Tải bản đầy đủ (.doc) (268 trang)

Sự chuyển biến của quan hệ ngoại giao giữa việt nam và trung quốc từ năm 1802 đến năm 1885

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.44 MB, 268 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT
NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH

SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA QUAN HỆ NGOẠI
GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1885

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI – năm 2014


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH

SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA QUAN HỆ NGOẠI
GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1885
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62.22.03.13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRẦN THỊ VINH



HÀ NỘI-năm 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Đề tài
không trùng với bất cứ nghiên cứu nào đã được công bố. Những số liệu và kết quả
nghiên cứu được nêu lên trong luận án là trung thực, khách quan và đảm bảo tính
khoa học về nguồn gốc xuất xứ.
Hà Nội, tháng 9/2014
Tác giả
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án này, ngoài nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được
nhiều sự giúp đỡ quý báu từ phía Thầy Cô, đồng nghiệp và người thân. Trước hết,
tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến PGS.TS. Trần Thị Vinh, cô giáo hướng dẫn của tôi.
Trong suốt thời gian qua, Cô đã tận tình chỉ bảo, định hướng nhận thức để tôi hoàn
thành luận án tiến sĩ này.
Ngoài ra, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các Thầy Cô đang công
tác tại Viện Sử học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Văn học - Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam…Các Thầy Cô đã nhiệt thành chỉ bảo và góp ý, bổ sung
thêm tư liệu hữu ích để luận án của tôi được hoàn thành.
Nhân đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy Cô, bạn bè đồng nghiệp tại
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã luôn chia sẻ, động viên, cung cấp thêm thông
tin tư liệu để tôi sớm hoàn thành luận án.
Cuối cùng, sự khích lệ tinh thần của gia đình là động lực rất lớn giúp tôi vượt
qua nhiều khó khăn, trở ngại trong suốt thời gian qua để theo đuổi công trình nghiên
cứu này của mình.

Hà Nội, tháng 9 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1

1. Lí do chọn đề tài

1

2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

5

5. Đóng góp của luận án


8

7. Bố cục của luận án

9

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

10

1.1. Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước và ngoài nước có liên
quan đến đề tài luận án

10

1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước

10

1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài

22

1.2. Những vấn đề còn tồn tại và hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài luận án27
Chương 2: QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN 1802 – 1858

31

2.1. Hoàn cảnh lịch sử tác động đến quan hệ ngoại giao Việt – Trung giai đoạn

1802 – 1858.

31



2.2. Nội dung của hoạt động ngoại giao Việt–Trung giai đoạn 1802 – 1858

34

2.1.1. Xin đổi quốc hiệu

34

2.2.2. Cầu phong, thụ phong

36

2.2.3. Triều cống, lễ sính

43

2.2.4. Giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ

48

2.2.5. đổi văn thơ bang giao

53


2.2.6. Thương mại triều

60

2.2.7. ôn bán trên bộ

64

2.2.8. ôn bán trên biển

66

2.3. Đóng góp của những vị chánh, phó sứ tiêu biểu giai đoạn 1802 – 1858

70

Tiểu kết chương 2

78

Chương 3: QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN 1858 – 1885

81

3.1. Hoàn cảnh lịch sử tác động đến quan hệ ngoại giao Việt – Trung giai đoạn
1858 – 1885
81
3.2. Nội dung của hoạt động ngoại giao Việt – Trung giai đoạn 1858-1885


85

3.2.1. ầu phong, thụ phong

85

3.2.2. ều cống, lễ sính

85

3.2.3. ải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ

87

3.2.4. đổi văn thơ bang giao

89

3.2.5. ương mại triều cống

100

3.2.6. Buôn bán trên bộ

104

3.2.7. Buôn bán trên biển

105


3.3. Đóng góp của những vị chánh, phó sứ tiêu biểu giai đoạn 1858 – 1885

107


Tiểu kết chương 3

112

Chương 4: ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG CHUYỂN BIẾN CỦA QUAN HỆ
NGOẠI GIAO VIỆT – TRUNG (1802 - 1885)

114

4.1. Về những chuyển biến trong hoạt động ngoại giao Việt – Trung trước và
sau khi thực dân Pháp xâm lược (1858)

115

4.1.1. rong hoạt động cầu phong, thụ phong

115

4.1.2. Trong hoạt động triều cống, lễ sính

116

4.1.3. Trong việc giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ

121


4.1.4. Trong hoạt động trao đổi văn thơ bang giao

124

4.1.5. rong hoạt động thương mại triều cống

126

4.1.6. rong hoạt động buôn bán trên bộ, trên biển

128

4.2. Về những chuyển biến trong thái độ giữa nhà Nguyễn và nhà Thanh trước hoạt
động quân sự của thực dân Pháp ở Việt Nam

