Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

BTL cạnh tranh đại học Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.68 KB, 17 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1
2
3
4

Tập trung kinh tế
Luật Cạnh tranh
Bộ luật Dân sự
Doanh nghiệp

TTKT
LCT
BLDS
DN


MỞ ĐẦU
Hành vi TTKT là kết quả của quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Tích tụ và
tập trung tư bản cao sẽ dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền, lạm dụng vị trí
thống lĩnh. Độc quyền trong kinh doanh sẽ hình thành giá cả lũng đoạn cao, làm
ảnh hưởng đến lợi ích người tiêu dùng và gây hậu quả tiêu cực đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của các quốc gia. Nhận thức được tầm quan trọng của việc kiểm
soát các hành vi TTKT dẫn đến đọc quyền nên hầu hết các quốc gia trên thế giới
đều ban hành pháp luật để kiểm soát các hành vi TTKT. Tuy nhiên các quy định về
TTKT ở Việt Nam còn quá ít, mới mẻ và sơ khai. Khoa học pháp lý thiếu những
công trình nghiên cứu toàn diện, công phu. Vì vậy em xin lựa chọn đề tài số 7:
“Các hình thức tập trung kinh tế theo quy định pháp luật cạnh tranh Việt Nam”

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về tập trung kinh tế.


1. Khái niệm và đặc điểm của tập trung kinh tế.
a. Khái niệm
Trong khoa học kinh tế và khoa học pháp lý, khái niệm TTKT ở Việt Nam
được bình luận ở nhiều góc độ khác nhau. Nhưng tựu trung lại có ba cách tiếp cận
cơ bản, đáng quan tâm sau:
Một là, với tư cách là quá trình gắn liền với việc hình thành và thay đổi của
cấu trúc thị trường, TTKT trên thị trường được hiểu là quá trình mà số lượng các
DN độc lập cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua các hành vi sáp nhập
(theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của DN trên cơ sở mở rộng
năng lực sản xuất. Cách nhìn nhận này đã làm rõ nguyên nhân và ảnh hưởng của
TTKT đối với cấu trúc thị trường cạnh tranh.
Hai là, với tính chất là hành vi của các DN, TTKT (còn gọi là tập trung tư
bản) được hiểu là sự gia tăng tư bản do hợp nhất nhiều tư bản lại hoặc một tư bản
này thu hút một tư bản khác. Hướng tiếp cận này lại không đưa ra các biểu hiện cụ
thể của TTKT, nhưng lại cho thấy bản chất và phương thức của hiện tượng.
Ba là, dưới góc độ khoa học pháp lý, Luật Cạnh tranh năm 2004 không đưa
ra khái niệm mang tính khái quát để định nghĩa hành vi TTKT mà chỉ liệt kê các
hành vi được coi là TTKT. Theo đó, khoản 3 Điều 3 Luật này khẳng định TTKT là


hành vi hạn chế cạnh tranh; Điều 16, 17 LCT 2004 quy định TTKT là hành vi của
doanh nghiệp gồm: Sáp nhập doanh nghiệp; Hợp nhất doanh nghiệp; Mua lại
doanh nghiệp; Liên doanh giữa các doanh nghiệp; Các hành vi TTKT khác theo
quy định của pháp luật.
b. Bản chất của tập trung kinh tế
Cho dù được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, TTKT vẫn có các bản
chất cơ bản sau:
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện hành vi TTKT.
Chủ thể thực hiện hành vi TTKT là doanh nghiệp. TTKT là nhằm tăng
cường năng lực kinh tế của các DN và cũng là quyền của các DN, bắt nguồn từ nhu

cầu của DN chứ không thể là ý tưởng của các cơ quan nhà nước.
Người mua cổ phần để nắm quyền chi phối DN khác thông thường là DN.
Tuy nhiên một số hoạt động mua lại và nắm giữ tạm thời cổ phần do các DN hoạt
động trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm thực hiện không được coi là
hành vi TTKT vì đây là một trong những hoạt động thường xuyên của các DN.
Những DN này mua lại và nắm giữ tạm thời cổ phần không thực hiện quyền bỏ
phiếu phát sinh từ cổ phần mà họ nắm giữ để gây hạn chế cạnh tranh trên thị
trường.
Kinh tế học đã chỉ ra rằng, các doanh nghiệp tham gia TTKT có thể là các
DN trên cùng hoặc không cùng hoạt động trên thị trường liên quan. Trước khi thực
hiện các hành vi TTKT, các DN tham gia đã tồn tại và đang hoạt động trên thị
trường, không thể là hành vi đơn phương của một DN. Việc đầu tư vốn để thành
lập các công ty con, tạo thành nhóm công ty không thể là hành vi TTKT.
Để tham gia một vụ TTKT theo quy định của Luật cạnh tranh thì ít nhất phải
có hai chủ thể (doanh nghiệp sáp nhập và bị sáp nhập; doanh nghiệp mua lại và bị
mua lại…). Như vậy sự tăng trưởng nội sinh của DN để DN đó mở rộng năng lực
sản xuất kinh doanh không được coi là hành vi TTKT. Đây là điểm khác với cách
hiểu TTKT dưới góc độ kinh tế.
Thứ hai, về hình thức và mục đích của TTKT.
TTKT diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau như: sáp nhập, hợp nhất, mua
lại, liên doanh, mua cổ phần, góp vốn và những hình thức khác như kiêm nhiệm
chức vụ nhưng phải gắn với mục đích sở hữu toàn bộ một DN khác hoặc sở hữu
một phần đủ để kiểm soát, chi phối hoạt động của DN đó.


