Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

NHỮNG bài văn NGHỊ LUẬN 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.34 KB, 30 trang )

ĐỀ 1: LỐI SÓNG GIẢN DỊ CỦA BÁC HỒ
Bài 1.
Nếu nói đến tấm gương về sự giản dị và thanh bạch thì chắc hẳn chúng ta đã nghĩ
ngay đến vị lãnh tụ vĩ đại nhất Dân tộc – Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác chính là nhân
chứng rõ ràng và tiêu biểu cho hai đức tính cao quý và đặc biệt cần có ở mỗi người.
Giản dị là cách sống không cầu kì xa hoa sống sao cho phù hợp với hoàn cảnh xã
hội,hoàn cảnh cá nhân. Còn thanh bạch là gì? Thanh bạch là tính từ chỉ lối sống trong
sạch,luôn giữ phẩm chất của mình không để giàu sang cám dỗ. Giản dị,thanh bachj
được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau: lời ăn tiếng nói hằng ngày,cách ăn mặc,lối
sống,cách hành xử,cử chỉ,các thể hiện bản thân…
Lối sống giản dị của Bác Hồ được thể hiện ngay trong những điều nhỏ nhất.ví dụ
như trang phục,bác luôn xuất hiện với hình ảnh một người khoác trên mình bộ áo bà ba
nâu đã sờn cũ,đôi dép cao su,thêm chiếc khăn bà ba ngang vai,chiếc áo trấn thủ. Hình
ảnh ấy đã in đậm trong tâm trí mỗi người,hình ảnh một người mộc mạc như vị cha hiền
kính yêu. Trong những năm tháng gian khổ đấu tranh hay khi hoà bình bước đầu được
lập trở thành chủ tịch nước.,bác vẫn ở và làm việc trong căn nhà sàn nhỏ,với những đồ
vật thật thiết yếu: bộ bàn ghế mây,cái đèn bàn con con,một chiếc giường….đơn giản và
nhỏ bé như chính con người bác thể hiện. Bữa cơm của Bác cũng đạm bạc với những
món bình dân như cà muối,rau luộc,cháo hoa…hay sang hơn là cá Bác câu trong ao
cạnh ngôi nhà sàn nhỏ bé của mình. Ngay cả khi đã có điều kiện tốt hơn, các đồng chí
có đề nghị mua cho bác chiếc quạt máy cho mùa hè bởi trời hè năm ấy rất nóng, bác
cũng đã cao tuổi nhưng bác vẫn từ chối ,dùng chiếc quạt nan bởi dân tộc còn đang gian
khó,đồng bào cả nước cơm còn chưa đủ ăn,áo chưa đủ mặt,cuộc sống chưa đầy đủ no
ấm.
Sự giản dị của bác còn thể hiện qua những lời nói,hành động thường ngày. Từng
bài học bác răn dạy,những lời kêu gọi bác đã ra đều sử dụng câu từ ngắn gọn
dễ.hiểu,không dài dòng hoa.mĩ để đồng bào cả nước dễ nghe dễ hiểu “ không có gì quý
hơn độc lập tự do”,”chúng ta thì hi sinh tất cả nhưng nhất định không chịu mất
nước,không chịu làm nô lệ” . Những câu nói giản dị mà đi vào lòng người ấy đã đánh
thức ,làm sôi sục lên lòng yêu nước,quyết tâm kiên cường bảo vệ đất nước đến cùng của
hàng triệu đồng bào ta trong những năm kháng chiến lam lũ, vất vả và đầy gian khó.Còn


nhớ như in lời Bác trong ngày đọc bản tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 tại quảng
trường Ba Đình, “ Tôi nói thế,đồng bào ta nghe có rõ không”. Một sự quan tâm ân
cần,gần gũi của một vị lãnh tụ vĩ đại thật khiến chúng ta xúc động và càng thêm kính
trọng Người.
Ngay cả khi đã có trong tay quyền lực của người lãnh đạo. Những thói quen, nếp
sống của bác vẫn không hề thay đổi,Bác vẫn luôn giữ cho mình tấm lòng thanh bạch.
Những đức tính ấy là bản chất của Người,không bao giờ thay đổi. Những câu chuyện
lúc sinh thời của Bác rất nhiểu. Câu chuyện về việc giữ lời hứa về chiếc vòng bạc sẽ
mua cho em bé miền Nam sau mười năm mới có cơ hội quay lại đó nhưng Bác vẫn nhớ
và thực hiện lời hứa của mình. Câu chuyện về việc đi thăm các chiến sĩ,động viên
khuyến khích họ cố gắng kiên trì hoàn thành nhiệm vụ. Câu chuyện Bác nửa đêm mang
chiếc đèn sưởi cho chí gác cổng. Rất nhiều,rất nhiều những câu chuyện nhỏ,vô cùng
đơn giản nhưng lại là biểu hiện của lối sống giản dị,thanh bạch của Bác.
Trong các mối quan hệ với mọi người như tiếp đãi khách,Bác thường nói chủ yếu
là thật lòng với nhau nên khi tiếp đãi đồng chí Lý Bội Quần,người Trung Quốc đã giúp
Bác mua chiếc máy đánh chữ từ Hải Phòng mang về,Bác cũng chỉ “khao” một món


canh và hai đĩa thức ăn cùng một chán rượu gạo,tính ra còn chưa hết một đồng bạc.Thế
nhưng không vì thế mà tình cảm không đậm đà,vơi đi mà còn thân thiết gắn bó hơn rất
nhiều. Cao.lương mỹ vị sang trọng có chắc đổi được những tình cảm thật lòng với nhau.
Sống không cần cao sang mà cần nhất là sự chân thành thật lòng với nhau. Bác vẫn luôn
nói: Ở đời ai chả muốn ăn ngon mặc đẹp nhưng nếu miếng ngon ấy lại đánh đổi bằng sự
phiền hà mệt nhọc của người khác thì không nên. Khi có đồ ăn ngon,Bác luôn chia phần
cho tất cả mọi người trong nhà,thường thì đến phần Bác là ít nhất. Con người vĩ đại ấy,
luôn cố gắng nỗ lực hơn người khác,suy nghĩ lo lắng cho cả dân tộc nhưng luôn muốn
nhận ít nhất,đủ là được.
Thời bình là vậy,còn trong chiến đấu, sự giản dị thanh bạch của bác còn được
biểu hiện rõ ràng hơn. Cuộc sống trong rừng núi không làm bác thấy tù túng thiếu thốn
mà ngược lại Bác còn cảm thấy vui tươi sảng khoái khi được hoà mình vào thiên

nhiên,cây cỏ,sống cuộc sống đơn giản với những thức ăn núi rừng dân dã:
“Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.”
Với Bác “ sang” không phải là sống trong nhung lụa,xa hoa mà sang ở đây là được sống
giản dị ,thanh bạch mà cao đẹp. Được cống hiến cho đời,cho con người.Bác đã từng tâm
sự: Ước nguyện của Bác là sau khi hoàn thành tâm nguyện cứu nước dân, Bác sẽ “làm
một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá trồng rau, sớm chiều làm bạn
với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu với vòng danh lợi”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về đạo đức và lối sống cho mỗi cá
nhân học theo. Đáng và Nhà nước luôn có chua trương “ Học tập và làm việc theo tấm
gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh” ,đặc biệt trong việc giác dục thanh thiếu
niên. Vì vậy, chúng ta cần có thái độ ,hành động đúng đắn học tập theo tấm gương đạo
đức của Người. Hiện nay có rất nhiều người trẻ ý thức rõ ràng được trách nhiêm của bản
thân từ đó hành độn tích cực để sống có ích,góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu
mạnh, “ sánh ngang các cường quốc năm châu “. Luôn cố gắng rèn luyện lối sống lành
mạng,giản dị. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có nhiều vạn trẻ chưa thực sự cố gắng học
tập rèn luyên,ăn chơi sa đoạ gây ảnh hưởng xấu tới sự phát triển chung của cả động
đồng, cần quan tâm và giúp đỡ kịp thời,giáo dục lại lối sống để họ có thể sớm nhận thức
được vai trò trách nhiệm cảu bản thân.
Nếu lối sống thanh bạch của các vị hiền triết xưa,như Nguyễn Bỉnh Khiêm chính
là sống để giữ hồn mình trong sạch giữu chốn bụi trần nhiều tranh giành lợi lộc,quyền
lực. “ Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn người đến chốn lao xao”.Họ tìm về với
những thú vui quê nhà cốt giữ tấm lòng thanh cao.Còn Bác thì không như vậy,Bác
không phải là một nhà hiền triết sống ẩn dật,lánh đời,lối sống của Bác là một lối sống
rất dân tộc,mang những nét đẹp truyền thống., một lối sống mà mỗi người chúng ta cần
rèn luyện để có được đức tính cao đẹp: giản dị và thanh bạch.
Bài 2.
Là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người mang cách mạng đến bến bờ

của thành công, đưa dân tộc đến thời đại tự do, hạnh phúc. Tuy là người đứng đầu của
một đất nước nhưng cuộc sống thường ngày của Bác lại rất giản dị, dân giã, khác hẳn
cuộc sống của một nguyên thủ quốc gia.
Bác Hồ là người có tầm vóc về tư tưởng, tầm vóc về trí tuệ, lại là người đứng đầu của
một quốc gia. Những tưởng cuộc sống của Bác sẽ là ở những nơi đẹp nhất, an toàn nhất,


việc sinh hoạt sẽ có những người hục vụ giúp đỡ. Nhưng không, Bác Hồ kính yêu của
chúng ta lại có một lối sống vô cùng giản dị, dân giã đến mức không thể dân giã hơn
được nữa.Nhìn vào cuộc sống của Bác sẽ không ai có thể tin nổi đó là cuộc sống của
một vị lãnh đạo.Nếp sống giản dị, thanh bạch ấy của Bác càng làm cho những người
dân Việt Nam thêm yêu và tự hào về người cha già dân tộc. Bạn bè quốc tế thì thừa
nhận và càng thêm tôn trọng tài năng và con người của Bác.
Nơi ở của Bác là một căn nhà sàn nhỏ đơn sơ với phần mái được lợp bằng những tán lá
khô. Căn phòng của Bác cũng rất nhỏ, chỉ đủ để kê một chiếc giường – nơi Bác nghỉ
ngơi, một chiếc bàn làm việc nhỏ làm bằng mây và một chiếc ghế đơn. Sự đơn sơ của
căn phòng khiến ta cảm thấy rất khó tin.
Quần áo Bác mặc trên người cũng không phải những bộ comple đắt tiền, những bộ quần
âu phẳng phiu như những nguyên thủ quốc gia khác.Bác chọn cho mình bộ quần áo kaki
màu ghi. Ngoài những chuyến thăm nguyên thủ của các nước khác Bác chọn những bộ
quần áo đảm bảo nghi thức, sự tôn trọng với nước bạn thì trong cuộc sống hàng ngày, cả
trong những đại hội Đảng, trong các cuộc họp quan trọng của đất nước thì Bác vẫn giữ
nguyên phong cách ăn mặc giản dị của mình.
Tôi nhớ có một lần có người hỏi Bác rằng tại sao là một nguyên thủ hàng đầu của Việt
Nam mà Bác lại ăn mặc giản dị như vậy thì Bác đã nói: vì dân mình còn nghèo….Dù có
làm gì thì Bác cũng lấy dân làm đầu, đặt lợi ích của nhân dân lên chính bản thân mình.
Bác cũng chọn riêng cho mình đôi dép lốp. Đây là loại dép được làm từ săm và lốp của
xe ô tô. hời kháng chiến vì điều kiện còn khó khăn nên những người lính đã sáng tạo ra
loại dép này và được dùng rất phổ biến. Những người lính vì điều kiện chiến đấu ác liệt,
sinh hoạt thiếu thốn nên dùng loại dép này ta có thể hiểu được.Nhưng Bác là một

nguyên thủ quốc gia, dù Việt Nam lúc ấy còn rất nghèo so với các nước bạn, điều kiện
của các nguyên thủ nước bạn cũng sẽ hơn nước ta.Song cũng không đến mức thiếu thốn
đến mức để người đứng đầu của đất nước đi những đôi dép lốp cũ kĩ, lại khá cứng. Ta
có thể thấy đây hoàn toàn là mong muốn của Bác, lối sống giản dị của Bác càng làm cho
hình ảnh của Bác trong lòng người dân Việt Nam thêm tươi đẹp, thêm tự hào.
Lối sống giản dị, thanh bạch của Bác còn thể hiện ra ngay trong bữa ăn của Bác. Mỗi
bữa ăn Bác chỉ dùng có ba món chính, đó là cơm trắng, cà pháo và một quả trứng.
Những món ăn đều vô cùng thanh đạm và có thể dễ dàng kiếm được. Vào năm nạn đói
nổ ra, người dân chết đói hàng loạt.Để ủng hộ phong trào cứu đói, Bác đã đi đầu gương
mẫu ủng hộ mỗi bữa một nắm gạo của mình để cứu đói cho người dân.Tấm gương, lối
sống của Bác thật khiến chúng ta tự hào, ngưỡng mộ.
Bác Hồ là vị cha già dân tộc, là người đã mang lại ánh sáng cho dân tộc Việt Nam.
Nhưng, Bác không chỉ khiến người dân Việt Nam tự hào về tài năng, trí tuệ hơn người
mà còn ở chính lối sống trong sạch, giản dị, thanh cao của Người.
ĐỀ 2: Sự Giàu Đẹp Của Tiếng Việt - Đặng Thai Mai
Bài 1:
Tôi nhớ hồi học lớp năm, thầy giáo bảo tôi: "Tiếng Việt ta giàu và đẹp lắm em ạ,
nên phải biết yêu quý, trân trọng và giữ gìn nó" (sở dĩ thầy nhắc khéo tôi là vì lúc ấy, tôi
mới học lỏm được của anh trai mình mấy từ tiếng Pháp, lại học lỏm của chị con nhà bác
hàng xóm mới đi Nga về mấy từ tiếng nga. Thế là trong bài tập làm văn, tôi chêm vào
đó cả tiếng Pháp lẫn tiếng Nga. Lúc bấy giờ, tôi thầm nghĩ "Thầy có muốn viết như
mình cũng chả được, vì thầy có biết ngoại ngữ đâu. Mà tiếng Việt có gì là ghê gớm lắm
chứ!" Nhưng rồi học lên lớp 6, rồi lớp 7, tôi được tiếp xúc với bao áng thơ văn trữ tình