130

4.2.1. Từ những nỗ lực tự chủ chống Pháp đến sự cầu viện triều Thanh của nhà
Nguyễn

130

4.2.2. thái độ giằng co, tranh chấp sang thái độ thỏa hiệp với Pháp về vấn đề
Việt Nam của nhà Thanh

135

Tiểu kết chương 4


141

KẾT LUẬN

143

TÀI LIỆU THAM KHẢO

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN

168

PHỤ LỤC

170



DANH MỤC PHỤ LỤC

Trang
I. Một số khái niệm có liên quan đến luận án

171

II. Bản đồ Việt Nam thời Nguyễn


174

II.1. 1. Đại Nam nhất thống toàn đồ (大大大大大大) (1838)

174

II.2. Bản đồ thế giới xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa thế kỷ XIX

175

III. Các bảng thống kê về những hoạt động ngoại giao giữa Việt Nam và
Trung Quốc (1802 - 1885)
182
III.1. 1. Bảng thống kê các sứ bộ Việt Nam dưới triều Nguyễn sang cầu
phong Trung Quốc

182

III.2. Bảng thống kê các sứ bộ Trung Quốc sang sắc phong cho các vua
triều Nguyễn (1802 - 1858)
183
III.3. 3. Bảng các sứ bộ Việt Nam sang triều cống nhà Thanh (1802 – 1858)
(Qua Đại Nam thực lục)

184

III.4. Bảng các sứ bộ Việt Nam sang triều cống nhà Thanh (1802 – 1858)
(Qua 大大大大大大关大大大)


188

III.5. Bảng thống kê các sứ bộ Việt Nam sang lễ sính nhà Thanh
(1802 – 1858)
190
III.6. Bảng thống kê số lần sứ bộ Việt Nam sang Trung Hoa thuần túy mua hàng
theo lệnh của triều đình (1802 - 1858)
193


III.7. Bảng thống kê các sứ đoàn Việt Nam sang triều cống Trung Hoa
(1858 - 1885)
194
III.8. Bảng thống kê các sứ đoàn Việt Nam sang triều cống
Trung Hoa (1858 - 1885) (Qua 大大大大大大关大大大)

196

III.9. Bảng thống kê các sứ bộ Việt Nam sang lễ sính Trung Hoa
(1858 - 1885)
197
III.10. Bảng ngạch thuế nhập cảng của các thuyền buôn Trung Hoa sang buôn bán ở
Bắc Kỳ theo quy định của Tự Đức
198
IV. Những tư liệu bổ sung cho các hoạt động ngoại giao giữa Việt Nam và
Trung Quốc (1802 - 1885)

199

IV.1. Sứ thuyền thời Nguyễn


199

IV.2. Thể thức việc tiếp sứ

200

IV.3. Đại lễ tuyên phong

204

IV.4. Thiết tiệc

212

IV.5. Tặng phẩm

213

IV.6. Hộ tống

216

IV.7. Thơ văn bang giao trong quan hệ Việt – Trung thế kỷ XIX

221

IV.8. Hiệp ước Thiên Tân Pháp – Trung Hoa 1885

222



DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ TRONG NỘI DUNG LUẬN
ÁN
Trang
Biểu đồ 4.1. Số lần triều cống Trung Hoa của Việt Nam qua hai giai đoạn 18021858 và 1858-1885 (Theo Đại Nam thực lục)

118

Biểu đồ 4.2. Số lần triều cống Trung Hoa của Việt Nam qua 2 giai đoạn: 1802-1858
và 1858-1885 (theo 大大大大大大关大大大 (Nghiên cứu quan hệ tông phiên Trung –
Việt thời Thanh))

118

Biểu đồ 4.3. Số lần lễ sính Trung Hoa của Việt Nam qua 2 giai đoạn: 1802-1858 và
1858-1885 (Theo Đại Nam thực lục)

119

Sơ đồ 4.1. Hoạt động thương mại triều cống giữa Việt Nam và Trung Quốc giai
đoạn 1802 – 1858

127

Sơ đồ 4.2. Hoạt động thương mại triều cống giữa Việt Nam và Trung Quốc giai
đoạn 1858 – 1885