Kết quả của vụ TTKT phải có sự thay đổi cơ cấu chủ sở hữu của DN, đây là
điểm khác cơ bản so với các hành vi hạn chế cạnh tranh khác như Cartel1, lạm
dụng vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền không dẫn đến thay đổi cơ cấu chủ sở hữu
DN.
Thứ ba, về hậu quả của TTKT phải là thay đổi cấu trúc thị trường, hạn chế

cạnh tranh và có thể dẫn tới độc quyền.
Không phải mọi hành vi TTKT đều bị pháp luật kiểm soát. Chỉ khi nào thị
phần kết hợp của các DN sau khi thực hiện TTKT đạt đến một mức độ nhất định
mà pháp luật coi là có thể cản trở cạnh tranh tự do, hoặc tạo ra độc quyền thì những
hành vi đó mới bị kiểm soát.
Nếu một hành vi bị xác định là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh gây hại
đến cạnh tranh và thị trường liên quan thì phải chứng minh bằng việc các DN khác
phải gánh chịu thiệt hại do các hành vi đó gây ra, tức là đã có thiệt hại xảy ra trên
thị trường liên quan. Ngược lại khi các bên xin phép được tham gia TTKT, cơ quan
quản lý cạnh tranh phải xem xét chứng minh hậu quả mà TTKT gây ra bằng những
“suy đoán”: việc TTKT có thể làm thay đổi cấu trúc thị trường và ảnh hưởng tiêu
cực đến cạnh tranh vì sau vụ TTKT đó sẽ tạo ra DN, nhóm DN có quyền lực thị
trường, như vậy trong trường hợp này chưa có hậu quả xảy ra. Vì vậy, pháp luật
điều chỉnh TTKT chủ yếu dưới dạng kiểm soát, ngăn chặn khả năng hình thành vị
trí thống lĩnh, đọc quyền bằng TTKT; còn pháp luật chống lạm dụng vị trí thống
lĩnh, độc quyền hướng đến việc cấm đoán hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh đó đã
làm sai lệch, cản trở hoặc giảm cạnh tranh trên thị trường.
Thứ tư, về đối tượng TTKT là tài sản, các quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp khác của DN.
TTKT là kết quả của quá trình tích tụ, tập trung tư bản hình thành những
doanh nghiệp lớn mạnh hơn về tài chính. Do vậy, đối tượng mà các bên tham gia
vụ TTKT hướng đến phải là vốn, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác.
Suy cho cùng các quyền, lợi ích này cũng gắn liền với việc sở hữu, nắm giữ một số
vốn nhất định để từ đó người có các quyền, lợi ích này sẽ kiểm soát, chi phối hoạt
động kinh doanh của DN bị sáp nhập, bị hợp nhất hay bị mua lại.
2. Cơ sở pháp lý cho kiểm soát TTKT tại Việt Nam
- Luật cạnh tranh 2004.
1 />%A1nh-tranh-trong-ph%C3%A1p-lu%E1%BA%ADt-tuan-nguyen



- Nghị định 116/2005/NĐ – CP về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
cạnh tranh 2004.
- Nghị định 119/2011/ NĐ – CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
116/2005/NĐ – CP
- Các luật khác có liên quan tới các hành vi TTKT như Luật dân sự 2015 về
tổ chức lại Pháp nhân, Luật Doanh nghiệp 2014 về tổ chức lại doanh nghiệp, Luật
đầu tư 2014.
3. Vai trò và những ảnh hưởng của tập trung kinh tế:
TTKT với tư cách à một hiện tượng, thậm chí đôi lúc còn được coi là trào
lưu trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường, đã có những tác động đáng kể tới đời
sống kinh tế. Trong những bối cảnh nhất định, TTKT có những ảnh hưởng tích cực
và tiêu cực đến cạnh tranh được thể hiện ở những nội dung sau:
a) Tác động tích cực.
TTKT là động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng và
cả nền kinh tế nói chung. TTKT góp phần làm tăng sức mạnh kinh tế và khả năng
cạnh tranh của các DN thông qua việc hình thành những công ty lớn có khả năng
cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Với sự ra đời của các tập đoàn
kinh tế lớn, TTKT đã tạo ra điều kiện thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật vì các
công ty lớn mạnh được hình thành sẽ đủ sức đầu tư, nghiên cứu đổi mới công nghệ
và triển khai ứng dụng chúng trong sản xuất kinh doanh, việc mà các công ty nhỏ
khó có thể thực hiện được. Không ai có thể phủ nhận được những vai trò quan
trọng của TTKT đến cạnh tranh trên thị trường. Nó có tác động tích cực thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, ở Việt Nam số lượng các
DN vừa và nhỏ chiếm đa số. Chính vì vậy đất nước ta rất cần các DN lớn được
hình thành trong quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Bên cạnh đó, cùng với quá
trình mử của thị trường thông qua việc kí kết và gia nhập các hiệp định thương mại
song phương và đa phương đã vè sẽ xuất hiện nhưng công ty đa quốc gia hoạt động
ở Việt Nam. Với sức mạnh kinh tế của mình, những công ty này có khả năng tạo
lập được vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và trong bối cảnh đó, một bộ phận DN
nội địa tại Việt Nan với tiềm lực hạn chế đang bị loại bỏ dần khỏi đời sống kinh tế.

Để khắc phục những hạn chế trên thì TTKT là một cách thức đơn giản, hiệu quả
và dễ thực hiện. Thông qua việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh giữa các
DN, các nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ được tập trung vào một số DN nhất định.


