Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN MOT SO BIEN PHAP GIUP HS LOP 5 HOC TOT MON TLV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.1 KB, 16 trang )

CHƯƠNG 1: PHẦN MỞ ĐẦU
I/ Lí do chọn đề tài:
Trong chương trình Tiểu học hiện hành, môn Tiếng Việt lại có nhiều phân môn khác
nhau. Mỗi phân môn chứa những nội dung, kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau;
song phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn quan trọng nhất và khó nhất đối
với học sinh Tiểu học. Trên thực tế giảng dạy, những hoạt động liên quan đến tập làm văn
thường được gói gọn trong các tiết lên lớp( tiết lập dàn ý, tiết nói, tiết viết). Việc thiếu
những hoạt động chuẩn bị như: cho trẻ quan sát trực tiếp, khơi gợi những hiểu biết liên
quan hay thu thập ý tưởng từ sách báo…có lẽ là một trong những cội nguồn cho thực trạng
rằng học sinh thường cảm thấy khó khăn khi bắt tay vào nói
(viết). Hơn nữa, trong hình thức dạy làm văn nói nếu cho học sinh trả lời câu hỏi, mà phần
nhiều những câu hỏi này được gợi ý sẵn, hoặc chỉ được một số ít học sinh khá giỏi trả lời
rồi giáo viên viết những câu trả lời này thành dàn bài và yêu cầu học sinh học để buổi sau
nói và viết thì sẽ không thực sự giúp từng học sinh tự mình tham gia và trao đổi ý tưởng
trước khi viết, không tự mình hình thành ý tưởng cho chính mình. Chính vì vậy, có tình
trạng rằng học sinh ở nhiều lớp rất hào hứng trả lời các câu hỏi gợi mở của giáo viên trong
phần “cả lớp tìm ý” và xây dựng dàn ý chung cho cả lớp ,nhưng đến giờ nói theo dàn ý đã
xây thì lại rất lúng túng, tẻ nhạt. Số có thể nói được rất ít. Theo nhiều giáo viên, số có thể
nói được ấy phần lớn là học sinh có khiếu hoặc có sự giúp đỡ của người lớn ở nhà. Còn
hầu hết thì các em viết thành bài rồi vào lớp đọc lại. Tình trạng này rõ ràng tác động không
tốt đến việc phát triển khả năng viết của học sinh. Kết quả nói như thế ảnh hưởng nặng nề
đến bài viết của học sinh. Phần lớn nội dung bài viết của các em khuôn sáo hoặc nghèo nàn
ý tưởng, cách diễn đạt thiếu mạch lạc.
Từ những hạn chế trên tôi không khỏi băn khoăn , trăn trở: Làm thế nào để tiết
học Tập làm văn nhẹ nhàng mà hiệu quả? Làm thế nào để các em hoạt động tích cực, chủ
động trong giờ học Tập làm văn? Làm thế nào để các em có kĩ năng viết được một bài văn
hoàn chỉnh đạt được yêu cầu như mong muốn? Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài :
“Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Tập Làm Văn”.


II/ Mục đích viết sáng kiến kinh nghiệm:


Tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này với mong muốn :
a. Tìm ra phương pháp để giảng dạy nhằm giúp học sinh học tập làm văn tốt hơn, góp
phần học tốt các môn học khác
b. Nhận được những lời góp ý, nhận xét từ cán bộ quản lí nhà trường để tôi phát huy
những mặt mạnh, điều chỉnh, khắc phục những thiếu sót cho hoàn thiện hơn.

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP
I/ Thực trạng:
a) Thuận lợi:
- Bản thân tâm huyết với nghề, hết lòng vì học sinh thân yêu.
- Ban giám hiệu hết sức quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho việc dạy và học đặc
biệt là việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
- Đa số học sinh trong lớp có ý thức học tập tốt, ham học hỏi, ngoan,biết vâng lời, biết
chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
- Phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học tập của con em mình.
b) Khó khăn:
* Giáo viên:
- Việc vận dụng dạy học tích hợp chưa được giáo viên vận dụng triệt để nên lượng kiến
thức, kĩ năng cung cấp cho các em trong một tiết Tập làm văn thường rất lớn, nhiều lúc
dẫn đến tình trạng quá tải trong tiết học.
- Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi khi
cũng ngại không dám “thoát li” các gợi ý của sách giáo khoa, sách tham khảo vì sợ sai và
không đủ thời gian cho một tiết học.
- Hiện nay, thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ cho phân môn Tập làm văn còn rất ít.