128



BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

SÔ THỨ TỰ

CHỮ CÁI VIẾT TẮT

NGHĨA CỦA CHỮ CÁI
VIẾT TẮT

1

ĐNLT

Đại Nam liệt truyện

2

ĐNTL

Đại Nam thực lục

3

NXB

Nhà xuất bản

4


STT

Số thứ tự

5

TG

Tác giả

6

VSTGCM

Việt sử thông giám cương mục


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1


Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX chưa tham gia nhiều vào các mối quan hệ
quốc tế, những mối quan hệ trọng yếu của Việt Nam lúc bấy giờ chỉ giới hạn trong
khu vực, đặc biệt là với nước láng giềng Trung Quốc.
Có thể nói, trong lịch sử ngoại giao của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay thì
ngoại giao với Trung Quốc luôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Mối quan hệ
1


này trước hết phản ánh đường lối đối ngoại mang tính bắt buộc do hoàn cảnh lịch
sử - địa lý đặc thù của hai quốc gia quy định.
Suốt hơn 1000 năm qua, kể từ sau thế kỷ X, khi Việt Nam giành được độc
lập, thoát ra khỏi đêm trường Bắc thuộc và bước vào kỉ nguyên dựng nước, thì
trong quan hệ giữa hai nước Việt - Trung đã từng xảy ra những cuộc chiến tranh do
các vương triều phong kiến Trung Quốc phát động nhằm mục đích thôn tính Việt
Nam, biến dải đất này thành quận huyện. Rốt cục, những cuộc chiến tranh ấy đều
kết thúc bằng chiến thắng của nhân dân Việt Nam. Song nếu tính về thời gian thì
những năm tháng chiến tranh đó cộng lại vẫn là ngắn so với những thế kỷ hoà bình
mà hai nước đã xây đắp. Dưới thời Nguyễn, mối quan hệ ngoại giao Việt - Trung từ
năm 1802 đến năm 1885 cũng nằm trong số những thời kỳ “hoà bình”, “bang giao
hảo thoại” nói trên. Tuy nhiên, chính trong thời kỳ “hoà bình” ấy cũng từng phát
sinh bao nhiêu chuyện gay cấn, như: Vấn đề tranh chấp, lấn chiếm đất vùng biên
giới; những mâu thuẫn kinh tế nảy sinh…Do đó, tìm hiểu về sự chuyển biến của
mối quan hệ ngoại giao Việt – Trung từ năm 1802 (năm triều Nguyễn thành lập)
đến năm 1885 (năm chấm dứt vĩnh viễn quan hệ thượng quốc - chư hầu giữa Việt
Nam và Trung Quốc theo Hoà ước Thiên Tân năm 1885 giữa Pháp với Trung Quốc)
tức là chúng ta đi vào khảo cứu về một thời kỳ lịch sử tiêu biểu cho những mối quan
hệ ngoại giao phức tạp giữa Việt Nam và Trung Quốc mà vừa mang những nét
chung của các thời kỳ lịch sử trước, lại vừa có những đặc trưng riêng ảnh hưởng
đến quan hệ ngoại giao ở những thời kỳ về sau.
1

Xem: Một số khái niệm có liên quan đến luận án – Phụ lục I

2


Trong các sách sử của Việt Nam và Trung Quốc từ trước đến nay đều có ghi
lại khá rõ quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia. Song trên thực tế, nhiều chính

khách ở Trung Quốc, nhiều cơ quan ngôn luận ở Bắc Kinh, thậm chí nhiều nhà
nghiên cứu ở các nước khác đã đề cập đến quan hệ ngoại giao Việt - Trung theo
những thiên kiến chủ quan, sai lệch với thực tiễn khách quan. Đặc biệt, khi xem xét
quan hệ chính trị giữa triều Nguyễn và triều Thanh thế kỷ XIX, vấn đề nổi cộm
được các nhà nghiên cứu tập trung kiến giải là trong quan hệ với Trung Quốc, Việt
Nam độc lập hay bị phụ thuộc? Đã có nhiều người khẳng định về sự phụ thuộc của
Việt Nam trong quan hệ chính trị với Trung Quốc lúc bấy giờ. Hoặc khi đi vào tìm
hiểu về mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước trên thế giới thời Nguyễn,
từ xưa đến nay, không ít người đã nhìn nhận nó như một bức tranh “u ám” và xem
đó là hậu quả không thể nào tránh khỏi do chính sách “ức thương” và “bế quan tỏa
cảng” mang lại. Từ đấy lại có những suy luận rằng: Mối quan hệ kinh tế Việt –
Trung thời bấy giờ cũng không là ngoại lệ. Hơn thế, từ chỗ khẳng định sự phụ thuộc
của Việt Nam trong quan hệ chính trị với Trung Quốc, không ít nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước đã khẳng định sự lệ thuộc của Việt Nam trong quan hệ kinh tế
và văn hóa với Trung Quốc hiện thời…Vậy, thực chất của mối quan hệ ngoại giao
Việt – Trung trên các phương diện: chính trị, kinh tế và văn hóa lúc này ra sao?
Nghiên cứu sâu sắc và nghiêm túc về vấn đề này là hết sức cần thiết.
Hơn thế nữa, bước sang thế kỷ XVIII, đặc biệt là từ đầu thế kỷ XIX, Việt
Nam và Trung Quốc đều bị lôi cuốn vào vòng xoáy của thời đại mới. Đó là thời đại
mà “Những mối quan hệ toàn diện, sự phụ thuộc toàn diện đối với nhau giữa các
dân tộc đang phát triển, thay thế cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương
và của các dân tộc vẫn tự cung tự cấp” [20, tr.23]. Vì vậy, tìm hiểu về mối quan hệ
ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc thời kỳ này (1802 - 1885) sẽ giúp hiểu
thêm về quan hệ quốc tế trong thời đại mới - thời đại của giai cấp tư sản.
Không những vậy, nhận thức về một triều đại, nhất là muốn đánh giá công
lao hay hạn chế của triều đại đó cần phải nghiên cứu một cách toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế, đến văn hoá, xã hội thì mới có thể đi đến một kết
luận khách quan và khoa học. Do đó, tìm hiểu về quan hệ ngoại giao Việt – Trung

