Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận kinh tế chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.13 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................2
Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ.......2
TIỀN TỆ...................................................................................................... 2
1.1.

Tiền tệ và các hình thái tiền tệ.................................................................2

1.2.

Chức năng của tiền tệ..............................................................................3

Chương 2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM VỀ TIỀN TỆ ĐỂ PHÂN TÍCH
VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM.......................6
2.1.

Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam...................6

2.2.

Vị trí, vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam..................................7

2.3. Các biện pháp để phát huy vai trò Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay............................................................................................12

PHẦN KẾT LUẬN................................................................................15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................16


PHẦN MỞ ĐẦU

Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ đã lần lượt tồn tại dưới
nhiều hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế, đặc biệt
là của hoạt động sản xuất, lưu thông, trao đổi hàng hoá. Nó có vai trò quan trọng thúc đẩy
quá trình sản xuất và phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi
toàn cầu; đặc biệt trong nền kinh tế thị trường - nền kinh tế được tiền tệ hoá cao độ.
Cùng với sự phát triển năng động của kinh tế thị trường đã làm nảy sinh nhu cầu
thường xuyên và to lớn về nguồn tài chính để đầu tư và tạo lập vốn kinh doanh hoặc đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong xã hội. Kinh tế càng phát triển thì quan hệ cung cầu nguồn
tài chính lại càng tăng. Là một bộ phận của thị trường tài chính, ngân hàng trung ương là
chủ thể quan trọng trên thị trường tiền tệ; Ngân hàng trung ương có nhiệm vụ cung cấp
cho hệ thống ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết để đáp ứng nhu cầu cho nền kinh
tế, tương ứng với mục tiêu của chính sách tiền tệ. Ở Việt Nam mặc dù nền kinh tế thị
trường còn hạn chế nhưng nó đã đóng vai trò nhất định trong việc kết nối cung cầu về vốn
ngắn hạn cho các ngân hàng, doanh nghiệp .v.v.. Việc nghiên cứu tìm hiểu vai trò của
Ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát thị trường tiền tệ sẽ đi sâu vào những thực
trạng, những mặt được và cần khắc phục để tăng cường hơn nữa phạm vi, hiệu quả điều
tiết tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Chính vì thế, em đã chọn đề tài “Quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin về tiền tệ và vận dụng trong việc phân tích vai trò của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam”.

1


PHẦN NỘI DUNG
1.


QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
TIỀN TỆ

1.1.

Tiền tệ và các hình thái tiền tệ

1.1.1.

Định nghĩa tiền tệ

- Định nghĩa tiền tệ của Cac Mac: Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò vật
ngang giá chung để thực hiện quan hệ trao đổi.
- Định nghĩa tiền tệ của các nhà kinh tế hiện đại: Tiền tệ là bất cứ một phương tiện
nào được xã hội chấp nhận làm phương tiện trao đổi với mọi hàng hoá, dịch vụ và các
khoản thanh toán khác trong nền kinh tế.
1.1.2.

Sự phát triển các hình thái tiền tệ

Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ đã lần lượt tồn tại dưới
nhiều hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế, đặc biệt
là của hoạt động sản xuất, lưu thông, trao đổi hàng hoá.
 Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên
Đây là hình thái phô thai của giá trị, nó xuất thiện trong giai đoạn đầu của trao đổi
hàng hóa, khi trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật này lấy
vật khác.
Hình thái giá trị tương đối và hình thái vật ngang giá là hai mặt liên quan với nhau,
không thể tách rời nhau, đồng thời là hai cực đối lập của một phương trình giá trị. Trong

hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên thì tỷ lệ trao đổi chưa thể cố định. Hình thái vật
ngang giá của giá trị có ba đặc điểm: giá trị sử dụng của nó trở thành hình thức biểu hiện
của giá trị; lao động cụ thể trở thành hình thức biểu hiện lao động trừu tượng; lao động tư
nhân trở thành hình thức biểu hiện lao động xã hội.
 Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng
Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất,
chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hóa có thể