- Do trong lớp có nhiều đối tượng học sinh nên giáo viên thường sử dụng phương pháp
làm mẫu để tạo đà giúp học sinh trung bình, yếu làm văn. Phương pháp này giúp học sinh
yếu có thể làm được bài bằng những gợi ý. Tuy nhiên, một số học sinh học được lại
thường hay bắt chước các câu, đoạn văn mẫu nên nhiều bài làm có các câu, đoạn giống

nhau.
* Học sinh:
- Phần lớn học sinh không thích học phân môn Tập làm văn vì môn này khó, nó đòi hỏi
sự sáng tạo và năng khiếu của các em.
- Vốn từ của các em còn nghèo nàn nên dẫn đến diễn đạt lủng củng, dùng từ trùng lặp,
sai nghĩa, sai lỗi chính tả trong bài Tập làm văn.
- Nhiều em không nắm được cấu trúc ngữ pháp nên sử dụng dấu câu tùy tiện.
- Đa số các em chưa tích cực đọc sách tham khảo để trau dồi cách diễn đạt và cách hành
văn lưu loát hoặc nếu có đọc, các em thường vay mượn ý của sách, lệ thuộc vào bài mẫu,
có thể chép vào làm bài của mình chứ các em chưa biết vận dụng, liên tưởng một cách
sáng tạo và linh hoạt hoặc chỉ viết theo dàn bài mà giáo viên đã hướng dẫn lập.
- Trong các lớp vẫn còn rải rác một số học sinh cá biệt, có học sinh đọc chưa thông, viết
chưa thạo. Đây là một trở ngại lớn cho việc dạy học tập làm văn cho các em. Với những
học sinh này, yêu cầu đặt từng câu văn rời rạc còn khó, nói gì đến việc hướng dẫn các em
đặt một đoạn văn theo cầu.
- Học sinh thiếu vốn sống thực tế nên thường viết những đoạn văn, bài văn mang tính liệt
kê, văn kể chuyện không đầy đủ các chuỗi sự việc làm cho bài văn khô cứng, không cảm
xúc.
II/ Nội dung và biện pháp thực hiện:
1. Điều tra phân loại học sinh:
Giáo viên điều tra, phân loại, nắm chắc từng đối tượng học sinh: năng khiếu, trung
bình, học sinh yếu . Nắm chắc được đối tượng học sinh, giáo viên sẽ đề ra được kế hoạch


dạy học phù hợp, có những biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Đồng
thời, tạo điều kiện tốt nhất góp phần phụ đạo học sinh yếu biết làm văn , có thể vận dụng
làm được một bài văn hoàn chỉnh. Cụ thể:
Lớp 5B : 34 em

Học sinh Năng khiếu: 4 em chiếm 11,7 %

Học sinh Trung bình: 21 em chiếm 61,9 %
Học sinh Yếu

: 9 em chiếm 26,4 %

2. Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát, ghi chép :
Khi có kĩ năng quan sát, biết chọn lọc những chi tiết mới mẻ, đặc sắc của cảnh vật,
con người thì học sinh sẽ dần ham thích ghi chép. Qua mỗi tiết học, giáo viên cần gợi ý
hướng cho học sinh cách quan sát và ghi chép những gì diễn ra xung quanh các em . Quan
sát đi kèm với ghi chép là một việc làm thường xuyên vừa làm giàu vốn sống thực tế của
các em vừa hình thành kĩ năng viết . Quan sát phải kết hợp sử dụng nhiều giác quan (mắt
– nhìn, tai – nghe, mũi – ngửi, tay - sờ…) để thu nhận được càng nhiều chi tiết thì bài
miêu tả càng giống với đối tượng miêu tả; quan sát theo trình tự từ xa đến gần, từ ngoài
vào trong, từ tổng quát đến cụ thể . Có thể hướng dẫn HS quan sát theo nhiều hình thức:
quan sát trực tiếp đối tượng (buổi chào cờ đầu tuần, quang cảnh trước buổi học, trong giờ
ra chơi, thầy giáo, cô giáo, người thân,…); quan sát ở nhà (ngôi nhà em đang ở, buổi sum
họp của gia đình, quang cảnh con đường nơi em ở vào buổi sáng, …); quan sát qua báo,
đài ( một ca sĩ đang biểu diễn, một danh hài mà em thích, ….)
Ví dụ : Đề bài yêu cầu :Tả cảnh trường em trước buổi học
Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát toàn cảnh trường mình. Tôi đưa học sinh ra sân
trường tập hợp học sinh nhắc nhở những điều cần thiết đảm bảo trật tự . Nhắc lại cho học
sinh nhớ cách quan sát đã học ở các tiết tả cảnh như : Quan sát từ xa đến gần hay từ gần
đến xa . Khi quan sát, các em cần ghi lại những gì mình quan sát được , cần kết hợp nhiều
giác quan như : Mắt thấy, tai nghe, mũi cảm nhận.Cần quan sát cảnh vật xung quanh như
trời, mây, gió, chim chóc, thời tiết …Trong khi học sinh tự do quan sát và tôi theo dõi, giúp
đỡ những học sinh yếu, học sinh ham chơi, nếu thấy các em khó khăn, vướng mắc tôi gợi
ý, hướng dẫn thêm cho các em . Đến giờ tôi tập hợp lớp, cho một số học sinh nêu những gì