3



thời kỳ 1802 - 1885 sẽ góp phần vào việc nghiên cứu chung về triều Nguyễn, với
mong muốn có cái nhìn toàn diện hơn về công trạng và cả hạn chế của vương triều
phong kiến cuối cùng này trên một số lĩnh vực, nhất là lĩnh vực ngoại giao.
Đặc biệt, nghiên cứu và rút ra được thực chất của mối quan hệ ngoại giao
Việt - Trung thời bấy giờ cũng sẽ giúp cho việc hiểu biết về Trung Quốc ngày nay
được sâu sắc hơn, góp phần giúp Đảng và Nhà nước Việt Nam hoạch định nên
những chính sách đối ngoại đúng đắn với nước Trung Quốc láng giềng, phù hợp với
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá và đa phương hoá các mối quan hệ
với tinh thần Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Hơn thế, nghiên cứu về sự chuyển biến của quan hệ ngoại giao Việt – Trung
thời kì 1802 – 1885 một cách toàn diện còn là sự tiếp nối và phát triển hướng
nghiên cứu trước đây của tác giả luận án. Vào năm 2008, tác giả đã bảo vệ thành
công luận văn thạc sĩ về quan hệ ngoại giao Việt – Trung thời kì 1802 – 1885 trên
phương diện chính trị. Từ đó đến nay, tác giả đã tiếp tục mở rộng hướng nghiên cứu
này trên nhiều phương diện khác như kinh tế, văn hóa và đã có một số bài báo về
2

vấn đề này được công bố . Vì vậy, nghiên cứu về mối quan hệ ngoại giao Việt –
Trung thời kì 1802 – 1885 một cách sâu sắc, toàn diện chính là sự tiếp nối hướng
nghiên cứu nêu trên.
Với những ý nghĩa khoa học và thực tiễn đó, tác giả quyết định chọn đề tài
“Sự chuyển biến của quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc từ năm
1802 đến năm 1885” làm đề tài luận án của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu
- Luận án nhằm làm sáng tỏ sự chuyển biến của mối quan hệ ngoại giao giữa
Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1802 đến năm 1885, rút ra được xu hướng, đặc điểm

và thực chất của sự chuyển biến ấy trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước thời kì
này.

2

Xem: Danh mục các công trình của tác giả luận án

4


- Hiểu được đặc điểm, thực chất của mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam
và Trung Quốc thời kì 1802 – 1885 sẽ góp phần giúp cho Đảng và Nhà nước Việt
Nam có được những chính sách đối ngoại đúng đắn, phù hợp với bối cảnh khu vực,
quốc tế hiện nay, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - văn hoá của đất nước,
đảm bảo an ninh quốc phòng cho Tổ quốc, nhất là khi quan hệ giữa hai nước hiện
thời đang tồn tại nhiều vấn đề bất cập.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hiểu sâu sắc sự chuyển biến của mối quan hệ ngoại giao Việt – Trung
thời kỳ này, luận án sẽ tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau đây:
- Nghiên cứu sự tác động của hoàn cảnh lịch sử đến đường lối, chính sách
đối ngoại của triều Nguyễn đối với triều Thanh và ngược lại.
- Tái hiện một cách khách quan, chân thực về mối quan hệ ngoại giao giữa
Việt Nam và Trung Quốc trên các phương diện chính trị, kinh tế và văn hóa thời kì
1802 - 1885.
- Tập trung làm rõ những biến chuyển, thay đổi của mối quan hệ ngoại giao
Việt – Trung trước và sau năm 1858 trên những phương diện cơ bản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những biểu hiện của sự chuyển biến
trong quan hệ ngoại giao Việt – Trung từ năm 1802 đến năm 1885. Trong đó, luận

