuộc cách mạng vô sản.
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, với tư chất thông minh tuyệt vời, từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã được giáo dục Hán
học và đã tiếp thu nền văn hóa phương Tây tại trường Quốc học Huế. Khi bôn ba khắp năm châu, bốn bể, Người vừa hoạt động

1



cách mạng, vừa học hỏi không ngừng. Người đã thông thạo các ngôn ngữ tiêu biểu cho nền văn minh của nhân loại, am tường các
nền văn hóa Đông, Tây, kim, cổ. Khi tiếp thu các nền văn hóa, Người bao giờ cũng phân tích các yếu tố giá trị toàn nhân loại và
vĩnh cửu. Người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng tinh thần văn hóa nhân loại. Người là tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa giữa
các nền văn hóa và tỏa ra một nền văn hóa của tương lai.
Tiếp thu văn hóa phương Đông, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và người
sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo.
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó là trong Nho giáo có những yếu tố duy
tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, doanh
lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó và khuyên chúng ta “nên học”. Theo Người, mặt tích cực
của Nho giáo là nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn “Học không biết chán, dạy không biết
mỏi”. Về điểm này, Nho giáo hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị.
Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tich cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
Tiếp thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái, độ lượng, khoan dung - những nét đặc
trưng của giáo lý đạo Phật.
Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân - một tình yêu bao la
không chỉ dành cho con người mà dành cho cả chim muông, cây cỏ.
Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện.
Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp.
Thứ tư là, Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (một ngày không làm, một
ngày không ăn), đề cao lao động, chống lười biếng. Cuối cùng, Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu
tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành nên Thiền phái Trúc lâm Việt Nam, chủ trương sống không xa rời,
lẩn tránh mà gắn bó với đời sống của nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ
thù dân tộc.
Như thế, có thể nói, những mặt tích cực của Phật Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động.
Gia đình Bác Hồ là gia đình nhà nho nghèo, gần gũi với nông dân, cũng thấm nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, còn có thể tìm thấy nhiều trích dẫn khác nữa về các nhà tư tưởng phương Đông như Lão Tử, Mặc Tử, Quản
Tử…trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh. Cũng như sau này, khi đã trở thành người mác-xít, Nguyễn Ái Quốc vẫn tìm
hiểu thêm về Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và tìm thấy trong đó “những điều thích hợp với điều kiện nước ta”. Các tiêu

chí của chủ nghĩa Tam dân là dân tộc - độc lập; dân quyền - tự do; dân sinh - hạnh phúc đã được Hồ Chí Minh rút gọn trong quốc
hiệu của Việt Nam “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Là người mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ Chí Minh đã biết khai thác những
yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
Lĩnh hội tư tưởng văn hóa phương Tây: Trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ
yếu ở châu Âu nên cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây
Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở Niu Oóc, làm thuê và thường đến thăm khu ở của người da đen.
Trong các bài viết sau này, Người thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con người được ghi lại
trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ. Người đã tiếp thu giá trị của tư tưởng nhân quyền với nội dung là quyền tự do cá
nhân thiêng liêng trong bản tuyên ngôn này. Sau này Người đã phát triển nó thành quyền sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền
mưu cầu hạnh phúc của tất cả các dân tộc. Nội dung nhân quyền được Người nâng lên một tầm cỡ mới trong Tuyên ngôn Độc lập
của Việt Nam năm 1945.
Cuối năm 1917, Người từ Anh sang Pháp và quyết định sống và hoạt động ở thủ đô nước Pháp có ý nghĩa lịch sử rất lớn,
mở ra một thời kỳ mới trong cuộc đời mình.
Là thủ đô của nước Pháp, Pa-ri cũng đồng thời là trung tâm văn hóa - nghệ thuật của châu Âu. Các trào lưu triết học và
các trường phái nghệ thuật nổi tiếng thế giới phần lớn đều được hình thành và ra mắt tại đây. Sống ở giữa nơi hợp lưu của các
dòng văn hóa thế giới, Người đã có điều kiện thuận lợi để nhanh chóng chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại, đặc biệt là truyền
thống văn hóa dân chủ và tiến bộ của nước Pháp.
Đến với quê hương của lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, Hồ Chí Minh được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà
tư tưởng khai sáng: Von-te, Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ,…những lý luận gia của đại cách mạng Pháp 1789, như Tinh thần pháp luật
của Mông-tét-xki-ơ, Khế ước xã hội của Rút-xô, v.v…tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của
Người. Ngoài ra, Người còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành được phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống
thực tiễn. Rõ ràng là, ở Pháp, Người đã có thể hoạt động và đấu tranh cách mạng một cách tương đối tự do, thuận lợi hơn ở trên
đất nước mình, dưới chế độ thuộc địa.
Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức
tiến bộ Pháp như M. Ca-sanh, P.V. Cu-tuya-ri-ê, G. Mông-mút-xô…mà Hồ Chí Minh đã từng bước trưởng thành. Con người ấy,
trên hành trình cứu nước, đã làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa thâu thái, vừa gạn lọc để có
thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.
Kế thừa lòng nhân ái, đức hy sinh của Thiên chúa giáo: Nói đến việc kết hợp văn hóa Đông, Tây trong con người Hồ Chí
Minh, không thể không đề cập đến sự kế thừa lòng nhân ái, đức hy sinh, những giá trị cơ bản của Thiên chúa giáo. Người đã cống
hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột; đã là hiện thân của lòng

nhân ái và đức hy sinh cao cả. Sau này, Người luôn luôn giáo dục cán bộ, đảng viên về lòng thương người, thương dân, thương
các chiến sỹ ngoài mặt trận - đó là những tư tưởng thấm đậm những giá trị cao cả mang tính nhân loại mà Thiên chúa giáo đã khởi
xướng và răn dạy.
Người lên án gay gắt những kẻ “giả danh Chúa” để thực hiện những “hành vi ác quỷ”: dẫn đường cho đội quân viễn
chinh; cướp của cải, đánh đập, bắt giết người (đặc biệt là trẻ em); chiếm ruộng đất canh tác, v.v…Người coi những hành động đó
là sự đi ngược lại và phản bội lòng nhân ái cao cả của Chúa, làm hoen ố tư tưởng lớn của Ngài là muốn mưu cầu phúc lợi cho xã

2


hội. Người viết: “Nếu Chúa bất hạnh đã chịu đóng đanh trên cây thánh giá trở về cõi thế này, thì chắc Ngài sẽ vô cùng ngao ngán
khi thấy “các môn đồ trung thành” của mình thực hiện đức khổ hạnh như thế nào”.
Người lên án những giáo sĩ đại diện cho chủ nghĩa tư bản phương Tây, những kẻ nhân danh Chúa để quan hệ mật thiết
với thế lực thực dân, tham gia vào guồng máy của chủ nghĩa thực dân, xâm nhập về kinh tế và quân sự, áp đặt nền văn hóa thực
dân, làm xuất hiện nguy cơ bá quyền văn hóa, v.v…
Tóm lại, Hồ Chí Minh tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó một cách
sát hợp vào những điều kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc vì mục đích không chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình mà
còn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới.
TS. Hồ Văn Chiểu - Ban Tư tưởng - Văn hóa TW (Theo:phuly.edu.vn)

Câu 2: Độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc là tư tưởng chủ đạo, chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh: Tự do cho
đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu. Trong bản Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã đanh thép khẳng định: “Tất cả các dân
tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Hồ Chí Minh bước lên vũ đài chính trị trong bối cảnh nước mất nhà tan. Người đã tận mắt chứng kiến sự đàn
áp thống trị tàn bạo của đế quốc Pháp đối với dân tộc, sự hèn hạ của triều đình phong kiến và rất khâm phục tinh thần
chống Pháp giành độc lập của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời. Thực tiễn đó đã hình thành ở Người lòng khát
khao giải phóng dân tộc, thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước vào tháng 6/1911. Vì vậy, vấn đề dân tộc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn đề dân tộc thuộc thuộc địa trong thời đại cách

mạng vô sản. Thực chất của vấn đề dân tộc là vấn đề đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự
thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết,
thành lập nhà nước dân tộc độc lập.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã chứng kiến thực trạng xã hội những nơi Người từng đặt
chân tới, ở đâu cũng có cảnh áp bức, bóc lột, bất công và nỗi thống khổ do chủ nghĩa đế quốc gây ra. Hồ Chí Minh đã
đi đến một kết luận vô cùng quan trọng: Thế giới dù vô cùng bao la, nhân loại dù vô cùng đông đảo, suy đến cùng chỉ
có 2 giống người: đi bóc lột và bị bóc lột. Đến khi bắt gặp luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
thì nhận thức của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc được xác định trên cơ sở khoa học và được nâng lên ở tầm
cao mới.
Ngay từ năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng được các đồng minh thắng trận thừa
nhận, thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, với tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Người đã gửi bản Yêu
sách 8 điểm đến Hội nghị Vécxây đòi tự do dân chủ cho nhân dân An Nam. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo đã vạch rõ nhiệm vụ đầu tiên của cách mạng Việt Nam là: "Đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến; Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Đến năm 1941, Hồ Chí Minh về nước,
khi chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, Người đã chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn
hết thảy”. Trong bài Mười chính sách của Việt Minh, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định mục tiêu đầu tiên của cách
mạng là “Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền”. Câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh thể hiện ý chí đấu tranh cho độc lập
dân tộc vẫn luôn là sợi chỉ đỏ của cách mạng Việt Nam: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập!”.
Hồ Chí Minh khẳng định, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Theo Hồ
Chí Minh, tất cả các dân tộc trên thế giới, dù dân tộc đó là "thượng đẳng" hay "hạ đẳng", "văn minh" hay "lạc hậu" đều
có quyền được hưởng độc lập, đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Độc lập, tự do dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải thực sự, hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập, tự do giả
hiệu giống như "cái bánh vẽ" mà chủ nghĩa đế quốc nêu ra. Độc lập dân tộc phải được biểu hiện trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, các quyền dân tộc, quyền con người phải được thực hiện trên thực tế. Một dân tộc độc lập thì
phải có quyền tự quyết định trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ, mà trước hết
và quan trọng nhất là quyền quyết định về chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do của nhân dân. Người chỉ rõ: "Nước độc lập mà dân
không được tự do thì độc lập ấy chẳng có nghĩa lý gì". Độc lập, tự do phải gắn liền với hoà bình chân chính. Muốn có
độc lập, tự do phải đấu tranh chống lại ách áp bức dân tộc của chủ nghĩa đế quốc.

Cho đến hôm nay, trong tâm thức mỗi người Việt Nam yêu nước vẫn còn vang vọng lời Bác dạy trong bản
Tuyên ngôn độc lập: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc
lập ấy".
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một trong những nội dung trung tâm của tư tưởng Hồ Chí
Minh; trong đó, những luận giải rất phong phú của Người về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam như một biểu trưng mẫu mực về sự nghiền ngẫm uyên bác những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, về
tinh thần sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh các nước thuộc địa. Đây là những luận điểm đặt
3


tiền đề quan trọng và là kim chỉ nam cho hành trình tới tương lai tươi sáng của dân tộc, đặc biệt cho sự nghiệp đổi mới
tư duy lý luận hiện nay.
Trong các di sản lý luận của mình, C. Mác và Ph. Ăng ghen đã nêu lên những dự đoán thiên tài về xã hội
tương lai - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hai ông đã có công biến chủ nghĩa xã hội vốn là học thuyết không tưởng thành
học thuyết có cơ sở khoa học. Tuy vậy, do điều kiện lịch sử, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ có thể
dự đoán những nét chủ yếu, chứ không thể nêu lên một cách chi tiết những quan niệm của mình về xã hội tương lai.
Hơn nữa, những dự đoán ấy được hình thành chủ yếu trên cơ sở nghiên cứu hiện thực xã hội tư bản chủ nghĩa phát
triển tương đối cao ở một số nước Tây Âu. Có hai vấn đề đặt ra: Thứ nhất, chế độ Cộng sản có thể áp dụng được ở
châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng không? Thứ hai, có thể có một mô hình chủ nghĩa xã hội chung cho mọi
quốc gia, dân tộc không?
Về vấn đề thứ nhất: Chế độ Cộng sản có thể áp dụng được ở châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng
không? Vấn đề này được Hồ Chí Minh cùng những người cách mạng ở châu Á và Đông Dương quan tâm ngay từ năm
1921. Muốn hiểu biết vấn đề đó và muốn trả lời câu hỏi đó, Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh cho rằng cần phải xem xét
tình hình cụ thể ở lục địa châu Á về mặt lịch sử và địa lý. Bằng nhãn quan chính trị sắc sảo và sự hiểu biết sâu rộng,
trên cơ sở nghiên cứu, xem xét các nước châu Á một cách toàn diện cả về lịch sử xã hội - văn hoá, kinh tế, chính trị...
Người đi đến kết luận: "Bây giờ hãy xét những lý do lịch sử cho phép Chủ nghĩa Cộng sản thâm nhập dễ dàng vào
châu Á, dễ dàng hơn là ở châu Âu"(1). Bởi ở châu Á, tư tưởng về cộng đồng xã hội, bình đẳng, giáo dục và đề cao giá
trị nhân văn; tư tưởng phải đấu tranh cho hạnh phúc của con người, đề cao nhân dân.v.v.. đã phát triển sớm, trở thành

cơ sở thuận lợi để tiếp nhận tư tưởng của Chủ nghĩa Cộng sản. Cuối thế kỷ XX, một sự thật lịch sử là trong khi một
mô hình chủ nghĩa xã hội tan rã ở các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu, thì chế độ xã hội chủ nghĩa lại được củng cố và
phát triển ở các nước châu Á như Việt Nam, Trung Quốc... Thực tế đó đã chứng minh nhận định thiên tài của Nguyễn
Ái Quốc- Hồ Chí Minh.
Về vấn đề thứ hai: Có thể có một mô hình chủ nghĩa xã hội chung cho mọi quốc gia, dân tộc không? Các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã có những dự đoán thiên tài về xã hội tương lai, song chưa lúc nào các ông cho
rằng, trong tương lai chủ nghĩa xã hội sẽ chỉ có một mô hình duy nhất. Chủ nghĩa xã hội về bản chất và mục tiêu là
thống nhất, nhưng có nhiều mô hình khác nhau, thể hiện sự đa dạng, phong phú trong việc lựa chọn con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Mô hình chủ nghĩa xã hội ở mỗi quốc gia bao giờ cũng mang trong nó những nét đặc thù về lịch sử,
văn hoá, dân tộc của quốc gia đó.
Hồ Chí Minh đã tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ nhiều phương diện khác nhau: Từ chủ nghĩa yêu nước và khát
vọng giải phóng dân tộc, từ phương diện đạo đức, từ góc độ văn hoá... Trên các phương diện Người đều thấy rằng, về
bản chất chủ nghĩa xã hội là một chế độ mới khác biệt về chất, một chế độ thực sự ưu việt, đầy tính nhân văn cao cả.
Người chỉ rõ: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui,
hoà bình, hạnh phúc..."(2). Đối với Việt Nam, chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sau này, trong lý luận nhận thức về Chủ nghĩa xã hội,
Người khẳng định thêm nhiều luận điểm quan trọng: "Không có một chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét
những lợi ích cá nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa"(3); Chủ nghĩa xã hội là "nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn
việc làm, được no ấm và sống một đời hạnh phúc"(4)...
Giá trị xuyên suốt và đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mô hình chủ nghĩa xã hội gắn liền với khát vọng
cháy bỏng của Người; đó là xã hội giải phóng thật sự con người, xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chế độ chính trị - xã hội ưu việt là nhằm giải phóng con người về mặt chính trị.
Khi đó con người mới thực sự là mục tiêu theo ý nghĩa chân chính của nó. Mặt khác, giải phóng con người khỏi áp
bức bóc lột và nô dịch trong xã hội có giai cấp đối kháng là một động lực mạnh mẽ, là công cụ chủ yếu để khai thác và
phát huy mọi khả năng vật chất và tinh thần của con người vào sự phát triển xã hội. Một xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa theo Hồ Chí Minh quan niệm là một xã hội trong đó con người được tự do, bình đẳng, hạnh phúc. Con người có
sự phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ.