mình quan sát , ghi lại được, học sinh khác nhận xét, bổ sung. Đặc biệt quan tâm, giúp học

sinh yếu nói trước lớp..
3. Chọn đề tài gần gũi, quen thuộc với học sinh :
Xây dựng đề bài làm văn dưới dạng một tình huống giao tiếp là một trong những
phương pháp phổ biến trong dạy Tập làm văn ở bậc học tiểu học. Tình huống giao tiếp
càng thật, càng gần gũi với cuộc sống càng có tác dụng tạo nhu cầu giao tiếp cho học
sinh. Nhờ thế, học sinh tích cực tìm tòi vấn đề, nảy sinh ý nghĩ, thể hiện ý nghĩ. Dưới đây
là một số ví dụ về việc chuyển các đề văn bình thường thành tình huống giao tiếp.
Ví dụ:
Đề bài: Tả một cây ăn quả mà em thích.
→ Tình huống giao tiếp: Trên mảnh vườn nhỏ của ngôi nhà, ông em chỉ thích trồng cây
cảnh, chẳng trống cây ăn quả nào cả. Em muốn ông trồng cho em một cây ăn quả giống
như ở nhà bạn em. Hãy tả cho ông nghe cây ăn quả ấy để thuyết phục ông trồng nó trong
vườn nhà.
Đề bài: Tả một đồ vật mà em yêu thích.
→ Tình huống giao tiếp:Mỗi đồ vật không chỉ đáng yêu về hình dáng mà hơn thế, đồ vật
ấy còn đáng yêu, đáng quý bởi công dụng của nó., hoặc gợi nhớ về một kỉ niệm đã qua.
Em hãy tả một đồ vật mà em thích.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là không cho học sinh có cơ hội phát huy
trí tưởng tượng của mình. Trong một lớp học có nhiều đối tượng học sinh như lớp tôi, khi
ra đề bài cho các em, tôi luôn tạo cho các em quyền lựa chọn bằng cách ra nhiều đề bài
(từ 2 đến 4 đề) để các đối tượng trong lớp đều có thể tự do chọn đề bài thích hợp cho
mình, tránh áp đặt cho các em.
Ví dụ: Khi ra đề bài tả người cho các em làm bài kiểm ta viết, tôi chọn bốn đề bài
sau:
a) Tả một người thân trong gia đình em.


b) Tả một người bạn cùng lớp hoặc người bạn thân gần nhà em.
c) Tả một ca sĩ hay một nghệ sĩ hài mà em yêu thích.
d) Tả thầy giáo hoặc cô giáo mà em kính mến.

Với bốn đề bài trên, các em có thể chọn đối tượng miêu tả là một nhân vật quen
thuộc, gần gũi. Nhưng với một vài học sinh khác, các em cũng có thể chọn tả ca sĩ đang
biểu diễn với rất nhiều chi tiết sống động mà các em đã có dịp quan sát trên ti vi qua các
chương trình ca nhạc hoặc phim ảnh.
4. Tạo cơ hội thể hiện mình cho tất cả học sinh trong lớp :
Khi xây dựng kế hoạch dạy học cần dự kiến các cách chia nhóm phù hợp cho từng
hoạt động học, từng đơn vị kiến thức kĩ năng . Hình thành cơ cấu nhóm phải linh hoạt
phù hợp với tất cả mọi đối tượng học sinh nhằm tạo cơ hội nhiều hơn cho những em yếu,
trung bình được hoạt động . Từ đó, vừa vun đắp cho các em khả năng thích nghi giao tiếp
trong mọi hoàn cảnh , vừa bồi đắp tình yêu, lòng say mê văn học, lòng tự hào về Tiếng
Việt . Xây dựng được lòng ham thích đọc sách báo cho học sinh . Học sinh tự biết học hỏi
ở sách báo cách dùng từ, đặt câu biến những câu văn thiếu hình ảnh, thiếu cảm xúc thành
những câu văn hay .
5. Cá thể hoá hoạt động dạy học :
Quan tâm đến đối tượng học sinh trung bình, yếu đồng thời vẫn đảm bảo phát triển
năng lực cảm thụ văn học đối với học sinh khá, giỏi. Ví dụ:
+ Bài làm của một học sinh khá, giỏi: Ngoài ngôi nhà thân yêu đã gắn bó với tuổi
thơ của em thì trường em chính là ngôi nhà thứ hai. Đi đâu xa, em nhớ nhà và mỗi khi về
nhà thì em lại nhớ đến ngôi trường thân yêu này.
+ Bài của một học sinh trung bình: Nằm trên con đường Nguyễn Văn Cừ là ngôi
trường thân yêu của em.
+ Bài làm của một học sinh yếu: Mỗi ngày em thường cắp sách đến ngôi trường
quen thuộc của em.