án đi sâu tìm hiểu về sự chuyển biến ấy trên các phương diện cơ bản: Chính trị,
Kinh tế và Văn hóa.
* Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu được xác định là từ năm 1802 đến năm 1885 (tức là
từ khi triều Nguyễn được xác lập vào năm 1802, mở đầu mối quan hệ giữa hai
vương triều phong kiến: triều Nguyễn ở Việt Nam và triều Thanh ở Trung Quốc,
đến năm 1885 là mốc đánh dấu sự chấm dứt vĩnh viễn quan hệ thượng quốc - chư
hầu giữa Trung Hoa và Việt Nam theo Hoà ước Thiên Tân kí giữa Pháp và triều
đình Mãn Thanh (tháng 6 - 1885)).

5


- Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu theo lãnh thổ của quốc gia Việt Nam
thời Nguyễn và Trung Quốc thời nhà Thanh.
- Phạm vi nội dung nghiên cứu:
+ Đặt vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh chung của thế giới và khu vực, của
Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ XIX.
+ Tập trung nghiên cứu sự chuyển biến của mối quan hệ ngoại giao Việt –
Trung thời kỳ 1802 – 1885 trên 3 phương diện chính: Chính trị, kinh tế, văn hóa.
+ Tuy luận án đã triển khai sự chuyển biến của mối quan hệ ngoại giao Việt
– Trung thời kì 1802 – 1885 trên cả 2 chiều: chiều Việt Nam với Trung Quốc và
chiều Trung Quốc với Việt Nam, song, do chưa có điều kiện tiếp cận, khai thác
nhiều tư liệu từ phía Trung Quốc nên luận án có phần nghiêng nhiều hơn về chiều
quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Trung Quốc.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu:
- Các bộ biên niên sử, các bộ hội điển, châu bản trong thời kì phong kiến
được xem như là nguồn tư liệu gốc phục vụ cho luận án, đặc biệt trong đó phải kể
đến một số lượng lớn các bộ sách do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn như:

Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Khâm định Đại Nam
hội điển sự lệ, Đại Nam liệt truyện chính biên, Châu bản, Minh Mệnh chính
yếu…Những tác phẩm này đều ghi chép theo tiến trình thời gian các sự kiện liên
quan đến triều Nguyễn và có điểm qua các sự kiện ngoại giao, những nhà ngoại
giao tiêu biểu thời bấy giờ. Tuy những ghi chép trong các bộ sử này rất tản mạn
nhưng chúng hàm chứa nhiều thông tin trực tiếp và có độ tin cậy cao. Trong đó, bộ
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và bộ Đại Nam thực lục là những bộ sử ghi chép
tương đối đầy đủ về những sự vật, sự việc, điển lệ…liên quan đến mối quan hệ
ngoại giao giữa triều Nguyễn và triều Thanh. Đặc biệt, mục Bang giao, từ quyển
128 đến 130 của Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (chính biên) thực sự là nguồn
tư liệu quý báu khi chúng ta xem xét nội dung và đặc điểm của những hoạt động
ngoại giao tiêu biểu giữa hai nước Việt – Trung thời bấy giờ như: Thể thức sai sứ,
tiếp sứ; đại lễ tuyên phong, dụ tế; triều cống; lễ sính; ngày tháng cử sứ thần sang

6


Trung Quốc và đón sứ thần nhà Thanh sang Việt Nam; danh mục phẩm vật sứ bộ
mang đi mang về; danh tính các sứ thần và số lượng thành viên trong mỗi sứ bộ; lộ
trình và diễn tiến đi sứ…Trong khi đó, Châu bản triều Nguyễn không chỉ gồm các
bản tấu sớ đã được nhà vua xem và phê duyệt, mà còn bao gồm cả những sắc, dụ,
chiếu, chỉ, những công văn, tờ trình (thân), những bản kê khai (kê), những văn bản
ngoại giao… cho phép bổ sung nhiều điều chi tiết và cụ thể mà các công trình trên
chưa khai thác và sử dụng hết. Đặc biệt, chúng ta phải nhắc đến những bản tấu,
phúc tấu của đình thần các bộ như bộ Công, bộ Hộ, hay những chỉ dụ của các vua
Nguyễn về việc thực thi chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa thông
qua việc vãng thám, đo đạc, cắm mốc, vẽ họa đồ…Thậm chí, có nội dung bản tấu
trong Châu bản còn cho biết những hoạt động hằng năm nêu trên trong một số
trường hợp bị hoãn tháng khởi hành, chẳng hạn như năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)
[17] hay năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) [18]… Có thể nói, xét về mặt sử liệu học thì