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Hồ Chí Minh đã nêu những nhiệm vụ cấp bách
của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Cả sáu vấn đề người đưa ra đều liên quan đến con người và giải phóng
con người. Đó là:
Nhân dân đang đói, làm gì để thoát khỏi nạn đói.
Nhân dân đang dốt, làm gì để thoát khỏi dốt.
Nhân dân chưa được hưởng dân chủ, làm gì để nhân dân được hưởng tự do.
Nhân dân bị đầu độc bằng rượu và thuốc phiện, phải làm gì để thoát khỏi nạn này.
Nhân dân phải chịu nhiều thứ thuế, phải bỏ ngay các thứ thuế đó cho dân.
Nhân dân bị thực dân chia rẽ, phải làm gì để đoàn kết nhân dân lại.
Trong suốt quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người thường xuyên nhắc nhở Đảng và
Chính phủ phải luôn lo cho dân: Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Trước
4


lúc đi xa, trong Di chúc Người lại nhắc: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân"(5). Như vậy, yêu thương những con người lao động, đấu tranh nhằm giải
phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, bất công, khỏi sự nghèo đói, dốt nát là điểm xuất phát trong cách tiếp cận
mô hình chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong lịch sử Việt Nam, các triều minh quân đều nhận thức: Yêu thương nhân dân là việc đầu tiên của vương
chính; có đặt dân sinh lên chốn chiếu êm mới làm cho thế nước vững như Thái sơn, bàn thạch. Tư tưởng ái dân, nhân
hậu với nhân dân, mưu lo cho dân an cư lạc nghiệp được Trần Hưng Đạo nâng lên thành thượng sách giữ nước và
Nguyễn Trãi coi như biểu trưng của việc nhân nghĩa. Chủ trương ái dân và đã có những chính sách "chăn dân", nhưng
trên thực tế hầu như ở tất cả các triều đại xưa quyền làm chủ của người dân không được xác lập; có chăng nhân dân
chỉ được hưởng cái "quyền" của mình khi đất nước lâm nguy, khi thái ấp của vua chúa có nguy cơ rơi vào tay giặc.
Đặc biệt ở các triều đại vua chúa nhà Nguyễn (cuối thế kỷ XIX), "đức" thương dân của vương quan trong triều chỉ là
đức thương của người cưỡi ngựa thương con ngựa; ái dân cốt để vinh thân, củng cố vương quyền. Và những khẩu
hiệu: "Tự do, bình đẳng, bác ái" mà chủ nghĩa tư bản rêu rao, được Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh khảo cứu bằng
chính thực tế cuộc sống người lao động ở các nước: Pháp (1911), Hoa Kỳ (1912), Anh (1914)..., rốt cuộc chỉ là sự che
đậy bản chất bất công tàn bạo và đê tiện của chủ nghĩa tư bản. Trên thực tế, ở đâu giai cấp công nhân và nhân dân lao
động cũng bị áp bức bóc lột rất dã man. Cho đến nay, Chủ nghĩa tư bản đã kéo dài sự phát triển qua mấy thế kỷ, vẫn

không thể xoá bỏ được những mâu thuẫn cố hữu giữa lao động và tư bản, giữa người bị áp bức, bóc lột và kẻ áp bức,
bóc lột; sự phát triển ấy không những không thể khắc phục được mà ngày càng làm trầm trọng hơn sự bất công, bất
bình đẳng trong xã hội.
Đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, chủ nghĩa xã hội là xã hội duy nhất mà ở đó quyền con
người trở thành hiện thực, là xã hội có khả năng phát huy cao nhất mọi tiềm năng con người (cá nhân, tập thể, cộng
đồng). Với Hồ Chí Minh, con người là chủ thể tích cực của lịch sử, nhân dân là giá trị quý báu nhất, cao nhất; của dân,
tài dân, sức dân là nguồn lực quan trọng nhất của phát triển. Không có dân ủng hộ giúp đỡ thì cách mạng không có sức
mạnh, không thể thành công. Không có dân thì Đảng không có lực lượng. Có dân, được dân tin, dân yêu, dân phục, lại
có đường lối đúng để dẫn dắt dân tranh đấu thì việc khó mấy cũng giải quyết được.
Nói đến quyền con người trong chủ nghĩa xã hội không thể không nói đến tư tưởng dân chủ. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa chính là sự thể hiện quyền con người của cá nhân và cộng đồng ở mức cao nhất. Đối với Chủ tịch Hồ Chí
Minh: Nếu trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân thì dân chủ là của quý báu nhất trên đời của nhân dân; dân
chủ là dân là chủ và dân làm chủ(6). Quan niệm đó thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa tính nhân văn và tính pháp lý của
dân chủ, được thể hiện thống nhất trong nội hàm dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân và vì nhân dân. Nhưng để nhân dân thực hiện được vai trò cách mạng
của mình, đem lại hạnh phúc cho chính mình cần phải có sự lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú
trọng tới công việc thực tế để xây dựng nền dân chủ tiến bộ nhất thực sự là của dân, do dân, vì dân. Suốt cuộc đời của
mình, Người luôn quan tâm xây dựng Đảng trên cả ba phương diện: Tư tưởng, lý luận; đường lối chính trị; tổ chức cán
bộ. Người đòi hỏi Đảng phải thực sự là đạo đức, là văn minh, cán bộ đảng viên phải "chính tâm", "nghiêm pháp"; phải
tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, ngoài ra không còn lợi ích nào khác. Đảng và Nhà nước
không phải là "cứu tinh" của nhân dân mà có trách nhiệm phụng sự nhân dân, là đày tớ của nhân dân. Để phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, Đảng phải quan tâm tới đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; chú trọng nâng cao
dân trí; đặt dân sinh, dân trí, dân chủ trong quan hệ thống nhất.
Khi xác lập những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng
nhấn mạnh, chủ nghĩa xã hội không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải tuân theo, không phải là những sắc lệnh từ
trên xuống, mà nó là một phong trào hiện thực, là sự nghiệp sáng tạo của bản thân quần chúng nhân dân. Vì thế, mọi
sự gò ép, bất chấp hiện thực, công thức hoá những tư tưởng lý luận trên thực tế đều phải trả giá. Chủ nghĩa xã hội hiện
thực luôn phát triển, do đó quan niệm về nó cũng phải được phát triển.
Chủ nghĩa xã hội và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản nhưng được
diễn ra ở một xứ thuộc địa không hoàn toàn giống một cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo ở phương Tây như

các nhà kinh điển Mác - Lê nin đã chỉ ra. Vì vậy, tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê nin đòi hỏi sự vận
dụng cần phải "Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông"(7).
Đồng thời, nó phải được cụ thể hoá, phát triển và hoàn thiện trong quá trình cách mạng. Hơn nữa, Chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội có nhiều nội dung, mỗi nội dung có quy luật phát triển riêng và luôn mang tính khả
biến, gắn với diễn trình lịch sử trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng. Bởi vậy, để cách mạng thắng lợi đòi hỏi
trong nghiên cứu, hoạch định đường lối cách mạng và chỉ đạo thực tiễn phải có quan điểm lịch sử cụ thể và phát triển;
phải thấy rõ, phân tích và giải quyết tốt các mối liên hệ, có bước đi phù hợp, có những điều kiện cơ bản đảm bảo cho
con đường cách mạng được hiện thực hoá. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ phát hiện ra con đường cách mạng Việt
Nam mà Người đã không ngừng phát triển hoàn thiện nó qua những thời kỳ lịch sử với những quan điểm cực kỳ đúng
đắn, sáng tạo, chẳng những chỉ đạo cách mạng Việt Nam lúc sinh thời của Người mà còn có giá trị xuyên suốt tới ngày
nay và mai sau.
Tính cách mạng khoa học, đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh trong xác định con đường cách mạng
Việt Nam đã được lịch sử kiểm chứng. Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, sau chiến
5


thắng 30-4-1975 cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển không ngừng của đất nước trước những cam go, thử
thách và biến động thăng trầm của lịch sử, những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam trong gần thế kỷ qua càng
chứng minh giá trị và sức sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự vận động của thực tiễn cách mạng đòi hỏi lý
luận về mô hình chủ nghĩa xã hội phải có bước phát triển mới. Việc xác định những đặc trưng cơ bản trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) và việc tiếp tục bổ sung, phát triển quan niệm về
chủ nghĩa xã hội trong Nghị quyết Đại Hội XI của Đảng ta là sự tiếp nối kiên định, sự hiện thực hoá tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới của đất nước.
Con người - cuộc đời - sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự hội kết, chiết suất các giá trị và trở thành hệ
giá trị vĩnh hằng đi sâu vào tâm thức mỗi người, thành biểu tượng thiêng liêng của lớp lớp các thế hệ không dễ phai
nhạt. "Trong mọi sự biến đổi cũng có một số điều quan trọng không thể thay đổi, đó là lý tưởng Chủ nghĩa xã hội, các
tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa, tự do dân chủ và công bằng xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà yêu nước vĩ đại,
người theo chủ nghĩa quốc tế đã cống hiến trọn đời mình cho lý tưởng đó"(8). Ai đó cố tình rêu rao cái gọi là "chọn sai
đường" và "giá như"... là không thể chấp nhận với tất cả những ai có lương tri và biết trân trọng lịch sử.
Vì vậy trong văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định bài học kinh nghiệm đầu tiên là: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – ngọn cờ vinh
quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên
quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau”
Câu 3: Có 5 nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
Một là: Tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Theo Hồ Chí Minh dân chủ và tập trung là hai mặt
có quan hệ gắn bó với nhau. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung. Không phải là dân chủ theo kiểu phân
tán tùy tiện vô tổ chức. Tập trung trên cơ sở dân chủ không phải tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán chuyên quyền.
+ Về tập trung Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động. Do đó thiểu số phải phục
tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên. Mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó
làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”.
+ Về dân chủ Hồ Chí Minh đã viết: “ Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải tự do. Tự do là thế nào? Đối với
mọi vấn đề mọi người được tự do bày tỏ ý kiến của mình góp phần tìm ra chân lý. Đó cũng là một quyền lợi, một
nghĩa vụ của mọi người…”
Người đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì nếu không có dân chủ nội bộ thì
sẽ làm cho “nội bộ của Đảng âm u”. Trong tình hình ấy, tập trung không tạo nên sức mạnh của Đảng, bởi lẽ Đảng đã
suy yếu từ bên trong, như vậy sớm muộn cũng không còn là Đảng cộng sản. Hơn nữa muốn dân chủ trong xã hội
trước hết phải có dân chủ trong Đảng.
Hai là: Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Ðây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh một
người dù tài giỏi đến đâu cũng không thấy hết được mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. Vì vậy phải có người cùng
tham gia lãnh đạo.
+ Cá nhân phụ trách. Người chỉ rõ việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được hoạch định rõ
thì giao cho một người phụ trách. Nếu giao cho một nhóm người thì cũng cần có người phụ trách chính. Như thế mới
tránh được thói dựa dẫm giống như “ Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”.
Từ đó Người kết luận: “ Lãnh đạo không tập thể thì sẽ dẫn đến tệ bao biện, độc đoán, chủ quan, kết quả là
hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân thì sẽ dẫn đến tệ bừa bãi lộn xộn vô chính phủ, kết quả cũng là hỏng việc. Tập
thể lãnh đạo cá nhân phụ trách phải đi đôi với nhau”.
Ba là: Tự phê bình và phê bình. Đây là ngyên tắc sinh họat của Đảng. Có khi Người nói phê bình và tự phê bình, có
khi Người nói tự phê bình và phê bình, nhưng thường đặt tự phê bình lên trước phê bình. Mỗi Đảng viên trước hết

phải tự thấy rõ mình để phát huy ưu điểm khắc phụ khuyết điểm cũng như phải tự soi gương rửa mặt hàng ngày. Phải
biết tự phê bình tốt thì mới phê bình người khác tốt được.
Người xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện Đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt
hơn, tiến bộ hơn, tăng cường hơn đoàn kết nội bộ. Đó cũng là vũ khí để nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng, để Đảng
làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng. Người đã thẳng thắn vạch rõ: “ Một Đảng mà giấu khuyết điểm của mình là
một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm
đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiém mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng
tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Bốn là kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Đây cũng là một nguyên tắc của Đảng kiểu mới, làm cho Đảng thực sự là một
tổ chức chiến đấu chặt chẽ. Theo Hồ Chí Minh sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ
chức nghiêm minh của cán bộ Đảng viên. Mọi Đảng viên không phân biệt cán bộ lãnh đạo hay Đảng viên thường đều
bình đẳng trước kỷ luật của Đảng.
Tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cán bộ, đảng viện đối với Đảng, một tổ chức của những người tự nguyện
đứng trong một hàng ngũ để cùng hiến đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nếu việc vào Đảng không phải là
6


việc ép buộc đối với bất cứ đảng viên nào, thì việc tuân thủ kỷ luật của Đảng cũng như vậy, Người nói: “Kỷ luật này là
do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”.
Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên
tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng. Có như vậy Đảng mới là một khối thống nhất
về tư tưởng và hành động. Nếu không có kỷ luật “Đảng sẽ xuệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bế
tắc”.
Từ việc tuân thủ kỷ luật của Đảng, mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc
chấp hành kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của nhà nước “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ
luật, chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền cách mạng”.
Năm là đoàn kết thống nhất trong Đảng. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng cũng như khối đại đoàn kết toàn dân. Phải xây dựng đoàn kết thống nhất trong Đảng để làm nòng cốt cho
việc xây dựng đoàn kết thống nhất trong nhân dân. Tư tưởng đoàn kết toàn Đảng, toàn dân là một trong những tư
tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Chính nhờ quán triệt tư tưởng này của Người mà trong suốt tiến trình cách mạng Việt

