Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN LUẬT HIẾN PHÁP: Anh chị hãy phân tích vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.69 KB, 19 trang )

ĐỀ TÀI
10. Anh chị hãy phân tích vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Phần mở đầu
Phần nội dung
I- Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
II- Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp 2013
III- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người,
quyền công dân theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014
3.1. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân khi thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND;
3.2. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân khi thực hành quyền công
tố trong giai đoạn khởi tố, kiểm sát điều tra vụ án hình sự của VKSND;
3.3. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân khi thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố của VKSND;
3.4. Bảo vệ quyền con người , quyền công dân khi thực hành quyền công
tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự;
3.5. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự;
3.6. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khi tham gia
vào quan hệ pháp luật phi hình sự;
3.7. VKSND có trách nhiệm giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo về hoạt động tư pháp
IV- Một số sai sót trong việc thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người,
quyền công dân của VKSND trong thực tiễn

Phần kết luận
1




PHẦN MỞ ĐẦU
Kế thừa và phát huy những thành quả và kinh nghiệm hoạt động của
Viện công tố trong cách mạng dân tộc, dân chủ, trong 55 năm qua, dưới sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng, sự giám sát thường xuyên của Quốc hội, sự phối hợp
chặt chẽ của các cơ quan nhà nước và các tổ chức ở Trung ương và địa phương,
sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, ngành Kiểm sát nhân dân đã không ngừng
phấn đấu và trưởng thành trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, góp phần
giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, phục vụ việc phát triển kinh
tế – xã hội và đặc biệt là bảo đảm các quyền dân chủ của nhân dân, quyền con
người, quyền công dân. Trong đó, vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con
người là vấn đề mang tính toàn cầu, được ghi nhận trong hệ thống các điều ước
quốc tế và trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Đảng và Nhà nước ta đã
luôn xác định quyền con người là một giá trị có tầm quan trọng đặc biệt trong
đời sống xã hội; thể hiện bản chất xã hội chủ nghĩa và là kim chỉ nam cho việc
định hướng xây dựng hiến pháp và pháp luật.

2


PHẦN NỘI DUNG
I- Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Dưới góc độ luật Hiến pháp, các cơ quan trong bộ máy nhà nước được
tạo nên bởi chính địa vị pháp lý của mình thông qua việc quy định chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan đó. Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất để xác
định, phân biệt giữa các cơ quan với nhau cùng hợp thành bộ máy nhà nước.
Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) được xác lập trong Hiến
pháp. Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện thông qua các nguyên tắc tổ chức hoạt động
của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung, nguyên
tắc tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
Cơ quan công tố Nhà nước Việt Nam kiểu mới được Chủ tịch Hồ Chí
Minh thành lập từ 1945 sau khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ công hoà
và hệ thống Viện công tố thành lập năm 1958, tiền thân của Viện kiểm sát nhân
dân với chức năng chủ yếu là đưa người phạm tội ra toà xét xử (và thực hiện
một số hoạt động giám sát việc điều tra, xét xử, giam giữ, cải tạo). Là bộ phận
của hệ thống cơ quan chấp hành (cơ quan hành chính) tổ chức và hoạt động của
Viện Công tố theo nguyên tắc song trùng trực thuộc, tuy nhiên đã không còn phù
hợp với sự phát triển cách mạng và không thể đảm bảo những yêu cầu mới của
việc thiết lập, củng cố nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trước tình hình đó, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân đã ra đời. Tờ trình
về Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đã nêu rõ: "Nhu cầu của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, đòi hỏi sự nhất trí về mục đích và hành động trong nhân
dân, giữa nhân dân và Nhà nước cũng như giữa các ngành hoạt động Nhà nước
với nhau. Nếu không đạt được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật thì
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ trên phải tổ
3