đằm thắm, tôi mới thấy thấm thía câu nói đó của thầy tôi. Nghĩ lại những ý nghĩ ngây
thơ và ngu ngốc hồi trước, tôi lại càng giận mình.
Tiếng Việt ta giàu đẹp như thế nào là vấn đề đã được không ít các nhà nghiên cứu
quan tâm. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng có bài Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt,
nhà phê bình Đặng Thai Mai có Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân

tộc...
Các nhà văn, nhà thơ không cần bàn luận gì, họ chỉ lặng lẽ mài giũa cho tiếng Việt ngày
càng "trong" và "sáng" hơn, ngày càng "giàu" và "đẹp" hơn.
Quả thực, tiếng Việt ta rất giàu và đẹp.
Tiếng Việt là thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, hình tượng. Với một hệ thống các từ láy, từ
ghép, từ tượng hình, tượng thanh, tiếng Việt có khả năng gợi ra được những hình ảnh rất
rõ nét trong tâm trí của người nghe.
Chắc trong chúng ta ai cũng nhớ hai câu thơ với cách dùng từ gợi hình ảnh, trạng thái
đầy ấn tượng của Bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhờ những từ láy lom khom, lác đác mà sức biểu hiện của câu thơ đã tăng gấp bội.
Cảnh hoang vu, quạnh vắng của Đèo Ngang trong buổi chiều tà càng thêm hiu hắt, ảm
đạm.
Một điều lí thú hơn là ngay cả những từ đơn âm của tiếng Việt cũng có giá trị gợi hình.
Chẳng hạn như:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
(Hồ Xuân Hương)
Và đây nữa, hình ảnh con hổ uy nghi, dũng mãnh, đẹp một vẻ đẹp hùng tráng:
Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai cỏ sắc
Trong đêm tối mất thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
(Thế Lữ)
Cùng với khả năng tạo hình, tiếng Việt còn là thứ tiếng giàu âm thanh, nhạc điệu. Với
một hệ thống nguyên âm, phụ âm phong phú, thêm vào đó là hệ thống các thanh điệu
với những âm độ, âm vực, tiếng Việt có khả năng tạo ra nhiều giai điệu khác nhau: lúc
du dương trầm bổng, lúc réo rắt, lúc lại sâu lắng, thiết tha...

Ta hãy nghe những giai điệu êm đềm, đằm thắm của câu ca dao:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Chấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói toả ngàn suơng
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây hồ
Hãy cảm nhận âm điệu của những "dấu huyền ngọt ngào" (Xuân Diệu) trong câu thơ
Chinh phụ ngâm:
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Và những giai điệu vừa sôi nổi rạo rực, vừa thiết tha đằm thắm, du dương của câu thơ
Tố Hữu:
Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi


Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca.
Chỉ riêng với hai khả năng: tạo hình và tạo nhạc, tiếng Việt đã đủ xứng đáng là một thứ
ngôn ngữ vừa giàu vừa đẹp. Tuy nhiên, sự giàu và đẹp của tiếng Việt không chỉ dừng lại
ở đó. Một đặc điểm không thể bỏ qua của tiếng Việt là sắc thái gợi cảm, sắc thái biểu
hiện cảm xúc. Nó có khả năng diễn tả tinh tế những trạng thái khác nhau trong đời sống
nội tâm phong phú của tâm hồn Việt.
Chỉ lấy ví dụ riêng về mặt diễn tả tâm trạng nhớ nhung của con người cũng đủ làm ta
ngạc nhiên.
Một trạng thái nhớ nhung bâng khuâng:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi gió dầm sương
Nhớ ai tát nước bèn đường hôm nao
(Trần Tuấn Khải)

Một trạng thái nhớ nhung cồn cào, da diết:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống rơm
(Ca dao)
Một nỗi sầu mênh mang, sầu thẳm:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng củ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh.
(Chinh phụ ngâm)
Vốn từ của tiếng Việt cũng rất phong phú và độc đáo. Chỉ xét riêng vốn từ ngữ xưng hô
cũng đã đủ làm nên sự đặc sắc đó. Trong từ ngữ xưng hô của tiếng Việt, ngoài những
đại từ nhân xưng được ghi trong từ điển, người Việt ta còn dùng các danh từ chỉ quan hệ
họ hàng làm từ xưng hô, khiến cho cách nói nàng hàm chứa nhiều sắc thái tình cảm hơn.
Ngay cách dùng từ ngữ xưng hô cũng rất đặc biệt. Đã có "ai" lại thêm "ta", rồi lại
"mình". Những từ này có khi là chủ thể phát ngôn, có khi là đối thế tiếp nhận, có khi lại
bao hàm cả hai.
Chỉ riêng từ "mình" trong hai ví dụ sau đã thấy bao điều lí thú:
Mình đi minh lại nhớ minh/ Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu (Tố Hữu)
Mình nói với ta mình hãy còn son/ Ta đi qua ngõ thấy con mình bò/ Con mình lấm đất
cùng tro/ Ta đi gánh nước rửa cho con mình (Ca dao)
Càng tìm hiểu kĩ hơn về tiếng Việt, ta càng ngỡ ngàng trước sự giàu đẹp của nó và càng
thêm yêu tiếng Việt hơn.
Bài Mẫu Số 2:
Sự Giàu Đẹp Của Tiếng Việt - Đặng Thai Mai
Bài văn này trích từ phần đầu của một bài nghiên cứu dài có nhan đề Tiếng Việt,
một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc (Đặng Thai Mai), nội dung nói về sự giàu
đẹp của tiếng Việt. Tuy chỉ là một đoạn trích nhưng bố cục của bài văn rất rõ ràng, hợp
lí.



Đoạn mở đầu tác giả nên lên luận điểm bao trùm, sau đó giải thích ngắn gọn.
Phần chính tập trung chứng minh hai đặc điểm của tiếng Việt là đẹp và hay trên các mặt
như ngữ âm, từ vựng, cú pháp.
Từ trước đến nay đã có nhiều ý kiến, nhiều bài viết về sự giàu đẹp của tiếng Việt và
nhiệm vụ giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp ấy. Có bài nêu những ấn tượng chung, có bài
lại đi vào những biểu hiện rất cụ thể (về từ ngữ hay một thể loại văn học...). Ở bài viết
này, Đặng Thai Mai đưa ra một cái nhìn bao quát chứ không đi sâu nghiên cứu những
khía cạnh cụ thể, tỉ mỉ của tiếng Việt.
Bài văn chia làm hai đoạn.
Đoạn 1: Từ đầu đến qua các thời kì lịch sử: Nêu nhận định tiếng Việt là một thứ tiếng
đẹp và hay ; giải thích nhận định ấy.
Đoạn 2 : Phần còn lại: Chứng minh cái đẹp và sự giàu có, phong phú (cái hay) của tiếng
Việt về các mặt ngữ âm, từ vựng, cú pháp. Sự giàu đẹp ấy là chứng cứ về sức sống
mãnh liệt của tiếng Việt.
Trong câu mở đầu, tác giả khẳng định giá trị to lớn và địa vị quan trọng của tiếng Việt:
Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của
mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó. Từ đó, ông đưa ra luận điểm bao
trùm: Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay.
Để giải thích cho nhận định trên, tác giả viết:
Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh
điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có nghĩa là nói
rằng: tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm; tư tưởng của người Việt Nam
và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử.
Vẻ đẹp của tiếng Việt được thể hiện qua hai yếu tố: nhịp điệu (hài hòa về âm hưởng và
thanh điệu) và cú pháp (tế nhị uyển chuyển trong cách đặt câu).
Nhận xét này dựa trên cơ sở thực tế là khả năng biểu đạt và biểu cảm phong phú của
tiếng Việt: Đủ khả năng để diễn đạt tư tưởng tình cảm của người Việt Nam và thỏa mãn
cho nhu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử,
Các câu trong đoạn văn liên kết với nhau hết sức chặt chẽ về mặt nội dung. Câu thứ nhất

là nhận xét khái quát về tính chất tiếng Việt. Hai câu sau giải thích ngắn gọn và rành
mạch cái đẹp, cái hay của tiếng Việt. Cách lập luận đi từ khái quát đến cụ thể như vậy
khiến người đọc dễ theo dõi, dễ hiểu.
Ở đoạn hai, tác giả tập trung chứng minh cho nhận định đã nêu ở phần mở đầu. Để
chứng minh bằng những chứng cứ có đủ sức thuyết phục, tác giả đã vận dụng sự hiểu
biết về tiếng Việt kết hợp với lí lẽ chặt chẽ và khoa học.
Trước hết, tác giả chứng minh tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp đầu tiên là ở mặt ngữ âm.
Tiếng Việt giàu chất nhạc và rất uyển chuyển trong câu kéo. Điều đó được xác nhận trên
các chứng cứ lấy trong đời sống và trong khoa học: Nhiều người ngoại quốc sang thăm
nước ta và có dịp nghe tiếng nói của quần chúng nhân dân ta, đã có thể nhận xét rằng:
tiếng Việt là một thứ tiếng giàu chất nhạc. Họ không hiểu tiếng ta, và đó là một ấn
tượng của người "nghe" và chỉ nghe thôi. Tuy vậy lời bình phẩm của họ có phần chác
không phải chỉ là một lời khen xã giao.
Các giáo sĩ nước ngoài am hiểu tiếng Việt thì nhận xét: ... tiếng Việt như là một thứ
tiếng "đẹp" và rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành
trong những câu tục ngữ.
Tiếng Việt giàu chất nhạc vì nhiều nguyên nhân:


Tiếng Việt chúng ta gồm có một hệ thống nguyên âm và phụ âm khá phong phú. Tiếng
ta lại giàu về thanh điệu. Giọng nói của người Việt Nam, ngoài hai thanh bằng (âm bình
và dương bình) còn có bốn thanh trắc. Do đó tiếng Việt có thể kể vào những thứ tiếng
giàu hình tượng ngữ ôm như những âm giai trong bản nhạc trầm bổng.
Ta thử đọc câu ca dao:
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
Đây là lời của một chàng trai, một sáng sớm nào đó ra thăm đồng, thấy cánh đồng mênh
mông bát ngát và cô thôn nữ trẻ trung. Chàng trai đã ngợi ca vẻ đẹp của cánh đồng, vẻ

đẹp của cô gái và coi đó là cách bày tỏ tình cảm tha thiết của mình.
Bài này có những dòng thơ khác thường, kéo dài tới 12 tiếng để đặc tả cánh đồng. Các
điệp ngữ, đảo ngữ và phép đối xứng (đứng bên ni đồng - đứng bên tê đồng, mênh mồng
bát ngát - bát ngát mênh mông) gợi cho người đọc cảm giác nhìn ở phía nào cũng thấy
cánh đồng trải rộng đến tận chân trời, bao la, đẹp đẽ và đầy sức sống.
Cô gái được so sánh với hình ảnh quen thuộc của quê hương: Thân em như chẽn lúa
đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. Giữa người và cảnh có sự tương
đồng ở nét trẻ trung, phơi phới sức xuân.
Bài ca dao đã thể hiện được chất nhạc du dương cùng sự uyển chuyển trong câu tiếng
Việt. Dẫn chứng này làm cho lập luận của tác giả về vẻ đẹp của tiếng Việt càng thêm
chặt chẽ.
Thế nào là một thứ tiếng hay? Tại sao tiếng Việt lại là một thứ tiếng hay ? Tác giả giải
thích : tiếng Việt hay vì nó thỏa mãn nhu cầu trao đổi tình cảm ý nghĩ giữa người với
người. Thỏa mãn yêu cầu của đời sống văn hóa ngày một phức tạp...
Các chứng cớ thực tế và khoa học sau đây là cơ sở để tác giả rút ra kết luận đó: Tiếng
Việt dồi dào về phần câu tạo từ ngữ cũng như về hình thức diễn đạt. Từ vựng qua các
thời kì diễn biến của nó tăng lèn mỗi ngày một nhiều... Tiếng Việt đã không ngừng đặt
ra những từ mới, những cách nói mới hoặc Việt hóa những từ và những cách nói của các
dân tộc anh em. Chúng ta có thể chứng minh luận điểm trên bằng những tác phẩm văn
chương đã học. Đoạn thơ sau trong Chinh phụ ngâm khúc là một ví dụ:
Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?
Các sắc thái xanh được miêu tả một cách tài tình trong câu thơ. Giữa hai đầu xa cách
giờ đây là một màu xanh bất tận. Ở khổ thơ trên, tác giả đã mượn những địa danh quen
thuộc trong văn chương cổ như Hàm Dương, Tiêu Tương (dẫu chỉ là ước lệ) để diễn tả
độ xa cách, nhưng đến khổ thơ cuối này thì sự xa cách tới độ bóng người đi hoàn toàn
mất hút vào ngàn dâu xanh ngắt. Trớ trêu thay, cái màu xanh vốn tượng trưng cho sức
sống và hi vọng ấy trong tình cảnh này chỉ gợi nên một không gian mênh mang nhuốm

màu li biệt.
Tiếng Việt cổ khả năng dồi dào về cấu tạo từ ngữ và hình thức diễn đạt. Cùng là đại từ
ta nhưng sắc thái biểu cảm của nó trong bài thơ Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh
Quan (Một mảnh tình riêng ta với ta) khác với đại từ ta trong bài thơ Bạn đến chơi nhà
của Nguyễn Khuyến (Bác đến chơi đây ta với ta).