2


quan hệ với nhiều hàng hóa khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái gá trị đầy đủ
hay mở rộng.
Đây là sự mở rộng hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên. Hình thái vật ngang giá
được mở rộng ra nhiều hàng hóa khác nhau. Tuy nhiên, vẫn là trao đổi trực tiếp và tỷ lệ
trao đổi chưa cố định.
 Hình thái chung của giá trị
Với sự phát triển cao hơn của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hàng
hóa được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn. Nhu cầu trao đổi do đó trở
nên phức tạp hơn, việc trao đổi trực tiếp không còn thích hợp và gây trở ngại. Trong tình
hình đó, người ta phải đi đường vòng, mang hàng hóa của mình đổi lấy hàng hóa phổ
biến, được ưa chuộng rồi lấy hàng hóa được ưa chuộng ấy đem đổi lấy hàng hóa mình
cần. Khi vật trung gian được cố định trong trao đổi thì hình thái chung của giá trị xuất
hiện.
Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn định ở một thứ hàng hóa nào. Các địa
phượng khác nhau thì vật ngang giá chung cũng khác nhau.
 Hình thái tiền tệ
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, sản xuất
hàng hóa và thị trường ngày càng mở rộng thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung
khiến việc trao đổi giữa các địa phương gặp nhiều khó khăn. Điều đó dẫn đến đòi hỏi

khách quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung
được cố định lại ở một vật độc lập và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.
Đến đây, giá trị các hàng hóa đã có một phương tiện biểu hiện thống nhất và tỷ lệ
trao đổi đã được cố định lại.

1.2.

Chức năng của tiền tệ

 Thước đo giá trị
Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa. Muốn đo lường giá
trị của các hàng hóa, bản thân tiền tệ cũng phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng đo
lường phải là tiền vàng. Đo lường giá trị không cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so
sánh với lượng vàng nào đó trong ý tưởng, sở dĩ có thể làm được như vậy là vì giữa giá trị
của hàng hóa và giá trị của vàng đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ số của tỷ lệ đó là thời gian
lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Hay nói cách khác, giá cả là
hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị.

3


 Phương tiện lưu thông
Với chức năng lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hóa. Để
làm chức năng lưu thông, cần phải có tiền mặt.
Như vậy, giá trị thực tiễn của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình
trạng này là vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Điều này dẫn đến
sự ra đời của tiền giấy.
 Phương tiện cất trữ
Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ
tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thức giá

trị nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm được chức năng này, tiền phải
có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc.
Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông.
Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hóa ít thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông
đi vào cất trữ.
 Phương tiện thanh toán
Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu
hàng,… Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến trình độ nào đó tất yếu nảy sinh
việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này, trước hết tiền làm chức năng thước đo
giá trị để định giá cá cả hàng hóa. Nhưng vì là mua bán chịu nên đến kỳ hạn tiền mới
được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán. Sự phát triển của quan hệ mua
bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không
dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán
trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán,
nếu một khâu nào đó không thanh toándđược sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ
toàn bộ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.
 Tiền tệ thế giới
Khi trao đổi hàng hóa vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền tệ làm chức năng tiền tệ
thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu là vàng.
Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua bán hàng hóa, phương tiện
thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã hội.

4


TÓM LẠI: Năm chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hóa có quan hệ mật
thiết với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất
và lưu thông hàng hóa.

5



2.

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM VỀ TIỀN TỆ ĐỂ PHÂN TÍCH VAI TRÒ
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

2.1.

Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ở Việt Nam, trong nhiều thế kỷ trước vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu,

thương mại kém phát triển, do đó hoạt động kinh doanh tiền tệ ra đời muộn màng (thế kỷ
19). Ngân hàng Đông Dương là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam (1875), xuất hiện cùng
với sự đô hộ của thực dân Pháp. Cách mạng tháng Tám- 1945 thành công, chính phủ đã
giao cho bộ tài chính phát hành tiền, gọi là tiền tài chính. Năm 1947,theo sắc lệnh số
14/SL ngày 3/2/1947 của chính phủ , tổ chức tín dụng đầu tiên của nước ta được thành lập
là Nha Tín Dụng trực thuộc bộ tài chính, nhằm phục vụ cho vay phát triển sản xuất. Ngày
6/5/1951, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh số 14/SL thành lập Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam
(sau này đổi tên thành Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam). Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam
ra đời giữ vai trò độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng, đồng thời kiêm nhiệm luôn
các chức năng của ngân hàng thương mại. Hệ thống ngân hàng lúc này là mô hình ngân
hàng 1 cấp:

Ngân hàng đầu tư

Ngân hàng Nhà
Nước Việt Nam

Ngân hàng ngoại

thương
Quỹ tiết kiệm

Các
chi
nhánh

6


Từ khi có nghị định 53/HĐBT(26/3/1988) và đặc biệt là hai pháp lệnh ngân hàng (37
và 38) ngày 23/05/1990 (có hiệu lực ngày 1/10/1990). Lúc này hệ thống ngân hàng Việt
Nam mới được phân định rõ ràng về chức năng nhiệm vụ của cấp quản lý vĩ mô và cấp
kinh doanh. Hệ thống ngân hàng là mô hình cấp 2:

Ngân hàng trung ương

Ngân hàng
thương
mại

Ngân hàng
chính sách
xã hội

Công
ty
tài
chính


Quỹ
tín
dụng
nhân
dân

Theo đó, Ngân Hàng Nhà Nước đóng vai trò NHTW, có chức năng quản lý nhà
nước về hoạt động tiền tệ - tín dụng- ngân hàng, là cơ quan duy nhất phát hành giấy bạc
ngân hàng duy nhất ở nước ta.

2.2.

Vị trí, vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

2.2.1.

Vị trí của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

NHNN Việt Nam được tổ chức theo mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ. Điều 1,
Luật NHNN Việt Nam quy định: “NHNN Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là
NHTW của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, NHTW Việt Nam là cơ
quan ngang Bộ, Thống đốc NHNN Việt Nam là thành viên của Chính phủ, chịu trách
nhiệm trước Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực được giao.

7


2.2.2.

Vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam


Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên toàn quốc như phương tiện trao đổi, NHTW
trực tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý mức độ cung ứng tiền mặt là công cụ
thứ nhất giúp NHTW điều tiết mức cung ứng tiền tổng hợp.
a, NHTW là ngân hàng độc quyền phát hành tiền
Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên toàn quốc như phương tiện trao đổi, NHTW
trực tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý mức độ cung ứng tiền mặt là công cụ
thứ nhất giúp NHTW điều tiết mức cung ứng tiền tổng hợp.
Với việc độc quyền phát hành tiền thì chính phủ có thể điều chỉnh được lượng tiền
lưu thông để có thể kiểm soát lạm phát và từ đó có thể tăng giảm lãi suất để tăng lượng
cầu hay giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm của nền kinh tế.
b, NHTW là ngân hàng quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng trung gian.
Dự trữ bắt buộc là tiền mặt, và tỉ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là tỉ lệ % tiền mặt trên
tổng số tiền mặt do nhân dân gửi vào mà các ngân hàng thành viên phải lưu lại trong kho
tiền mặt của ngân hàng hay kí gửi tại NHTW, không được cho vay hết.
Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng
thương mại và tổ chức tài chính cũng giảm ngay tức khắc và ngược lại. Bằng cách việc
quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc NHTW quản lý một cách chặt chẽ tốc độ và cung ứng tiền
ngân hàng của hệ thống ngân hàng trung gian.
c, NHTW là chủ ngân hàng của hệ thống các ngân hàng trung gian.
* NHTW là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù trừ của các ngân hàng trung gian.
Vì các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trong nước đều phải mở tài khoản
và kí quỹ tại NHTW nên hoàn toàn thực hiện được vai trò điều tiết thanh toán giữa các
ngân hàng giống như những thân chủ mua bán lẫn nhau cùng có một tài khoản ở một ngân
hàng. Vai trò này giúp NHTW kiểm soát, theo dõi, quản lý hoạt động của toàn bộ hệ thống
tài chính trong nước. Mặt khác có thể quản lý được lượng tín dụng ra vào trong hệ thống
tài chính vào những thời điểm nhất định.
* NHTW là ngân hàng quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng trung gian.