Khi học sinh đặt câu nêu cảm nghĩ của mình ở phần kết bài, giáo viên phải quan
tâm đến từng em. Đối với học sinh trung bình, yếu, giáo viên phải hướng dẫn cụ thể cho
các em bằng những gợi ý như:
+ Em hãy nói tình cảm của mình đối với ngôi trường (yêu, ghét)? (Em rất yêu ngôi
trường).

+ Em thể hiện tình yêu đó bằng những việc làm như thế nào ? (Em trồng cây, chăm
sóc bồn hoa để trường em ngày càng đẹp hơn hay Em không bao giờ phá phách làm hỏng
đồ đạc hay bẻ hoa của nhà trường)
Tuyệt đối không được hướng dẫn học sinh một cách đồng loạt để các em có những
câu văn nghĩa chung chung như: “Cô giáo em có mái tóc đen huyền, mượt như nhung.
Đôi mắt cô đen trong và sáng long lanh. Nước da của cô trắng mịn màng” hay “ Trường
em mái ngói đỏ tươi. Cột cờ cao chót vót. Trên đỉnh cột cờ, lá cờ đỏ sao vàng bay phấp
phới. Giờ ra chơi, các bạn ùa ra khỏi sân lớp như bầy ong vỡ tổ”
6. Làm giàu vốn từ cho học sinh:
Nếu học kiểu bài kể chuyện, học sinh chỉ tái hiện lại nội dung câu chuyện đã nghe,
đã đọc là có thể đạt được yêu cầu cơ bản của đề bài thì văn miêu tả đòi hỏi phải có một
vốn từ phong phú mới có thể làm bài. Thế giới quanh ta rất phong phú, đa dạng và không
ngừng biến đổi. Người viết văn không thể “vẽ” được một cảnh, một người nếu bản thân
người ấy thiếu vốn từ, vốn sống. Làm giàu vốn từ cho học sinh có nghĩa là giúp cho các
em nắm một số từ gợi tả để có thể dùng trong miêu tả.
Ví dụ: Khi dạy “ Luyện từ và câu” bài “ Từ đồng nghĩa” có bài tập với đoạn văn “Màu
lúa chín dưới đồng vàng xuộm lại. Nắng nhạt ngả màu vàng hoe. Trong vườn, lắc lư
những chùm quả xoan vàng lịm không trông thấy cuống, như những chuỗi tràng hạt bồ đề
treo lơ lửng” .Mục đích của bài tập này là nhận xét các từ in đậm rút ra từ đồng nghĩa .
Nhưng đối với tôi ngoài mục đích đó ra nó còn là ghi chép những câu văn hay mà các em
cần học tập khi làm văn tả cảnh .


Hay khi dạy bài tập đọc “ Quang cảnh làng mạc ngày mùa” . Trong bài tác giả sử dụng
rất nhiều từ màu vàng như : vàng xuộm, vàng hoe, vàng lịm, vàng ối, vàng tươi, vàng
xọng, vàng giòn, vàng mượt, vàng mới, vàng trù phú, chín vàng.
Ngoài việc giải nghĩa phần từ ngữ trong tiết Tập đọc cho học sinh, tôi còn yêu cầu
học sinh cần phải nhớ để vận dụng khi viết văn cho đúng nghĩa của từ . Thực ra đây là
việc làm thường xuyên để giúp học sinh có một cái nhìn tổng thể để rồi tìm ra mối liên
quan chặt chẽ giữa các phân môn trong Tiếng Việt. Tôi làm thế là cố gắng khai thác triệt