Ở bài thơ Qua đèo Ngang, đứng trước cảnh trời mây non nước trập trùng, cái bao la, vô
tận của đất trời tô đậm cái cô đơn, chơ vơ của con người và ngược lại. Vì vậy nên nỗi
buồn càng lắng đọng trong lòng nữ sĩ:
Dừng chân đứng lại trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Quả là nỗi buồn lớn lao, thấm thìa, khó san sẻ, giãi bày. Nó như kết thành hình, thành
khối, thành mảnh tình riêng khiến nhà thơ phải thốt lên chua xót: ta với ta. Chỉ có ta
hiểu lòng ta mà thôi! Do đó sự cô đơn càng tăng lên gấp bội.
Còn ở câu kết bài Bạn đến chơi nhà Nguyễn Khuyến viết :
Bác đến chơi đây ta với ta
Đây là một câu kết hay, hội tụ linh hồn của bài thơ. Ta với ta có nghĩa là một tấm lòng
đến với một tấm lòng; kẻ tri âm đến với người tri kỉ. Vậy thì tất cả những yếu tố lễ nghi
đều trở nên tầm thường, vô nghĩa. Chủ và khách có chung một tình cảm thắm thiết
thanh cao, đó là cái quý giá không vật chất nào sánh được. Hai tiếng ta với ta gợi cảm
xúc mừng vui, thân mật. Bạn bè xa cách đã lâu, nay vượt đường xa dặm thẳm, vượt cái
yếu đuối của tuổi già để đến thăm nhau thì thật là đáng quý. Đáng quý hơn nữa là bác
với tôi, ta cùng lánh đục tìm trong, lui về vui thú điền viên để giữ cho trọn hai chữ thiện
lương. Sự gần gũi, tương đắc về mặt tâm hồn đã gắn bó chủ và khách làm một. Những
điều câu nệ, khách khí đã bị xóa nhòa. Chỉ còn lại niềm vui chân thành bao trùm tất cả.
Tình bạn ấy đã vượt lên trên những nghi thức tiếp đãi bình thường. Bạn đến chơi nhà
không phải vì mâm cao cỗ đầy mà để được gặp nhau, được hàn huyên tâm sự cho thỏa
nỗi khao khát nhớ mong.
Câu thơ đã thể hiện cách sử dụng từ ngữ tài tình của Nguyễn Khuyến. Đáng chú ý nhất

là cụm từ ta với ta. Đại từ ta trong tiếng Việt vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều. Nguyễn
Khuyến dùng cả hai nghĩa: ta với ta tuy hai nhưng là một. Từ với gắn kết hai từ ta lại.
Bạn và nhà thơ ngồi bên nhau thủ thỉ tâm tình, hai người hòa làm một. Quả là không gì
có thể đánh đổi được tình bạn thủy chung giữa hai người.
Qua các thời kì lịch sử, cả hai mặt từ vựng và cấu tạo ngữ pháp của tiếng Việt rất phát
triển, có khả năng thích ứng với thực tiễn. Đó là biểu hiện rõ rệt về sức sống dồi dào của
tiếng Việt.
Tác giả đã chứng minh tiếng. Việt là một thứ tiếng đẹp, hài hòa về mặt âm hưởng và
thanh điệu. Cái hay của tiếng Việt thể hiện ở chỗ linh hoạt, uyển chuyển trong cách
dùng từ, đặt câu. Tiêng Việt có đầy đủ khả năng diễn đạt tình cảm, tư tưởng của con
người, thỏa mãn các yêu cầu phát triển của đời sống văn hóa, xã hội.
Giữa hai phẩm chất đẹp và hay của tiếng Việt có quan hệ gắn bó khắng khít. Cái đẹp
của một thứ tiếng thường cũng phản ánh cái hay của thứ tiếng ấy, vì nó thể hiện sự
phong phú, tinh tế trong cách diễn đạt, cũng tức là thể hiện sự chính xác và sâu sắc
trong tình cảm, tư tưởng của con người.
Ngược lại cái hay cũng tạo ra vẻ đẹp của một ngôn ngữ. Chẳng hạn, trong tiếng Việt, sự
tinh tế, uyển chuyển trong cách đặt câu, dùng từ, không chỉ là cái hay, mà còn tạo ra vẻ
đẹp trong hình thức diễn đạt.
Trở lại bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy có những câu thơ
chứng minh cho sự phong phú và cách phối hợp hài hòa hệ thống thanh điệu trong tiếng
Việt:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa.


Vẻ đẹp thiên nhiên như một bức tranh thủy mặc. Âm hưởng thơ gợi lên khung cảnh của
một vùng rừng núi hoang vu. Cảnh đẹp nhưng nhuốm màu buồn tẻ, quạnh hiu. Những
bông hoa rừng đây đó không đủ làm sáng bức tranh núi non hùng vĩ lúc ngày tàn, đêm
xuống.
Những ưu điểm nổi bật về mặt nghệ thuật của bài văn nghị luận Sự giàu đẹp của tiếng

Việt là ở chỗ tác giả đã kết hợp khéo léo giữa giải thích với chứng minh, bình luận.
Cách lập luận rất chặt chẽ: Nêu nhận định ở phần mở bài, sau đó giải thích và bình luận
nhận định. Dùng các dẫn chứng để chứng minh, làm tăng sức thuyết phục của lí lẽ.
Bài nghị luận này thể hiện trình độ hiểu biết sâu sắc về tiếng việt của nhà nghiên cứu
Đặng Thai Mai. Tác giả đã khơi dậy trong lòng chúng ta lòng tự, hào và ý thức bảo vệ
Sự giàu đẹp của tiếng Việt. Yêu tiếng mẹ đẻ là biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước. Đọc
và suy ngẫm kĩ về bài văn trên, chúng ta càng thêm tin tưởng vào tương lai tươi sáng
của tiếng Việt.

ĐỀ 3:
Chứng minh câu tục ngữ Thất bại là mẹ thành công
Trên bước đường đời, để có được những thành công trong sự nghiệp cũng như
trong cuộc sống, mỗi người chúng ta đều phải trải qua một quá trình làm việt miệt mài.
Trong quá trình ấy, có thể chúng ta sẽ gặp những thất bại hay sai lầm. Tuy nhiên, từ
những thất bại ấy, ta sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn. Vì thế, người ta thường nói:
“Thất bại là mẹ thành công”. Nhưng muốn hiểu được điều mà ông bà ta gửi gắm, ta phải
hiểu được ý nghĩa của câu tục ngữ này và đó cũng là vấn đề mà ta cần phải giải thích
hôm nay.
Trước hết, ta phải hiểu “thất bại” là gì? Thất bại chính là những lần vấp ngã, là
khi công việc của ta gặp khó khăn, không có kết quả tốt như chúng ta mong đợi. Còn
thành công thì lại trái ngược lại. Thành công có nghĩa là đạt được những kết quả mà ta
mong muốn và hoàn thành công việc ấy một cách thuận lợi và tốt đẹp. Mẹ là những
người sinh ra con, nhờ có mẹ mới có con. Từ những ý nghĩa trên, ông bà ta muốn nhắn
nhủ với chúng ta rằng: Chính những thất bại trong cuộc sống sẽ giúp ta thành công trên
đường đời.
Thế thì tại sao thất bại lại là mẹ thành công? Mới đầu ta thấy câu nói trên có vẻ
mâu thuẫn với nhau. Thất bại và thành công là hai chuyện trái ngược nhau hoàn toàn,
không hề có liên hệ gì với nhau cả. Nhưng sau một hồi suy ngẫm, ta thấy được rằng câu
tục ngữ này chẳng hề vô lý chút nào cả mà trái lại, nó rất liên kết với nhau. Bởi vì sau
khi mỗi lần thất bại, ta sẽ tìm ra nguyên nhân dẫn đến những sai sót của ta, từ đó rút ra

được những kinh nghiệm quý báu, giúp ta tránh phạm những sai lầm đó nữa và ngày
càng tiến tới bước đường thành công hơn.
Đối với những người dễ nản chí thì câu nói này có vẻ như sai nhưng đối với
những người kiên trì và bền chí thì chắc chắn đúng. Để đạt được thành công thì những
vấp ngã thiếu sót hầu như không thể tránh khỏi. Đó là một điều tất yếu. Thất bại còn
giúp ta rèn luyện ý chí, giúp ta tự tin và bản lĩnh hơn. Trong cuộc sống thường ngày,
mấy ai trong chúng ta mà không gặp những sai phạm vấp ngã. Khi chúng ta còn thơ bé,
trong những lần chập chững biết đi, chẳng phải chúng ta đã té ngã bao nhiêu lần ư?
Trong lúc tập chạy se đạp, có phải bạn đã té xe đến độ trầy cả chân sao? Nếu những lúc
ấy ta buông xuôi thì có lẽ đến giờ chúng ta vẫn chưa biết đi, chưa biết đi xe đạp đấy.
Nhiều người nổi tiếng trên thế giới cũng có lần gặp những thất bại. Nhà bác học Loius
Pasture lúc còn nhỏ là một học sinh trung bình. Về môn Hoá, ông đứng hạng mười lăm


trong tổng số hai mươi hai học sinh. Sự thất bại đó không làm ông nản lòng mà còn là
động lực để giúp ông vươn cao, trở thành nhà bác học nổi tiếng.
Vì vậy, bạn đừng bao giờ sợ thất bại. Bởi vì một người mà luôn sợ thất bại, lúc
nào cũng muốn mình sống một đời mà không có một sai lầm nào cả thì bạn là một
người ảo tưởng, hoặc là hèn nhát không bao giờ dám đối mặt với cuộc sống. Nếu lúc
nào bạn cũng lo âu là mình sẽ luôn gặp thất bại thì xin lỗi, bạn chẳng bao giờ tự lập
được cả. Bạn sợ té xe thì không thể nào mà đạp xe được, bạn sợ sặc nước thì mãi mãi
bạn sẽ không bao giờ biết bơi. Một người mà không chịu được mất mát thì sẽ chẳng
được gì. Bạn nên nhớ rằng con đường đời trong cuộc sống không phải lúc nào cũng phải
trải đầy hoa hồng và niềm vui không đâu. Nếu trong những việc nhỏ nhặt như thế mà
chúng ta còn làm không xong thì làm sao mà ta có thể đương đầu với những gian nan
khi ta lớn lên? Chẳng lẽ cuộc đời chúng ta chỉ có thất bại thôi sao? Bạn nên nghĩ rằng:
Thất bại và sai lầm bao giờ cũng có hai mặt cả. Tuy nó đem lại cho ta không ít mất mát
và thương tổn nhưng nó cũng là những bài học vô cùng đắt giá, giúp ta tránh lặp lại
những sai lầm về sau.
Tuy nhiên, bạn cũng cần phải cẩn trọng. Không phải là bạn liều lĩnh hay mù

quáng mà lại cố làm ra những sai lầm.Chẳng ai thích sai lầm cả. Có người sau khi phạm
sai lầm thì lại chán nản. Kẻ thì sau khi phạm sai lầm lại phạm những sai lầm khác còn
nghiêm trọng hơn. Vì vậy, cách xử trí của ta đối với những sai lầm cũng rất quan trọng.
Bạn đừng nên bi quan, buông xuôi tất cả. Bởi vì chính trong những lúc nguy nan, những
lúc khó khăn nguy nan nhất, nếu ta vẫn bình tĩnh và có ý chí, ta có thể lật ngược lại vấn
đề. Ta cần phải tự tin, lạc quan, có nghị lực để vượt qua những trở ngại, khó khăn thử
thách để đạt đến thành công. Một điều quan trọng nữa là ta phải dũng cảm, trung thực
nhìn nhận ra thất bại và vượt qua nó, xem thất bại như một động lực lớn giúp ta thành
công. Những người khôn ngoan sẽ là người biết rút ra được kinh nghiệm và biết tìm con
đường để tiến lên. Cho nên, đừng bao giờ sợ thất bại. Điều đáng trách nhất là khi chúng
ta bỏ lỡ những cơ hội quý giá chỉ vì một lý do hết sức đơn giản: Chúng ta chưa cố gắng
hết mình.
Là học sinh, đương nhiên chúng ta vẫn gặp rất nhiều thất bai: bị điểm kém, bị
thầy cô phê bình, cha mẹ không bằng lòng,…Nhưng chúng ta vẫn không nản chí, không
buông xuôi mà ngược lại, ta phải cố gắng nỗ lực hơn trong học tập. Và không chỉ trong
việc học tập mà còn trong gia đình, cuộc sống, với những người xung quang. Câu tục
ngữ trên là một lời dạy bảo thiết thực về những kinh nghiệm trong cuộc sống. Khi hiểu
được ý nghĩa của câu tục ngữ rồi, ta có thể tự tin hơn trước những thất bại, khó khăn
trong cuộc sống.
ĐỀ 5: Người sống ở đời không thể thiếu bạn.
Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà câu chuyện cảm động về tình bạn giữa Bá Nha Tử Kì, Trần Phồn - Từ Trĩ lại là điển tích trong văn học Trung Quốc, trở thành mẫu mực
điển hình khiến ai cũng muốn nhắc tới khi nói về tình bạn.
Và cũng không ngẫu nhiên khi ca dao - dân ca Việt Nam lại có cách so sánh độc
đáo về sự gặp gỡ, tri âm:
- Ra đi vừa gặp bạn quen
Cũng bằng dội nước hồ sen trước chùa
- Ra đi vừa gặp bạn hiền
Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời
Có lẽ nào có được một người bạn lại quý giá nhường ấy? Có lẽ nào tìm bạn lại quan
trọng như thế trong cuộc sống con người? Và có chính xác hoàn toàn thì ai đó khẳng



định: "Người sống ở đời không thể thiếu bạn"?
Trong cuộc sống, con người được đặt trong rất nhiều mối quan hệ, gần gũi, thân thiết
nhất với mỗi người là ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột, là họ hàng. Rộng ra ngoài xã
hội, chúng ta có những người hàng xóm, có đồng nghiệp, đồng chí . Nhưng không hẳn
lúc nào chúng ta cũng có thể chia sẻ mọi vấn đề trong cuộc sống với những người thân
của mình. Có những điều chỉ một hoặc một vài người mới giúp ta giải quyết được, có
những hoàn cảnh chỉ có họ mới cùng ta đi qua được,.. Họ là ai? Họ là những người bạn.
Hiểu một cách nôm na, bạn là những người đồng cảm, đồng điệu với ta, thấu hiểu
những tâm tư, suy nghĩ trong ta, có thể chia sẻ với ta nhiều khó khăn, vướng mắc trong
cuộc sống, “Người sống ở đời” tức là tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác địa vị
xã hội... Ai cũng cần có bạn, tuổi nào cũng cần có bạn. Từ những đứa trẻ đang bi bô tập
nói đến cậu học sinh ngồi trên ghế nhà trường, những người trung niên, những người
cao tuổi, ai cũng cần bạn. Tuổi già có câu chuyện của tuổi già, tuổi trẻ có câu chuyện
của tuổi trẻ. Tất cả đều có nhu cầu trò chuyện tâm giao, nhu cầu được thấu hiểu, cảm
thông những vấn đề của mình. “Người sống ở đời không thể thiếu bạn” tức là không thể
không có bạn. Ai sống trên đời cũng cần bạn. Bản thân mỗi người cũng phải là bạn của
mọi người và mỗi người đều cần có quanh mình những người bạn thực sự.
Mỗi cá nhân tồn tại trong cuộc sống này nhất thiết phải có bạn- điều đó hoàn toàn chính
xác, hoàn toàn có thể lí giải. Con người vốn dĩ muốn tồn tại, phát triển bình thường, cần
hoà nhập với môi trường sống, cần có sự giao lưu với những người xung quanh. Những
người xung quanh không chỉ bao gồm người thân, đối tác, đồng nghiệp mà còn có bạn
bè. Bạn bè là những người thường xuyên lắng nghe ta, đối thoại với ta, phá tan đi thế
đơn độc của ta. Người không có bạn sẽ không cảm nhận được ý nghĩa cua cuộc sống
con người. Ai cũng hiểu bi kịch của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của
Nam Cao là không một ai ở làng Vũ Đại thèm đáp lại lời chửi (phương thức giao tiếp
đặc biệt) của hắn. Nhân vật Bê-li-cốp trong câu chuyện Người trong bao (Sê-khốp) đã
chết âm thầm, khổ sở vì luôn tự thu mình, tư cô lập mình với cuộc đời. Thực tế mà nói,
bi kịch của mỗi người sống trong cộng đồng là luôn cảm thấy mình cô độc, đơn phương.