Từ đó các công ty lớn, các tập đoàn kinh tế hùng hậu được hình thành, có đủ sức
cạnh tranh với các DN nước ngoài và vươn ra thị trường thế giới.
TTKT giúp thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật: với sự phát triển như vũ bão
của các cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã rút ngắn chu kỳ sống của các thế
hệ công nghiệp, vì vậy để đứng vững và giành được ưu thế trên thương trường bắt
buộc các DN luôn phải đầu tư đổi mới công nghệ. Việc nghiên cứu, đổi mới các thế
hệ công nghệ này là một việc mà các DN nhỏ khó có thể thực hiện được mà chủ
yếu chỉ có thể được thực hiện bởi các DN có tiềm lực tài chính lớn mạnh được thực
hiện sau các vụ TTKT.
TTKT đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung các nguồn lực để phát triển, tạo
ra những ngành kinh tế mũi nhọn. TTKT thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất vì TTKT dẫn đến sự phát triển sâu rộng của phân công lao động xã hội, đến
quy mô sản xuất kinh doanh. Sau khi thực hiện TTKT, các DN sẽ có điều kiện mở
rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ hiện đại, đào tạo nhân lực. Người lao
động Việt Nam được đào tạo bài bản, có trình độ tay nghề cao sẽ trở thành nguồn
lực chính của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
TTKT tạo cơ hội thâm nhập thị trường mới, chiếm chỗ đứng vững chắc trên
thị trường trong nước và quốc tế.
Như vậy, TTKT không những có tác dụng thúc đẩy sự phát triển nhiều mặt
của nền kinh tế nói chung mà còn tăng cường tích tụ, nâng cao khả năng cạnh tranh
nhằm tối đa hoá lợi nhuận của các công ty nói riêng.
b) Tác động tiêu cực:
TTKT có thể dẫn tới hậu quả như hình thành các công ty độc quyền, gia tăng
vị trí thống lĩnh trên thị trường làm hạn chế cạnh tranh, gây tổn hại đến lợi ích
người tiêu dùng. Các công ty đa quốc gia đã tiến hành các vụ TTKT thông qua việc

sáp nhập, hợp nhất, mua lại DN hoặc thực hiện các hành vi dưới dạng liên doanh
nhưng sau đó chấp nhận lỗ hàng năm trời đề làm cạn kiệt khả năng tài chính của
DN Việt Nam, sau đó mua lại phần vốn góp, chiếm lĩnh thị trường và tiếp tục loại
bỏ các DN đối thủ ra khỏi thị trường.
TTKT có xu hướng hoá các DN. Những DN có ưu thế sẽ giành chiến thắng
trong các cuộc cạnh tranh, ưu tín được nâng cao, lợi nhận kinh tế thu được ở mức
cao hơn. Các DN không đủ năng lực cạnh tranh sẽ gặp nhiều khó khăn, đi vào bế
tắc, có nguy cơ dẫn đến phá sản. Đây cũng là nguy cơ dẫn đến hiện tượng độc
quyền, loại bỏ đối thủ cạnh tranh một cách vĩnh viễn, lúc này, họ dùng sức mạnh
độc quyền của mình tự do tăng giá bán, giảm giá mua hoặc áp đặt các điều kiện


ràng buộc bất hợp lý trong kinh doanh như ép mua, ép bán, mua kèm, bán kèm
những sản phẩm dịch vụ không cần thiết để thu lợi nhuận siêu ngạch, gây ảnh
hưởng đến lợi ích của DN và người tiêu dùng. Độc quyền làm cho nền kinh tế rơi
vào trạng thái ngưng trệ tương đối, mặt nào đó đã làm yếu đi các lực lượng thị
trường và làm cho các quy luật kinh tế trong cơ chế thị trường vận động sai lệch,
cản trở nền kinh tế phát triển.
Người lao động có thể bị mất việc làm do hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp
dẫn đến lao động dôi dư hoặc do DN của họ bị thất thế trong quá trình cạnh tranh
với các tập đoàn lớn và đi đến phá sản. Người lao động bị thất nghiệp hàng loạt tạo
ra một gánh nặng lớn cho xã hội, Nhà nước, tạo ra sức ép đối với các chính sách
kinh tế và xã hội của quốc gia.
II. Các hình thức tập trung kinh tế theo quy định của pháp luật cạnh
tranh Việt Nam
TTKT là khái niệm dùng để chỉ sự tích tụ, tập trung của DN trên thị trường
nhằm hình thành DN lớn hơn.
Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam không thiết kế mô hình kiểm soát TTKT
theo các hình thức pháp lý của TTKT. Điều 16 Luật cạnh tranh 2004 định nghĩa
hành vi TTKT bao gồm các hình thức: (1) Sáp nhập doanh nghiệp; (2) Hợp nhất

doanh nghiệp; (3) Mua lại doanh nghiệp; (4) Liên doanh giữa các doanh nghiệp;
(5) Các hành vi TTKT khác theo quy định của pháp luật.
Điều 17 Luật cạnh tranh 2004 đưa ra khái niệm pháp lý của các hình thức
TTKT. Các quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định các hình
thức TTKT theo luật định, phân biệt với các hình thức tích tụ vốn khác. Như vậy
theo quy định pháp luật bao gồm 5 hình thức TTKT cụ thể như sau:
1. Sáp nhập doanh nghiệp:
Pháp luật về cạnh tranh của các nước đều thống nhất coi sáp nhập doanh
nghiệp là một hành vi TTKT điển hình.
“Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn
bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp
khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.” (Theo khoản
1 điều 17 LCT 2004)
Mô hình A + B = B’