Nam Đảng và nhân dân ta đã xây dựng nên một khối đoàn kết vững chắc đảm bỏa cho việc giành được thắng lợi ngày
càng to lớn “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các
chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
+ Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối quan điểm của Đảng và điều lệ
Đảng. Đây là cơ sở tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức. Từ đó có sự thống nhất hành động của toàn Đảng. Sự
đoàn kết thống nhất thực sự, lành mạnh, chân chính trong Đảng chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở này. Nếu xa rời
cơ sở này thì chỉ có thể có được một sự đoàn kết thống nhất hình thức, giả hiệu, tạm thời, đoàn kết mà không thống
nhất hoặc thống nhất mà không đoàn kết.
Tình hình càng phát triển, nhiệm vụ càng nặng nề, càng đòi hỏi phải củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống
nhẩt trong toàn Đảng, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo bởi lẽ sự đoàn kết thống nhất của cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng
đến sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến toàn Đảng “ Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan
trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”.
+Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng Hồ Chí Minh thường nêu những yêu cầu: Phải thực hiện va
mở rộng dân chủ để Đảng viên có thể tham gia bàn bạc, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình với tinh thần
trung thực, thẳng thắn. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, chống chủ nghĩa cá nhân với bao nhiêu thứ tệ nan từ chủ nghĩa
cá nhân mà ra: tham ô, lãng phí, quan liêu, bè cánh, cơ hội, dối trá, chạy theo chức, quyền, danh, lợi, v.v..
Qua những phân tích trên ta thấy tư tưởng của Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản, đặc biệt là những nguyên tắc
xây dựng Đảng kiểu mới đóng vai trò hết sức quan trọng. Tư tưởng của Người đã chỉ đạo cho việc xây dựng Đảng
cộng sản Việt Nam thực sự là một Đảng macxit chân chính làm tròn sự nghiệp vẻ vang và trách nhiệm nặng nề trước
dân tộc, đồng thời góp phần tích cực vào phong trào cách mạng thế giới. Trong chặng đường phát triển của mình đã
không ít lần Đảng phải đối mặt với những khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua, đã vấp phải những sai lầm làm
tổn hại đến thanh danh và uy tín của Đảng. Nhưng vượt lên trên tất cả, Đảng không lảng tránh sự thật dù sự thật có
đáng buồn đến đâu chăng nữa, không che giấu khuyết điểm cho dù khuyết điểm đã làm chúng ta đau đớn, quan trong
hơn Đảng đã kiên quyết khắc phục, sửa chữa cho được những sai lầm khuyết điểm. Đó chính là tư tưởng của Hồ Chí
Minh đối với Đảng cộng sản. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, Đảng đứng trước nhiều khó khăn và cơ hộ đan xen
nhau. Để đưa đất nước vững bước tiến vào thế kỷ XXI với mục tiêu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giành
thắng lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Đảng ta phải tiếp tục công cuộc vân đọng xây dựng
Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng ấy vân soi sáng cho công tác xây dựng Đảng ta hôm nay và lâu dài về sau.
* Theo anh (chị) nguyên tắc nào quan trọng nhất? Vì sao? Phần này mỗi anh(chị) có quan điểm riêng nên
em không làm phần này.

* Sự vận dụng nội dung quan điểm này trong tư tưởng HCM của ĐCSVN đối với việc xây dựng Đảng hiện
nay :
Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng
+ Tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa “tập trung” “và dân chủ” có mối quan hệ khăng khít với
nhau, là hai yếu tố của một nguyên tắc. Tập trung trên nền tảng dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung.
Tập trung là thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp
trên, đảng viên chấp hành nghị quyết của tổ chức Đảng. “Đảng tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như một
người”.
Dân chủ là của “của quý báu của nhân dân”, là thành quả của cách mạng. Tất cả mọi người được tự do bày tỏ
ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Phải phát huy dân chủ nội bộ nếu không sẽ suy yếu từ bên trong.
+ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Tập thể lãnh đạo vì, nhiều người thì thấy hết mọi việc, hiểu hết mọi mặt của vấn đề, có nhiều kiến thức, tránh
tệ bao biện, quan liêu, độc đoán, chủ quan.

7


Cá nhân phụ trách vì, “Việc gì đã bàn kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người
hoặc một nhóm ít người phụ trách kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy”, tránh
bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ dễ hỏng việc.
Phải khắc phục tệ độc đoán, chuyên quyền, đồng thời chống cả tình trạng dựa dẫm tập thể, không dán quyết
đoán, không dám chịu trách nhiệm.
+ Tự phê bình và phê bình:
Đây là nguyên tắc sinh hoạt đảng, là quy luật phát triển đảng
Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con người, mỗi tổ chức nảy nở như
hoa mùa xuân, phần xấu mất dần đi.
Người khẳng định: “Một đảng mà giấu diếm khuyết điểm đó là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận
khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó,
rồi tìm cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.

Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh nêu rõ: Phải tiến hành thường xuyên như
người ta rửa mặt hàng ngày; phải thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể nang, không giấu diếm và cũng không
thêm bớt khuyết điểm; “phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”, tránh lợi dụng phê bình để nói xấu nhau, bôi nhọ
nhau, đả kích nhau...
+ Kỷ luật nghiêm minh và tự giác
Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh và tự
giác.
Nghiêm minh là thuộc về tổ chức đảng, kỷ luật đối với mọi đảng viên không phân biệt. Mọi đảng viên đều
bình đẳng trước Điều lệ Đảng.
Tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cán bộ đảng viên đối với Đảng. Kỷ luật này do lòng tự giác của họ về nhiệm
vụ đối với Đảng. Yêu cầu cao nhất của kỷ luật đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng, tuân theo
nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng. “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng
những kỷ luật đảng, mà cả kỷ luật của đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền cách mạng”.
+ Đoàn kết thống nhất trong Đảng
Theo Hồ Chí Minh: “Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng ta, của nhân dân ta... phải giữ gìn sự
đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Cơ sở để đoàn kết nhất trí trong Đảng chính là đường lối,
quan điểm của Đảng, điều lệ Đảng.

Câu 3. Phân tích những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản trong
tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong các nguyên tắc đó, nguyên tắc nào là quan trọng nhất ? Vì sao ?
(Hữu Được Soạn)
A. Phân tích những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới.
V.I.Lênin đã đề ra những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới để phân biệt với những Đảng cơ hội của Quốc
tế II. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý xây dựng Đảng của V.I.Lênin, đề ra những nguyên tác xây dựng Đảng
kiểu mới ở việt nam sau đây:
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ.

-

-


-

Đây là nguyên tác cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản, không biến Đảng thành một câu lạc bộ,
Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau trong một nguyên tắc, dân
chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung; tập trung trên cơ sở dân chủ, thep nguyên tắc thiểu số
phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị
quyết của Đảng. Từ đó làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiền đánh thì chỉ như một
người”.
Về dân chủ, Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào?
Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó cũng là
một quyền lợi và cũng là một nghĩa vụ của một người.
Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc ấy, quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự
do phục tùng chân lý.”
Người đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì có dân chủ trong Đảng
mới có thể nói đến dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ triệu
lần dân chủ hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

-

Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người
thấy mặt này, người thấy mặt kia, do dó hiểu được mọi mặt, mọi vấn đề. Việc gì đã được tập thể bàn
bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ trách, như thế công việc mới
8


-


-

chạy, như thế mới tránh được thói dựa dẫm, người này ỷ vào người kia, ỷ lại vào tập thể. Không xác
định rõ cá nhân phụ trách, thì giống như “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”.
Người kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là
hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả
cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau” .
Về vấn đề tập trung dân chủ, Người giải thích:
“ Tập thể lãnh đạo là dân chủ
Cá nhân phụ trách là tập trung
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung”
Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình:

-

-

-

Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển của Đảng. Người nhấn
mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ,
mở rộng tự phê bình và phê bình”.
Người xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt
hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn.
Tự phê bình và phê bình là vũ khí để nâng cao trình độ của Đảng, để Đảng làm tròn sứ mệnh lãnh
đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc. Người nói: “Một Đảng mà giấu giếm
khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan từa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ
những cái đó… là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” .
Tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa học cách mạng, mà còn là của nghệ
thuật. Người lưu ý cán bộ, đảng viên và các cấp bộ Đảng từ trên xuống dưới phải “luôn luôn dùng và

khéo dùng cách phê bình và tự phê bình”. Muốn thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi người phải
trung thực, chân thành với bản thân mình cũng như với người khác, “phải có tình đồng chí thường
yêu lẫn nhau”.
Bốn là, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác.

-

-

-

Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên
sức mạnh to lớn của Đảng: “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức
nghiêm minh của cán bộ, đảng viên.”
Theo Hồ Chí Minh nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cá bộ,
đảng viên đối với Đảng. Hồ Chí Minh nói: “Kỷ luật này lá do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ
của họ đối với Đảng”
Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các
nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc kỷ luật của các
đoàn thể và pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối không ai được cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên
tất cả. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật,
chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền cách
mạng” .
Năm là, nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng.

-

-


-

-

Hồ Chí Minh khẳng định, đoàn kết thống nhất của Đảng là một nguyên tắc quan trọng của Đảng kiểu
mới của Lênin. Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự
đoàn kết thống nhất trong nhân dân, xây dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm bảo cho việc giành
được những thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
Hồ Chí Minh coi giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Trong di chúc,
Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ
Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình” 3
Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng và
Điều lệ Đảng. Nếu xa rời cơ sở này sẽ xuất hiện những nguy cơ phá hoại đoàn kết thống nhất từ bên
trong.
Củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất đối với cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng đến sự đoàn kết
thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến toàn Đảng. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:
“Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa
các cán bộ lãnh đạo”.
9


-

Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người yêu cầu: phải thực hiện và mở rộng dân chủ
nội bộ; phải thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình; phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân với bao nhiêu thứ tệ nạn từ chủ nghĩa cá nhân mà ra – tham ô,
lãng phí, quan liêu, bè cánh, cơ hội, dối trá, chạy theo chức quyền, danh lợi.

Trong các nguyên tắc đó, nguyên tắc nào là quan trọng nhất ? Vì sao ?

Tự liên hệ và trả lời
B.Những vấn đề trong bối cảnh hiện mà đảng cần quan tâm (tham khảo thêm)
1.Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân. Phải thường xuyên chăm lo
củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân.

-

-

-

-

Từ khi Đảng ra đời, do có đường lối đúng đắn và có sự gắn bómáu thịt với nhân dân, Đảng đã được
nhân dân thừa nhân là Đảng duy nhất có vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam và trong suốt tiến trình
đi lên của cách mạng Việt Nam, Đảng ta hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy ấy. Năm 1960, Người
nói: “Với tất cả sự khiêm tốn của một người cộng sản, chúng ta có thể tự hào rằng, Đảng ta vĩ đại
thật”.
Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không tách rời nhau,
không đối lập nhau. Người nhấn mạnh: Lãnh đạo có nghĩa là làm đầy tớ.
Đảng cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy tớ nhân dân, chứ không phải người chủ
của nhân dân, tự cho phép mình đứng trên dân, trên Nhà nước, trên pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà
nước là nhằm xây dựng một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân.
Là đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng không có quyền lợi gì của riêng mình, ngoài quyền lợi của
giai cấp, của dân tộc. Đảng không ở trên dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong dân, trong lòng
dân. đảng cũng phải lấy dân làm gốc.
2. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.

-


-

-

-

-

Chỉnh đốn và đổi mới là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về ba mặt chính trị,
tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng
lực trước những yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng.
Hồ Chí Minh nhận định, bên cạnh số đông đảng viên xứng đáng với danh hiệu của mình, thì vẫn có
một số “thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng…họ tự cho mình có quyền sống xa hoa hưởng
lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi” . Hồ Chí Minh đã nêu lên một luận điểm
quan trọng: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” . Vì vậy, phải chỉnh đốn để sửa chữa những lỗi lầm,
sai trái ấy.
Đối với toàn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu những ảnh hưởng của xã hội, cả cái tốt và cái
xấu, cái hay và cái dở. Chỉ có thể phát huy được cái tốt, cái hay, lọc bỏ được được cái xấu, cái dở
bằng việc rèn luyện thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên, thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn
Đảng.
Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh coi việc xây dựng đảng, chỉnh
đốn Đảng là công việc thường xuyên của Đảng. Người nhìn thấy rõ hai mặt của quyền lực: một mặt,
quyền lựx có sức mạnh rất to lớn để cải tạo cái cũ và xây dựng cái mới trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, nếu biết sử dụng đúng quyền lực; mặt khác, nó cũng có sức phá hoại rất ghê gớm vì
con người nắm quyền lực có thể thoái hóa, biến chất rất nhanh chóng, nếu đi vào con đường tham
muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực, và khi đã có quyền lực thì lợi dụng
quyền lực, lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi… Vì vậy, trong điều kiện đảng lãnh đạo chính

quyền, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đồi mới Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy
lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hoá biến chất gây ra.
Trước lúc đi xa, Người còn để lại những lời tâm huyết, căn dặn toàn Đảng: “Việc cần phải làm trước
tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn
nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”
10