Hơn thế nữa, bạn còn là người có thể chia sẻ với ta những điều mà có khi người thân
không thể thấu hiểu được. Có những khúc mắc trong lòng người vợ mà người chồng
không thể hiểu và giải toả như người bạn thân của vợ. Cha me chỉ nhìn những lá thư
trong ngăn cặp của con mình là biểu hiện của sự xao lãng học tập mà không hiểu đó là
biểu hiện bình thường của tâm lí lứa tuổi này. Các nhà nghiên cứu tâm lí giáo dục đã kết
luận những đứa trẻ học trung học cơ sở rất coi trọng tình bạn, rất đề cao bạn bè mình
bởi lẽ ở các em có những biến thái tâm lí mà ngay cả cha mẹ cũng không thể hiểu nắm
bắt chính xác. Trong nhiều hoàn cảnh khó khăn, chỉ những người bạn mới có thể giúp
đỡ nhau giải quyết vấn đề. Có những kiến thức trên lớp mà khi thầy cô giảng học sinh
lại không tiếp thu nhanh bằng cách giải thích của người bạn ngồi bên.
Khi bị cha mẹ la mắng, bị điểm thấp, hay bị hạ hạnh kiểm trong đợt thi đua của tháng,
những người bạn cùng lớp có thể động viên cùng nhau khắc phục khuyết điểm. Khi
chiếc bút hết mực, bạn là người sẵn sàng chia ra trước mặt ta chiếc bút khác. Khi tài liệu
ôn thi hết kì môn Toán bị mất, bạn là người sẵn sàng cho ta mượn để photo. Bạn là
người đến chúc mừng từ rất sớm khi biết tin ta đỗ đại học. Bạn là người mang cho ta số
báo Hoa học trò mới ra khi ta nằm bẹp trên giường vì trận sốt tối qua... Bạn là người
luôn nở nụ cười khi ta chiến thắng, là người luôn sát bờ vai để ta dựa vào khi nước mắt
đang chực tuôn rơi... Ai sống cũng cần được quan tâm, chia sẻ và bạn chính là người có
thể làm được điều đó.


Còn một lí do để mỗi người sống trên đời cần có bạn. Đó là vì bạn là tấm gương sáng
nhất để ta soi vào đó và hoàn thiện mình. Bạn cũng như ta, cũng có những điều hay,
đáng học tập và cũng còn nhiều điều chưa tốt, cần khắc phục. Có bạn, chúng ta có thể
suy xét về bản thân để tự điều chỉnh mình. Bạn là học sinh nghèo vượt khó, ta không
khó khăn như bạn nhưng ta đã đủ nghị lực để vượt qua sự dung dưỡng của hoàn cảnh
mà học tốt như bạn chưa? Bạn hay đi học muộn, hay bỏ làm bài tập về nhà, thế là không
tốt. Ta có nên như bạn không?... Ngần ấy lí do đủ dể chúng ta thừa nhận: Người sống ở
đời không thể thiếu bạn.
Nếu trong tình yêu, người con trai và con gái đến với nhau bằng sự đồng điệu của hai

trái tim chung nhịp đập, bằng những xúc cảm thăng hoa..., nếu như tình anh em, tình
mẫu tử, phụ tử là tình cảm máu thịt, ruột rà thiêng liêng thì tình bạn lại được dựng xây
bằng sự chân thành, quý mến thực sự của những con người có vốn chỉ có quan hệ bình
thường. Nhưng điều đó không có nghĩa tình bạn là thứ tình cảm tầm thường, không
đáng trân trọng. Có được người bạn đã khó nhưng giữ gìn để tình bạn mãi bền lâu còn
khó hơn rất nhiều. Phải làm gì để quanh ta bạn bè luôn đông vui? Phải làm gì để chinh
phục được điều khó khăn ấy?.
Trong cuộc sống, không phải ai cũng tự nhiên có bạn. Không phải chúng ta cứ ngồi một
chỗ và tự khắc có người đến làm bạn với ta. Muốn quanh ta có nhiều những người bạn
tốt, trước hết, bản thân chúng ta cần hoà mình vào cộng đồng, tập thể. Chủ động kết bạn
với mọi người. Sự chân thành, nhiệt tình của bản thân là yếu tố cốt yếu nhen nhóm lên
ngọn lửa tình bạn. Hãy nở nụ cười, hãy chìa bàn tay của mình ra trước, cất tiếng chào
trước với người mình muốn làm quen. Sự thân thiện của bạn sẽ là đầu mốc vững chắc
cho chiếc cầu tình bạn sắp được thi công.
Có được những người bạn rồi, chúng ta nên cố gắng để giữ gìn tình bạn. Tình bạn luôn
cần sự quan tâm, chia sẻ. Vậy nên chúng ta có thể đặt niềm tin vào bạn mình, chủ động
giải bày với bạn về những vướng mắc, tâm tư, tình cảm trong lòng. Những người bạn sẽ
cảm nhận được sự cởi mở ở bạn và chắc chắn không bao giờ thơ ơ, lạnh nhạt với những
vấn đề của bạn. Họ sẽ đưa ra lời khuyên hữu ích, sẽ giúp bạn vượt qua khó khăn. Ngay
cả khi không thể giúp bạn giải quyết vấn đề, họ cũng sẽ ở bên động viên bạn. Khi một
người bạn trong lớp tôi mất đi người em trai mà cô rất mực yêu quý, không một ai trong
lớp tôi kìm nén được cảm xúc của mình. Những ngày sau đó, mọi người luôn gần gũi,
trò chuyện với cô. Chúng tôi không né tránh hỏi tới cậu em xấu số, bởi lẽ ai cũng hiểu,
những kỉ niệm giúp bạn mình luôn cảm thấy người em vẫn đang bên cạnh.
Sự quan tâm của bạn bè luôn là nguồn động viên quý giá đối với mỗi chúng ta. Vậy nên,
khi nhận được những chia sẻ của bạn bè, chúng ta nên lắng nghe, tiếp thu một cách trân
trọng. Thái độ đó sẽ chứng tỏ cho bạn bè thấy được tình cảm quý mến, tôn trọng của
mình. Điều này có lợi hơn là những phản ứng khó chịu, dẫn tới sự bất hoà với bạn. Bạn
bè sẽ cảm nhận được họ có vị trí như thế nào trong ta, sẽ cảm nhận được họ quan trọng
đối với ta. Họ sẽ tự tin hơn trong những lời động viên, khuyên nhủ. Và tình bạn giữa

mọi người chắc chắn sẽ được cố kết hơn, gắn bó hơn
Hết lòng gìn giữ tình cảm bạn bè, hết lòng vun đắp cho tình bạn là phương thức tốt nhất
để tình bạn trường tồn vĩnh cửu. Sự bao dung, độ lượng trong tình bạn hay thái độ thẳng
thắn nhận khuyết điểm của mình sẽ giúp tình bạn trở nên bền vững hơn. Bạn có lỡ nặng
lời với ta trong lúc nóng giận, ta cùng không nên chấp nhặt bởi lúc bình tĩnh trở lại, bạn
sẽ hiểu. Sau lúc giận dỗi trách mắng vì bạn đã không cho mình xem lời giải trong tiết
kiểm tra môn Vật lí, ta nên suy xét lại xem bạn làm như thế là tốt hay xấu cho ta?. Tình


bạn cũng như mọi tình cảm khác, không thể bị cám dỗ bởi vật chất tầm thường. Một
người vì bả vinh hoa, vì sự hấp dẫn của tiền bạc mà phản bội lại tình bạn, một người “có
mới nới cũ”, gặp chỗ sang giàu vội quên người bạn thuở hàn vi... chắc chắn sẽ không
bao giờ có những người bạn thực sự.
Bài mẫu 2
Ai đã đọc Sự tích con cuốc chắc hẳn đều rất cảm động trước tình bạn của Quắc và
Nhân. Ai đã đọc Khóc Dương Khuê chắc hẳn sẽ không thể không xúc động trước tình
cảm sâu nặng Nguyễn Khuyến dành cho người bạn đồng niên của mình. Ai đã xem tích
chèo Lưu Bình – Dương Lễ không thể không cảm động trước tình bạn sâu sắc của hai
người bạn nghèo. Trong những bài học môn Đạo đức thuở nhỏ, chúng ta đã được biết
câu chuyện về một cô bé suốt mấy năm đằng đẵng cõng người bạn tật nguyền của mình
đến trường. Rồi câu chuyện về những người bạn bé nhỏ băng mình vào dòng nước xiết
cứu bạn khỏi chết đuối..., tình bạn giữa Mác - Ăng-ghen, giữa Xuân Diệu - Huy Cận...
và cả tình bạn giữa ta với bạn bè xung quanh chính là những cành hoa đẹp nhất tô thắm
thêm cho lịch sử tình bạn của nhân loại.
Bạn là nhân vật quan trong trong cuộc sống “người sống trên đời không thể thiếu bạn”
nhưng không phải vì thế mà chúng ta vội vàng trong việc chọn bạn, dễ dãi , xuề xoà quá
trong tình bạn. Người xưa dạy “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, Nếu kết thân được
với những người bạn tốt, chân thành coi như ta đã có được điều thật quý giá. Với những
đối tượng quá xấu, chúng ta nên tránh tiếp cận để không lây nhiễm những thói hư tật
xấu ở chúng. Nhưng nói như vậy không có nghĩa lúc nào chúng ta cũng giữ thái độ dè

chừng với mọi người. Con người không ai hoàn hảo, toàn thiện toàn mĩ được. Bạn cũng
như ta, cũng có những điều chưa tốt, những khuyết điểm. Cách tốt nhất là chúng ta nên
giải thích cho bạn hiểu, động viên bạn từ bỏ chúng. Chính vì thế mà “Đôi bạn cùng
tiến” là mô hình thường xuyên được triển khai trong các Đoàn, Đội ở các nhà trường.
Con người cần có bạn ở mọi nơi, mọi lúc. Vậy nên đừng ngại ngần kết bạn với mọi
người. Tuổi tác, địa vị xã hội, khả năng kinh tế... không phải là những rào cản để những
người bạn đến với nhau. Để thế giới bạn bè của chúng ta không thưa thớt, chật hẹp, hãy
luôn ý thức mình có thể làm bạn với tất cả mọi người. Ai có thể là bạn của ta? - Những
người thân, đồng nghiệp, những người hàng xóm... và thậm chí cả chú cún con của ta
nữa.
ĐỀ 6: Hãy biết quý trọng thời gian (Bài hay)
Cuộc sống của con người mỗi ngày một thay đổi, của cải vật chất ngày càng nhiều
nhưng tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận. Nếu chúng ta không biết tiết kiệm
thì làm ra bao nhiêu cũng hết. C. Mac nói : “Mọi tiết kiệm, suy cho cùng là tiết kiệm
thời gian”. Câu nói của Cac Mac khẳng định thời gian là quý nhất.
Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là tiết kiệm ?. Tiết kiệm là một trong những phẩm
chất cơ bản của con người. Tiết kiệm là sử dụng tiền bạc, của cải vật chất, sức lao động,
thời gian… một cách hợp lí, đúng mức, không lãng phí.
Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, keo kiệt, không phải là coi trọng đồng tiền một cách
quá đáng, việc cần chi tiêu cũng không dám chi tiêu, gặp lúc cần đóng góp cũng không
đóng góp.
Tiết kiệm cũng không phải là dè xẻn, để dành, cất kín tiền bạc dư thừa mà ngược lại,
cần làm cho nó sinh sôi nảy nở. Người dân nào cũng có tiền chưa dùng đến, nên đem
gửi vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm, sẽ ích nước lợi nhà, theo tinh thần của câu khẩu
hiệu : “Tiết kiệm là quốc sách”.