Như vậy sau khi sáp nhập, DN bị sáp nhập không còn tồn tại và bị xoá tên
trong sổ đăng kí kinh doanh, còn DN nhận sáp nhập được hưởng mọi tài sản cũng
như các quyền, nghĩa vụ, lợi ích của doanh nghiệp bị xoá sổ kia.
Định nghĩa trên về sáp nhập doanh nghiệp về cơ bản là phù hợp với quy định
của Điều 89 BLDS 2015; Điều 195 Luật Doanh nghiệp 2014. Tuy nhiên Luật
Donah nghiệp 2014 xác định cụ thể việc sáp nhập với tư cách là một hình thức tổ
chức lại doanh nghiệp nên pháp luật quy định của yếu về tư cách pháp lý của DN.
Trong LCT, sáp nhập là một hình thức TTKT nên bị kiểm soát nhằm ngăn ngừa
khả năng hình thành DN có sức mạnh trên thị trường và có khả năng thực hiện
hành vi gây cản trở cạnh tranh.
2. Hợp nhất doanh nghiệp:
Khoản 2 điều 17 LCT 2004 quy định như sau: “Hợp nhất doanh nghiệp là
việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi
ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt

sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.”
Mô hình: A + B = C
Sau khi hợp nhất doanh nghiệp, các DN bị hợp nhất chấm dứt sự tồn tại.
Công ty hợp nhất được hưởng các quyền, lợi ích hợp pháp và chịu trách nhiệm về
các khoản nợ chưa thanh toán và các nghĩa vụ khác.
Khái niệm này tương tự khái niệm theo Luật Doanh nghiệp là cũng làm thay
đổi cơ cấu của DN, hình thành một DN có quy mô lớn hơn các DN trước đó.
Về bản chất, hình thức sáp nhập và hợp nhất của các DN sẽ khác nhau về
hậu quả pháp lý sau khi các DN thực hiện. Đối với sáp nhập, DN nhận sáp nhập
vẫn tồn tại và chỉ có DN bị sáp nhập mới chấm dứt hoạt động. Trái lại, các DN bị
hợp nhất sẽ chấm dứt sự tồn tại và hình thành nên một DN mới, tức là DN được
hình thành sau khi hợp nhất.
3. Mua lại doanh nghiệp
Khoản 3 điều 17 LCT 2004 quy định: “Mua lại doanh nghiệp là việc một
doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để
kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.”
Như vậy, mua lại DN gồm hai trường hợp: mua lại toàn bộ hoặc một phần
DN. Trường hợp mua lại toàn bộ DN, về bản chất là hình thức sáp nhập DN. Bởi
khi mua lại toàn bộ DN, người mua trở thành chủ sở hữu DN cũng như tài sản DN,


được hưởng các quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của DN đó. Tuy nhiên, có một
điểm khác biệt giữa hai hình thức này, đó là việc DN bị mua lại có chấm dứt tồn tại
hay không? Tuỳ thuộc và ý chí chủ quan của DN mua, nếu DN bị mua chấm dứt
tồn tại thì đó chính là sáp nhập, còn nếu nó tiếp tục hoạt động như một chủ thể kinh
doanh độc lập thì sẽ trở thành công ty con trong một tập đoàn kinh tế.
Mua lại một phần DN được thực hiện dưới hình thức mua tài sản, cổ phần
của DN khác đủ để kiểm soát, chi phối hoạt động của DN bị mua đó. Như vậy góp
thêm vốn vào DN đang hoạt động không được coi là hình thức TTKT. Chỉ khi nào
góp vốn để thành lập một DN thì khi đó nó mới trở thành hành vi TTKT dưới hình

thức liên doanh.
Về bản chất pháp lý, mua lại DN là hình thức TTKT bằng biện pháp thiết lập
quan hệ sở hữu giữa DN mua lại và DN bị mua lại. Việc mua lại không phải là quá
trình thống nhất về tổ chức giữa hai DN nói trên. Có một số trường hợp mua lại
DN khác cũng không được coi là TTKT. Đó là trường hợp DN bảo hiểm, tổ chức
tín dụng, mua lại DN khác nhằm mục đích bán lại trong thời hạn dài nhất là một
năm không bị coi là TTKT nếu DN mua lại không thực hiện quyền kiểm soát hoặc
chi phối DN bị mua lại, hoặc thực hiện quyền này chỉ trong khuôn khổ bắt buộc để
đạt được mục đích bán lại đó. Quy định này của pháp luật Việt Nam đã có sự tương
đồng với pháp luật kiểm soát kinh tế quy định tại khoản 5a Điều 3 của quy chế
139/2004 của liên minh châu Âu. DN bảo hiểm, tổ chức tín dụng phải gửi cho cơ
quan quản lý cạnh tranh hồ sơ thông báo việc mua lại có nội dung quy định tại
khoản 1 điều 21 LCT 2004.
Về quyền chi phối hoặc kiểm soát DN bị mua lại, pháp luật cạnh tranh quy
định quyền kiểm soát hoặc chi phối được hiểu là trường hợp DN mua lại giành
được quyền sở hữu tài sản của DN bị kiểm soát đủ chiếm đc trên 50% quyền bỏ
phiếu tại đại hội cổ đông…..của DN bị kiểm soát 2. Luật DN 2005 không trực tiếp
sử dụng thuật ngữ quyền chi phối hoặc kiểm soát DN khác mà sử dụng quan hệ mẹ
- con giữa các công ty để thể hiện mối quan hệ sở hữu. Về ý nghĩa pháp lý, quy
định trong hai văn bản pháp luật Cạnh tranh và luật DN là tuong đồng, song về căn
cứ xác định và giá trị ứng dụng lại có những khác biệt đáng kể.