Châu bản là tư liệu gốc mang giá trị đặc biệt mà các công trình biên soạn khác
không thể sánh được.
- Các công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài luận án
như: Các bộ thông sử, các sách giáo trình dùng trong các trường đại học, sách
chuyên khảo, sách tham khảo, các bài nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí
khoa học có uy tín ở Việt Nam, các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ ở Việt Nam và
Trung Quốc…
- Nguồn tư liệu lưu trữ, tài liệu chép tay tại các trung tâm lưu trữ, các viện
nghiên cứu. Trong đó, đáng chú ý là những văn kiện, điển lệ về việc giao thiệp giữa
các triều Nguyễn và triều Thanh bao gồm: dụ, chế, sắc phong, chiếu, biểu, tấu khải,
thư, thơ… được tập hợp trong 大大关 (Bang giao lục), 大大大大大 (Vũ Đông
Dương văn tập), 大 大 大 大 (Như Yên văn thảo), 大大 (Văn tập)…hiện đang được lưu
trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm.
- Các nguồn tài liệu thu thập được qua quá trình điền dã tại Huế và tại quê
hương của một số nhà ngoại giao tiêu biểu thế kỷ XIX.
* Phương pháp nghiên cứu

7


Để hoàn thành luận án này, tác giả đã sử dụng những phương pháp nghiên
cứu khoa học cơ bản sau đây:
- Phương pháp lịch sử
Đề tài nghiên cứu của luận án là quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt –
Trung dưới hai triều đại: triều Nguyễn ở Việt Nam và triều Thanh ở Trung Quốc
trong thế kỷ XIX, cách chúng ta ngày nay hơn một thế kỷ, nên phương pháp nghiên
cứu trước hết phải là phương pháp lịch sử cụ thể. Để bổ trợ cho phương pháp này,
luận án đã vận dụng thêm những phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp
so sánh, phương pháp liên ngành, phương pháp thống kê định lượng…
- Phương pháp so sánh

Để giải quyết thấu đáo đề tài này, đặc biệt là để tìm ra sự chuyển biến cũng
như rút ra được thực chất và đặc trưng của mối quan hệ ngoại giao Việt – Trung từ
năm 1802 đến năm 1885 thì đây là một phương pháp vô cùng hữu hiệu. Trong luận
án này, tác giả đã sử dụng đồng thời cả so sánh lịch đại (giữa các giai đoạn trước,
sau) và so sánh đồng đại (giữa hai phía Việt Nam và Trung Quốc) để tìm ra được
những nét tương đồng và khác biệt trong quan hệ ngoại giao Việt – Trung qua hai
giai đoạn trước và sau năm 1858, cũng như rút ra được mối tương quan so sánh
trong tiềm lực, vị thế và cả thái độ của triều đình hai bên trong quan hệ ngoại giao
thời bấy giờ.
- Phương pháp liên ngành
Liên ngành là phương pháp liên khoa học, là sự thiết lập trên cơ sở kết hợp
mối quan hệ qua lại giữa các môn học, ngành học với nhau. Điều quan trọng của
phương pháp này là phải sử dụng đồng thời, hiệu quả các chuyên ngành, không
phân biệt chính, phụ. Đây là phương pháp vô cùng cần thiết bởi muốn lí giải để hiểu
được thực chất hiện tượng lịch sử (trong đó có lịch sử ngoại giao) thì cần phải vận
dụng tốt kiến thức đa ngành, liên ngành. Với đề tài này, chúng tôi vận dụng phương
pháp liên ngành để nhìn nhận, lí giải, đánh giá cùng một lúc mối quan hệ ngoại giao
Việt – Trung thế kỷ XIX trên nhiều phương diện khác nhau và đặt các phương diện
ấy bình đẳng trong cùng một tổng thể chung với nhiều mối quan hệ tác động qua lại.
- Phương pháp thống kê định lượng

8


Phương pháp này được sử dụng khá nhiều trong luận án nhằm thống kê, định
lượng thông tin, số liệu để tìm ra khuynh hướng biến chuyển và đặc điểm, thực chất
của mối quan hệ ngoại giao Việt – Trung. Chẳng hạn, để hiểu rõ mức độ suy giảm
của các hoạt động cầu phong, triều cống, lễ sính giữa hai nước Việt – Trung giai
đoạn sau năm 1858 so với giai đoạn trước năm 1858, chúng tôi đã cố gắng lượng
hóa mọi thông tin có được từ tài liệu Việt Nam và Trung Quốc về những hoạt động