Những luận điểm trên đây về công tác xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh thực sự là một chân lý, phản ánh
đúng thực tiễn và đã được thực tiễn kiểm nghiệm, không phải chỉ từ thực tiễn nước ta, mà còn ở nhiều nơi trên thế
giới, có ý nghĩa rất sâu xa đối với Đảng Cộng sản, đối với mỗi đảng viên cộng sản. Nghị quyết Trung ương 6 (lần
2) khoá VIII về xây dựng chỉnh đốn Đảng và Nghị quyết Đại hội IX đang được toàn Đảng triển khai hiện nay là
những việc làm thiết thực để thực hiện những di huấn của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong tình hình mới.
Câu 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Sau cách mạng Tháng Tám thành công,
Nhà nước cách mạng ra đời, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân.... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân”. Đó là điểm khác nhau về bản chất giữa nhà nước dân chủ nhân dân với các nhà nước
của giai cấp bóc lột đã từng tồi tại trong lịch sử.
- Nhà nước của dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng và ngay từ đầu là: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền
bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”
(Điều thứ 1, Hiến pháp năm 1946).
+ Quyền quyết định của nhân dân về các vấ đề liên quan đến vận mệnh quốc gia. “Những việc quan hệ đến vận mệnh
quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết” (Điều thứ 32 - Hiến pháp năm 1946). Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý,
một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta.
+ “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. + Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì
pháp luật không cấm, và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
+ Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân.
+ Các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là “công bộc của dân”. Hồ Chí Minh phê hán

những “vị đại diện” lầm lẫn sự uy quyền đó với quyền lực cá nhân, sinh lộng quyền, cửa quyền: “Cậy thế mình ở trong
ban này ban nọ, rồi ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng
dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”.
- Nhà nước do dân.
+ Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình.
+ Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu, hoạt động.
+ Nhà nước do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Hồ Chí Minh yêu cầu: Tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào
nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và sự kiểm soát của nhân dân.
- Nhà nước vì dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có Nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát mới có thể là nhà
nước vì dân.
+ Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền lợi, thật sự trong
sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta
phải hết sức tránh...”
+ Cán bộ Nhà nước phải là đầy tớ của dân, đồng thời là người lãnh đạo hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung
thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người lãnh đạo phải trí tuệ hơn
người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa, trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, “Người thay mặt dân
phải đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa minh”.
Vì sao Hồ Chí Minh lựa chọn mô hình Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân?
Trong hành trình tìm đường cứu nước, qua khảo sát chế độ nhà nước ở Anh, Pháp, Mỹ,v,v, những năm đầu
thế kỷ XX, Người phát hiện ra chính quyền ở đó vẫn ở trong tay một số ít người. Vẫn tồn tại mâu thuẫn giữa giai cấp
vô sản và tư sản, nên tuy Cách mệnh Mỹ thành công đã hơn 150 năm, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính
cách mệnh lần thứ hai. Chế độ nhà nước tư sản Mỹ hoặc Pháp “Tiếng là Cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó
tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hãy còn phải mưu
cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”. Đứng về phía
nhân dân, Người xác định: Cách mạng Việt Nam sau khi thành công sẽ không thiết lập loại nhà nước này. Nhưng khi
xây dựng nhà nước kiểu mới, Người vẫn chú ý tham khảo những yếu tố tích cực, hợp lý của tư tưởng về nhà nước và
pháp luật của bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 và bản Hiến pháp nước Mỹ, trong Bản Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền 1789 của Pháp và tác phẩm Tinh thần pháp luật của Mông-téc-xki-ơ (1689-1755), một nhà tư tưởng Pháp
tiêu biểu về lý luận nhà nước pháp quyền. (Tác phẩm tiếng Pháp đầu tiên mà Hồ Chí Minh dịch ra tiếng Việt là Tinh

thần pháp luật của Mông-téc-xki-ơ). Không chỉ trong xây dựng Hiến pháp 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên ở vùng
Đông Nam Á và xây dựng chính quyền mới sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh mới chú ý kế thừa
tinh hoa tư tưởng nhà nước pháp quyền của các chế độ khác nhau, mà sau đó trong xây dựng Hiến pháp 1959, hiến
pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Người tiếp tục khẳng định: “Chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ
11


tình hình của nước ta, nghiên cứu lại bản Hiến pháp 1946, phải tham khảo hiến pháp của các nước bạn và một số nước
tư bản có tính chất điển hình” để xây dựng bộ máy nhà nước ta.
Từ năm 1923, khi đến Liên Xô, Người đã khảo sát kỹ mô hình Nhà nước kiểu mới: ”Đảng Cộng sản cầm
quyền, tổ chức ra Chính phủ công, nông, binh, phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền, không bắt
dân đi chết cho tư bản và đế quốc chủ nghĩa nữa, ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại
đồng”. Đó là Nhà nước Xô viết ra đời sau Cách mạng tháng Mười Nga 1917. Về thực chất, đây là một hình thức nhà
nước phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Người quyết định lựa chọn con đường Cách mạng Tháng
Mười với kiểu Nhà nước xã hội chủ nghĩa đó. Tuy vậy, Hồ Chí Minh không sao chép máy móc hình thức nhà nước xô
viết. Theo con đường cách mạng vô sản, Người vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin về bản chất nền dân chủ vô sản, về chủ thể quyền lực phải thuộc về đa số, về bản chất giai cấp công nhân
của nhà nước xã hội chủ nghĩa để sáng lập Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một nhà nước
kiểu mới ở Việt Nam. Một nhà nước pháp quyền trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai. Sau khi nước ta
giành được độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tư tưởng xây dựng một nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì
dân: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…Chính quyền từ xã
đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Mọi quyền hành Nhà nước đều thuộc về nhân dân, bắt nguồn từ nhân dân, nhân dân
tổ chức ra quyền lực nhà nước từ xã đến Trung ương là đặc điểm quan trọng đầu tiên của một Nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam. Nhà nước kiểu mới sinh ra để phục vụ nhân dân, chứ không phải nhân dân phục vụ nhà nước.
Điều 1: Hiến pháp 1946 do Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn thảo khẳng định:” Nước Việt Nam là một nước
Dân chủ Cộng hòa, tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Đó là nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình. Nhà nước đó do

dân ủng hộ, giúp đỡ. Dân đóng thuế để Nhà nước chi tiêu, hoạt động. Công việc xây dựng, bảo vệ đất nước là do nhân
dân làm. Nhà nước của dân hàm ý dân có quyền giám sát hoạt động của Nhà nước. Nhà nước của dân phải tìm cách
hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở để thực
hiện tư tưởng: ” Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám
làm”. Trước đây trong chế độ phong kiến, vua là chủ, nay chế độ dân chủ, nhà nước của dân thì dân là chủ. Chủ tịch
Hồ Chí Minh định nghĩa dân chủ rất giản dị mà rất sâu sắc. ”Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ
tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Ủy viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải làm
quan cách mạng”. Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm,
đồng thời có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
Nhà nước vì dân, phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, cho nên cán bộ công chức từ Trung ương đến
địa phương đều phải là công bộc phục vụ nhân dân với tinh thần cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Người yêu cầu
Nhà nước và cán bộ, công chức: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.
Điều 32: Hiến pháp 1946 khẳng định: ”Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”.
Thực chất đây là cách: Trưng cầu dân ý một hình thức dân chủ trực tiếp trong thế giới hiện đại, đã được Người đề ra
khá sớm ở nước ta.
Dân có quyền phê bình, xây dựng, giúp đỡ Nhà nước. Hồ Chí Minh cho rằng quyết định gì của Nhà nước mà
dân chúng cho là không hợp thì cũng phải sửa chữa. Dựa vào ý kiến của nhân dân mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của
Nhà nước. Nhân dân có quyền giám sát công việc của Nhà nước. “Nếu chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng
không phải là chửi”. Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu và không tín nhiệm các quan chức Chính phủ. “Nếu
Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.
Câu 4: Phân tích quan nhiệm của HCM về nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vì sao HCM lựa chọn mô
hình Nhà nước VN là nhà nước của dân, do dân vì dân ? (Hữu Được soạn)
Trải qua thực tế các cao trào cách mạng ớ Việt Nam, về sau, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng ờ Việt Nam
một nhà nước Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Trong bài báo Dân vận (năm 1949), Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, Sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến
xã do dân tổ chức nên, Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Quan điêm về nhà nước của dân, do dân, vì dân, chúng ta thấy trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở
những nội dung cơ bản sau đây:

a) Nhà nước của dân
Là nhà nước do nhân dân lao động làm chú: (chủ sở hữu nhà nước là nhân dân)
Ngay từ 1941, khi mới về nước, thành lập thí điếm Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh Hội, Bác Hồ đã có
chủ trương: “Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới, không phải thuộc quyền riêng cùa giai cấp nào mà là của
12


chung, của toàn thể dân tộc, chỉ trừ bọn tay sai của để quốc Pháp Nhật và những bọn phản quốc..., còn ai là người dân
sống trên dải đất Việt Nam, hết thảy đều được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy
và bảo vệ chính quyền ấy”.
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đểu
thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là
Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm trên của Người được thế hiện trong các bản Hiến pháp đó.
Chăng hạn, Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không
phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn
dân phúc quyết, Hiển pháp 1959 điều 4 ghi: trong nước VN toàn bộ quyền lực đều thuộc về nhân dân lao động, người
cầm quyền trong bộ máy nhà nước (công chức) chỉ là người được uỷ quyền của dân để gánh vác công việc chung của
đất nước, họ là đầy tớ, công bộc của dân vì thế họ phải gần dân, hiểu dân, thương dân, tin dân, phải biết sử dụng sức
mạnh của dân, biết đòi hỏi dân, phải có 6 tư cách: óc nghĩ, mắt thấy, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Từ chủ tịch
nước đến người công dân đều bình đáng, như những người lính vâng mệnh quốc dân ra mặt trận, (khi không còn đủ
sức lực thì rút khỏi cương vị, không màng danh lợi).
Dân là chủ nước:
Dân là người tổ chức ra các cơ quan nhà nuớc. Thông qua chế độ tuyển cử, trực tiếp bỏ phiếu kín, bầu các đại
biểu xứng đáng thay mặt mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước từ cơ sờ đến Trung ương Quốc hội do dân bầu ra,
bầu cử phải thiết thực, tránh hình thức, nên đề cử rộng rãi nhiều ứng cử viên cho dân tự do lựa chọn ( QH 46 bầu 333
đại biểu : Hà Nội được 16 đại biểu nhưng đề cử 74 người, Nam Định 15 đại biểu đề cử 70 người... chọn mặt gửi vàng
). Nói nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội không phải là làm chủ tự do vô kỷ luật,
không phải nói làm chủ là ai muốn làm gì thì làm, làm chủ đất nước, làm chủ xã hội là làm chủ bằng nhà nước, có trật
tự, có kỷ cương, có tô chức, có pháp luật bảo đảm và bảo vệ. Cho nên, thực hiện quyền làm chủ của mình, nhân dân có
quyền bầu cử, ứng cử, tham gia cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội- Nghị viện nhân dân và Hội đồng

nhân dân địa phương.
Dân là chủ nước thông qua chế độ bãi miễn những đại biểu, những cơ quan nhà nước kế cả chính phủ nếu
không còn đủ tín nhiệm, nếu đi ngược lại lợi ích của dân.
Dân là chủ nước thông qua chế độ kiểm tra, phê bình, giám sát hoạt động của các đại biểu, các cơ quan nhà
nước do mình cử ra.
Đây là việc khó khăn đòi hỏi dân phải có năng lực, chủ thế quyền lực (dân) phải có trình độ cao, việc kiếm tra
giám sát phải có cơ chế. Vì cơ chế thường do người cầm quyền đưa ra, và thường báo vệ lợi ích của họ. Chỉ thực hiện
tốt quyền kiếm tra, phê bình, giám sát thì người dân mới thể hiện rõ tư cách cầm quyền của mình.
Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri
bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biêu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kể dân sinli. Đây thuộc về chế
độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp, Quyền làm chù và đồng thời cũng là quyền kiêm soát của nhân
dân thế hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biêu Hội đồng nhân dân nào nếu
những đại biểu đỏ tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân,
còn dân làm chu có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân
được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của
dân, đế cho nhân dân thực thi quyền làm chu của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhàn dân
được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ỷ nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân
lảm đúng chức trách và vị the của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, "cậy thế" với dân,
"quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân". Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường
phát triến của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là
Nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm cùa dân tộc Việt Nam bời vì Nhà nước đó là nhà nước
của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.
b) Nhà nước do dân
Nhân ngày Tông tuyền cử, bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Bác đã chi rõ:
“Các nhà nước trước đây do giai cấp thống trị đặt ra để thống trị nhân dân, còn Nhà nước ta bôm nay do nhân dân ta
lựa chọn, bầu ra những người tiêu biêu, thay mặt minh tham gia cơ quan quyền lực nhà nước, quyết định những vấn đề
quốc kế dân sinh, những vấn đề đổi nội và đổi ngoại của đất nước, quyết định tô chức và hoạt động của bộ máy Nhà
nước, thay mặt cho nhân dân quản lý đất nước và quản lý xã hội, giữ quyền giám sát tối cao đổi với toàn bộ hoạt động
của bộ máy Nhà nước.

Việc xây dựng nhà nước do đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ, là quyền lợi của mỗi người dân Việt Nam. Ngày
mai là một ngày vui sướng của đồng
bào ta, vì ngày mai là ngày Tống tuyến cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân
ta bắt đầu hưởng dựng quyền dân chủ của mình... Ngày mai, mỗi người đều nên vui vẻ hưởng quyền lợi của một người
dân độc lập, tự do”.
13


Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân ỉàm chủ. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm
vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ đê nâng cao được trách nhiệm làm chủ,
nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: việc nước là việc
chung, mồi người đều phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một phần".Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với
trách nhiệm, nghĩa vụ. Người nêu rõ quyyení của nhân dân, Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý là ở
chỗ:
Toàn bộ công dân bầu ra Ọuổc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ quan duy nhất có
quyền lập pháp.
Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, ủy ban thường vụ quốc hội và chính phủ
Hội đồng chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, thực hiện các nghị quyết của Quốc
hội và chấp hành pháp luật.
Mọi công việc của bộ máy Nhà nước trong việc quán lý xã hội đều thực hiên ý chí của dân( thông qua
Quổc hội do dân bầu ra).
c) Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của
nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không cỏ bất kỳ một đặc
quyền, đặc lợi nào. Trên tinh thần đỏ Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền
lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dàn dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là
gốc của nước. Hồ Chí Minh luôn luôn tâm niệm: phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân
có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành. Cả cuộc đời Người "chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ
quốc và hạnh phúc của quốc dân". Hồ Chí Minh viết: "khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông
pha sự hiếm nghèo - là vì mục đích đó. Đen lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh

việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó".
Một Nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước đến công chức bình thường đều
phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải "làm quan cách mạng" để "đè đầu cưỡi cổ nhân dân" như
dưới thời đế quốc thực dân. Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy
thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân dân. Hồ Chí Minh nói: "Tôi tuyệt nhiên không
ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức
làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất
vui lòng lui... Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều
làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi".
Nhà nước dân chủ nhân dân là phải lo cho dân về mọi mặt, nhất là những nhu cầu bức xúc, làm cho dân có ăn,
có mặc, có chỗ ở, được học hành, có điều kiện khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe. Thoả mãn không phải mang lại
cho dân mà nhà nuớc phải hướng dẫn dân làm 3 việc :
Hướng dẫn dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất nâng cao đời sống. Sản xuất giống như nước, đời sống giống như
thuyền, nước lên thì thuyền lên.
Hướng dẫn dân tiết kiệm, sản xuất mà không tiết kiệm thì giống như gió vào nhà trống
Hướng dẫn dân phân phổi cho công bằng, cho mọi người được hưởng những phúc lợi chính đáng của mình
(không sợ hàng hóa thiếu chỉ sợ phân phối không công bằng, không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên), phân phối
vừa là kinh tể vừa là chính trị,
Vì sao HCM lựa chọn môn hình Nhà nước VN là nhà nước của dân, do dân vì dân ?
Trong các thời đại xa xưa, khi con người sống chung thành một quần thể ở từng khu vực, từng địa
phương theo mô hình xã hội nguyên thủy họ đã dần dần biết tổ chức lại thành các bộ lạc, có người đứng đầu quản lý,
thường gọi là “Tù trưởng”. Khi chế độ phong kiến xuất hiện, người ta đã nghĩ ra phương thức quản lý tầm quốc gia.
Tiêu biểu ở Phương Đông (Trung Hoa cổ, khoảng hơn 1000 năm trước Công Nguyên) Vua Văn Vương nhà Chu sau
khi diệt xong Vua Trụ nhà Thương đã xây dựng một thể chế quản lý nhà nước đầu tiên tương đối toàn diện của
nước Trung Hoa thời phong kiến.
Nền tảng chính trị của nhà Chu lấy “nhân nghĩa” làm đầu, giải quyết cuộc sống cho nhân dân trước hết là
người “cùng đinh”. Sách Luận ngữ và Kinh Xuân Thu đã ghi: “quan, quả, cô, độc, thử tử giả thiên hạ chi cùng dân,
Văn Vương phát chính thi nhân, tất tiên tư tử giả” (người góa vợ, người góa chồng, người nghèo khổ, người cô độc, đó
là bốn loại người cùng dân trong thiên hạ. Vua Văn Vương ban hành chính sách làm điều “Nhân” trước tiên nghĩ
đến bốn loại người đó).