8



Dự trữ bắt buộc là tiền mặt, và tỉ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là tỉ lệ % tiền mặt trên
tổng số tiền mặt do nhân dân gửi vào mà các ngân hàng thành viên phải lưu lại trong kho
tiền mặt của ngân hàng hay kí gửi tại NHTW, không được cho vay hết.
Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng
thương mại và tổ chức tài chính cũng giảm ngay tức khắc và ngược lại. Bằng cách việc
quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc NHTW quản lý một cách chặt chẽ tốc độ và cung ứng tiền
ngân hàng của hệ thống ngân hàng trung gian.
* NHTW là cứu cánh cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng trung gian.
Không có ngân hàng trung gian nào hoặc tổ chức tín dụng nào dám khẳng định rằng
trong lịch sử hoạt động của mình chưa hề có lúc kẹt tiền mặt. Những đợt rút tiền ồ ạt của
nhân dân ( vì lãi suất thấp, vì lạm phát cao cho nên lãi suất trở thành âm, vì có thể những
loại đầu tư khác có lợi cao hơn hoặc vì không đủ tin tưởng vào ngân hàng…) sẽ rất dễ làm
cho ngân hàng trung gian vỡ nợ vì không đủ tiền mặt chi trả cho nhân dân. Trong trường
hợp như thế khi ngân hàng trung gian không còn chỗ vay mượn nào khác, không thu hồi
về kịp những khoản vay về kịp thì nó phải đến NHTW vay tiền như cứu cánh cuối cùng.
NHTW cho ngân hàng trung gian vay với phương thức gọi là cho vay chiết khấu.
Đó là hình thức cho vay qua cửa sổ chiết khấu. Lãi suất của sự cho vay này là lãi suất chiết
khấu. NHTW là ngân hàng duy nhất không thể vỡ nợ hay kẹt tiền mặt, đơn giản vì nó rất
mất ít thời gian đẩ in tiền mới. Cho nên nó có thể cho ngân hàng trung gian vay khi có yêu
cầu.
Ngân hàng trung gian có thể cho vay hết dự trữ bắt buộc vì khi cần thiết nó có thể
vay NHTW với lãi suất cũng giống như vay của nhân dân để thanh toán cho nhân dân.
Nhưng giả sử NHTW quy định, tuy lãi suất cho vay của ngân hàng trung gian là 10%,
nhưng nếu ngân hàng trung gian cho vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt buộc và phải vay đến NHTW,
NHTW sẽ cho vay với lãi suất 12%. Lúc đó ngân hàng trung gian sẽ cân nhắc, nếu nó cho
vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt buộc với lãi suất chỉ 10% , thì khi kẹt thanh toán nó phải vay lại
của NHTW với lãi suất cao hơn. Việc lỗ trông thấy khi vay tiền của NHTW sẽ buộc các
ngân hàng trung gian giảm lượng cho vay xuống, hay nói cách khác là giảm lượng cung

ứng tiền ngân hàng và tăng dự trữ để giải quyết vấn đề khi dân rút tiền.