này ở cả hai giai đoạn. Hay để thấy rõ được lễ vật đáp lại của Thanh triều không
nhiều bằng so với vật phẩm dâng cống, lễ sính của các sứ đoàn Việt Nam, chúng tôi
đã định lượng lễ phẩm dâng tiến và tặng vật giữa hai bên một cách cụ thể nhằm làm
căn cứ so sánh và rút ra nhận định. Hay để thấy được sự phổ biến và ưu thế vượt
trội của hoạt động thương mại kiêm nhiệm so với hoạt động thương mại thuần túy,
chúng tôi đã thống kê và định lượng số lần diễn ra các hoạt động này và những
thông tin liên quan đến chúng. Sau đó, từ những con số cụ thể mà rút ra nhận xét,
đánh giá một cách xác thực…
5. Đóng góp của luận án
Luận án sau khi hoàn thiện có thể có những đóng góp khoa học và thực tiễn
sau:
- Đây là luận án đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về mối
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc suốt từ năm 1802 đến năm 1885.
Qua đó, luận án rút ra được những chuyển biến quan trọng cũng như đặc điểm, thực
chất của mối quan hệ ngoại giao Việt - Trung trong hơn tám thập kỷ đầy biến động
của thế kỷ XIX.
- Luận án đã bước đầu làm sáng tỏ vấn đề khoa học mà lâu nay vẫn còn đang
gây nhiều tranh cãi là, Việt Nam độc lập hay phụ thuộc trong quan hệ ngoại giao
với Trung Quốc? Đồng thời, luận án cũng bước đầu bác bỏ những suy luận cảm tính
trong giới nghiên cứu khi cho rằng: Mối quan hệ kinh tế Việt – Trung thế kỷ XIX là
một bức tranh “u ám” do chính sách “ức thương” và “Bế quan tỏa cảng” của triều
Nguyễn mang lại.
- Đặc biệt, những bài thơ, bài văn đi sứ, tiếp sứ gắn liền với tên tuổi của
những vị chánh, phó sứ tiêu biểu làm nên thành công của sự nghiệp ngoại giao triều

9


Nguyễn đã được luận án lần đầu tái hiện lại – điều mà trước đây chưa một công
trình nghiên cứu nào làm sáng tỏ.

- Luận án được thực hiện thành công sẽ giúp chúng ta có thêm nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu trong việc hoạch định chính sách đối ngoại đúng đắn với nước
lớn Trung Hoa – một nước láng giềng có mối quan hệ ngoại giao lâu đời nhất trong
lịch sử dân tộc Việt Nam, nhằm đảm bảo an ninh quốc phòng cho Tổ quốc, đặc biệt
là khi quan hệ giữa hai nước hiện đang còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập cần tháo gỡ.
- Luận án sau khi bảo vệ thành công có thể được sử dụng để làm chuyên đề
giảng dạy về lịch sử quan hệ song phương giữa hai nước Việt - Trung cũng như
quan hệ đa phương giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
của luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn 1802 – 1858
Chương 3: Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn 1858 – 1885
Chương 4: Đánh giá về những chuyển biến của quan hệ ngoại giao Việt – Trung
(1802 - 1885)

10


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Ngoại giao giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc từ lâu đã trở thành mối
quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Đặc biệt, trong mấy chục
năm gần đây, khi mà giới sử học đang không ngừng nỗ lực để có cái nhìn khách
quan nhất về công và tội của triều Nguyễn – vương triều cuối cùng trong diễn trình
lịch sử phong kiến Việt Nam thì mối quan hệ ngoại giao Việt – Trung lại càng được
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đi sâu tìm hiểu.
1.1. Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước và ngoài nước có
liên quan đến đề tài luận án