để những kiến thức có trong sách giáo khoa .
Ngoài ra, tôi còn giới thiệu thêm một số từ, ngữ cần thiết để làm giàu thêm vốn từ
cho học sinh.
Chẳng hạn:
- Tả cây cối ( Thân cây to xù xì, rễ cây ăn sâu xuống lòng đất, cành đâm ra tua tủa, hoa
kết lại từng chùm, quả treo lúc lỉu, hương thơm ngào ngạt....)
- Tả con vật (Chú khoác lên mình bộ áo đẹp; đầu tròn, mắt sáng và tinh, tai vểnh lên để
nghe ngóng, chân nhanh nhẹn, đi lại rất nhẹ nhàng, móng vuốt sắc nhọn là vũ khí tự vệ và
rất lợi hại, khi kiếm được mồi, chú mang về cho con cùng ăn ... )
- Tả mái tóc (vàng hoe, đen nhánh, bạc phơ, cháy nắng, óng ả, xoăn tít,…); khuôn mặt
(bầu bĩnh, vuông chữ điền, trái xoan, khắc khổ,…); nước da ( trắng trẻo, trắng hồng,
ngăm ngăm, bánh mật, đen sạm,…); dáng người ( nhỏ nhắn, gầy gò, đẫy đà, to khoẻ, cao
cao,…); nụ cười ( khanh khách, sằng sặc, mủm mỉm, ha hả,…).
Từ vốn từ mà học sinh đã tích lũy được, tôi hướng dẫn cho học sinh lựa chọn từ
ngữ, hình ảnh khi miêu tả, sử dụng cho phù hợp. Khi trình bày kết quả quan sát được
hoặc khi học sinh luyện viết đoạn, tôi đã uốn nắn, chỉ chỗ sai cho học sinh ngay khi phát
hiện học sinh dùng chưa đúng.


7. Giúp học sinh luyện viết câu:
Trước hết, mọi học sinh phải viết được câu văn đúng ngữ pháp. Đây là yêu cầu cơ
bản (vì câu là đơn vị lời nói). Đối với học sinh giỏi, giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu
đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh, tạo được sắc thái riêng của đối tượng miêu tả. Đối với học
sinh trung bình, yếu, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt được câu đúng, thể hiện được ý
cần nói. Ví dụ: Miêu tả mái tóc của một bạn:
+ Với học sinh yếu: Tóc bạn Ngân đen huyền.
+ Với học sinh trung bình: Bạn Ngân có mái tóc đen huyền, dài ngang vai.
+ Với học sinh khá, giỏi: Ngân có mái tóc đen huyền, óng ả, xoã ngang vai mà không
thể lẫn lộn với bất cứ bạn nào trong lớp được.
Biết dùng dấu câu đúng, nhất là dấu chấm và dấu phẩy. Ngắt câu đúng sẽ diễn đạt

rõ ràng, người đọc, người nghe dễ dàng tiếp nhận thông tin. Việc dạy cho các em sử dụng
đúng dấu câu đã được tiến hành từ các lớp dưới và phải được thường xuyên ôn luyện.
Giáo viên đưa ra các trường hợp sử dụng dấu câu chưa đúng để cả lớp nhận xét. Ví dụ:
+ Trong lớp em ai cũng mến bạn Quỳnh.
+ Cột cờ cao chót vót lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay.
+ Sân trường mát rượi dưới bóng của những cây bàng cây phượng.
Học sinh trao đổi, sửa chữa:
+ Trong lớp em, ai cũng mến bạn Quỳnh.
+ Cột cờ cao chót vót, lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay.
+ Sân trường mát rượi dưới bóng của những cây bàng, cây phượng.
8. Rèn kĩ năng lập dàn ý, sắp xếp, diễn đạt ý :
Khi vào học bài mới, giáo viên luôn nhắc học sinh nhớ: Mỗi bài văn cần có bố cục
3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Với mỗi bài văn, công việc đầu tiên của tôi là yêu cầu


học sinh tìm hiểu đề bài; học sinh đọc kĩ đề bài nhiều lần rồi trả lời các câu hỏi về vấn đề
chính trong đề bài.
+ Đề bài thuộc thể loại gì ? Đề bài yêu cầu tả gì ?
- Giáo viên gạch chân bằng phấn màu dưới các từ ngữ quan trọng để học sinh chú ý.
- Hướng dẫn học sinh lập dàn ý từ những điều đã quan sát được.
Ví dụ: Quan sát trường em. Từ những điều đã quan sát được, lập dàn ý cho bài văn miêu
tả ngôi trường ( sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 43 ).
- Phần mở bài cần giới thiệu bao quát:
+ Vị trí của ngôi trường: Ngôi trường nằm ở đâu ? Quay mặt về hướng nào?
+ Đặc điểm nổi bật của ngôi trường.
- Phần thân bài gồm các ý:
+ Tả từng phần của cảnh trường:
Cổng trường ( Cổng như thế nào ? Bản tên trường ra sao ? ).
Sân trường ( Sân trường ra sao ? Cột cờ, cây cối như thế nào? ).
Lớp học ( các dãy nhà như thế nào? Các lớp học được trang trí ra sao?...).