Khổng Tử viết Kinh Xuân Thu về cai trị của Nhà nước phong kiến dựa trên nền tảng phương thức quản lý của
Chu Văn Vương. Nội dung của Kinh Xuân Thu là “Nhân trị” tức là lấy người hiền, tài để trị thiên hạ, “Đức trị” tức là
lấy đạo đức để trị thiên hạ. Mặc dù Vua vẫn là người đứng đầu Nhà nước, nhưng đứng vị trí thứ 3 trong xã hội “Dân vi
quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân quý nhất; cung điện, miếu, đền thờ đứng thứ 2; Vua đứng thứ 3) (sách Mạnh
Tử).
14


Ở Âu Châu các thời Louis Đại đế; Napoléon Đại đế (của Pháp); Pie Đại đế (của Nga) lập nên chế độ quân chủ
theo “Nhân trị”, Vua là người có quyền cao nhất.
Sang thời kỳ cận đại, quá trình đấu tranh đòi hỏi của nhân dân, các nhà triết học Phương Đông cũng như
Phương Tây nhận thức rằng, không thể quản lý nhà nước theo cách cũ (dựa vào điều nhân nghĩa - Đức trị và lòng tốt
của người đứng đầu Nhà nước - Nhân trị để “gia ân” cho nhân dân), mà cần phải có quy định của pháp luật để
người đứng đầu nhà nước tuân theo đó cai trị đất nước. Vì thế, phong trào đòi Nhà nước quản lý bằng pháp luật ra đời
(Pháp trị). Ở Trung Hoa, có phong trào chống lại cách cai trị theo kiểu “Kinh Xuân Thu” của Khổng Tử, do hai ông
Dương Chu và Mặc Địch đứng đầu, rồi đến Hàn Mặc Tử là nhà “Pháp quyền”. Ở phương Tây có các ông JeanJacques-Rousseau và Montesquieu của Pháp là hai nhà “Khai sáng - Pháp quyền” nổi tiếng thế giới.
Năm 1789, Cách mạng tư sản Pháp thành công, lập lên nền Đệ nhất cộng hòa và thực hiện nhà nước pháp
quyền, xây dựng Hiến pháp, xóa bỏ chế độ phong kiến.
Sau Cách mạng tư sản Pháp, các nước ở Châu Âu lần lượt chuyển sang chế độ “Pháp quyền” (một số quốc gia
vẫn để chức Vua nhưng chỉ trên danh nghĩa “làm vì”), xây dựng Hiến pháp dân chủ gọi là chế độ “Quân chủ lập hiến”
và tồn tại đến ngày nay (ở Châu Á có Thái Lan, Malaixia...). Năm 1776, nước Mỹ Tuyên ngôn độc lập, xây dựng một
nhà nước theo chế độ dân chủ đại nghị (Thượng viện và Hạ viện), đề cao vai trò Nghị viện. Tháng 10-1917, Lênin
lãnh đạo cuộc đại cách mạng ở Nga, xây dựng một Nhà nước chuyên chính vô sản, lấy giai cấp công nhân, nông dân
làm nền tảng, lập nên nhà nước Xô Viết. Sau Đại chiến thế giới thứ hai, một số nước Đông Âu được Hồng quân Liên
Xô giải phóng cùng xây dựng Nhà nước theo kiểu Cộng hòa Xô Viết của Nga.
Một số nước ở Đông Âu nhập vào nước Nga thành Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Sau 73
năm (năm 1990), Liên Xô và các nước ở Đông Âu sụp đổ, phe Xã hội chủ nghĩa không còn nữa, chỉ còn lại ba nước
ở Châu Á và Cu Ba ở Châu Mỹ La tinh, mỗi nước xây dựng Chủ nghĩa xã hội theo cách riêng của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sau 30 năm ở nước ngoài đã nghiên cứu các mô hình quản lý nhà nước để vận dụng vào Việt
Nam khi giành được chính quyền về tay nhân dân.

Tháng 8-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam
đã đứng lên đánh đổ phát xít Nhật, thực dân Pháp, giành được chính quyền sau 80 năm bị đô hộ của thực dân Pháp và
4 năm của phát xít Nhật. Ngày 02-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn
độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong tình hình của Việt Nam lúc đó, đúc rút qua thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa cần phải xây dựng một Nhà nước kiểu mới, phù hợp với đặc điểm riêng của Việt Nam và trào lưu
phát triển của nhân loại. Hồ Chủ tịch cùng với Trung ương Đảng quyết định đường lối xây dựng và phát triển đất nước
trên nền Dân chủ Cộng hòa, lấy mục đích cao nhất là giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, kiên quyết
chống xâm lược (nhất là lúc đó thực dân Pháp dưới sự chỉ huy của chính quyền Degaulle, theo gót quân đội Anh vào
giải giáp quân đội Nhật để xâm chiếm Việt Nam lần thứ 2).
Về đối nội, Chủ tịch nước Hồ Chí Minh cùng toàn dân xây dựng một thể chế dân chủ, xóa bỏ triệt để hệ thống
cai trị của thực dân, phong kiến. Để thực hiện việc đó, trước tiên phải làm cho mọi người dân thực sự làm chủ đất
nước, tham gia bàn bạc việc nước mà bước đầu tiên là bầu ra Quốc hội của toàn dân bằng hình thức phổ thông
đầu phiếu. Sau 3 tháng giành được độc lập (02-9-1945 đến 06-01-1946), nhân dân Việt Nam lần đầu tiên bầu một
Quốc hội có đầy đủ thành phần xã hội, đảng phái tham gia và chỉ sau 10 tháng (từ tháng 01 đến tháng 10-1946) Quốc
hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, tự do - một Hiến
pháp nổi tiếng về tiến bộ và dân chủ mà ta thường gọi là Hiến pháp 1946.
Bản Hiến pháp đầu tiên đã thể hiện bản chất của chế độ Việt Nam là chế độ Dân chủ Cộng hòa, lấy dân làm gốc; đã
thể hiện đầy đủ quyền lợi của mọi người dân. Mục đích cơ bản của nó là giải phóng sức lao động, mọi người có cơm
ăn, áo mặc, việc làm; mọi người được học hành, xóa bỏ nạn đói, tiến tới xóa hết đói nghèo.
Tuy nhiên, do tình hình thế giới và trong nước lúc đó hết sức phức tạp, Việt Nam phải tập trung toàn lực của dân tộc
vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngày 22-12-1946, thực dân Pháp mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Việt
Nam, tiến hành cuộc xâm lược lần thứ 2. Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thực hiện song song 2 nhiệm vụ chiến lược: Kháng chiến - Kiến quốc. Có thể nói, trong lịch sử thế giới chưa
từng có một nước nào lại gặp khó khăn như Việt Nam trong thời kỳ 1945-1954.
Trong 9 năm vừa đánh giặc vừa xây dựng, nhân dân ta vẫn tiếp tục củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, thực
hiện các chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng cường lực lượng quốc phòng, bảo đảm mọi nhu cầu cho tiền
tuyến đánh thắng thực dân xâm lược.
Về đối ngoại, sau chiến thắng Biên giới năm 1950, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với các nước Liên Xô,
Trung Quốc và một số nước ở Đông Âu. Vị thế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từng bước được thế giới nhìn

nhận, đặc biệt là phong trào hòa bình của nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam ngày càng được mở rộng, trong đó phải
kể đến phong trào ủng hộ Việt Nam của nhân dân Pháp phản đối chính sách xâm lược Việt Nam của Chính phủ Pháp.
Cuộc chiến tranh Việt Nam tiến triển ngày càng thuận lợi, Quân đội nhân dân Việt Nam phối hợp với quân
giải phóng Lào và Campuchia liên tiếp tấn công địch trên toàn cõi Đông Dương, giữ vững các khu căn cứ và mở rộng
vùng giải phóng ở mọi miền đất nước, làm cho thực dân Pháp vô cùng khó khăn, phải thường xuyên thay đổi các
tướng lĩnh giỏi sang chỉ huy tại chiến trường Việt Nam. Từ Salan đến De Lattre de Tassigni và cuối cùng là Nava đều
15


bị đánh bại và kết thúc là Việt Nam đại thắng ở chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954). Ngày 21-7-1954, Pháp phải
ký Hiệp định đình chiến lập lại hòa bình ở Đông Dương, lấy Vĩ tuyến 17 làm giới tuyến tạm thời.
Thực dân Pháp phản bội Hiệp định Giơnevơ, chúng cấu kết, “sang tay” cho Mỹ xâm lược Việt Nam. Trong
gần 20 năm (1954-1975), đế quốc Mỹ đã dùng mọi năng lực chiến tranh của mình (trừ bom nguyên tử) vào cuộc
“Chiến tranh Đặc biệt” ở Việt Nam, hòng tiêu diệt một Nhà nước Dân chủ Cộng hòa, song chúng đã thất bại và
phải kết thúc bằng Hiệp định 4 bên ký tại Paris (Pháp) ngày 31-01-1973.
Ngày 30-4-1975, sau hơn 100 năm bị xâm lược và chia cắt, nước Việt Nam được thống nhất và mở ra một
trang sử mới cho nhân dân Việt Nam thực hiện nền Dân chủ Cộng hòa theo Hiến pháp năm 1946. Khẩu hiệu “Không
có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành hiện thực.
Với lý luận “Không có gì quý hơn Độc lập - Tự do”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo tình hình phát triển của
đất nước trong quá trình xây dựng quốc gia Độc lập, Dân chủ và bằng trải nghiệm trong suốt 30 năm bôn ba ở nước
ngoài, Người hiểu rõ bản chất của người dân và những người cầm quyền là khác biệt với nhau về quyền lợi. Người
cầm quyền, khi nắm giữ được quyền lực, họ sẽ quan tâm đến vị trí lâu dài. Còn người dân thì luôn luôn mong ước
được sống trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc. Quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh là rất chính xác đã được hiện thực
chứng minh sau này là Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, trong đó có nguyên nhân sâu xa bởi những nhà cầm
quyền thoái hóa biến chất. Đối với Chủ nghĩa tư bản, họ cũng tìm ra những cách để tồn tại lâu dài như xây dựng “Xã
hội phúc lợi chung” nay cũng bộc lộ những khuyết tật vốn có nặng nề trong cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra ở
hầu
hết các
nước
Tây

Âu


nhất

Hy
Lạp...
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận ra rằng thể chế quản lý nhà nước theo Nhân trị, Đức trị lạc hậu hơn Pháp trị; Pháp trị tiến
bộ hơn Nhân trị, Đức trị. Tuy nhiên, nếu không có người tài, đức để quản lý nhà nước thì dù có giương cao ngọn cờ
“Dân chủ”, “Nhân quyền”, “Pháp quyền” xây dựng công phu, tốn phí nhiều thời gian và tiền của, ngôn từ nhưng cũng
vẫn chỉ là trên giấy tờ. Nhận rõ thực tế đó, Người đặc biệt quan tâm đào tạo nhân tài, giáo dục nâng cao dân trí, để
có người cầm quyền có đủ đức, đủ tài quản trị đất nước; người dân có đủ trình độ, trí tuệ để nhìn rõ, kiểm tra, giám sát
những hành động của người cầm quyền, đòi quyền lợi của mình theo pháp luật, có như vậy thì Chế độ dân chủ mới
được thực hiện đầy đủ.
Câu 5: Phân tích các yêu cầu của công tác dân vận trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất của các yêu cầu đó
nhằm mục đích gì?
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định công tác vận động quần
chúng là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận - công tác vận động quần chúng - là một hệ thống những quan
điểm, phương thức dân vận được thấm nhuần trong cả cuộc đời và trong các tác phẩm của Người.
Phương thức cơ bản của công tác dân vận là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trên cơ sở nhận thức
sâu sắc dân là chủ, phương thức cơ bản của công tác dân vận là phương pháp dân chủ chứ không phải là những thủ
thuật chính trị. “Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ rằng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ
của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh
nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương rồi động viên và tổ chức toàn dân
ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với
dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”.
Để làm tốt công tác dân vận, đòi hỏi chúng ta phải hiểu thế nào là dân vận và các yêu cầu của công tác dân
vận.