4. Liên doanh giữa các DN.
2 Điều 34 – Nghị định số 116/CP ngày 15/9/2005.


Khoản 4 Điều 17 LCT 2004 quy định: “Liên doanh giữa các doanh nghiệp
là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới.”
Với định nghĩa trên tại LCT, có thể hiểu rằng việc liên doanh có thể tiến

hành giữa các DN Việt Nam với nhau hoặc giữa một hoặc nhiều DN Việt Nam với
một hoặc nhiều DN nước ngoài, miễn là có mục đích thành lập một DN mới. Sự
tồn tại của DN mới tạo ra mối liên kết giữa các DN tham gia.
Xét về bản chất, hoạt động liên doanh đồng nghĩa với hoạt động góp vốn DN
được quy định theo Luật DN, Luật hợp tác xã, Luật các tổ chức tín dụng và Luật
đầu tư. Do đó, ngoài các quy định của LCT, hoạt động liên doanh còn chịu sự điều
chỉnh bởi các quy định về đăng ký kinh doanh, về thủ tục đăng ký đầu tư hoặc
thẩm tra đầu tư trong các văn bản nói trên.
Có thể nói, hành vi liên doanh giữa các DN và hợp nhất DN cùng nhằm mục
đích tạo ra chủ thể pháp lý mới trên thị trường có sức mạnh kinh tế lớn hơn, song
sự khác biệt cơ bản giữa hai hành vi được thể hiện ở chỗ: đối với hành vi hợp nhất
DN, sau khi chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp để hình
thành DN mới thì sự tồnt ại của các DN bị hợp nhất chấm dứt về mặt pháp lý. Còn
đối với hành vi liên doanh, các DN chi góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp để hình thành một DN mới, song các DN góp vốn liên doanh vẫn
tồn tại địa vị pháp lý của mình.
5. Các hành vi TTKT khác nhằm kiểm soát, chi phối hoạt động của DN
khác.
Đây là cách xây dựng pháp luật phổ biến của Việt Nam khi sử dụng phương
phá liệt kê nhưng vẫn dự phòng một điều khoản mở. Quy định dự phòng nhằm cho
phép bổ sung khi cần thiết những hành vi TTKT khác đã được ghi nhận ở pháp luật
chuyên ngành hoặc có thể xuất hiện trong thực tiễn kinh doanh. Về bản chất tất cả
các hình thức TTKT đều nhằm kiểm soát toàn bộ hoặc một phần hoạt động của DN
khác.
Trên thực tế, các DN có thể thực hiện việc TTKT bằng con đường “thôn
tính” hay “chi phối” DN khác thông qua hoạt động của thị trường chứng khoán, thị
trường vốn. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà pháp luật DN hay pháp luật chứng
khoán thường quan tâm đến vấn đề khống chế mức tham gia góp vốn vào một DN
hay tỷ lệ mà mỗi nhà đầu tư mua trong mỗi đợt phát hành cổ phiếu. Những hình



thức đầu tư vào DN khác, đến một mức độ nào đó, có thể coi là một hình thức khác
của TTKT.
IV. Nhận xét
1. Những vấn đề bất cập khi áp dụng các quy phạm pháp luật về hiện
tượng TTKT.
Quy định của Nhà nước liên quan đến hoạt động TTKT được đề cập đến
trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Do chịu sự điều tiết của nhiều văn bản
pháp luật khác nhau nên trên thực tế hoạt động TTKT vẫn còn tồn tại lỗ hổng và
trở ngại do chúng tạo ra cho những người hoạt động trong lĩnh vực này.
1.1. Những vấn đề pháp luật còn để trống:
Hoạt động TTKT tại Việt Nam trong thời gian gần đây bùng nổ rầm rộ và
phát triển mạnh mẽ trên thị trường, nhưng hiệu quả mang lại không như mong
muốn bởi hệ thống pháp luật của chúng ta còn thiếu.
Điều 94 và 95 BLDS 2005 quy định về việc sáp nhập hợp nhất chỉ được tiến
hành giữa các pháp nhân cùng loại, nhưng lại không đưa ra khái niệm pháp nhân
cùng loại dẫn đến nhiều khó khăn cho người áp dụng. Như vậy muốn thực hiện
TTKT giữa các pháp nhân không cùng loại chỉ có hai cách là mua lại hoặc liên
doanh, tuy nhiên hiện tại lại chưa có văn bản phảp luật nào hướng dẫn hoạt động
TTKT giữa các pháp nhân không cùng loại. Ngay cả trong LCT cũng không định
nghĩa rõ ràng về hoạt động mua lại. Chính điều này sẽ gây ra nhiều tranh cãi khi
xác định giữa việc mua cổ phần và việc mua lại tài sản của một DN.
Bên cạnh đó việc pháp luật cạnh tranh chỉ kiểm soát và cấm đoán các hành
vi tập trung theo chiều ngang cho thấy giới hạn điều chỉnh của pháp luật. Trong khi
đó, các hiện tượng TTKT theo chiều dọc hoặc tập trung hỗn hợp cũng đã được các
nhà kinh tế học khuyến cáo về khả năng gây hại cho thị trường cạnh tranh. LCT
hiện nay cấm những hoạt động sáp nhập và mua lại có thể dẫn tới việc một DN có
mức “tập trung kinh tế” lớn hơn 50% “thị trường liên quan”. Tuy nhiên, vấn đề đặt
ra là LCT và các văn bản dưới luật không có quy định rõ ràng về khái niệm “thị
trường liên quan”. Và trong trường hợp một DN kinh doanh nhiều mặt hàng (có

nhiều thị trường khác nhau) thì tuỳ theo các cách tính khác nhau có thể dẫn tới kết
quả là DN đó có thể bị coi là có “TTKT” trên 50% hoặc có thể dưới. Nếu như
chúng ta không quy định rõ cách tính thị trường liên quan thì trong tương lai sẽ có
những trường hợp áp dụng luật pháp không thống nhất xảy ra.