Cac Mac nói : “Mọi tiết kiệm, suy cho cùng là tiết kiệm thời gian” bởi vì thời gian gắn
liền với từng con người và từng việc cụ thể. Muốn hoàn thành một công việc nào đó, dù
lớn hay nhỏ, chúng ta đều cần phải có thời gian. Ví dụ : học sinh học năm năm thì hết

bậc Tiểu học, bốn năm thì hết bậc Trung học cơ sở, ba năm mới hết bậc Trung học phổ
thông. Người nông dân sau ba tháng gieo trồng, chăm sóc mới thu hoạch được một vụ
lúa. Không có thời gian thì chúng ta không làm được việc gì cả. Từ xưa, dân gian cũng
đã khẳng định : “Thì giờ là vàng bạc”.
Vậy thời gian là yếu tố quan trọng không thể thiếu để chúng ta học tập, lao động và tạo
ra những của cải vật chất, tinh thần quý giá cho cá nhân, cho xã hội. Sử dụng một
khoảng thời gian cho một công việc nào đó nhưng không đạt kết quả theo ý muốn thì ta
buộc phải làm lại từ đầu. Như vậy là ta đã đánh mất thời gian, đánh mất một phần của
cuộc đời mình.
Trong quãng đời đi học, nếu chúng ta lười biếng, không chịu nghe theo lời dạy bảo của
cha mẹ, thầy cô thì liệu khi bước vào đời, chúng ta có đủ năng lực để tự nuôi sống bản
thân và đóng góp cho xã hội ?. Lúc ấy, dẫu có muốn học lại từ đầu thì chắc cũng không
dễ dàng gì.
Sử dụng thời gian để học tập tốt, lao động tốt thì chúng ta sẽ tạo ra nhiều của cải vật
chất và tinh thần, góp phần dựng xây đất nước ngày càng giàu đẹp.
Có thời gian là có tất cả. Thời gian qua đi không lấy lại được. Mỗi con người chỉ có một
quỹ thời gian nhất định để sống, học tập và lao động. Vậy trong suốt thời gian ấy, chúng
ta phải làm gì để đến “khi nhắm mắt xuôi tay, không phải ân hận vì những năm tháng
sống hoài sống phí ?” (“Thép đã tôi thế đấy” – Otsterropski). Đó là câu hỏi lớn đặt ra
cho cả đời người, do đó chúng ta phải biết quý thời gian mình đang sống.
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, câu nói của Cac Mac càng có giá trị như một
chân lí. Việt Nam vốn là một nước có nền kinh tế tiểu nông lạc hậu. Sau hai cuộc chiến
tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ kéo dài suốt mấy chục năm, nền kinh tế nước
ta lại càng nghèo nàn, lạc hậu. Chính vì vậy, chúng ta cần tranh thủ thời gian để khôi
phục và phát triển mọi lĩnh vực của đất nước. Kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho đến
nay, nhân dân ta đã bắt tay vào sự nghiệp xây dựng đất nước trong hòa bình theo đường
lối đổi mới, mở cửa nên bước đầu đã có cuộc sống ấm no. Tuy vậy, Việt Nam vẫn là
một trong những nước nghèo chậm phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Hiện nay, đi đôi với những cố gắng phát triển kinh tế, khoa học, kĩ thuật. Nhà nước ta đã

đề cao chủ trương tiết kiệm trong toàn Đảng, toàn dân, coi tiết kiệm là quốc sách, là một
trong những biện pháp cơ bản hàng đầu để xây dựng đất nước.
“Tiết kiệm là quốc sách”, bởi vì tiết kiệm đem lại lợi ích to lớn cho con người và xã hội.
Với một quốc gia như Việt Nam thì tiết kiệm lại càng quan trọng và cần thiết. Tiết kiệm
để tích lũy vốn, đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, từng bước đưa đất
nước đi lên. Chúng ta có thể huy động vốn từ nhiều nguồn như vay mượn của nước
ngoài hay hợp tác đầu tư… nhưng nguồn vốn trong nước vẫn là cơ bản, mà nguồn vốn
của nhân dân chỉ có được bằng cách chi tiêu hợp lí và tiết kiệm.
Tiết kiệm là việc làm vô cùng cần thiết. Đảng và Nhà nước kêu gọi các cơ quan, đoàn
thể hãy tiết kiệm tối đa, không mua ô tô loại sang, không xây dựng công sở thật lớn,
không trang bị những đồ dùng đắt tiền, không tổ chức tiệc tùng lãng phí… Những công
trình lớn được xây dựng đúng tiến độ thi công, bảo đảm đúng chất lượng tốt tiết kiệm
cho ngân quỹ quốc gia. Những cuộc họp đúng giờ, ngắn gọn là tiết kiệm thời gian. Một
dây chuyền sản xuất hợp lí là tiết kiệm công sức lao động.


Tiết kiệm là biểu hiện của nếp sống văn minh, văn hóa. Xưa nay, những kẻ có thói xấu
ném tiền qua cửa sổ đều mau chóng thất cơ lỡ vận, còn những người biết chi tiêu hợp lí
và thực sự tiết kiệm thì ngày càng giàu có. Sinh thời, Hồ Chủ tịch đã căn dặn toàn dân
phải “tiết kiệm thời giờ, sức lao động và tiền của”.
Mỗi người có những cách thức khác nhau để thực hành tiết kiệm. Chủ doanh nghiệp tiết
kiệm tiền của, sức lao động, hợp lí hóa sản xuất. Người nội trợ chi tiêu hợp lí để tiết
kiệm ngân quỹ gia đình. Còn học sinh chúng ta phải làm gì để thực hành tiết kiệm ?.
Điều quan trọng nhất là nên dành nhiều thời gian để : “Học, học nữa, học mãi”; phải
biết sắp xếp một cách hợp lí giờ học, giờ chơi, giờ lao động. Giữ gìn trường lớp, bàn
ghế, đồ dùng học tập… là tiết kiệm cho nhà trường. Bảo quản sách vở, quần áo, xe cộ
để cha mẹ đỡ tốn tiền mua sắm cũng là tiết kiệm. Chăm chỉ học tập, lao động vừa là
giúp đỡ cha mẹ, vừa là giúp đất nước tiết kiệm tiền của để đào tạo một con người. Có
muôn ngàn cách để tiết kiệm, miễn là chúng ta phải có ý thức tự giác.
Câu nói của Cac Mac đúng với mọi hoàn cảnh, mọi quốc gia. Trong nhịp sống khẩn

trương của thời đại công nghiệp, chúng ta lại càng phải thường quyên rèn luyện ý thức
tiết kiệm.
Không chỉ tự mình thực hành tiết kiệm mà chúng ta nên vận động mọi người cùng
hưởng ứng chủ trương tiết kiệm, chống lãng phí tiền của Nhà nước, nhất là lãng phí thời
gian. Tiết kiệm không chỉ là việc làm quan trọng, cấp thiết mà còn là một trong những
phẩm chất cần có của mỗi con người nếu muốn thành công trong sự nghiệp. Vì thế, ủng
hộ chủ trương tiết kiệm của Nhà nước cũng là biện pháp để chúng ta rèn luyện phẩm
chất tốt đẹp của con người mới.
ĐỀ 7:
1. CHỚ NÊN TỰ PHỤ
Tony Hsieh từng nói: “Đừng tự mãn. Đừng hào nhoáng. Luôn luôn có người giỏi hơn
bạn.” Đúng vậy, trong cuộc sống rộng lớn này, ta luôn có thể tìm thấy những con người
tài giỏi khiến ta khâm phục, đó là lí do mà chúng ta: “Chớ nên tự phụ”.
Tự phụ là tự đánh giá quá cao tài năng, thành tích của mình, do đó coi thường mọi
người, kể cả người trên mình. Một người tự phụ sẽ tự coi bản thân mình là giỏi giang,
không ai sánh bằng, có thể tỏ thái độ kiêu căng, tự, mãn, không xem người khác ra gì
bởi đối với họ, người khác vì thua kém hơn nên phải lép vế trước họ.
Điều này là rất không nên bởi nhân dân ta có câu: “Núi cao còn có núi cao hơn”, không
ai trên đời này có đủ khả năng nhận mình là tài giỏi nhất và sư thật là cũng không có ai
là giỏi nhất cả. Trong hơn bảy vạn người trên trái đất, ta chẳng qua chỉ là một hạt cát vô
danh bé nhỏ, chỉ có một chút điểm sáng không có nghĩa ta là vần hào quang. Nếu xét
khả năng của một người trong cùng một lĩnh vực, khó mà khẳng định người ấy tài giỏi
nhất cho dù có xuất sắc đến đâu bởi trên khắp mọi miền thế giới có không biết bao
nhiêu nhân tài, qua thời gian nhân tài ấy lại càng tăng lên do sự biến đổi và tuần hoàn
không ngừng của vũ trụ. Còn nếu xét toàn diện, người xuất sắc ở lĩnh vực này chưa
chắc đã thể hiện tốt ở một lĩnh vực khác. Nếu là vậy, con người ta không có lí do gì để
tự phụ về một chút tài mọn của bản thân cả. Hơn nữa, người tự phụ vì luôn đặt bản thân
mình lên trước nhất lại coi thường người khác nên không những không được yêu quý và
tôn trọng cho dù có tài năng đến đâu mà còn bị ghét bỏ, xa lánh, coi thường. Họ không
biết rằng ở mỗi người đều có những điều tốt đẹp mà người khác cần học hỏi, không ai

có quyền coi thường ai và không ai có quyền tự mãn về bản thân mình. Thêm vào đó,
những người có tính tự phụ luôn có suy nghĩ bản thân đã đủ tài giỏi, hơn hẳn những


người khác nên không có tư tưởng cố gắng, không chịu học hỏi thêm để tích lũy thêm
tri thức trong khi bản thân chỉ mới có chút tri thức nhỏ nhoi chỉ bằng hạt cát trong kho
tàng tri thức nhân loại. Lâu dần, tài năng có đến đâu cũng sẽ bị hao mòn, trở thành ếch
ngồi đáy giếng.
Vậy làm thế nào để tránh tính tự phụ? Đầu tiên là phải hiểu quy luật vận động của xã
hội, biết mình cần gì, muốn gì, biết mình là ai, luôn ý thức được sự hữu hạn của bản
thân để luôn làm đầy thêm vốn hiểu biết cũng như đạo đức của mình. Tránh có suy nghĩ
coi thường những người hiện tại chưa bằng mình mà cần chan hòa, giúp đỡ họ nếu cần
thiết. Mỗi người đều mang trong mình những tài năng khác nhau mà chưa từng bộc lộ, ở
mỗi người đều có điểm thiếu sót và hơn hẳn người khác, điều quan trọng là chúng ta
biết tôn trọng sự khác biệt, khắc phục những yếu điểm của bản thân đồng thời phát huy
những ưu điểm để phát triển tốt nhất. Và không quên ý thức rằng bản thân còn nhiều
điều cần học hỏi và chớ tự phụ về bản thân mình.
Nhưng một điều cần lưu ý đó là không tự phụ không đồng nghĩa với việc tự ti mà chỉ
đồng nghĩa với khiêm tốn. Nếu quá tự ti thì sẽ trở thành người nhút nhát, không tin
chính bản thân mình và không bao giờ có thể phát triển được.
Người sống khiêm tốn thì được tôn trọng, kẻ tự phụ chỉ khiến cho mọi người xa lánh.
Hãy nhớ rằng: “Chớ nên tự phụ” và cuộc sống sẽ trở nên thật tốt đẹp biết bao.
2. CHỚ NÊN TỰ PHỤ
Cuộc sống là một cuộc đấu tranh bất tật mà ở đó tài nghệ của mỗi người chỉ là một giọt
nước nhỏ bé giữa đại dương bao la. Chính vì vậy, ta cần biết được vị trí của mình ở đâu
để sống biết mình, hiểu mình thay vì kiêu căng, ngạo mạn và “chớ nên tự phụ”.
Tự phụ là việc tự cho mình là tài giỏi, tỏ ra kiêu căng, hống hách ra oai với thiên hạ. Kì
thực cuộc sống là một trường đua dài mà ở đó bạn cần có bản lĩnh và một cái đầu lạnh.
Có nghĩa bạn cần tỉnh táo để nhận ra mình ở vị trí nào để hiểu rõ hành trình đích đến
của bản thân thay vì cố tỏ ra kiêu căng, ngạo mạn khinh thường người khác. Mỗi người

là một cá thể độc lập, có một thái độ sống riêng, nhưng chúng ta không thể nào sống
đơn lẻ và vì thế cần học cách tôn trọng người khác và biết yêu thương mọi người. Con
người vừa mạnh mẽ mà cũng rất yếu đuối, chúng ta như những giọt nước nhỏ bé giữa
đại dương bao la, vì thế cũng như giọt nước phải biết hòa mình vào biển cả mới mong
tồn tại vững bền. Khi ta tự phụ cũng đồng nghĩa với việc ta không trân trọng cộng đồng,
không tôn trọng mọi người xung quanh như vậy dẫn đến sự chia sẽ, mất đoàn kết, làm ta
mất đi sợi dây liên kết với tập thể. Như vậy sự tồn tại cá nhân còn ý nghĩa gì khi biến
mất và dần dần không có cộng đồng.
Tự phụ là chưa đúng. Bởi tự phụ làm bạn trong mắt người khác là người thiếu trưởng
thành trong cách ứng xử, đối đãi với mọi người xung quanh. Không biết hòa hợp với tập
thể, không gắn bó mà lại tự tách mình ra khỏi vòng sinh tồn. Có một khía cạnh được
nhìn nhận ở đây rằng đúng là khi bạn tự phụ cũng có thể hiểu là bạn có tài năng để ra
oai, nhưng giữa biển người vô tận kia, bạn liệu đã là duy nhất. Chúng ta là một cá nhân
riêng biệt nhưng không có nghĩa là độc lập, duy nhất để coi thường người khác. Hơn
nữa, tài năng của mỗi người là hữu hạn, mỗi người như một tế bào của xã hội đóng một
vai trò quan trọng khác nhau trong xã hội. vì thế không nên so sánh, tự phụ, tự cao về
bản thân. Đến những người vĩ đại như các nhà bác học, khoa học đã sáng tạo đã cống
hiến biết bao cho sự văn minh của nhân loại như Ê-đi-sơn. Anh-xtanh, Ma-ri-qui-ri...
còn chưa dám tự phụ về tài năng của họ thì chúng ta với một sự nhỏ bé ấy của mình
không có gì quá để đề cao đến mức tự phụ vì bản thân. Tự phụ dẫn đến thái độ thiếu tôn
trọng và xem nhẹ người xung quanh, hiểu sai về năng lực và vai trò của từng người