- Phải nhận thức đúng và đầy đủ nội hàm khái niệm dân vận. Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi
một người dân, không để sót một người dân nào, để góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những việc nên làm;
những công việc chính phủ và đoàn thể giao cho. Dân vận là tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục mọi người
dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Dân vận còn có nghĩa là làm
gương trước dân. Nói theo nghĩa thông thường thì, dân vận là công tác dân vận của các tổ chức dân vận của Đảng,
chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị nói chung và của cả hệ thống xã hội nói riêng. Nói tóm lại, mục tiêu cao
nhất của dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là vì dân. Do đó, mọi hành động của chúng ta phải vì dân và mang
lại hiệu quả thiết thực cho dân.
- Dân vận tất cả vì lợi ích của nhân dân. Người thường nói: Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân thì ta hết
sức tránh. Đó cũng chính là mục đích của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho
quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân.
- Dân chủ là tư tưởng cơ bản xuyên suốt công tác dân vận. Tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
luôn có cái cốt lõi: Dân là gốc. Bản chất dân chủ là quyền làm người. Bác Hồ nói: Lãnh đạo một nước mà để cho nước
mình lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh phúc con người cũng là mất dân chủ. Công tác dân vận phải thật sự phát
huy dân chủ, vận động nhân dân tham gia, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
16


tế, tạo thêm công ăn việc làm, thực hiện xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân; góp phần củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững
chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế
giới.
- Có Đảng lãnh đạo và Đảng phải không ngừng tăng cường đổi mới sự lãnh đạo của mình đối với công tác
dân vận. Công tác dân vận được xem là công việc (hay còn gọi là nhiệm vụ chính trị) của các tổ chức đảng, Nhà nước
và các đoàn thể chính trị - xã hội cần phải làm tròn trước Đảng và nhân dân. Ví dụ như, công tác tuyên truyền, vận
động nhân dân thực hiện tốt đạo đức, tác phong, lối sống văn hóa, văn minh... theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Yêu cầu đối với cán bộ phụ trách công tác dân vận: phải có phẩm chất đạo đức, có trình độ, có tố chất làm
công tác dân vận, phải sâu sát với dân, mỗi cán bộ phụ trách từng lĩnh vực khác nhau phải có những yêu cầu tiêu
chuẩn khác nhau. Vấn đề phẩm chất, tác phong hay phong cách (tác phong và tư cách) của người cán bộ cách mạng,

cán bộ dân vận có ý nghĩa rất quan trọng. Về phong cách làm việc của cán bộ dân vận, Bác Hồ có nhiều cách nói khác
nhau, ở những ngữ cảnh khác nhau nhưng tập trung nhất là trong bài báo Dân vận ngày 15-10-1949, Người đúc kết
thành 12 từ: óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Đặt “óc nghĩ” lên hàng đầu, Bác Hồ muốn khẳng
định công tác dân vận không chỉ là những thao tác cụ thể, những công thức có sẵn mà bản thân nó là một khoa học khoa học về con người, một nghệ thuật - nghệ thuật tiếp cận và vận động con người, phải dày công tìm tòi suy nghĩ để
phân tích chính xác tình hình nhân dân, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn sinh động để vận động nhân dân có
hiệu quả. “Mắt trông, tai nghe, chân đi” là yêu cầu sát cơ sở, sát thực tế, đến với nhân dân để lắng nghe tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân mà giúp dân giải quyết các công việc cụ thể, đề xuất chính sách hoặc điều chỉnh chính sách cho
phù hợp, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách. “Miệng nói, tay làm” là phong cách quan trọng nhất
hiện nay, “phải thật thà nhúng tay vào việc”, không được nói một đằng, làm một nẻo, miệng thì vận động người khác
nhưng mình thì không làm hoặc làm ngược lại. Bác cũng nghiêm khắc phê phán “bệnh nói suông, chỉ ngồi viết mệnh
lệnh”.
- Phải biết coi trọng công tác dân vận. Các đoàn thể phải coi trọng công tác vận động, tập hợp quần chúng
công nhân trong các doanh nghiệp, khu công nghiệp và quần chúng nhân dân trên địa bàn dân cư vào sinh hoạt, hoạt
động trong các tổ chức quần chúng. Thực hiện có chất lượng, hiệu quả vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân đối với các cấp chính quyền nhà nước.
- Biết làm dân vận khéo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan
trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công.
- Có phương tiện hỗ trợ công tác dân vận
Bản chất của công tác dân vận chính là tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Đảng ta khẳng định: "Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng. Công tác dân vận là trách nhiệm của tất cả
các tổ chức trong hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể
nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang". Theo đó, công tác dân vận là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Công tác dân vận phải thật sự phát huy dân chủ, vận động nhân dân tham gia, đóng góp tích cực vào phát triển
kinh tế, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, thực hiện xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an
sinh xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; góp phần củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh,
giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và nâng cao vị thế của
Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Câu 6: Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của

sông suối. Người viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình
không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì".
-Đạo đức là gốc, là nền tảng vì liên quan tới Đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh trăn trở với nguy cơ của Đảng cầm quyền,
đó là sự sai lầm về đường lối và suy thoái về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm quyền, lãnh đạo
toàn xã hội, lãnh đạo Nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên của Đảng không tu dưỡng về đạo đức cách mạng thì mặt trái
của quyền lực có thể làm tha hóa con người. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải "là đạo đức, là văn minh".
*Vai trò của đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng cao thượng của con người. Theo quan
điểm của Hồ Chí Minh, mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ,
nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
*Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa
xã hội chưa phải là lí tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng tự do giải phóng, mà trước hết là ở những
giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến
đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực.
Trung với nước, hiếu với dân
17


"Trung" và "hiếu" vốn là những khái niệm đạo đức cũ chứa đựng nội dung hạn hẹp: "Trung với vua, hiếu với cha mẹ",
phản ánh bổn phận, trách nhiệm của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đưa vào khái niệm cũ một nội
dung mới, mang tính cách mạng, đó là trung với nước, hiếu với dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu.
Từ chỗ trung với vua, hiếu với cha mẹ đến trung với nước, hiếu với dân là một cuộc cách mạng trong quan
niệm về đạo đức. Hồ Chí Minh đã lật ngược quan niệm đạo đức cũ, đạo đức Nho giáo, xây dựng đạo đức mới "như
người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời". Theo quan điểm Hồ Chí Minh, nước là nước của dân và
dân là người chủ của nước. Vì vậy, "trung với nước, hiếu với dân" là thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước và
giữ nước, với con đường đi lên và phát triển của đất nước.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
- Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng

lên trên hết, trước hết.
- Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng.
- Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nội dung chủ yếu của hiếu với dân là:
- Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
- Tin dân, học dân, lắng nghe ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân, tổ chức, vận động nhân dân thực hiện tốt đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức cũ, được Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc,
đưa vào những yêu cầu và nội dung mới. Người chỉ ra rằng: phong kiến nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không
thực hiện; ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho
nước, cho dân. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một biểu hiện sinh động của phẩm chất "trung với nước hiếu
với dân".
Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai. Kiệm là tiết kiệm vật tư, tiền bạc, của cải, thời gian, không
xa xỉ, không hoang phí. Liêm là trong sạch, không tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng. Chính là không tà, là thẳng
thắn, đứng đắn. Các đức tính đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cần mà không kiệm giống như một chiếc thùng
không đáy. Kiệm mà không cần thì lấy gì mà kiệm. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ,
lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:
"Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người"
. Sđd, t.5, tr. 631.

Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì, nếu cán bộ, đảng viên mắc sai lầm,
khuyết điểm thì sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung của cách mạng, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Mặt khác, những

người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ
bại, biến thành sâu mọt của dân.
Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh tiến bộ
của một dân tộc. Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua yêu nước; là cái cần để làm
việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại.
Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào; là đặt lợi ích của cách
mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là chỉ muốn "mọi người vì mình" mà không biết "mình vì mọi người".
Nó là một thứ giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Nó là bạn đồng minh của chủ nghĩa đế quốc và
thói quen truyền thống lạc hậu. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm,
như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tự
cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền... Tóm lại, "chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng
tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu
dậy". Chủ nghĩa cá nhân là mối nguy hại cho cá nhân con người, cho một đảng và cả dân tộc. Hồ Chí Minh viết: "Một
dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày
mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"
. Sđd, t.12, tr. 557-558.
. Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
18


Tuy nhiên, cần có nhận thức đúng đắn đâu là chủ nghĩa cá nhân, đâu là lợi ích cá nhân. Hồ Chí Minh cho rằng:
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có cá tính riêng, sở
trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích
của tập thể thì không phải là xấu. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người
mới có điều kiện để cải thiện đời sống của riêng mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình.
Câu 7. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Quan
điểm của Đảng về vai trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới

* Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
1. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Định nghĩa về văn hóa
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống
và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
b) Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
- Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn nêu 5 điểm lớn định hướng cho việc xây dựng nền văn
hóa dân tộc: “1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập, tự cường; 2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho
quần chúng; 3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội; 4. Xây dựng chính
trị: dân quyền; 5. Xây dựng kinh tế”2. Văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng
a) Văn hóa là động lực của cách mạng
Động lực của văn hóa thể hiện ở chức năng của văn hóa. Chức năng của văn hóa rất phong phú, đa dạng. Theo
Hồ Chí Minh văn hóa có ba chức năng chủ yếu sau:
Một là, bồi dưỡng lý tưởng, tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp.
- Tư tưởng, tình cảm là hai vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của con người. Tư tưởng có thể đúng
đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn hoặc cao đẹp. Chức năng cao quý nhất của văn hóa là phải bồi dưỡng, nêu
cao tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai lầm và thấp hèn có thể có trong tư
tưởng, tình cảm của mỗi con người. Vì vậy, phải đặc biệt quan tâm đến những tư tưởng và tình cảm lớn chi phối đời
sống tinh thần của mỗi con người và cả dân tộc.
- Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của một Đảng, một dân tộc. Đối với nhân dân Việt Nam, đó
là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã chỉ ra chức năng hàng đầu của văn hóa là
phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do; phải làm cho ai cũng “có tinh thần vì nước quên mình,
vì lợi ích chung và quên lợi ích riêng”.
- Tình cảm lớn là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con người, yêu tính trung thực, chân thành, thủy
chung, ghét thói hư, tật xấu… Tình cảm đó thể hiện trong nhiều mối quan hệ: với gia đình, quê hương, bạn bè, anh em,
đồng chí.
Thông qua đó, văn hóa góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin vào bản thân, vào lý tưởng, vào nhân

dân, vào tiền đồ của cách mạng.
Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí.
Nói đến văn hóa là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn kiến thức của người dân. Nâng cao dân
trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để có thể hiểu biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như: kinh tế, chính
trị, lịch sử, khoa học - kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới. Vấn đề nâng cao dân trí chỉ có thể thực hiện được sau
khi chính trị đã được giải phóng, toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.
Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hóa trong từng giai đoạn cách mạng có thể có những điểm chung và riêng.
Song, tất cả đều hướng vào mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao dân trí là để nhân dân có
thể tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, góp phần cùng Đảng “… biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước
văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Đó cũng là mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” mà Đảng ta vạch ra trong công cuộc đổi mới.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh; hướng con người tới cái chân,
thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.
Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, thói quen của cá nhân và phong tục tập quán
của cả cộng đồng. Phẩm chất và phong cách thường có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi người thường có nhiều
phẩm chất, có phẩm chất chung và phẩm chất riêng, tùy theo nghề nghiệp, vị trí công tác.
Các phẩm chất thường được thể hiện qua phong cách, lối sinh hoạt, làm việc, lối ứng xử trong đời sống. Căn
cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đề ra những phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người
tự tu dưỡng. Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến phẩm chất đạo đức - chính trị vì không có
những phẩm chất này thì họ không thể hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng, không thể biến lý tưởng thành hiện thực.
19


Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị con người. Văn hóa giúp con người hình thành những
phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh, thông qua phân biệt cái đẹp với cái xấu, hư hỏng, cái tiến bộ
với cái lạc hậu, bảo thủ. Giúp con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân mình.
Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: phải làm thế nào cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là
văn hóa phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
b) Văn hóa là mục tiêu của cách mạng
Một là, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng

- Văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định đời sống xã hội bao gồm bốn mặt và
phải xây dựng đồng thời bốn mặt đó là: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Trong quan hệ với chính trị, xã hội: chính trị, xã hội được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị mở
đường cho văn hóa phát triển. Người nói: “xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy… Dưới chế độ thực dân và phong kiến,
nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được”. Để văn hóa phát triển tự do,
phải làm cách mạng chính trị trước. Ở Việt Nam, tiến hành cách mạng chính trị thực chất là tiến hành cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường
cho văn hóa phát triển.
- Trong quan hệ với kinh tế: kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, do đó phải chú
trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. Văn hóa là một kiến
trúc thượng tầng; nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phát
triển được. Như vậy, kinh tế phải đi trước một bước. Người viết: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển
kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo, vì
thế kinh tế phải đi trước”.
Hai là, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
- Đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không nhấn mạnh một chiều về sự phụ thuộc “thụ
động” của văn hóa vào kinh tế, chờ cho kinh tế phát triển xong rồi mới phát triển văn hóa. Văn hóa có tính tích cực,
chủ động, đóng vai trò to lớn như một động lực, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Người nói: “Trình độ
văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng
cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
- Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị có nghĩa là:
+ Văn hóa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Quan
điểm này định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam, định hướng cho mọi hoạt động văn hóa.
Văn hóa không đứng ngoài mà ở trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc và cuộc kháng chiến trở thành cuộc
kháng chiến có văn hóa.
+ Kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa. Điều mà chủ nghĩa xã hội và thời đại đang đòi hỏi. Ngày nay,
vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương gắn văn hóa với phát triển, chủ trương đưa các giá trị
văn hóa thấm sâu vào kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây

dựng và phát triển đất nước.
*Quan điểm của Đảng về vai trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những bước phát triển mới trong
tư duy lý luận về văn hóa, về xây dựng và phát triển nền văn hoá; quan niệm về phát triển, về mối quan hệ giữa văn
hóa và phát triển và vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Điểm mới trong tư duy về văn hóa của Đảng ta thời kỳ đổi mới là việc xác định văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội. Văn hóa không phải là một hoạt động riêng biệt có tính chất ngành nghề(ngành văn hoá - thông tin...),
không phải là một lĩnh vực hoạt động văn hóa cụ thể, không phải chỉ là học vấn, chỉ là văn nghệ,... Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, sức phát triển, sức mạnh tiềm tàng và bản lĩnh, cốt cách của
dân tộc được thể hiện qua truyền thống văn hóa dân tộc và hệ giá trị văn hóa. Các giá trị văn hoá và truyền thống văn
hoá được thấm nhuần trong mỗi con người và cả cộng đồng, dân tộc, được lưu giữ, chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát
huy qua các thế hệ... trở thành nền tảng tinh thần của mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc và xã hội. Các bộ phận cơ
bản nhất cấu thành nền văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội là: Tư tưởng, đạo đức, lối sống; học thuật; nghệ thuật;
thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa; thể chế và thiết chế văn hoá v.v..
Tư duy về phát triển của Đảng ta trong hơn hai thập niên qua cũng ngày càng sáng tỏ và sâu sắc. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu lên một số kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện Nghị
quyết Đại hội X là: “Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc(...) phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội(...) gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng
an ninh... ”(2).
20