1.2. Những trở ngại khi tiến hành TTKT tại Việt Nam
Thiếu tính rõ ràng trong luật sở hữu, bao gồm việc đưa ra các mức độ về
quyền sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài theo cam kết với WTO. Pháp luật về
quyền sở hữu quy định tại Hiến pháp và BLDS đang có nhiều điểm bất cập và bất
hợp lý: Công ty nước ngoài không thể thành lập các công ty mẹ đầu tư tại Việt
Nam, các vấn đề xung quanh việc hoàn tất việc mua bán tài sản, có những văn kiện
mới chính thức về nguồn vốn, cơ cấu DN được pháp luật cho phép các cơ quan có
thẩm quyền chưa quen với việc áp dụng, thiếu các thông tin có sẵn trên các phương
tiện thông tin đại chúng.
Hiện nay, quy định về hoạt động TTKT Việt Nam nằm rải rác trong BLDS,
Luật Doanh nghiệp và LCT…Việc thiếu thông tin trong các quyết định TTKT sẽ
mang lại rủi ro cho chính DN.
Ngoài ra về thủ tục còn nhiều khâu của Việt Nam đã làm nhiều nhà đầu tư
“ngán” mỗi khi có ý định TTKT tại Việt Nam. Chẳng hạn, khi mua 10% hoặc 20%
cổ phần của một DN, ở nước ngoài chỉ cần mất khoảng 1 đến 2 ngày thì thời gian
đó tại Việt Nam ít nhất phải mất vài tháng mới xong khâu kiểm tra, phê duyệt…
V. Thực tiễn thực hiện TTKT ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật cạnh tranh và nâng cao hiệu quả kiểm soát TTKT.
1. Thực tiễn thực hiện TTKT ở Việt Nam
Kể từ tháng 1/2007 Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Sự kiện quan
trọng này đem lại cho Việt Nam cả những lợi ích cũng như thách thức và nghĩa vụ
phải thực thi thep các cam kết gia nhập. Để đạt được mục tiêu trở thành một nước
côgn nghiệp vào năm 2020, Chính phủ đã thực thi hàng loạt các chính sách phát
triển kinh tế như tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng, tăng cường đầu tư vào nguồn

nhân lực, cải cách hành chính, sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, thu hút
đầu tư nước ngoài, phát triển doanh nghiệp dân doanh, kiềm chế lạm phát, đảm bảo
an sinh xã hội.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, sự gia
tăng hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia tại các quốc gia đang phát triển và
nhiều tiềm năng như Việt Nam là một xu thế tất yếu. Mặt khác, tiến trình tự do hoá
thương mại, đầu tư được đẩy nhanh như là hệ quả tất yếu của quá trình hội nhập
kinh tế sẽ là giảm đáng kể các rào cản gia nhập thị trường. Bối cảnh khách quan
này sẽ là một yếu tố thúc đẩy nhanh quá trình TTKT ở Việt Nam xét dưới góc độ
tiếp cân và gia nhập thị trường của các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, với thực


trạng một nền kinh tế mà trên 90% là các doanh nghiệp là các DN vừa và nhỏ, tiềm
năng kinh tế hạn chế, quy mô nhỏ, sức cạnh tranh kém, công nghệ lạc hậu hơn thế
giới từ một đến hai thế hệ, trình độ quản lý kém và khả năng tự đổi mới, cơ cấu lại
doanh nghiệp thấp… Trong khi áp lực mở của nền kinh tế buộc các DN Việt Nam
phải cạnh tranh một cách ngang bằng với các đối thủ quốc tế mạnh hơn về nhiều
phương diện, cạnh tranh không ngang sức trên một sân chơi nen áp lực buộ các DN
phải thực hiện TTKT để tăng quy mô kinh doanh, tận dụng những lợi thế của nhau
và cơ cấu, định vị lại vị trí trên thị trường. Đây là một điều kiện khách quan dẫn
đến việc sáp nhập, thôn tính lại các DN Việt Nam trên thị trường, có thể là trong
cùng thị trường liên quan hoặc các thị trường liên quan khác nhau đơn giản vì lí do
tài chính.
Theo số liệu về doanh thu của các DN hoạt động trên thị trường Việt
Nam,2o nhóm ngành có mức độ TTKT cao nhất đều có CR3 (tức tổng thị phần của
3 DN lớn nhất) trên 50%. Một số nhóm ngành đáng chú ý trong đó là: ngành xử lý
ô nhiễm và quản lý chất thải đặc biệt (100%), khai thác dầu thô và khí tự nhiên
(99,97%), viễn thông (85,96%), vận tải hàng không (76,25%), sản xuất sản phẩm
thuốc lá (57,74%). Có thể thấy chỉ số này đã phản ảnh khá rõ thực trạng các ngành
của nước ta và cũng thể hiện được đặc điểm của một nước có nền kinh tế chuyển