- Phần kết bài cần nêu cảm nghĩ của em về ngôi trường.
→ Như vậy, mỗi em mỗi ý, mỗi vẻ khác nhau nhưng đều bảo đảm đủ ý chính.
Để học sinh diễn đạt được bài văn của mình một cách sinh động, có nghệ thuật, các
em thường được trau dồi qua tiết học “Dựng đoạn mở bài, kết bài hoặc thân bài”. Phần
này, giáo viên cần nhắc nhở các em vận dụng cách mở rộng câu đúng thành câu hay để
đưa vào bài văn


* Phần mở bài:
Các em có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp; có em mở bài chỉ bằng một câu nhưng
cũng có em mở bài bằng cả một đoạn văn. Nhưng không ai được tách rời nội dung đã xây
dựng được. Ở đây, tùy nghệ thuật vào bài của mỗi em mà giáo viên góp ý, không nên gò
bó, áp đặt.
Ví dụ:
Đề bài: “…..Miêu tả một cảnh sông nước ( một vùng biển, một con sông, một con
suối hay một hồ nước ) ( Tiếng Việt 5 - Tập 1 – Trang 62)
- Có em mở bài thẳng luôn vào đề: “Quê em có một con suối rất đẹp”.
- Có em mở bài rất sinh động: “Mỗi miền quê có một vẻ đẹp riêng. Quê hương tôi có
dòng suối hiền hoà quanh năm nước chảy”.
Nhờ khuyến khích học sinh diễn đạt phần mở bài bằng những cách khác nhau mà
vẫn đảm bảo nội dung chính, các em đã viết được nhiều bài văn hay, có tính nghệ thuật.
* Phần thân bài:
Đa phần các em học sinh rơi vào tình trạng liệt kê các chi tiết của cảnh hoặc của người.
Ví dụ: Mẹ em có mái tóc dài, dáng người cao, hàm răng trắng,.... Vì vậy giáo viên cần lưu
ý việc cách mở rộng câu đúng thành câu hay để học sinh vận dụng thì bài văn sẽ hay hơn.
Điều quan trọng là phải lưu ý cho học sinh phải bám vào các chi tiết đã lập ở dàn bài để
chuyển thành bài văn, đoạn văn, tránh một số trường hợp, học sinh viết bài văn một cách
ngẫu hứng không bám theo dàn ý đã lập làm cho bài văn có thể sẽ mất đi tính logic hay
tính cân đối do không chủ động được thời gian
* Phần kết bài:

Có nhiều cách kết bài khác nhau: Kết bài mở rộng, kết bài không mở rộng, nhưng tất cả
đều phải xuất phát từ nội dung chính.. Đồng thời mở rộng thêm về ý thức, trách nhiệm
giữ gìn đối với cảnh và nêu việc làm cụ thể để bày tỏ cảm xúc chân thực. Không thể có


đoạn kết bài chung cho mọi học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nêu được cảm
xúc tự nhiên, chân thật, không sáo rỗng kiểu như: Em rất yêu quý bạn…
11. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, cảm nhận cái hay, cái đẹp của một đoạn văn :
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, cảm nhận cái hay, cái đẹp qua việc đọc một đoạn
văn được giáo viên tiến hành qua nhiều tiết học. Cảm nhận được cái hay, cái đẹp, các em
sẽ hình thành những cảm xúc thẩm mĩ, giúp cho việc học Tập làm văn tốt hơn. Để hướng
dẫn tìm hiểu cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn văn, giáo viên hướng dẫn học sinh hình
thành thói quen suy nghĩ, tự đặt và ghi các câu hỏi xoay quanh nội dung đoạn văn, câu
chuyện. Kết quả học sinh đặt ra và tự trả lời được các câu hỏi cho đoạn văn, câu chuyện
như:
* Ví dụ với đoạn văn tả người:
+ Đoạn văn trên miêu tả đặc điểm gì của nhân vật ?
+ Đoạn văn trên có những từ láy nào gợi tả hình ảnh của nhân vật ?
+ Đoạn văn trên có những hình ảnh so sánh nào ?
+ Em có suy nghĩ gì khi đọc đoạn văn trên ?…...
* Ví dụ với bài văn kể chuyện:
+ Câu chuyện có mấy nhân vật ? Nhân vật chính là ai, nhân vật phụ là những ai ?
+ Ý nghĩa câu chuyện muốn nói lên điều gì ?
+ Điểm mấu chốt nhất của câu chuyện ?
+ Em có suy nghĩ gì khi đọc câu chuyện trên ? …...
10. Nhận xét, đánh giá và chữa bài thường xuyên:
Mỗi dạng bài đều có một tiết trả bài văn viết, tiết này rất quan trọng nhằm giúp các
em thấy được ưu điểm và nhược điểm trong bài viết của mình, của bạn để học hỏi, trao đổi
lẫn nhau, tìm ra cách sửa sai để cùng tiến bộ và qua đó tôi biết được học sinh hiểu bài và