Như vậy, theo quan điểm của Đảng ta, phát triển là một bước tiến toàn diện và đồng bộ về các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa và môi trường. Phát triển bao hàm sự tăng trưởng về kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá
- giáo dục, phát triển toàn diện con người, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm ổn định chính trị và giữ vững an ninh
- quốc phòng của Tổ quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng luôn khẳng định vị trí và vai trò to lớn của

văn hóa trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo yêu cầu và
nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta chủ trương phát huy đến mức cao nhất vai trò và tác dụng của
văn hóa, của đội ngũ những người hoạt động văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Văn hoá nghệ thuật cũng là
một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy (...) cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ
(...) phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân".
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cùng với sự đổi mới trong tư duy kinh tế và chính trị, Đảng ta đã
có những đổi mới quan trọng trong tư duy về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khoá VI (1987) về đổi mới và nâng cao
trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới đã xác định: "Văn hóa là bộ
phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa, là một động lực mạnh mẽ, đồng thời là mục tiêu lớn trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993) đã xác định: "Văn hoá là
nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội". Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1998) tiếp tục khẳng định:
"Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội (...).
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng văn minh, con người phát triển toàn
diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế các nhân tố văn hóa phải gắn kết
chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương... biến
thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển".
Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban chấp hành Trung ương khoá IX (2004) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X (2006) đã xác lập vị trí của văn hoá là một trong ba bộ phận hợp thành sự phát triển bền vững và toàn
diện của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự nhận thức sâu sắc của Đảng về mối quan hệ giữa văn
hoá và phát triển, là bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về vai trò to lớn, sâu sắc của văn hoá trong phát
triển bền vững và toàn diện của đất nước. Đây là sự năng động của nhận thức trong việc nắm bắt các vấn đề thời đại,
cũng là sự xác định chính xác định hướng phát triển văn hoá, kinh tế, chính trị và xã hội ở Việt Nam theo học thuyết
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo đó, văn hóa không đứng ngoài phát triển. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Phát triển văn hóa - nền
tảng tinh thần của xã hội gắn kết chặt chẽ, đồng bộ và tương xứng với nhiệm vụ phát triển kinh tế (là trung tâm); xây
dựng chỉnh đốn Đảng (là then chốt) chính là điều kiện quyết định sự phát triển bền vững và toàn diện của đất nước vì

“xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Để phát huy vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta cần phải
tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội,
trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, các đơn vị, tổ chức cơ sở,
các gia đình, trong từng cán bộ đảng viên, công chức, viên chức, hội viên, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo. Văn hoá
là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh phải: "Tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại(...)
Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và
kinh tế tri thức" (6). Chú trọng thực hiện tốt chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người - nguồn
lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất, là sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Cần coi đây là khâu trung
tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Phải thực sự coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển. Tăng nhanh mức đầu tư của Nhà nước và xã hội
cho phát triển văn hóa, tương xứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hoá văn hoá, giáo dục, y tế, thể
dục thể thao... đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực này. Phải gắn chặt nhiệm vụ
phát triển văn hóa với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng văn hóa trong Đảng và trong bộ máy Nhà
nước, tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" cho cán bộ đảng viên,
công chức, viên chức, hội viên và nhân dân. Xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là
văn minh” (Hồ Chí Minh), từ đó mà phát huy mạnh mẽ nhất vai trò lãnh đạo “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá”, tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
trong thời kỳ mới./.

21


Câu 8: Làm rõ sự cần thiết phải học tập và vận dụng Tư tưởng HCM trong công tác lãnh đạo và quản lý ở cấp cơ
sở? (Chị Trinh soạn)
Trả lời:
Quan điểm xuyên suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong những năm đổi mới là: “Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh”. Cùng với chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng HCM là nền tảng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng và cách mạng Việt Nam. Quan điểm của Đảng không chỉ khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là nhân tố quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam thời gian qua, mà còn chứng tỏ rằng, bước sang thế kỷ XXI, tư tưởng Hồ
Chí Minh càng trở nên quan trọng, cần thiết hơn bao giờ hết. Và có thể nói rằng, học tập, vận dụng sáng tạo, phát triển
tư tưởng HCM là một nhân tố quyết định thắng lợi của toàn bộ sự nghiệp đổi mới do Đảng CSVN khởi xướng và lãnh
đạo.
Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và đổi mới đất nước theo
hướng tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, việc học tập rèn luyện tư tưởng đạo đức cách mạng, lối sống và
làm theo tấm gương đạo đức của HCM là một việc làm hết sức quan trọng. Học tập và vận dụng sáng tạo tư tưởng của
Người là vô cùng cần thiết, là một biện pháp quan trọng hàng đầu để mỗi Đảng viên, cán bộ lãnh đạo và quản lý ở cấp
cơ sở nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng, đáp ứng
tốt những yêu cầu, nhiệm vụ trong điều kiện đất nước ta hiện nay, góp phần xây dựng Đảng ta thật sự "là đạo đức, là
văn minh".
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán
bộ. Theo Người, phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ có vai trò to lớn để nghị quyết, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước thấm sâu vào "tâm lý quốc dân"và đi vào cuộc sống. Biến nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà
nước thành hành động của quần chúng, tạo ra đột phá trong các lĩnh vực cách mạng. Phong cách lãnh đạo, quản lý là
tổng hợp những phương pháp, cách thức, biện pháp, tác phong, lề lối làm việc để vận dụng các kiến thức, tri thức khoa
học vào thực tiễn đem lại hiệu quả cao trong công tác. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng cấu thành phẩm chất, năng lực
của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Thực tế cho thấy, đối với người cán bộ cơ sở, khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ có những lúc, những công
việc chưa hoàn thành tốt không phải do thiếu kiến thức và sự nhiệt tình, trách nhiệm hay phương tiện, vật chất bảo
đảm mà còn do phong cách lãnh đạo, quản lý chưa phù hợp. Nội dung về xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý của
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là phong cách: Dân chủ, khoa học, đúng pháp luật, sâu sát,
cụ thể. Đồng thời, đưa ra một số giải pháp giúp đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có định hướng xây dựng, rèn luyện phong
cách lãnh đạo, quản lý cho mình:
1-Về phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ
Phong cách dân chủ là đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, nó sẽ khơi dậy được mọi
sự tham gia nhiệt tình, và những đóng góp sáng tạo của quần chúng. Hồ Chí Minh khẳng định, thực hành dân chủ là
chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề. Người viết: "Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ

với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”. Trước hết, Hồ Chí Minh yêu cầu phong
cách dân chủ là phải "Đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết". Tư tưởng nổi bật, cốt lõi và xuyên suốt cuộc đời Chủ tịch
Hồ Chí minh là mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, trong lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
căn dặn cán bộ các cấp, phải đặt lợi ích nhân dân lên trên hết: "Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại
đến dân phải hết sức tránh". Tư tưởng "Tất cả vì lợi ích của nhân dân" chính là kim chỉ nam cho hoạt động lãnh đạo,
quản lý của đội ngũ cán bộ cấp cở sở, đối lập với tư tưởng này chính là chủ nghĩa cá nhân. Từ chủ nghĩa cá nhân mà
sinh ra "tham lam" vi phạm lợi ích của nhân dân, không quan tâm đến lợi ích của dân, chỉ mưu "vinh thân, phì gia",
làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bởi vậy, mỗi cán bộ cấp cơ sở phải ghi tạc lời dạy của Bác Hồ:
"Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết".
Phong cách dân chủ đòi hỏi phải "Đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm cho dân". Năm 1947, Chủ tịch Hồ
Chí Minh về thăm Thanh Hóa, Người căn dặn: "Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân. Trước kia, sức
dân, của dân làm lợi cho đế quốc, nay đem lại lợi ích cho dân". Đây là một triết lý vô cùng độc đáo và hết sức sâu sắc,
đồng thời có ý nghĩa lớn với việc xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đem tài dân, sức dân, của dân, tức là đem toàn bộ sức người, sức của, tinh thần, vật chất, tài
năng, của cải, tài sản trong dân để làm lợi cho dân. Nói ngắn gọn, đây chính là triết lý phát huy nguồn lực của dân để
đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
2- Về phong cách lãnh đạo, quản lý khoa học
Hồ Chí Minh yêu cầu đội ngũ cán bộ phải có “Cách làm việc có khoa học”. Phong cách lãnh đạo, quản lý
khoa học đòi hỏi cách làm việc phải đúng với quy luật khách quan, mang tính kế hoạch, bài bản, sáng tạo và hiệu quả.
Theo Hồ Chí Minh Phong cách lãnh đạo, quản lý khoa học đòi hỏi người cán bộ phải "đặt kế hoạch rõ ràng, tỉ mỉ,
thiết thực", đồng thời phải có "óc tổ chức", chia công, xếp việc cho rõ ràng, tổ chức động viên "toàn dân ra thi hành"
và phải "khéo kiểm soát" để tổng kết "rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng". Đối lập với phong cách khoa học là
thói tuỳ tiện, chủ quan, duy ý chí, gặp chăng hay chớ, thiếu kế hoạch, luộm thuộm, không có hiệu quả. Phong cách
khoa học đòi hỏi người cán bộ phải không ngừng sáng tạo, đổi mới cái cũ, cái lạc hậu và làm mới những cái chưa có
22


trong tiền lệ, để tìm ra hướng đi mới, cách làm hay đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh yêu cầu cán bộ phải: "có tinh thần sáng tạo, tìm tòi cái mới, học tập cái mới, ủng hộ cái mới, thực hiện cái
mới thì việc gì cũng làm được". Đồng thời, phong cách khoa học đòi hỏi phải mang lại hiệu quả, tránh phô trương hình

thức. Hiệu quả là tiêu chí đánh giá Tài - Đức của đội ngũ cán bộ, đánh giá sự phù hợp hay không phù hợp của phong
cách lãnh đạo, quản lý của cán bộ cấp cơ sở.
3- Về phong cách lãnh đạo, quản lý đúng pháp luật
Không chỉ dân chủ, khoa học trong công việc mà thực tiễn đổi mới sôi động luôn luôn vận động và phát triển
trong sự phong phú, đa dạng, đòi hỏi người cán bộ cấp cơ sở trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của mình phải "đúng
pháp luật". Sự nghiệp đổi mới hiện nay đòi hỏi người cán bộ cấp cơ sở phải thực sự năng động, sáng tạo, luôn tìm
chọn con đường, biện pháp tối ưu để hoàn thành công việc, để đạt hiệu quả cao trong hoạt động lãnh đạo, quản lý.
Nhưng sự nhanh nhạy, năng động, sáng tạo phải thống nhất với nguyên tắc "tính Đảng"- nghĩa là phải đúng với quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cách làm "giữ cho tròn" hoặc "bung ra hết cỡ", làm
giàu bằng mọi giá, cũng đều sai lầm và xa lạ với tư tưởng Hồ Chí Minh, Người phê phán cán bộ: "...muốn làm gì cứ tự
ý làm bừa đi, chẳng bàn hỏi thảo luận với ai, không theo pháp luật chính phủ ban hành, không dựa vào ý nguyện dân
chúng" và làm như vậy sẽ "hại đến uy tín của Chính phủ, làm cho dân chúng oán thán, kêu ca".
4- Về phong cách lãnh đạo, quản lý sâu sát
Cấp cơ sở là cấp gần dân nhất, sát dân nên lãnh đạo muốn thành công đòi hỏi người cán bộ cấp cơ sở phải có
phong cách đi sâu đi sát quần chúng. Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải "đi sát cơ sở, nằm ở cơ sở" để
"hỏi dân, học dân và hiểu dân" qua đó mới có thể nắm được "dân tâm, dân tình, dân ý". Mới kiểm nghiệm được sự sát
đúng của các chủ trương chính sách, mới phát hiện được những nhân tố mới, điển hình tiên tiến để ủng hộ và nhân
rộng. Theo đó, Cán bộ cấp cơ sở phải "óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm". Đối lập với phong
cách sâu sát quần chúng đó là bệnh quan liêu xa rời quần chúng. Người chỉ rõ do cách lãnh đạo: "xa rời quần chúng
nên sinh ra bệnh quan liêu". Do đó, Người yêu cầu: "Cán bộ phải đi sát sản xuất, đi sát quần chúng và phải dân chủ
với dân". Chỉ khi nào cán bộ cấp cơ sở có tác phong sâu sát thì mới có thể hình thành phong cách dân chủ, khoa học và
đúng pháp luật.
5- Về phong cách lãnh đạo, quản lý cụ thể
Cấp cơ sở là cấp tổ chức thực hiện, cấp hành động, cấp hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, chính đặc trưng này đòi hỏi người cán bộ cấp cơ sở phải có phong cách lãnh đạo cụ thể,
phải thực sự rõ từng người, rõ từng việc, không thể chung chung, đại khái. Trong nhiều bài viết, bài nói của mình Chủ
tịch Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán và kiên quyết chống thói làm việc chung chung, đại khái. Người yêu cầu cán bộ:
"phải tránh cách lãnh đạo đại khái, phiến diện chung chung" và "cần phải lãnh đạo toàn diện và cụ thể". Lãnh đạo mà
không cụ thể mà chỉ đại khái, chung chung thì kết quả đem lại chỉ là "hỏng việc", nhân dân "oán thán, kêu ca", uy tín
của Đảng trước nhân dân bị giảm sút.