xung quanh trong một công vệc. Chính vì thế nó sẽ làm bạn mất điểm trong lòng đối
phương, người khác không những không tôn trọng bạn mà còn cho rằng bạn thiếu hiểu
biết.
Đôi khi trong cuộc sống, chính những điều bình dị nhỏ bé mà thầm lặng lại để lại những
dư âm lớn. Họ có thể đã cống hiến, hi sinh rất nhiều cho cuộc sống tươi đẹp, cho sự phát
triển chung của loài người. Những ở họ, ta thấy sự giản dị, thầm lặng vô tư mà khiêm
tốn về tài năng và vai trò của mình, chính điều ấy giúp ta thấy rằng họ tỏa sáng, ánh

sáng tuy không chói lòa nhưng rất bền vững, rất đẹp.
Nhưng cũng không nên hiểu rằng chớ nên tự phụ chứ không phải là bạn nên tự ti. Tự ti
lại là sự không thành thực và tin tưởng vào năng lực cua bản thân, dẫn đến hành động
không có lập trường, trở nên yếu đuối khi bị phản bác lại. Không nen tự phụ, tự cao, tự
đại nhưng cần phải tự tin và hiểu rõ vị trí của mình ở đâu để sống đúng đắn, ý nghĩa và
khôn ngoan. Cần phải hiểu rõ vị trí của bản thân, nhận thức được đúng đắn giá trị của
mình đang ở đâu mà sống tích cực, cao thượng và ứng xử đúng đắn với mỗi người xung
quanh. Khiêm tốn là một trong những cách giúp bạn ghi điểm trong lòng người khác,
giúp bạn vẫn tỏa sáng một cách dịu dàng mà ý nghĩa với xung quanh. Làm nên giá trị
vững bền tiềm ẩn trong con người bạn chứ không phải là sự phô trương, khoe khoang
đầy kiêu ngạo.
Cuộc sống phong phú kia là trường đại học chân chính nhất của con người, và một trong
những bài học ấy là: chớ nên tự phụ. Đó là chiều khóa để thành công, là cách để bạn tồn
tại vững bền trong trái tim mọi người.
Vấn đề nào cũng có 2 mặt của nó, tự phụ cũng vậy, tuy nhiên thực tế cuộc sống thì tự
phụ hay nói cách khác là tự kiêu sẽ gây nhiều trở ngại cho bạn trong công việc học tập
và cuộc sống. Nhiều người hiểu nhầm tự phụ giống như tự tin, nhưng thực tế tự phụ và
tự tin hoàn toàn khác nhau. Người tự phụ thường nghĩ mình giỏi giang giỏi hơn nhiều
người, còn người tự tin nghĩ mình giỏi và người khác cũng giỏi.
ĐỀ 8:
Suy nghĩ về hai câu tục ngữ Không thầy đố mày làm nên và Học thầy không tày
học bạn
Từ xưa đến nay nhân dân ta vẫn giữ gìn, nâng nu truyền thống tôn sư trọng đạo, luôn
thuộc nằm lòng câu ca dao:
“Muốn sang thì bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ phải yêu mến thầy”
Bởi vì chính người thầy đã hướng dẫn, uốn nắn chúng ta trở nên người hữu ích cho xã
hội. Khẳng định mạnh mẽ vai trò của tác dụng người thầy, tục ngữ ta có câu:
“Không thầy đố mày làm nên”
Trong khi đó, chính tục ngữ cũng lại có câu:

“Học thầy không tày học bạn”
Vậy quan niệm trong hai câu tục ngữ trên có gì mâu thuẫn nhau hay có gì chưa thỏa
đáng? Và người học sinh chúng ta nên hiểu việc học thầy học học bạn như thế nào cho
đúng?
Qua câu tục ngữ: “Không thầy đố mày làm nên” ông bà chúng ta đều cao vai trò, vị trí,
tác dụng quyết định tuyệt đối của người thầy giáo đối với học sinh. Không có sự giáo
dục uốn nắn của thầy thì chúng ta sẽ không bao giờ làm nên bất cứ việc gì cả.
Ngược lại, câu tục ngữ sau cũng không phải hoàn toàn phủ nhận vai trò của người thầy
giáo nhưng lại quá đề cao vai trò của bạn bè trong quá trình học tập rèn luyện nên cho
rằng học bạn là có kết quả hơn học thầy.


Như vậy xét cho cùng hai câu tục ngữ trên không hề mâu thuẫn nhau, vì đều đề cập vai
trò của người thầy giáo trong sự nghiệp đào tạo, giáo dục con người nhưng có khác
nhau ở mức độ: câu đầu quá đề cao, câu sau lại coi nhẹ vai trò và tác dụng đó.
Đúng là cả hai câu tục ngữ đều nhìn nhận vấn đề chưa được thỏa đáng. Cho rằng:
“Không thầy đố mày làm nên” là coi người thầy giáo có vai trò quyết định tuyệt đối
trong quá trình học tập, trong sự rèn luyện thành người của người học sinh thi đúng là
hơi quá. Tuy người thầy giáo có vai trò rất lớn trong sự thành đạt, làm nên của học trò
mình nhưng không phải là quyết định tất cả. Chính nhờ thầy là bậc đàn anh đi trước
truyền đạt lại mà học trò là người đi sau mới có được các kiến thức mới mẻ, mới hiểu ra
bao điều hay lẽ phải. Thầy giáo hướng dẫn cho học trò từng bước đi lên vững chắc hơn,
nhưng chỉ có sự làm việc của người thầy thôi chưa đủ. Bên cạnh sự tận tâm hướng dẫn
của người thầy đòi hỏi có sự nỗ lực chủ quan của trò. Người thầy dù có hết lòng hết sức
và truyền đạt hay cách mấy mà trò thiếu ý thức, không chịu cố gắng học tập thì cũng
không sao làm nên được. Hơn nữa, chỉ học ở trường thôi chưa đủ. Học trò còn phải học
hỏi thêm ở cuộc sống ngoài xã hội trong gia đình và cả bạn bè nữa.
Trái lại, nếu ta khẳng định: “Học thầy không tày học bạn” thì đúng là quá hạ thấp vai trò
người thầy và đề cao quá đáng vai trò của bạn bè trong quá trình tiếp thu kiến thức và
rèn luyện. Đúng ra, bạn bè chỉ có thể đóng vai trò giúp đỡ, hỗ trợ, trao đổi thêm để cùng

tiến bộ chớ nếu không tày thì không ổn, là quá cường điệu. Vả lại, bạn bè chỉ giúp đỡ
được nhau khi có sự bản ban và hướng dẫn của thầy giáo, khi bạn bè biết thương yêu,
thông cảm và đoàn kết với nhau, có cùng chí hướng, cùng quyết tâm nỗ lực đi lên. Khi
ấy học bạn mới mong có kết quả được. Trong việc học tập của mọi người đâu phải lúc
nào hay bất cứ ai cũng có thể gặp được bạn tốt sẵn sàng giúp đỡ mình một cách chân
thành, vô tư. Thành ra coi nhẹ vai trò, tác dụng của người thầy giáo và quá đề cao việc
học tập ở bạn bè và kết luận rằng học bạn có kết quả hơn học thầy là không chính xác.
Thấu suốt ý nghĩa của hai câu tục ngữ trên ta không thể hoàn toàn tán thành câu nào, bỏ
qua câu nào. Phải biết khéo léo vận dụng cả hai câu vào quá trình học tập của mình. Cả
hai câu tục ngữ trên sẽ bổ sung cho nhau về mặt ý nghĩa và đem lại cho chúng ta bài học
bổ ích trong việc rèn luyện để vươn lên của mình. Ta phải xác định vai trò của người
thầy giáo dối với việc hướng dẫn dạy dỗ chúng ta. Muốn làm nên, nghĩa là thành đạt,
chủ yếu là ta phải học ở thầy, nhưng về phía bản thân phải có sự nỗ lực phấn đấu không
ngừng và đồng thời phải biết học hỏi thêm ở thực tế cuộc sống ở gia đình và đặc biệt là
ở bạn bè là những người luôn gần gũi sát cánh bên ta trong việc học tập. Phải làm sao
tạo được tình đoàn kết tương thân tương ái trong bạn bè để hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau
trong học tập và rèn luyện. Có như vậy mới mong đạt được kết quả tốt đẹp được.
Tóm lại, cả hai câu tục ngữ trên nếu đứng riêng ra thì mỗi câu đều không được đúng
hoàn toàn và nhìn bề ngoài có vẻ mâu thuẫn nhau. Nhưng nếu chúng ta đi cùng với nhau
chúng ta sẽ nhận được từ chúng một lời khuyên đầy đủ nhất, đúng đắn nhất. Phải coi
trọng việc học thầy, đồng thời cũng phải kính trọng thầy đúng theo tinh thần tôn sư
trọng đạo của cha ông: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Bên cạnh đó, cũng phải biết
thương yêu, đoàn kết, khiêm nhường học hỏi ở bạn bè và cùng giúp đỡ nhau tiến bộ.
Bài 2:
Nhân dân ta thường nhắc nhở nhau: Không thầy đố mày làm nên. Nhưng có lúc lại
khẳng định: Học thầy không tày học bạn. Hai câu tục ngữ đó có chỗ nào mâu
thuẫn nhau? Ở mỗi câu tục ngữ có điểm nào đúng, điểm nào chưa đúng? Con
người dù có thông minh tài giỏi xuất chúng cũng phải bắt đầu xây dựng sự nghiệp cho



mình qua sự trợ giúp, hướng dẫn của nhiều người thầy. Thấy rõ vai trò quan trọng của
người thầy nên tục ngữ ta có câu:
“Không thầy đố mày làm nên”
Thế nhưng cũng có ý kiến cho rằng:
“Học thầy không tày học bạn’’
Cả hai câu tục ngữ đều đề cập đến vấn đề học tập của học sinh, cho dù học với thầy hay
học ở bạn. Vấn đề quan trọng cần nói lên ở đây là học với ai là đạt kết quả cao nhất?
Chúng ta cần xác định rõ việc học tập với thầy và học với bạn như thế nào cho đúng?
Nhận định thận trọng và chính xác thì cả hai câu tục ngữ trên không có gì mâu thuẫn
nhau, chúng cùng đề cập đến việc học tập của học sinh. Nhưng chúng chỉ khác nhau ở
đối tượng học tập mà thôi. Và nổi rõ trong vấn đề học tập là người “thầy”. Xét về
chuyên môn thì “thầy” cũng có nhiều ngành: thầy dạy nghề nghiệp và thầy dạy chữ
nghĩa trong nhà trường. Đối với những người thầy dạy nghề nghiệp thì mong mỏi duy
nhất là học trò của mình sẽ thành thạo nghề nghiệp để “làm nên”, để tạo được cuộc sống
vẻ vang, sung sướng. Còn thầy dạy chữ nghĩa bao giờ cũng muốn học sinh cùa mình
nắm vững đạo đức, kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật, đạt được học vị như ý muốn.
Trong phạm vi của hai câu tục ngữ này, chúng ta xin bàn bạc trong góc độ của người
học sinh với việc học tập để nâng cao trình độ mà thôi.
Trước hết, chúng ta nhận định mặt đúng của hai câu tục ngữ. Câu Không thầy đố mày
làm nên” là đúng. Tại sao đúng? Bởi vì vai trò cùa thầy giáo thật quan trọng. Thầy là
người có trình độ kiến thức văn hóa, có tư cách. Muốn làm thầy phải trải qua trường lớp
sư phạm, phải nắm vững phương pháp dạy học. Do vậy việc học tập ở thầy sẽ đạt kết
qụả tốt, sẽ “làm nên”. Hàng ngày, chúng ta đối diện với bí ẩn trong cuộc sống, trong vũ
trụ, trong khoa học kỹ thuật… thì thầy ta sẽ giúp ta thông hiểu. Thầy mở rộng, nâng cao
kiến thức văn hóa cho ta. Bởi vậy mới có câu ca dao:
“Ngày nào em bé cỏn con
Bây giờ đã lớn khôn thế này
Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy
Nghĩ sao cho đáng những ngày ước ao".
Thật vậy, ông thầy nào cũng ước ao học sinh của mình sẽ làm nên danh phận sau này.

Và câu tục ngữ “Học thầy không tày học bạn” cũng có phần đúng. Vì sao đúng? Vì bạn
bè là người cùng lứa tuổi, cùng trình độ, dễ gần gũi, thân mật, nên bạn giảng giải ta dễ
tiếp thu hơn. Mặt khác học ở bạn có nhiều thuận lợi về giờ giấc, địa điểm. Điều gì ta
chưa hiểu rõ, bạn có thể nói đi, nói lại nhiều lần khi nào ta thấu hiểu, thấu đáo, rành rẽ
mới thôi. Sẽ gần gũi ta, thời gian học với bạn lại không bị gò bó, do vậy ta sẽ tiếp thu sự
chỉ bảo của bạn một cách thoải mái. Nhưng học với bạn cũng cần gạn lọc, chọn lựa tìm
những bạn tốt vì: “Ở chọn nơi, chơi chọn bạn’’ là kinh nghiệm thực tế giúp ta phải biết
chọn lựa bạn tốt để học tập.
Tuy nhiên, xét suy thận trọng thì cả hai câu tục ngữ đều có khía cạnh làm ta không hài
lòng. Nếu như ai đó quá đề cao vai trò của thầy thì quả quyết “không thầy đố mày làm
nên”. Họ đã tuyệt đối hóa, tin tưởng ở vai trò của người thầy trong sự thành đạt của
mình. Nhưng con người trưởng thành, lập nên sự nghiệp là nhờ phần lớn ở sự nỗ lực
của bản thân. Tự thân người học sinh nhận thức tiếp thu, sáng tạo mới làm nên. Mặt
khác, học với thầy có nhiều hạn chế về thời gian, phương tiện bàn ghế, giờ giấc, trật tự,
kỷ luật. Như vậy, sự thành công, sự “làm nên” của học sinh còn phải được nhiều đối
tượng khác trợ giúp như gia đình, trong đó có cha, mẹ, anh chị, bạn bè và xã hội chung
quanh: sách báo, các phương tiện nghe nhìn cũng giúp ta thành công trong học tập.