vận dụng thế nào. Trong quá trình đánh giá, tôi chú ý và đánh giá sự tiến bộ trong bản thân
học sinh hơn là so sánh giữa các em nhằm động viên và khuyến khích học sinh. Tôi tiến
hành chấm bài thật kĩ, xác định học sinh làm đúng bố cục hay chưa? Và bố cục có chặt chẽ
không? Tôi phát hiện những ưu điểm của bài văn hay, câu hay, ý hay, dùng từ sáng tạo…và
nắm được những lỗi mắc phải còn tồn tại: dùng từ chưa chính xác, câu văn chưa hoàn
chỉnh, lặp từ, lặp ý…Tôi đánh giá, nhận xét cụ thể vào từng bài của học sinh
Chẳng hạn có những nhận xét như sau :
- Bố cục chặt chẽ, lời văn xúc tích, có nhiều hình ảnh hay trong bài. Em cần phát huy
thêm.(học sinh năng khiếu)
- Đảm bảo bố cục, viết thành câu. Em cần sử dụng phép so sánh, nhân hóa vào bài để bài
văn hay hơn.(học sinh trung bình)
- Bài viết còn lủng củng, còn sai lỗi chính tả, viết chưa thành câu. Em cần chú ý cô hướng
dẫn để về nhà viết lại đúng em nhé.(học sinh yếu)
- Bố cục chưa rõ ràng, dùng từ ngữ chưa phù hợp, diễn đạt còn lủng củng. Em cần chú ý cô
hướng dẫn để về nhà viết lại cho đúng. (học sinh yếu).
Đi đôi với công việc chấm bài là phải hướng dẫn học sinh sửa bài. Phải giúp các em
phát hiện ra những điểm hay cần học tập và những điểm chưa hay, chưa đạt để sửa chữa
trong bài văn của mình. Cuối tiết học này, thường có bài tập “Viết lại một đoạn trong bài
cho hay hơn”. Tôi chọn bài tiêu biểu của lớp và các bài văn hay năm trước đọc cho học
sinh nghe và phân tích những điểm hay để học sinh học tập những cách dùng từ, đặt câu
của bạn để vận dụng vào đoạn văn của mình. Trên cơ sở đó, các em phải sửa lại bài làm
của mình cho hay hơn, đúng hơn.

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau khi nghiên cứu và áp dụng đề tài này ở lớp phụ trách, qua theo dõi việc thống
kê chất lượng môn tiếng Việt nói chung và phần bài tập làm văn nói riêng đã thu được
những kết quả như sau :



- Phát huy được tính tích cực hoạt động, chủ động trong giờ học của học sinh . Học sinh
tập trung hơn vào bài học, kĩ năng làm văn tả của học sinh được nâng cao lên rõ rệt.Bài
văn của học sinh xác định đúng yêu cầu nội dung của đề bài, bố cục chặt chẽ, trình tự
miêu tả hợp lí hơn không còn tình trạng bài dạng liệt kê,câu ý đoạn không phù, lời văn
mạch lạc; đặc biệt đã có nhiều em viết bài giàu hình ảnh, sử dụng câu văn sáng tạo, và
nhiều câu đã sử dụng phép nghệ thuật làm cho bài văn sinh động hơn, hay hơn.
- Những học sinh yếu về kĩ năng viết văn miêu tả nay đã mạnh dạn, tự tin và có hứng thú
hơn trong giờ học Tập làm văn. Còn những em học lực trung bình và khá đã tự mình viết
được một bài văn, một đoạn văn theo yêu cầu của đề bài. Tuy những bài văn, đoạn văn
đó có thể chưa hay, chưa sinh động nhưng các em đã tự viết bằng chính tư duy của mình.
- Trong giờ học các em tập trung hơn, say sưa cùng bạn bè quan sát đối tượng cần miêu
tả. Tôi rất vui khi thấy có khá nhiều học sinh đã có cuốn sổ tay riêng để ghi những điều
quan sát được và những câu văn hay, từ ngữ gợi tả, gợi cảm,…Có thể nói rằng học sinh
đã không còn ngại khi học Tập lảm văn. Thể loại văn miêu tả được các em thích hơn.
- Học sinh có tinh thần hợp tác, biết tôn trọng lắng nghe ý kiến của bạn bè mình và mạnh
dạn nhận xét về bài làm của bạn.