đổi.
Theo Pricewaterhouse Coopers, hãng cung cấp dịch vụ tư vấn mua bán, sáp
nhập doanh nghiệp hàng đầu thế giới, số vụ M&A ở Việt Nam có tốc độ tăng
nhanh nhất trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong năm 2007, hoạt động
TTKT đã gia tăng mạnh mẽ cùng với sự phát triển liên tục và cải tiến mạnh mẽ về
khuôn khổ pháp lý đã hấp dẫn các nhà đầu tư vào Việt Nam, nhu cầu tái cơ cấu của
nội tại các DN, sự gia tăng nhanh của thị trường chứng khoán. Tổng giá trị của 113
vụ được công bố trong năm đạt giá trị kỉ lục là 1,753 tỉ USD, so với con số chỉ 38
vụ với giá trị 299 triệu USD được đưa tin trong năm 2006 và tăng gấp nhiều lần so
với năm 2005 (18 vụ với giá trị giao dịch là 61 triệu USD). Trên 3/4 tổng giá trị
giao dịch (khoảng 1,350 tỷ USD) thuộc lĩnh vực dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, đến
nửa đầu năm 2008, cả số lượng và giá trị các giao dịch được công bố đều giảm. Sở
dĩ có hiện tượng này là do: Thứ nhất, giai đoạn đầu năm thường là thời gian cá
giao dịch mua bán và sáp nhập tương đối trầm lắng (tỷ lẹ giá trị giao dịch của nửa
đầu năm 2007 chỉ chiếm 36% giá trị trong năm đó, nưm 2006 thậm chí chỉ chiếm
18%); thứ hai, một số diễn biến không thuận lợi của nền kinh tế làm cho nhiều giao
dịch bị tạm dừng hoặc không công bố rộng rãi. Năm 2010, Việt Nam có 345 vụ


(gấp 9 lần so với năm 2006) với tổng giá trị gần 1,8 tỷ USD (gấp 17 lần năm
2006).3
Bên cạnh những lợi ích từ M&A như hợp lý hoá tổ chức sản xuất, kinh
doanh nhờ lợi thế kinh tế theo quy mô và phạm vi, nhanh chóng tiếp cận thị trường
mới, nâng cao hiệu quả đầu tư cho sáng tạo,…con đường tăng trưởng ngoại sinh
này của DN có thể tiềm ẩn những vấn đề về cạnh tranh như sự hình thành nên cá
DN có sức mạnh chi phối thị trườn, triệt tiêu đối thủ cạnh tranh hoặc khả năng hình
thành nên các thoả thuận gây hạn chế cạnh tranh do hiệu ứng phối hợp khi số
lượng “người chơi” trên thị trường giảm bớt.
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cạnh tranh và nâng cao
hiệu quả kiểm soát TTKT

Thứ nhất: Hoàn thiện các quy định của pháp luật cạnh tranh về tập trung
kinh tế
Một là, mở rộng về hình thức và hành vi giao dịch TTKT cần phải điều
chỉnh.
LCT Việt Nam chỉ điều chỉnh các vụ việc TTKT theo chiều ngang. Các tác động
phản cạnh tranh tiềm ẩn của dạng TTKT theo chiều ngang là rõ rệt khi DN sau khi
sáp nhập có một sức mạnh thị trường đáng kể. Tuy nhiên, cả về mặt học thuật lẫn
thực tiễn đã chỉ ra rằng, các dạng TTKT theo chiều dọc không phải không tiềm ẩn
những tác động xấu tới cạnh tranh mặc dù không làm thay đổi trực tiếp tới cấu trúc
thị trường.
Ngoài ra có một số dạng giao dịch thuộc dạng TTKT hiện tại chưa được quy
định trong LCT cũng cần được xem xét điều chỉnh như: mua lại phần sở hữu của
cổ đông thiểu số; mua, bán một phần tài sản độc lập. Những giao dịch dạng này có
thể được xem xét điều chỉnh dưới dạng kiểm soát TTKT do có tiềm ẩn nguy cơ
thâu tóm và kiểm soát DN, thị trường.
Hai là, nên xem xét bỏ quy định về miễn trừ. Về bản chất, khi pháp luật
cạnh tranh cho phép cơ quan quản lý cạnh tranh quyền đánh giá sức mạnh thị
trường của các doanh nghiệp tham gia TTKT và đánh giá tác động vụ việc
TTKT, cũng như việc đưa ra yêu cầu đối với các bên tham gia TTKT có các biện
pháp khắc phục thì quy định về việc xin hưởng miễn trừ là không cần thiết. Đối với
những trường hợp quyết định TTKT của các doanh nghiệp nhà nước là do
Chính phủ đưa ra thì luật cần quy định rõ để chỉ thực hiện việc thông báo mà
3 Trang 49, Báo cáo TTKT tại Việt Nam, Hiện trạng và dự báo, Bộ Công thuương, Cục quản lý cạnh tranh, năm 2009


không nhất thiết phải qua các quy trình đánh giá (được hưởng miễn trừ
đương nhiên). Những trường hợp quyết định TTKT đối với doanh nghiệp nhà
nước do chính quyền cấp địa phương thực hiện thì vẫn cần phải có sự đánh
giá tác động tiềm ẩn tới môi trường cạnh tranh và cơ quan cạnh tranh có quyền
không cho phép thực hiện các giao dịch này.