Chúng ta khẳng định con người trưởng thành, một phần là nhờ công ơn của thầy dạy dỗ
trong nhà trường, còn một phần lớn là do quan hệ xã hội…
“Đi một ngày đàng học một sàng khôn”.
Cũng có ý khuyên ta nên học tập, rèn luyện ở môi trường khác. Hơn nữa, câu tục ngữ
“học thầy không tày học bạn’’ cũng có chỗ chưa thỏa đáng. Bởi vì nó quá đề cao vai trò
của bạn bè trong việc học tập rèn luyện mà hạ thấp vai trò và tác dụng của thầy. Trong
công tác giáo dục, người thầy luôn luôn có vai trò to lớn, vai trò chủ đạo còn bạn bè chỉ
là người hỗ trợ mà thôi. Vì bạn bè chưa có kinh nghiệm sống, kiến thức còn non yếu, lại
chưa nắm vững phương pháp dạy học. Thế nên ta không thể xem việc học với bạn là tối
ưu được. Bạn ta làm sao có trình độ kiến thức hơn thầy ta được? Nói như thế, không có
nghĩa là phủ nhận vai trò hướng dẫn của bạn, nhưng trong chừng mực nào đó, bạn bè tốt

là những người biết giúp đỡ trao đổi nhau học tập để cùng nhau tiến bộ. Ca dao ta có
câu:
“Bạn bè là nghĩa tương thân
Khó khăn hoạn nạn ân cần có nhau”
Đó là những người bạn cùng chung chí hướng, chân tình giúp nhau trong học tập.
Trong thời phong kiến, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhân tài chưa mở rộng, giáo dục
chưa có tính chất phố’ biến, phạm vi giáo dục gò bó khuôn sáo. Trong việc học tập,
người học sinh nhất cử, nhất động đều tuân thủ theo thầy, họ xem lời giáo huấn và nhân
cách của thầy là “khuôn vàng, thước ngọc”, là mẫu mực phải noi theo. Mặt khác, việc
học tập ngày xưa là nhằm thăng quan, tiến chức, nhằm chiếm lĩnh địa vị cao sang trong
xã hội và cuối cùng là đồ phục vụ cho vua, chúa để được vinh thân, phì gia. Muốn thi đỗ
làm quan thì phải tìm thầy giỏi để học vì “không thầy đố mày làm nên”.
Còn ở thời đại mới ngày nay, người thầy giáo đã hoàn toàn được xã hội quan tâm. Trong
nhiều năm qua, Ngày Hiến chương Nhà giáo 20 – 11 đã trở thành ngày hội lớn, là ngày
xã hội quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đóng vai trò quan trọng của mối quan hệ giữa
gia đình và nhà trường. Cho dù học với thầy hay học với bạn, thì lòng biết ơn thầy, cô
dạy dỗ mình vẫn là nguyên tắc đạo đức và là chuẩn mực về tư cách của học sinh chúng
ta.
“Trọng thầy mới được làm thầy”
Tình nghĩa thầy trò lúc nào cũng thấm sâu và cao đẹp biết bao! Ta nên nghĩ rằng thầy là
người bạn “lớn” luôn sẵn sàng giúp ta vươn tới trong học tập cũng như góp phần khẳng
định hướng cho ta vào tương lai.
Nhìn một cách chung nhất, cả hai câu tục ngữ cùng bổ sung ý nghĩa cho nhau, cùng có
chung mục đích là nhắc nhở mọi người cố công học tập để “làm nên” sự nghiệp cho
cuộc đời mình. Cho dù học vởi thầy hay học với bạn, chúng ta cũng phải học tốt. Chúng
ta kính yêu và biết ơn thầy, cô đã khổ công truyền bá tư tưởng đạo đức, kiến thức cho ta.
Chúng ta phải khiêm tốn, tương trợ, giúp đỡ bạn để cùng học tập, cùng tiến bộ.
Bài 3:
Dân gian ta có câu: “Không thầy đố mày làm nên” nhưng đồng thời lại nhắc nhở
chúng ta: “Học thầy không tày học bạn”. Em hiểu những câu nói trên như thế

nào?
Với truyền thống "Tôn sư trọng đạo", dân gian Việt Nam rất coi trọng vai trò của người
thầy trong sự nghiệp giáo dục. Bởi vậy có câu tục ngữ "Không thầy đố mày làm nên".
Song dân gian cũng lại có câu “Học thầy không tày học bạn” Vậy hai câu tục ngữ này
có mâu thuẫn với nhau không? Ta cần hiểu vấn đề này như thế nào?


Kho tàng tục ngữ Việt Nam là phương tiện chuyền tải những kinh nghiệm quý giá của
nhân dân về những vấn đề tự nhiên, xã hội. Do hình thức ngắn gọn, hàm súc nên tục
ngữ chỉ đề cập đến những vấn đề cốt lõi, cơ bản mà không mở rộng, bàn luận, nhận xét.
Bởi vậy, có khá nhiều cặp tục ngữ luôn tồn tại song song với nhau tưởng như đối lập
nhau nhưng thực chất là bổ sung cho nhau về ý nghĩa. Hai câu tục ngữ “Không thầy đố
mày làm nên” và “Học thầy không tày học bạn” cũng nằm trong số đó.
Câu tục ngữ “Không thầy đố mày làm nên” có tính chất tuyệt đối hóa vai trò của người
thầy trong việc học tập của con người. Xưa, các phương tiện thông tin đại chúng rất hạn
chế, việc đi lại giao lưu cũng không phổ biến. Bởi vậy, người thầy chính là nguồn cung
cấp tri thức chủ yếu cho học trò. Thầy dạy trò đọc sách, thầy dạy trò cách cư xử hàng
ngày,… không có thầy, trò không biết và không làm được điều gì trong cuộc sống. Vậy
là trong việc học tập của học trò hàng ngày, người thầy đóng vai trò chủ đạo.
Nhưng nếu như câu tục ngữ trên tuyệt đối hóa vai trò của người thầy thì câu sau lại
tuyệt đối hóa vai trò của người bạn trong việc học tập: “Học thầy không tày học bạn”.
Trong thực tế, ngoài việc học thầy, ta có thể học ở bạn bè. Bạn bè là những người cùng
trang lứa với ta, cùng tâm lí, cùng trình độ, nhờ vậy ta có thể học hỏi ở bạn cách học tốt
hơn, rút kinh nghiệm từ bạn những điều sai trái. Trong câu tục ngữ này, từ “tày” mang ý
nghĩa là “bằng". Cả câu mang ý nghĩa “Học thầy không bằng học bạn”. Cách nói này
chỉ nhằm nhấn mạnh vai trò của việc học bạn chứ không hề phủ nhận vai trò của việc
học thầy. Điều đó cũng như câu tục ngữ trước chỉ nhằm nhấn mạnh vai trò của việc học
thầy chứ không phủ nhận vai trò của việc học hỏi ở các đối tượng khác.
Hai câu tục ngữ bổ sung cho nhau nhắc nhở chúng ta: việc học có nhiều cách thức,
nhiều phương tiện. Đặc biệt trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như ngày nay,

ta có thể học từ rất nhiều nơi: thầy cô, cha mẹ, bạn bè, báo chí, sách vở, mạng,… Điều
quan trọng là cần biết lựa chọn thông tin chính xác, cập nhật, có ích để tiếp nhận và học
hỏi.
ĐỀ 9:
Đề bài: Dân gian có câu tục ngữ: "Gần mực thì đen gần đèn thì rạng". Nhưng có
bạn lại bảo: Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng. Em hãy viết
một bài văn chứng minh thuyết phục bạn ấy theo ý kiến của em.
BÀI LÀM
Môi trường sống có ảnh hưởng rất nhiều đến sự hình thành nhân cách của con người.
Ác mối quan hệ gia đình, bạn bè, hàng xóm… đều tác động tới mỗi cá nhân. Điều đó đã
được cha ông ta đúc kết qua câu tục ngữ: "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng".
Để nêu lên một bài học hoặc một kinh nghiệm nào đó trong cuộc sống, ông cha ta
thường mượn hình ảnh của sự vật có liên quan đến con người để thể hiện ý của
mình. Mực có màu đen. (Ngày xưa mực Tàu được đúc thành thỏi, khi dùng thì đem mài
với nước, lấy bút lông chấm vào mực để viết chữ Hán, nếu sơ ý bị mực dây vào chân
tay, quần áo thì khó tẩy sạch). Từ thực tế đó, người xưa mượn mực để ám chỉ những cái
xấu xa. Còn đèn là vật phát ra ánh sáng. Đến gần đèn, ta sẽ được soi sáng. Cho
nên đèn tượng trưng cho điều tốt đẹp, sáng sủa. Mượn hai hình ảnh tương phản nhau
là mực và đèn, câu tục ngữ ngầm nhắc nhở: Nếu giao du với hạng người xấu, ta sẽ bị
nhiễm thói hư tật xấu; nếu ta kết bạn với những người tốt thì ta sẽ học tập được nhiều
điều hay, điều tốt.
Quan sát thực tế cuộc sống hàng ngày xảy ra xung quanh ta, ta sẽ thấy ý nghĩa của
câu tục ngữ trên là đúng.


Xét trong phạm vi gia đình thì cha mẹ, anh chị là tấm gương để cho con em noi theo.
Nếu như chao mẹ hòa thuận và coi trọng việc giáo dục con cái, anh em yêu thương nhau
thì đó chính là gia đình hạnh phúc, sẽ có được những đứa con ngoan ngoãn, giỏi giang,
hiếu thảo với ông bà bố mẹ. Ngược lại, nếu cha mẹ lục đục, anh em bất hòa thì chắc
chắn con cái sẽ hư hỏng, khó nên người và sau này gia đình của những người con ấy

cũng sẽ không được hạnh phúc vì nhiễm phải thói cư xử ấy của bố mẹ.
Trong xã hội, nếu tiếp xúc thường xuyên với những đối tượng xấu xa, lừa đảo, cướp
giật, chà đạp lên nhau để sống thì một ngày nào đó, ta sẽ bị tiêm nhiễm thói hư tật xấu
ấy. Người xưa đã khẳng định: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài và có lời khuyên chí lí:
Thói thường gần mực thì đen
Anh em bạn hữu phải nên chọn người
Đối với lứa tuổi học sinh, việc kết bạn là một vấn đề rất quan trọng. Chọn bạn mà
chơi là một điều có thể ảnh hưởng lớn đến nhân cách của con người. Nếu biết chọn
những bạn chăm ngoan, học giỏi, lễ phép, biết kính trên, nhường dưới,… thì chúng ta sẽ
học tập được những đức tính tốt và sẽ trở thành người tốt. Bạn bè sẽ giúp đỡ nhau để
cùng tiến bộ.
Ý nghĩa của câu tục ngữ trên từ lâu nay đã được công nhận nhưng trong một lần tranh
luận ở lớp, bạn em lại cho rằng: Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã
rạng. Ngẫm nghĩ kĩ, em thấy ý kiến của bạn có phần nào có lí, song không phải vì thế
mà giá trị của câu tục ngữ bị phủ nhận.
Quả thật, yếu tố con người, ý chí, nghị lực vô cùng quan trọng. Nếu làm chủ được
bản thân, có ý chí, lập trường, quan điểm vững vàng thì chúng ta khó bị tha hóa bởi cái
xấu.
Sống trong môi trường không tốt mà con người vẫn giữ được nhân cách trong sáng
thì cũng giống như hoa sen nở trên đầm lầy vẫn tỏa ngát hương thơm. Xung quanh ta có
rất nhiều tấm gương như vậy. Nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ suốt mấy chục năm sống ngay
trong hang ổ quân thù và bè lũ bán nước Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu và chính
phủ Ngụy quyền Sài Gòn, tay sai của đế quốc Mĩ xâm lược lược, vậy mà "ông cố vấn"
vẫn nguyên vẹn là một chiến sĩ cộng sản kiên cường, mưu trí và dũng cảm. Ông đã vượt
qua vô vàn thử thách, hiểm nguy để theo đuổi đến cùng lí tưởng cách mạng, góp phần
tích cực vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Gần gũi hơn, quen thuộc hơn là gương sáng của các bạn nhỏ nhà nghèo mà luôn biết
vượt lên hoàn cảnh để đạt được kết quả học tập tốt. Có bạn những bạn hàng ngày phải
vượt hàng chục cây số đèo cao dốc đứng hay rừng núi hiểm trở để đến trường. Có bạn
mồ côi cha mẹ, sống cơ cực, thiếu thốn trăm bề hàng ngày vừa đi học vừa đi làm nhưng

vẫn phấn đấu vượt lên hoàn cảnh để học tốt, học giỏi. Không ít những anh chị sinh viên
vừa làm vừa học, vừa kiếm tiền mưu sinh vừa rèn luyện bản lĩnh để vững vàng bước
vào đời… Điều đáng nể phục , đáng cho chúng ta học tập là họ đã chiến thắng hoàn
cảnh và chiến thắng được chính mình.
Ngược lại, có những người hoàn cảnh sống hoàn toàn thuận lợi, tốt đẹp nhưng
bản thân lại chẳng ra gì. Sinh ra trong gia đình giàu sang, thừa thãi bạc tiền, danh vọng,
họ không phải lo lắng, bươn chải để mưu sinh mà chỉ việc học cho tốt, sống cho tốt.
Thế nhưng họ lại sớm sa ngã bởi những thú ăn chơi sa dọa như tiêu xài hoang phí, nay
vũ trường, mai quán rượu, rồi hút chích ma túy, điên cuồng đua xe gây tai nạn trên
đường phố mà nhóm thanh niên đua ô tô tốc độ cao vừa qua ở thành phố Hồ Chí Minh
là một ví dụ. Như vậy là họ đã tự nhuộm đen nhân cách của mình.