CHƯƠNG 4: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Sau khi áp dụng các giải pháp trên vào thực tế dạy – học tập làm văn cho học sinh
lớp 5B bản thân tôi rút ra được một số kinh nghiệm sau :
1. Trước hết, người thầy phải luôn có lòng yêu nghề , yêu người, có ý thức trách nhiệm và
tinh thần cầu tiến, không ngừng học hỏi và mạnh dạn áp dụng những cái mới vào trong
thực tiễn giảng dạy.
2. Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của người giáo viên tiểu học là phải nắm vững đối
tượng học sinh, hiểu rõ trình độ và năng lực, hoàn cảnh và sở thích của từng em cũng như
tâm sinh lí lứa tuổi các em. Phân loại được học sinh, người thầy mới có thể áp dụng
những phương pháp dạy học phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh, từng cá thể học
sinh.



3. Giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu, dự giờ đồng nghiệp, tham dự đầy đủ các lớp
tập huấn chuyên môn…để nắm bắt những thông tin về nội dung, phương pháp của
chương trình môn Tiếng Việt. Từ đó, giáo viên mới có thể lập một kế hoạch bài học cho
mình một cách khoa học, có sự tích hợp giữa kiến thức các môn học với nhau.
4. Dạy tập làm văn theo quan điểm tích hợp kiến thức, kĩ năng giữa bài trước với bài sau;
giữa các phân môn Tiếng Việt với nhau như : Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện,
Chính tả ..; giữa lớp dưới với lớp trên.
5. Đối với học sinh phải thường xuyên rèn các kĩ năng làm văn như: dùng từ trong ngữ
cảnh, kĩ năng liên tưởng để tạo lập và phát triển ý, kĩ năng liên kết ý trong câu, kĩ năng
đọc lại và kiểm tra sau khi viết….để từ đó các em nhận ra rằng muốn làm văn có kết quả,
bản thân cần phải chịu khó tập nói, tập viết, tập dùng từ, đặt câu, viết đoạn nhiều lần.
Đồng thời, phải có ý thức và thói quen xem lại bài viết, sửa chữa và viết lại những phần
còn nhiều hạn chế.
6. Sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nhằm khuyến khích học sinh bộc lộ trí tuệ và
cảm xúc của mình trong các ngôn bản mà các em tạo lập như:
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ: Trên cơ sở các văn bản mẫu, học sinh khai thác, nhận
biết kết cấu bài văn, trình tự miêu tả.
- Phương pháp trực quan: Học sinh phải được quan sát đối tượng miêu tả. Các em có
quan sát đối tượng trên thực tế ở lớp hoặc ở nhà, quan sát qua phim ảnh. Vận dụng công
nghệ thông tin trong dạy học, tạo điều kiện cho các em quan sát những đối tượng mà ở
địa phương không có để mở rộng hiểu biết cho các em.
- Phương pháp rèn luyện theo mẫu: Dựa vào văn bản mẫu, học sinh tạo lập các văn bản
mới theo nét riêng của các em.
- Phương pháp thực hành giao tiếp: Tạo điều kiện cho mọi đối tượng học sinh được trình
bày sản phẩm của mình, được tranh luận để tìm ra cái mới.


7. Trong quá trình dạy học trên lớp, bên cạnh những kiến thức cơ bản trong SGK , giáo
viên cần quan tâm tạo điều kiện để học sinh phát huy những kinh nghiệm, vốn sống thực
tế của từng em từ đó nâng cao kỹ năng quan sát, ghi chép cho học sinh .

8. Tạo mối liên hệ mật thiết với phụ huynh để nhờ cha mẹ hỗ trợ, khuyến khích học sinh
đọc sách báo ở nhà, thường xuyên trao đổi, trò chuyện với các em. Đây cũng là một trong
những cách thức giúp học sinh mở rộng tầm hiểu biết, kinh nghiệm sống, tạo cơ sở cho
các em có được những bài làm văn chất lượng.
Trên đây chỉ là kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi đã đúc kết trong quá trình giảng
dạy, chắc chắn sẽ có những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý tận tình của BGH nhà
trường, quý thầy cô giáo đồng nghiệp để kinh nghiệm trên được hoàn thiện hơn nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục đúng thực chất.
Đức Nghĩa ngày 21 tháng 10 năm 2016
Kí tên

Huỳnh Trương Mỹ An



×