9


Như vậy khi NHTW tăng lãi suất chiết khấu thì sẽ làm giảm lượng cung tiền của hệ
thống ngân hàng trung gian, tức là giảm lượng cung tiền trong toàn bộ nền kinh tế và
ngược

lại.
Trong vai trò cứu cánh cuối cùng với lãi suất cho mình quy định, NHTW dùng lãi

suất chiết khấu để điều tiết lượng tiền cung ứng của hệ thống ngân hàng trung gian và của
nền kinh tế. Qua đây ta thấy được đây là một công cụ giúp chính phủ quản lý nền kinh tế
một cách vĩ mô.
d, NHTW là chủ ngân hàng, đại lý và cố vấn cho chính phủ
* NHTW là chủ ngân hàng của chính phủ
Tùy theo đặc điểm tổ chức của từng nước, chính phủ có thể ủy quyền cho bộ tài
chính hay kho bạc đứng tên và làm chủ tài khoản ở NHTW. Hàng quý, hàng năm, tiền thuế
thu được và những khoản thu khác của ngân sách được gửi vào NHTW để NHTW sử dụng
và trả lãi. Khi chính phủ cần, bộ tài chính hay kho bạc cũng phải làm thủ tục để rút tiền gửi
từ NHTW như một khách hàng bình thường.
Khi chính phủ thâm hụt ngân sách, chính phủ có nhiều cách bù vào như: vay của
dân bằng cách phát hành công trái, vay của nước ngoài, vay ứng trước thuế, …, và vay của
NHTW. Nếu vay của NHTW thì về nguyên tắc có thể thế chấp bằng các loại tài sản mà
chính phủ có như: chứng thư chủ quyền tài sản, chứng khoán, vàng… Trong trường hợp
chính phủ vay mà không thế chấp thì ngân hàng có quyền từ chối. Nếu NHTW không từ
chối được thì nó đành phát hành tiền mặt ngoài dự kiến cho chính phủ làm cho tổng cung
về tiền tăng lên và nền kinh tế cũng sẽ biến động theo.
Thông qua vai trò là chủ ngân hàng của chính phủ với nghiệp vụ là cho vay, NHTW

làm thay đổi lượng tiền tệ trong nền kinh tế, nghĩa là can thiệp vào những biến động của
kinh tế vĩ mô.
* NHTW là đại lý của chính phủ.
Với tư cách là đại lý cho chính phủ, NHTW thay mặt chính phủ tổ chức thu thuế
qua hệ thống ngân hàng của nó. Đồng thời nó thay mặt chính phủ trong các thỏa thuận tài
chính, viện trợ, vay mượn, chuyển nhượng và thanh toán với nước ngoài. Ngoài ra với tư

10


cách này nó có thể phát hành trái phiếu, cổ phiếu…cho chính phủ kể cả trong và ngoài
nước.
Bằng việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu…NHTW đã làm trực tiếp tăng (giảm)
lượng cung ứng tiền cho nền kinh tế. Và thông qua đó đã làm tác động đến kinh tế vĩ mô.
* NHTW là cố vấn tài chính cho chính phủ.
Ngân sách có tác động khá quan trọng đến nền kinh tế vĩ mô vì nếu hoạt động của
ngân sách không hài hòa với chính sách tiền tệ nó sẽ làm cản trở hiệu quả của chính sách
tiền tệ trong điều tiết vĩ mô.
Với lý do trên NHTW phải tham gia cố vấn cho chính phủ trong chính sách tài
chính và kinh tế. Với vai trò này NHTW gián tiếp ảnh hưởng đến việc cung ứng trái
phiếu của chính phủ và các hoạt động chi tiêu khác cho hợp lý với ngân sách. Đây là một
cách để điều tiết kinh tế vĩ mô.
e, NHTW là ngân hàng trực tiếp quản lý dự trữ quốc gia
Dự trữ quốc gia bao gồm những dự trữ chiến lược cho những trường hợp khẩn cấp
như can thiệp vào điều tiết kinh tế, nhập khẩu hàng khẩn cấp để chống khan hiếm và
chống lạm phát, khi có thiên tai, chiến tranh…
Dự trữ bao gồm: vàng, tiền tệ, …. Với tư cách là ngân hàng của chính phủ, NHTW
được giao phó nhiệm vụ quản lý dự trữ quốc gia. Khi nắm trong tay công cụ này NHTW
có thể can thiệt bất kì lúc nào vào thị trường ngoại tệ để giữ giá đồng tiền trong nước, hay
tăng hoặc giảm giá. NHTW với nghiệp vụ mua bán trên thị trường vàng và ngoại tệ, nó