Ngày nay, trong xã hội tốt đẹp mà chúng ta đang sống, vẫn còn một số người vì
nhắm mắt chạy theo đồng tiền để thỏa mãn những dục vọng vật chất mà đánh mất đạo
đức, nhân cách, thậm chí mất cả sự nghiệp. Vì vậy, trong quan hệ ta phải thận trọng,
sáng suốt để không phải ân hận về sau.
Tuy vậy, đối với người chưa tốt, không phải chúng ta một mực xa lánh họ để họ
buông xuôi trước cái xấu. Những năm gần đây, vòng tay nhân ái của cộng đồng đã cưu
mang nhiều số phận lỡ bước sa chân vào con đường tăm tối của các tệ nạn, giúp họ trở
về cuộc sống lương thiện, thành người hữu ích cho xã hội.
Câu tục ngữ Gần mực thì đen gần đèn thì rạng là một lời khuyên thiết thực và bổ
ích. Ta cũng rút ra từ đó bài học bổ ích cho bản thân là hãy không ngừng tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức, tác phong để có được một quan điểm sông lành mạnh, đúng đắn.
Hãy tránh xa bóng tối của những cám dỗ xấu xa; chọn bạn tốt mà chơi để học tập và
phấn đấu trở thành con ngoan trò giỏi. Gần đèn để được soi sáng là điều cần thiết
nhưng ngọn đèn sáng nhất vẫn là ngọn đèn tỏa chiếu từ chính tâm hồn mình.
DÀN Ý THAM KHẢO
Mở bài: Đã từ rất lâu, thật thà là một phẩm chất quý báu của con người trong cuộc
sống. Thế nhưng, đôi khi, sự “thật thà” lại khiến cho con người gặp nhiều phiền toái,

thậm chí còn bị chê bai như câu tục ngữ: “Thật thà là cha thằng dại”. Tại sao lại như
vậy?
Thân bài: viết thành từng phần, đoạn

Giải thích câu tục ngữ: Chuyển ý: Trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là “Thật
thà là cha thằng dại”. “Thật thà” có nghĩa là trung thực, thẳng thắn, không gian dối
đối với mọi người. “Cha”: là người có công sinh thành, dưỡng dục. Còn “thằng dại”
được hiểu là một người khờ dại, là người làm điều dại dột. Suy cho cùng, câu tục
ngữ mang hàm ý thật thà sinh ra dại dột. Hay nói ngắn gọn hơn “Thật thà là dại”.

Tại sao “Thật thà là cha thằng dại” ?
Chuyển ý: Câu tục ngữ trên là vô lí chăng? Vậy chẳng phải ông cha lại khuyên
chúng ta đừng nên thật thà? Thực sự mà nói, thật thà vẫn là một đức tính tốt đẹp ngàn
đời. Là bài học cha mẹ dạy cho con cái từ thuở lên ba. Tuy nhiên, trong cuộc sống,
không phải lúc nào chúng ta cũng nên “thật thà”.
Nhiều người ngay thẳng có những khi bị cô lập, thậm chí là trù dập. Ngay chính
nhiều bậc cha mẹ muốn giữ thân cho con luôn khuyên rằng: "Đừng có thật thà quá mà
chuốc họa vào thân". Thực tế có những công nhân đứng lên tố cáo sai phạm của các xí
nghiệp, nhà máy, họ thắng kiện rồi bị cho... nghỉ việc. Cứ như thể chúng ta đang sống
chung với bệnh giả dối và nó đã là... người bạn quá thân quen.
Không phải lời nói dối nào cũng xấu (Có những lời nói dối không xấu như người
con đang ở xa gia đình, gặp bất trắc hoặc có vấn đề về sức khỏe, khi cha mẹ già yếu hỏi
thăm thì con lại nói đang có cuộc sống hoặc sức khỏe tốt. Một ví dụ khác ngược lại là
cha mẹ già yếu nay ốm mai đau, nhưng khi con cái - vốn đang đi công tác xa - gọi điện
thoại hỏi thăm thì cha mẹ nói rằng sức khỏe vẫn bình thường. Trên đây chỉ là một ví dụ
nhỏ nhưng còn nhiều ví dụ khác nữa cho ý kiến không phải lời nói dối nào cũng xấu.
Tất nhiên, vẫn có nhiều lời nói dối đem đến cái xấu cho xã hội.)
Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng…(điều này thật ra mình không dại mà
chỉ vì người khác không đón nhận sự chân thành của mình.
Một doanh nhân trên thế giới rằng: “nói dối khi cần và nói thật khi có thể”. Tức là

khi cần vẫn có thể nói dối và chỉ nói thật khi điều mình nói ra không ảnh hưởng đến


người khác, không ảnh hưởng đến mình và những mối quan hệ khác.Người quá thật
thà không dễ thành công ?
Vì vậy, “thật thà” không đúng lúc, đúng nơi thật sự chính là “cha thằng dại”.
Tìm thêm lí lẽ, dẫn chứng…

Chúng ta cần phải làm gì?
Để tránh nói ra những điều khiến một giây sau phải hối hận, cách tốt nhất là nên
im lặng suy nghĩ về cái được và cái mất của mình trước lúc nói. Không ai bắt mình phải
nói ngay cả. Cha ông ta đã từng đúc kết “phải uốn lưỡi bảy lần trước lúc nói” là vì vậy.
Nếu không nghĩ được cái gì để nói thì có thể im lặng và không bày tỏ quan điểm.
Không nói gì còn hơn nói ra để rồi sau đó phải ân hận.
Thời gian im lặng để suy nghĩ đó cũng chính là thời gian giúp người thật thà làm
chủ được cảm xúc của mình. Khi đã làm chủ được mình, họ sẽ tìm ra được cách nói thế
nào sẽ mang lại hiệu quả nhất. Tuy nhiên, đó chỉ là cách điều trị để giảm bớt triệu
chứng, để không nói ra những câu nói “hớ hênh”. Không dễ chữa được “bệnh” thật thà,
vì nó là bẩm sinh, là tố chất của con người.
Thật thà đúng thời điểm. (Ta nghĩ nên thay từ "thật thà" bằng từ "trung thực".
Những lời nói thật rất khó tiếp thu. Vậy ta nên nêu cao tinh thần trung thực thì hơn.
Chúng ta không nói dối, không làm sai và khi cần thì ta sẽ thẳng thắn. Ta nói là "khi
cần" vì trong những trường hợp khác, tự nhiên bạn sẽ bị đi vào thế cô lập. Những lời nói
quá thẳng thắn có thể gây tổn thương, thậm chí khắc cốt ghi tâm vào lòng người nghe
như một sự nhẫn tâm. Vậy, khẳng định: thật thà, thẳng thắn là đúng nhưng phải biết
hành động đúng thời điểm, đúng người).
Và, nói dối mà tốt cho mọi người, không hại ai thì “nói dối lại là cha thằng khôn”.
Tuy nhiên, không vì thế mà để nói dối trở thành thói quen.
Kết bài: Câu tục ngữ trên thật sâu sắc, khuyên chúng ta cần khéo léo trong giao tiếp
ứng xử. Nói thật đôi khi có hại mà ngược lại nói dối lắm lúc lại là điều cần thiết trong

cuộc sống. Bản thân là học sinh, ta cần rèn luyện nhiều đức tính tốt đẹp như nhân ái.
dũng cảm, kiên trì… trong đó không thể thiếu trung thực. Tuy nhiên, mỗi người cần vận
dụng một cách linh động không nên cứng nhắc để dẫn đến nhiều điều không hay.
ĐỀ 10: Nếu khi còn trẻ ta không chịu khó học tập thì lớn lên sẽ chẳng làm được
việc gì có ích.
Mỗi người đều có một tuổi tre, một tuổi trẻ của rieng mình. Nhưng đã bao giờ bạn tự
hỏi phải sống sao để tuổi trẻ ấy thực sự có ý nghĩa, để cuộc sống của bạn là một cuộc
sống thực sự chứ không phải là sự tồn tại không hơn. Vâng xin bạn hãy nhớ rằng: nếu
khi còn trẻ mà ta không học thì lớn lên sẽ chẳng làm được việc gì có ích.
Mọi thứ đều gắn liền với tuổi trẻ-mùa xuân đẹp nhất của đời người. tuổi trẻ là tuổi để
yêu thương, để ước mơ, để bay cao và bay xa hơn trong cuộc đời nhỏ bé của mình. Khi
còn trẻ, ta có sức lực dồi dào, có trí não tốt, bộ nhớ linh hoạt và một lòng nhiệt huyết
cháy bỏng có thể chinh phục theo đuổi bất cứ con đường nào ta theo đuổi. tuổi trẻ là để
dẫn thân, là tuổi cho sự dám nghĩ, lám làm, dám ước mơ, thách thức và theo đuổi. mà
con đường chân chính nhất cho sự theo đuổi ấy là học tập. Khi còn trẻ với một sự ưu
việt cả về tri tuệ và thể lực sẽ là điều kiện nền tảng thuận lợi để bạn phát triển học vấn,
chuẩn bị hành trang cho tương lai.
Nếu tuổi trẻ ta không học, khi về già, sức khỏe không còn được cường tráng, bộ nhớ suy
giảm vì thế mọi hoạt động liên quan đến tư duy đều bị trì trệ và không hiệu quả. Có
nhiều con đường dẫn đến thành công, mở ra tươi sang cho tương lai nhưng học vấn là


con đường ngắn nhất và đỡ gian khổ nhất để đi đén thành công. Một nhà văn Nhật Bản
Fu-ku-za-wa yu-ki-chi từng chiêm nghiệm: Mọi người sinh ra đều bình đẳng, nếu có
khác biệt là do học vấn”. như thế đủ để thấy vai trò quan trọng như nào của học vấn.
học vấn là con đường để bạn khẳng định cái tôi của mình một cách chân chính và giá trị
nhất. những tri thức ta học giúp ta áp dụng vào thực tiễn đời sống, phát minh ra những
thiết bị hiện đại phục vụ cho con người. khi về già, lúc ấy không còn sức lực, đó cũng là
tuổi ta nghỉ ngơi sau một hành trình mệt mỏi của tuổi trẻ, vì thế mà tuổi già khó phát
huy được khả năng, và cống hiến cho cuộc đời. cuộc sống cần một cái tôi biết cống hiến

và hi sinh để góp một phần thanh xuân tươi đẹp vào cuộc đời trù phú này. Nếu ai cũng
có suy nghĩ lười học, mải chơi thì ai sẽ người làm ra của cải cho xã hội trong khi thế hệ
trẻ lại là nguồn lực cốt cán cho xã hội. nếu tuổi trẻ chỉ như một khúc gỗ mục ruỗng, sao
có thể xây dựng một ngôi nhà vững chãi. Tuổi trẻ là nền tảng của xã hội, là mầm non
tương lai của đất nước, vì thế mỗi người trẻ cần thấy được trách nhiệm của mình trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Có biết bao tấm gương ưu tú, đã vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn để học tập tốt, đẻ
cống hiến sức mình cho nhân loại. Như thầy Nguyễn Ngọc Kí, Nick Vujick hay những
học sinh vùng sâu vùng xa đã luôn cố gắng trèo đèo, lội suối vượt hiểm nguy để tới
trường. những tấm gương ấy là động lực thúc đẩy ta quên đi những khó khăn của bản
thân mà cống hiến hết mình vì tuổi trẻ, vì một cộng đồng tri thức văn minh. Đem ánh
sáng của mình để kiến tạo và làm nên ánh sáng tri thức của nhân loại. Chặng đường nào
trải bước trên hao hồng bàn chân cũng thấm đau vô vàn những mũi gai, con đường ấy
có hay chính là con đường học tập. Bởi người học vừa vất vả nhất mà cũng vừa ý nghĩa
nhất. qua chặng đường này, cánh đồng hoa đang chờ bnaj, cánh cửa thành công đang
đợi bạn phía sau. Hãy kiên nhẫn, tự tin và cháy hết mình cho ngọn đèn tri thức để làm
giàu có chính mình và làm giàu nhân loại bạn nhé.
Tuổi trẻ là tuổi bắt đầu, ươm mầm và cũng là tuổi lưu giữ những kí ức đẹp trong cuộc
đời mỗi con người. đừng chỉ giữu khư khư cho mình và phải biết đặt mình trong mỗi
quan hệ với những người xung quanh để thấy trách nhiệm của bản thân trong việc xây
dựng phát triển đất nước. Hãy nhớ rằng, nếu khi còn trẻ mà không học thì khi về già sẽ
chẳng làm được việc gì có ích.
Bài 2: NẾU KHI CÒN TRẺ MÀ TA KHÔNG HỌC THÌ LỚN LÊN SẼ CHẲNG
LÀM ĐƯỢC VIỆC GÌ CÓ ÍCH
Mỗi người một ước mơ, mỗi người tự đi một con đường mình đã chọn. Khi còn trẻ
chúng ta luôn sống hết mình, rèn luyện và học tập để đạt được thành công trên con
đường mình đã chọn. Có người nói rằng, khi còn trẻ ta không học thì khi về già ta chẳng
làm được gì có ích. Ý kiến đó có đúng hay chăng?
Tuổi trẻ! Tuổi của bao khát vọng và đam mê. Đó là khoảng thời gian mà con người ta
sẵn lòng tắm những cơn mưa rào mà không sợ bị ướt mưa, bị cảm lạnh. Khi ấy, trong ta

tràn ngập một sức sống mãnh liệt, với những mơ mộng về tương lai tươi đẹp. Vậy vì sao
chúng ta không dùng sức lực và sự say mê để học hỏi tri thức, tích lũy vốn sống chứ?
Có lẽ ở tuổi đôi mươi, ta sẽ dễ dàng học hỏi mọi thứ mới, tiếp nhận chúng một cách dễ
dàng và lưu chúng vào não bộ. Đó có thể là những kiến thức về khoa học, sinh học, về
những bài thơ dạt dào cảm xúc hay những bài văn đậm chất lãng mạn. Tất cả mọi lĩnh
vực ấy đều giúp ta bồi đắp tri thức, làm giàu mình và làm đầy mình. Ông cha ta thường
nói rằng: " đi một đàng, học một sàng khôn", mà chúng ta còn trẻ, tức có cơ hội được đi
nhiều nơi, giao tiếp nhiều người và học hỏi nhiều điều. Bởi vậy, ta không nên bỏ lỡ thời
gian căng tràn sức sống nhất, hãy dành nó để trau dồi mình. Đừng để khi về già, khi tuổi


×