Ba là, không nên áp dụng một cách cứng nhắc các đánh giá mang tính kỹ
thuật đối với việc xác định thị trường liên quan. Cần mở rộng các tiêu chí đánh giá
để xác định thị trường liên quan cả về định tính và định lượng để đảm bảo xác định
một thị trường liên quan phản ánh đúng thực tế của vụ việc.
Bốn là, hoàn thiện quy trình thông báo TTKT. Để hoàn thiện quy trình này,
cần sửa đổi, bổ sung quy định trong LCT hoặc Nghị định hướng dẫn, liên quan đến
vấn đề này theo hướng tập trung làm rõ những nội dung sau:
- Phải làm rõ yêu cầu cơ bản về nội dung của các tài liệu có trong hồ sơ
thông báo, đặc biệt là các thông tin về sản phẩm mà các DN tham gia TTKT kinh
doanh; các thông tin trong Báo cáo về thị phần của các DN. Ngoài ra, cần quy định
về cơ chế chủ động thu thập, thẩm tra thông tin của cơ quan quản lý cạnh tranh để
đối chiếu, rà soát tài liệu có trong hồ sơ thông báo do các DN cung cấp. Từ đó, cơ
quan quản lý cạnh tranh có thể xác minh tài liệu một cách chân thực và có các kết
luận phù hợp, đúng đắn với thực tế khách quan.
- Cần có cơ chế hỗ trợ và tư vấn DN khi thực hiện thủ tục thông báo TTKT.
Trong điều kiện hiện nay, khi LCT hiện hành còn xa lạ với cộng đồng DN và các
yêu cầu pháp lý cũng như kỹ thuật lập hồ sơ thông báo còn vượt quá tầm hiểu biết
và năng lực của đại bộ phận DN Việt Nam thì việc xây dựng cơ chế tham vấn và
tư vấn trong thủ tục kiểm soát TTKT là cần thiết.
- Cần làm rõ nội dung thẩm tra của cơ quan quản lý cạnh tranh đối với hồ sơ
thông báo TTKT. Theo đó, pháp luật sẽ quy định nội dung thẩm tra theo phương
thức và căn cứ kiểm soát TTKT.
Thứ hai: Nâng cao hiệu quả kiểm soát tập trung kinh tế
Một là, nâng cao năng lực của cơ quan quản lý cạnh tranh trong kiểm soát
TTKT.
Cần tăng cường khả năng kiểm soát của Cục quản lý cạnh tranh - Cơ quan
có chức năng kiểm soát TTKT theo hướng cơ quan quản lý cạnh tranh cần được
trao quyền chủ động khi thực thi dựa trên những nguyên tắc được pháp luật ghi
nhận, bao gồm quyền tự chủ trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện, công



cụ kỹ thuật cho từng vụ việc; chủ động xây dựng quy trình cho việc kiểm soát
TTKT.
Hai là, để việc kiểm soát TTKT hiệu quả, cơ quan quản lý cạnh tranh nên có
những nghiên cứu và dự đoán trước những thị trường, những lĩnh vực kinh tế có
nguy cơ xảy ra hiện tượng TTKT, thậm chí những DN có khả năng thực hiện hành
vi thâu tóm thị trường bằng hình thức TTKT. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế phối
hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ
quan quản lý nhà nước chuyên ngành. Việc kiểm soát TTKT hiệu quả, cần xây
dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh đối với cộng đồng DN.
Ba là, bồi dưỡng và nâng cao kiến thức kinh tế và pháp lý, chính sách và
pháp luật cạnh tranh cho nhân sự của các cơ quan quản lý cạnh tranh và các tổ
chức có liên quan. Điều tra một vụ TTKT là vô cùng khăn, nhất là khi chúng ta
chưa hề có kinh nghiệm trong việc kiểm soát TTKT cùng với số lượng đội ngũ
nhân sự có hạn. Có lẽ, một giải pháp cần thiết là cơ quan quản lý cạnh tranh nên
thiết lập một hệ thống cộng tác viên để hỗ trợ cùng xử lý, giải quyết các vụ việc
TTKT.
Bốn là, cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật
cạnh tranh nói chung và các quy định về TTKT nói riêng tới cộng đồng DN.

KẾT LUẬN
Tóm lại, TTKT có những tác động tích cực đến nền kinh tế, song mặt bên
kia của TTKT lớn lại chính là nguy cơ hình thành độc quyền, triệt tiêu cạnh tranh.
Vì vậy, các quốc gia với phương châm phòng thủ từ xa đã ban hành pháp luật cạnh
tranh để kiểm soát các vụ TTKT. Có thể thấy rằng thời gian qua, Nhà nước ta đã có
rất nhiều nỗ lực trong việc thực hiện kiểm soát TTKT thông qua việc ban hành
nhiều văn bản pháp lý quan trọng. Tuy nhiên, từ thực tiễn thực thi đã nảy sinh
nhiều vấn đề gây ra những khó khăn cho các DN nói riêng và nền kinh tế nước ta
nói chung. Chính vì thế, Nhà nước cần quan tâm và thực hiện ngay lúc này là hoàn
thiện các văn bản pháp lý để tạo nên một khung pháp lý vững chắc và đầy đủ làm

công cụ hữu hiệu để thực hiện quản lý Nhà nước về TTKT cũng như để bảo vệ nền
kinh tế khỏi những rủi ro.


Table of Contents

1. Luật cạnh tranh 2004.
2. Luật Doanh nghiệp 2014 về tổ chức lại doanh nghiệp
3. Luật đầu tư 2014
4. Luật dân sự 2015 về tổ chức lại Pháp nhân
5. Nghị định 116/2005/NĐ – CP về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
cạnh tranh 2004.
6. Nghị định 119/2011/ NĐ – CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
116/2005/NĐ – CP
7. Luận văn thạc sĩ luật học – Nguyễn Xuân Nam
“Kiểm soát tập trung kinh tế theo luật cạnh tranh Việt Nam – Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn.”
8. Luận văn thạc sĩ luật học – Trần Thị Bảo Ánh
“Một số vấn đề pháp lý về tập trung kinh tế theo luật cạnh tranh Việt Nam”.
9. Trang web: Tập trung kinh tế theo quy định của Luật cạnh tranh năm 2004
và kiến nghị
/>ItemID=2051
10. Trang web:
/>


×