tạo ra hai tác động quan trọng là thay đổi cung ứng tiền và thay đổi tỉ giá hối đoái của
đồng tiền trong nước. Hai điều này tác động đến tổng cầu, sản xuất, thu nhập và giá cả và
đương nhiên điều này có tác động đến kinh tế vĩ mô.
f, Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của NHTW
NHTW là cơ quan quản lý Nhà Nước trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng và ngân hàng,
độc quyền phát hành tiền và đóng vai trò là ngân hàng của các ngân hàng trong một quốc
gia. NHTW là tổ chức công quyền được thành lập theo pháp luật của Nhà Nước.

11


Vai trò quản lý vĩ mô của NHTW là: NHTW là cơ quan quan trọng trong bộ máy
quản lý vĩ mô của Nhà Nước, có nhiệm vụ cơ bản ổn định giá trị đồng tiền, quản lý hệ
thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trong cả nước để hệ thống an toàn
và có hiệu quả nhằm đạt mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế.

2.3.

Các biện pháp để phát huy vai trò Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay

Một là, bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, lạm phát, hoạt động của hệ thống các
TCTD, NHNN điều hành linh hoạt lượng cung tiền, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho các
TCTD, xem xét điều chỉnh lộ trình áp dụng tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để sử dụng cho vay
trung, dài hạn phù hợp, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và giảm áp lực thanh
khoản, hỗ trợ các TCTD ổn định mặt bằng lãi suất huy động để phấn đấu giảm lãi suất
cho vay.
Hai là, tiếp tục điều hành các giải pháp nhằm ổn định mặt bằng lãi suất, phấn đấu giảm lãi
suất cho vay phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ tiền tệ
nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ.

Tiếp tục chỉ đạo các TCTD chủ động cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn để đảm bảo thanh
khoản; thực hiện các giải pháp tiết giảm chi phí hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh
doanh để tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực sản
xuất kinh doanh.
Ba là, tiếp tục điều hành tỷ giá linh hoạt trên cơ sở tham chiếu diễn biến thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng, thị trường quốc tế, các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ, cán cân thanh toán
và phù hợp với mục tiêu CSTT.
Bốn là, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa để chủ động, linh hoạt điều hành các
công cụ CSTT nhằm ổn định thị trường tiền tệ, bảo đảm thanh khoản hệ thống, cung ứng
vốn có hiệu quả cho nền kinh tế, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Năm là, thực hiện các giải pháp và định hướng điều tiết tăng trưởng tín dụng toàn hệ
thống bám sát chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại thông báo số 372/TB-VPCP ngày

12


17/8/2017, trên cơ sở kiểm soát lạm phát, diễn biến kinh tế vĩ mô và hoạt động ngân hàng,
hướng tín dụng tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên; hạn chế
tập trung tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.
Đồng thời, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành nhằm tháo gỡ khó khăn và triển
khai các chương trình tín dụng ngành, lĩnh vực (cho vay khuyến khích phát triển nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch; tín dụng đối với lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 55/NĐ-CP; cho vay hỗ trợ ngư dân đóng tàu theo
Nghị định 67/2014/NĐ-CP; cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP;...)
Sáu là, trong công tác tái cơ cấu hệ thống các TCTD, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp
lý, cơ chế, chính sách về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, trong đó quan trọng nhất là việc
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý xử lý, cơ cấu lại TCTD yếu kém; nâng cao năng lực tài
chính, chuyển đổi mô hình kinh doanh, quản trị, điều hành của TCTD; tăng cường đổi
mới công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, theo đó tiếp tục tăng cường đổi mới và nâng
cao hiệu quả công tác thanh tra, giám sát ngân hàng phù hợp với yêu cầu thực tiễn của