Phong cách không phải là cái có sẵn, không phải là bẩm sinh. Phong cách là nét đặc sắc, đặc trưng riêng và là
sự sáng tạo của mỗi cá nhân. Nét đặc sắc đó, sự sáng tạo đó, chỉ có được thông qua quá trình học tập và rèn luyện thực
sự nghiêm túc và trách nhiệm của mỗi cá nhân. Theo đó, người cán bộ cấp cơ sở chỉ có phong cách lãnh đạo, quản lý
dân chủ, khoa học, đúng pháp luật, sâu sát, cụ thể, trên cơ sở thái độ cầu thị, trách nhiệm cao đối với bản thân, với
Đảng với nhân dân; trên cơ sở sự chuyển hóa từ nhận thức đến hành động, thấm sâu giữa lời nói với việc làm, sự thống
nhất giữa cách nghĩ, cách làm và cách sống của cán bộ cấp cơ sở. Bởi vậy, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở cần thực hiện có
hiệu quả một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở phải học tập, rèn luyện từ thực tiễn. Chính thực tiễn sôi động giúp cho
người cán bộ cơ sở tự ý thức được sự hạn chế, thiếu hụt của bản thân để có kế hoạch học tập và rèn luyện đồng thờ, bổ
sung, bồi đắp thêm những thiếu hụt về kiến thức, năng lực, kinh nghiệm và kỹ năng công tác đáp ứng với sự vận động,
phát triển của cách mạng trong giai đoạn mới.
Thứ hai, nghiêm túc học tập và rèn luyện phong cách lãnh đạo, quản lý thông qua trường lớp - đối với đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở, trước hết và quan trọng là học tập, rèn luyện tại trường Chính trị tỉnh, thành phố. Công cuộc đổi mới
luôn vận động, sự nghiệp đổi mới ngày càng phát triển, yêu cầu của người dân, của cấp cơ sở đối với đội ngũ cán bộ
ngày càng cao. Đòi hỏi người cán bộ cấp cơ sở phải thường xuyên phải bồi dưỡng, cập nhật những kiến thức, kỹ năng
và kinh nghiệm mới về khoa học lãnh đạo quản lý.
Thứ ba, xây dựng và rèn luyện phong cách thông qua việc lấy phiếu tín nhiệm theo Quy định của Bộ Chính trị
về việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với thành viên lãnh đạo cấp uỷ và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng,
nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Qua đó, cán bộ xem xét, nhìn nhận đánh giá phong cách
lãnh đạo, quản lý của mình phù hợp hay chưa phù hợp, từ đó đặt ra phương hướng học tập, rèn luyện để phong cách
lãnh đạo, quản lý của mình ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn.
Thứ tư, mỗi cán bộ cấp cơ sở phải làm tốt việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình. Thông qua đó, người cán
bộ cấp cơ sở tự nhận thức được đúng về chính bản thân mình, khiêm tốn lắng nghe, tiếp thu ý kiến phê bình của đồng
chí, của quần chúng để thấy được những mặt mạnh để phát huy và những hạn chế của bản thân để khắc phục sửa chữa,
từ đó chuyển thành nhận thức và hành động tự giác.
23


Thứ năm, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch cụ thể rèn luyện, học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh. Hơn ai hết, người cán bộ cấp cơ sở phải nêu tinh thần gương mẫu học tập, rèn luyện suốt đời theo tấm

gương, đạo đức Hồ Chí Minh. Học tập và làm theo Người mỗi cán bộ cấp cơ sở phải thực sự: lời nói đi đôi với việc
làm, dân chủ, sâu sát thực tế, gần gũi để thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân, quan tâm
chăm lo đến lợi ích của nhân dân, có trách nhiệm với dân, tôn trọng nguyên tắc của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ
cương của xã hội. Để cán bộ thực sự là những người tiền phong, gương mẫu, được quần chúng tin yêu, quý trọng,
xứng đáng là người lãnh đạo, là công bộc của của nhân dân.
Tóm lại, cán bộ cấp cơ sở cần phải coi việc rèn luyện, xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý theo tư tưởng
Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ thường xuyên, tự giác và bền bỉ suốt đời. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không
phải trên trời sa xuống. Nó do học tập, đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển hoàn thiện, cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Rèn luyện đạo đức cũng như phong cách của mỗi người không thể
trong ngày một ngày hai, mà cần phải rèn luyện thường xuyên. Thực tiễn luôn thay đổi, đặt ra những yêu cầu mới của
nhiệm vụ cách mạng và trước những tác động của nền kinh tế thị trường, nếu không tự tu dưỡng, rèn luyện phong cách
của bản thân, người cán bộ cấp cơ sở sẽ không thể đáp ứng yêu cầu của thời cuộc. Hồ Chí Minh đã dạy: "Một dân tộc,
một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân". Theo đó, mỗi
cán bộ, đảng viên phải học tập, rèn luyện không ngừng, học không chỉ là nghĩa vụ để chuẩn hóa cán bộ theo yêu cầu
của Đảng mà còn phải là nhu cầu tự thân, học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Chỉ khi nào học vấn trở thành công
cụ nhận thức, công cụ hoạt động làm tăng lên giá trị của chính mình, tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, khi đó học vấn mới trở thành văn hóa, trở thành thành tố quan trọng trong
phong cách lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
(Trâm soạn) Câu 8: Làm rõ sự cần thiết phải học tập và vận dụng TTHCM trong công tác lãnh đạo, quản lý ở cấp
cơ sở? (Để có thêm nhiều ý)
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán
bộ. Theo Người, phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ có vai trò to lớn để nghị quyết, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước thấm sâu vào "tâm lý quốc dân"và đi vào cuộc sống. Biến nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà
nước thành hành động của quần chúng, tạo ra đột phá trong các lĩnh vực cách mạng. Phong cách lãnh đạo, quản lý là
tổng hợp những phương pháp, cách thức, biện pháp, tác phong, lề lối làm việc để vận dụng các kiến thức, tri thức khoa
học vào thực tiễn đem lại hiệu quả. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng cấu thành phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở.
Thực tế cho thấy, đối với người cán bộ cơ sở, khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ có những lúc, những công
việc chưa hoàn thành tốt không phải do thiếu kiến thức và sự nhiệt tình, trách nhiệm hay phương tiện, vật chất bảo

đảm mà còn do phong cách lãnh đạo, quản lý chưa phù hợp. Từ việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, xin trao đổi
một số nội dung về xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
đó là phong cách: Dân chủ, khoa học, đúng pháp luật, sâu sát, cụ thể. Đồng thời, khuyến nghị một số giải pháp giúp
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có định hướng xây dựng, rèn luyện phong cách lãnh đạo, quản lý cho mình.
Về phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ
Phong cách dân chủ là đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, nó sẽ khơi dậy được mọi
sự tham gia nhiệt tình, và những đóng góp sáng tạo của quần chúng. Hồ Chí Minh khẳng định, thực hành dân chủ là
chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề. Người viết: "Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ
với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến"(2). Trước hết, Hồ Chí Minh yêu cầu phong
cách dân chủ là phải "Đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết". Tư tưởng nổi bật, cốt lõi và xuyên suốt cuộc đời Chủ tịch
Hồ Chí minh là mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, Người từng nói: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho
quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân"(3). Bởi vậy, trong lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường căn dặn cán bộ các cấp, phải đặt lợi ích nhân dân lên trên hết: "Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm,
việc gì có hại đến dân phải hết sức tránh"(4). Tư tưởng "Tất cả vì lợi ích của nhân dân" chính là kim chỉ nam cho hoạt
động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ cấp cở sở, đối lập với tư tưởng này chính là chủ nghĩa cá nhân. Từ chủ
nghĩa cá nhân mà sinh ra "tham lam" vi phạm lợi ích của nhân dân, không quan tâm đến lợi ích của dân, chỉ mưu "vinh
thân, phì gia", làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bởi vậy, mỗi cán bộ cấp cơ sở phải ghi tạc lời dạy
của Bác Hồ: "Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết"5.
Phong cách dân chủ đòi hỏi phải "Đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm cho dân". Năm 1947, Chủ tịch Hồ
Chí Minh về thăm Thanh Hóa, Người căn dặn: "Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân. Trước kia, sức
dân, của dân làm lợi cho đế quốc, nay đem lại lợi ích cho dân"(6). Đây là một triết lý vô cùng độc đáo và hết sức sâu
sắc, đồng thời có ý nghĩa lớn với việc xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đem tài dân, sức dân, của dân, tức là đem toàn bộ sức người, sức của, tinh thần, vật chất,
tài năng, của cải, tài sản trong dân để làm lợi cho dân. Nói ngắn gọn, đây chính là triết lý phát huy nguồn lực của dân
để đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Về phong cách lãnh đạo, quản lý khoa học
24


Hồ Chí Minh yêu cầu đội ngũ cán bộ phải có “Cách làm việc có khoa học”. Trong tác phẩm Sửa đổi lề lối làm

việc, Hồ Chí Minh viết: “Nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì thành tích của Đảng còn to
tát hơn nữa”7. "đúng hơn", "khéo hơn" chính là cách lãnh đạo, quản lý khoa học. Phong cách lãnh đạo, quản lý khoa
học đòi hỏi cách làm việc phải đúng với quy luật khách quan, mang tính kế hoạch, bài bản, sáng tạo và hiệu quả. Theo
Hồ Chí Minh Phong cách lãnh đạo, quản lý khoa học đòi hỏi người cán bộ phải "đặt kế hoạch rõ ràng, tỉ mỉ, thiết
thực", đồng thời phải có "óc tổ chức", chia công, xếp việc cho rõ ràng, tổ chức động viên "toàn dân ra thi hành" và
phải "khéo kiểm soát" để tổng kết "rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng". Đối lập với phong cách khoa học là thói
tuỳ tiện, chủ quan, duy ý chí, gặp chăng hay chớ, thiếu kế hoạch, luộm thuộm, không có hiệu quả. Người phê bình cán
bộ: "cách làm việc không có kế hoạch, gặp sao làm vậy, làm lấy lệ, không có ngăn nắp, làm không đến nơi đến chốn"8.
Phong cách khoa học đòi hỏi người cán bộ phải không ngừng sáng tạo, đổi mới cái cũ, cái lạc hậu và làm mới những
cái chưa có trong tiền lệ, để tìm ra hướng đi mới, cách làm hay đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải: "có tinh thần sáng tạo, tìm tòi cái mới, học tập cái mới, ủng hộ cái mới,
thực hiện cái mới thì việc gì cũng làm được"9. Đồng thời, phong cách khoa học đòi hỏi phải mang lại hiệu quả, tránh
phô trương hình thức. Hiệu quả là tiêu chí đánh giá Tài - Đức của đội ngũ cán bộ, đánh giá sự phù hợp hay không phù
hợp của phong cách lãnh đạo, quản lý của cán bộ cấp cơ sở. Hồ Chí Minh căn dặn: "Hãy kiên quyết chống bệnh nói
suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất"10.
Về phong cách lãnh đạo, quản lý đúng pháp luật
Không chỉ dân chủ, khoa học trong công việc mà thực tiễn đổi mới sôi động luôn luôn vận động và phát triển
trong sự phong phú, đa dạng và nhiều màu vẻ, còn đòi hỏi người cán bộ cấp cơ sở trong hoạt động lãnh đạo, quản lý
của mình phải "đúng pháp luật". Sự nghiệp đổi mới hiện nay đòi hỏi người cán bộ cấp cơ sở phải thực sự năng động,
sáng tạo, luôn tìm chọn con đường, biện pháp tối ưu để hoàn thành công việc, để đạt hiệu quả cao trong hoạt động lãnh
đạo, quản lý. Nhưng sự nhanh nhạy, năng động, sáng tạo phải thống nhất với nguyên tắc "tính Đảng"- nghĩa là phải
đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cách làm "giữ cho tròn" hoặc "bung
ra hết cỡ", làm giàu bằng mọi giá, cũng đều sai lầm và xa lạ với tư tưởng Hồ Chí Minh, Người phê phán cán bộ:
"...muốn làm gì cứ tự ý làm bừa đi, chẳng bàn hỏi thảo luận với ai, không theo pháp luật chính phủ ban hành, không
dựa vào ý nguyện dân chúng" và làm như vậy sẽ "hại đến uy tín của Chính phủ, làm cho dân chúng oán thán, kêu
ca"11.
Về phong cách lãnh đạo, quản lý sâu sát
Cấp cơ sở là cấp gần dân nhất, sát dân nên lãnh đạo muốn thành công đòi hỏi người cán bộ cấp cơ sở phải có
phong cách đi sâu đi sát quần chúng. Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải "đi sát cơ sở, nằm ở cơ sở" để
"hỏi dân, học dân và hiểu dân" qua đó mới có thể nắm được "dân tâm, dân tình, dân ý". Mới kiểm nghiệm được sự sát

đúng của các chủ trương chính sách, mới phát hiện được những nhân tố mới, điển hình tiên tiến để ủng hộ và nhân
rộng. Theo đó, Cán bộ cấp cơ sở phải "óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm"(12). Đối lập với phong
cách sâu sát quần chúng đó là bệnh quan liêu xa rời quần chúng. Người chỉ rõ do cách lãnh đạo: "xa rời quần chúng
nên sinh ra bệnh quan liêu"13. Do đó, Người yêu cầu: "Cán bộ phải đi sát sản xuất, đi sát quần chúng và phải dân chủ
với dân"14. Chỉ khi nào cán bộ cấp cơ sở có tác phong sâu sát thì mới có thể hình thành phong cách dân chủ, khoa học
và đúng pháp luật.
Về phong cách lãnh đạo, quản lý cụ thể
Cấp cơ sở là cấp tổ chức thực hiện, cấp hành động, cấp hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, chính đặc trưng này đòi hỏi người cán bộ cấp cơ sở phải có phong cách lãnh đạo cụ thể,
phải thực sự rõ từng người, rõ từng việc, không thể chung chung, đại khái. Trong nhiều bài viết, bài nói của
mình Chủ tịch Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán và kiên quyết chống thói làm việc chung chung, đại khái. Người khẳng
định: "không thể lãnh đạo chung chung", "chống cách lãnh đạo chung chung", Người yêu cầu cán bộ: "phải tránh
cách lãnh đạo đại khái, phiến diện chung chung" và "cần phải lãnh đạo toàn diện và cụ thể"15. Lãnh đạo mà không cụ
thể, đại khái, chung chung thì kết quả đem lại chỉ là "hỏng việc", nhân dân "oán thán, kêu ca", uy tín của Đảng trước
nhân dân bị giảm sút.
Tóm lại, cán bộ cấp cơ sở cần phải coi việc rèn luyện, xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý theo tư tưởng
Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ thường xuyên, tự giác và bền bỉ suốt đời. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không
phải trên trời sa xuống. Nó do học tập, đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển hoàn thiện, cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Rèn luyện đạo đức cũng như phong cách của mỗi người không thể
trong ngày một ngày hai, mà cần phải rèn luyện thường xuyên. Thực tiễn luôn thay đổi, đặt ra những yêu cầu mới của
nhiệm vụ cách mạng và trước những tác động của nền kinh tế thị trường, nếu không tự tu dưỡng, rèn luyện phong cách
của bản thân, người cán bộ cấp cơ sở sẽ không thể đáp ứng yêu cầu của thời cuộc. Hồ Chí Minh đã dạy: "Một dân tộc,
một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"16. Theo đó,
mỗi cán bộ, đảng viên phải học tập, rèn luyện không ngừng, học không chỉ là nghĩa vụ để chuẩn hóa cán bộ theo yêu
cầu của Đảng mà còn phải là nhu cầu tự thân, học tập thường xuyên, học tập suốt đời để có phẩm chất tốt, đồng thời
có nền tảng học vấn cần thiết. Chỉ khi nào học vấn trở thành công cụ nhận thức, công cụ hoạt động làm tăng lên giá trị
của chính mình, tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, khi đó học
25



×