1.1.1. ững công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước
* Những công trình nghiên cứu trước thập niên 90 của thế kỷ XX
Bước sang thế kỷ XX, nhiều bộ thông sử về lịch sử Việt Nam, trong đó có
triều Nguyễn đã ra đời. Trước hết phải kể đến cuốn Việt Nam sử lược của tác giả
Trần Trọng Kim. Đây là bộ lịch sử đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ tại Việt
Nam, xuất bản lần thứ nhất vào năm 1921. Tác giả đã nghiên cứu lịch sử dân tộc
suốt từ thời thượng cổ đến khi Pháp xâm lược và cai trị (tính đến năm 1902), trong
đó có các chương nghiên cứu về triều Nguyễn dưới các đời vua: Gia Long, Minh
Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Tác phẩm này đã giúp cho chúng ta có cái nhìn khái
quát về mọi mặt xã hội Việt Nam duới vương triều Nguyễn, trong đó có lĩnh vực
ngoại giao.
Hơn 20 năm sau đó (1943), tại Hà Nội, Sông Bằng đã dựa trên nhiều tài liệu
quý hiếm sưu tầm được trong thư viện trường Viễn Đông Bác Cổ cho biên soạn
cuốn Việt Hoa thông sứ sử lược, tủ sách Quốc học thư xã. Qua cuốn sách này,
chúng ta bước đầu được biết về những hành vi, tiết tháo của các vị Tuế - Cống sứ
Việt Nam, những mối duyên văn ràng buộc sĩ phu Trung Hoa với các bậc khoa –
hoạn nước nhà. Tuy tác phẩm không đề cập trực tiếp đến ngoại giao Việt – Trung
thế kỷ XIX, song qua đó chúng ta có thể hình dung phần nào sự vận dụng đầy linh
hoạt các hình thức đối thoại văn hoá của các nhà ngoại giao thời phong kiến.
Đến năm 1955, Nxb Xây Dựng đã cho ra đời bộ Lịch sử Việt Nam từ nguồn
gốc đến cuối thế kỷ XIX của tác giả Đào Duy Anh, bao gồm 2 quyển: quyển thượng
và quyển hạ. Đến nay, bộ sách này đã qua nhiều lần tái bản và lần tái bản gần đây
nhất là vào năm 2011 của Nxb Khoa học xã hội. Cuốn sách đã tái hiện lại bức tranh

11


toàn cảnh về tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc suốt từ thời nguyên thủy cho
đến cuối thế kỷ XIX, trong đó, chương XLIX tập trung bàn về chính sách đối ngoại
của nhà Nguyễn. Tuy nhiên, ở đây, Đào Duy Anh mới chỉ đi vào tìm hiểu chính

sách đối ngoại của nhà Nguyễn đối với các nước ở biên giới phía Tây, Nam và với
thực dân Pháp chứ chưa có dịp nghiên cứu về chính sách đối ngoại của triều
Nguyễn đối với nước Trung Hoa láng giềng.
Sáu năm sau đó (năm 1961), Thành Thế Vỹ đã cho ra đời cuốn sách Ngoại
thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII – XVIII đầu thế kỷ XIX, Nxb Sử học, Hà Nội.
Cuốn sách tái hiện lại nền ngoại thương Việt Nam trong những thế kỷ trước khi
thực dân Pháp xâm lược (cụ thể từ thế kỷ XVII đến hết đời vua Thiệu Trị). Tuy
nhiên, tác giả mới chỉ đề cập đến một vài khía cạnh riêng lẻ của lĩnh vực ngoại
thương ở những thế kỷ này như: các mặt hàng hóa (bao gồm hàng bán ra, hàng mua
vào: từ trang 97 đến trang 125); thể lệ ngoại thương, thủ tục, bộ máy, thuế khóa (từ
trang 126 đến trang 138); cách thức mua bán, đổi chác, trả tiền (từ trang 139 đến
181); phương tiện đi lại (từ trang 182 đến trang 193)…chứ chưa đi sâu phân tích và
tổng hợp những khía cạnh đó để đưa ra cái nhìn hệ thống về quan hệ thương mại
giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Cũng trong năm 1961, tạp chí Văn học, số 7 đã cho công bố bài viết Mối
quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc với độ
dài 22 trang (từ trang 1 đến trang 22) của tác giả Đặng Thai Mai. Tác giả đã phân
chia công cuộc bang giao giữa hai nước Việt – Trung ra làm 4 thời kỳ với những tính
chất và sắc thái khác nhau: thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp
thuộc và thời kỳ hiện nay (từ ngày thành lập chế độ dân chủ cộng hoà). Trong mỗi
thời kỳ ấy đều diễn ra sự tiếp xúc văn hoá nói chung và văn học nói riêng giữa hai
nước. Qua những phân tích và luận giải sắc sảo của Đặng Thai Mai, có thể thấy
rằng, chính sự giao thoa, đối thoại văn hoá, văn học này đã góp phần giải quyết nhiều
vấn đề nảy sinh trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước qua các thời kỳ lịch sử.
Bước sang thập niên 70, 80 của thế kỷ XX, có một loạt bài viết được đăng tải
trên các tạp chí chuyên ngành bàn về những biểu hiện mới trong quan hệ Việt –
Trung ở nửa sau thế kỷ XIX, như “Quan hệ Trung - Việt và Việt - Trung” của tác
giả Văn Phong đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4 năm 1979. Bằng những
lập luận sắc bén, tác giả đã phác thảo trên những bình diện lớn về tính chất của quan
hệ Việt - Trung qua các thời kì lịch sử. Trong đó ở mục III, tác giả tập trung khái

quát "Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ Tần đến Mãn Thanh". Ở mục IV,

12


×