Việt Nam và các thông lệ, chuẩn mực quốc tế.
Ngoài ra, còn có các giải pháp hỗ trợ khác, trong đó có việc Thành lập Ban Chỉ đạo cơ
cấu lại hệ thống các TCTD với thành phần theo hướng: Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng
Ban, một Phó Thủ tướng Chính phủ làm Phó Trưởng Ban thường trực, Thống đốc NHNN
làm Phó Trưởng Ban và đại diện lãnh đạo một số bộ, ngành, địa phương, cơ quan có liên
quan làm thành viên.
Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định về việc thành lập Ban Chỉ đạo cơ cấu lại
hệ thống các TCTD với các thành phần theo hướng như trên. Để tham mưu Thống đốc
NHNN thực hiện nhiệm vụ của Phó Trưởng Ban, các nội dung liên quan đến việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của NHNN với vai trò cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo,
Thống đốc NHNN đã ký Quyết định thành lập Ban chỉ đạo cơ cấu lại hệ thống các TCTD
gắn với xử lý nợ xấu của NHNN.
Bảy là, để nâng cao chất lượng dịch vụ, công nghệ trong hoạt động thanh toán, đặc biệt là
thanh toán thẻ, thời gian tới cần triển khai 6 giải pháp cơ bản sau:

13


(i) Hoàn thiện hành lang pháp lý, cơ chế chính sách nhằm phát triển thanh toán không
dùng tiền mặt nói chung, thanh toán thẻ nói riêng, đáp ứng được yêu cầu của ứng dụng
công nghệ thông tin vào lĩnh vực thanh toán và hội nhập kinh tế quốc tế;
(ii) Tiếp tục xây dựng, phát triển, hoàn thiện hạ tầng, công nghệ thanh toán theo hướng sử
dụng các công nghệ hiện đại, thân thiện, an toàn và hiệu quả;
(iii) Nâng cao chất lượng, đa dạng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng nhằm phục vụ tốt
nhất cho người sử dụng; không ngừng đổi mới và áp dụng công nghệ mới vào lĩnh vực
thanh toán thẻ như: áp dụng công nghệ thẻ phi tiếp xúc, thẻ đa năng, QR code,
Tokenization;
(iv) Tăng cường hoạt động giám sát, đảm bảo an ninh, an toàn và tin cậy đối với các hệ
thống thanh toán điện tử, thanh toán thẻ; giám sát đối với các hệ thống thanh toán điện tử
theo các nguyên tắc giám sát quốc tế, đảm bảo các hệ thống thanh toán hoạt động an toàn,

hiệu quả;
(v) Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, đào tạo, hướng dẫn và bảo vệ người
người tiêu dùng trong thanh toán điện tử, thanh toán thẻ;
(vi) Tăng cường cơ chế phối hợp thúc đẩy thanh toán điện tử, thanh toán thẻ.

14


PHẦN KẾT LUẬN
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền kinh tế trong khu vực nói riêng và nền kinh
tế thế giới nói chung đang có nhiều biến động thì việc duy trì sự phát triển bền vững và
hiệu quả có vai trò rất quan trọng và là một điều tất yếu mà tất cả các quốc gia đều mong
muốn. Để đạt được điều này, thì phải cần đến vai trò quản lý vĩ mô của NHTW. NHTW
có vai trò rất quan trọng đó là thực hiện chính sách tiền tệ, quản lý vĩ mô nền kinh tế. Mục
tiêu quản lý vĩ mô của NHTW nhằm tăng trưởng kinh tế thực tế, lạm phát thấp, thất
nghiệp thấp và liên tục mở rộng tiềm năng sản xuất quốc gia. Để NHTW phát huy mạnh
mẽ vai trò của mình thì Chính Phủ các nước hãy thiết lập cho mình một mô hình sao cho
phù hợp nhất với giai đoạn trước mắt cũng như tương lai, không ngừng hoàn thiện hệ
thống NHTW để phát huy tối đa vai trò của nó.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị
Quốc gia, xuất bản năm 2016.




Giáo trình Tài chính - tiền tệ trường Đại học Ngoại thương.

 /> /> o.
 />

/>
16



×