chức ra Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm giữ
vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất."
Hiến pháp năm 1959 (được Quốc hội nước ta thông qua ngày 31 tháng
12 năm 1959) lần đầu tiên đã quy định về chế định Viện kiểm sát nhân
dân(chương VIII). Ngày 15-7-1960 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
khoá II, kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
Ngày 26-7-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh số 20-L/CTN công bố Luật

tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, đánh dấu sự ra đời của hệ thống cơ
quan Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.
Cho đến nay, qua các lần sửa đổi Hiến pháp và Luật Tổ chức VKSND,
mặc dù chức năng, nhiệm vụ của VKSND có những sửa đổi, bổ sung nhất định
nhưng vị trí của VKSND trong bộ máy nhà nước vẫn giữ vị trí quan trọng trong
các hoạt động bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa , bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, góp phần bảo vệ công lý, giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc
tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo Hiến pháp năm 2013, điều 2 quy định: “Quyền lực Nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.Với chức năng
hiến định, VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiếm sát hoạt động tư
pháp (Điều 107 Hiến pháp 2013). Theo đó, vị trí VKSND được xác lập trên các
cơ sở sau:
Thứ nhất, VKSND là cơ quan hiến định do Quốc hội lập ra và chịu sự
giám sát của Quốc hội. Xuất phát từ quy định Viện trưởng VKSND tối cao do
Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước.Trên cơ sở
4


đó, Hiến pháp 2013 đã quy định chế độ làm việc, trách nhiệm của người đứng
đầu ngành kiểm sát như sau: “Viện trưởng VKSND tối cao chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách
nhiệm vào báo cáo cong tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Chế độ báo cáo công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát khác do luật định”
(Khoản 2 điều 108).

Thứ hai, trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ của bộ máy nhà nước,
VKSND được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất: “Viện
kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên;
Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao” (khoản 1 điều 109)
Thứ ba, VKSND được tổ chức độc lập theo hệ thống ngành dọc:
“VKSND gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật
định” (khoản 2 điều 107). Điều 40 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định hệ
thống VKSND gồm 4 cấp VKS: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là VKSND cấp tỉnh, hiện có
63 VKSND cấp tỉnh); VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương (sau đây gọi là VKSND cấp huyện, hiện có 691 VKSND cấp
huyện); Viện kiểm sát quân sự các cấp (Viện kiểm sát quân sự Trung ương; Viện
kiểm sát quân sự cấp Quân khu, Quân chủng, Quân đoàn; Viện kiểm sát quân sự
cấp Khu vực).
Cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp 2013, Luật tổ chức VKSND
năm 2014 đã quy định vị trí của VKSND: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”. Và có thể khẳng định rằng, vị trí của VKSND là cơ quan
độc lập trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam.

II- Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp 2013
5


Ai sinh ra trên thế giới đều được hưởng món quà của tạo hóa đó là
quyền con người, đây không còn là khái niệm xa lạ trong lịch sử pháp luật của
nhân loại. Trong Tuyên ngôn toàn quyền thế giới về quyền con người đã nhấn
mạnh: “việc thừa nhận nhân phẩm vốn có, sự bình đẳng và các quyền không thể

tước bỏ của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng cho tự do, công
lý và hòa bình trên thế giới”. Các quyền và tự do trong Tuyên ngôn được coi là
khuôn mẫu chung mà mọi dân tộc, quốc gia, tổ chức, cá nhân cần đạt tới, đồng
thời cũng được sử dụng như là thước đo để đánh giá về sự tôn trọng, thực hiện
các quyền con người. Cụ thể hóa tư tưởng này được thể hiện trong bản tuyên
ngôn độc lập của nước Mĩ năm 1776 đã được chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh
trong trong bản tuyên ngôn độc lập nước ta, được đọc vào ngày 2/9/1945 trước
toàn thế giới: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Đất nước ta đã trải qua lịch sử đấu tranh, xây dựng và phát triển đất nước
cùng với các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. Trong mỗi giai
đoạn lịch sử, các bản Hiến pháp pháp trên đã ghi dấu lại sự tôn trọng và bảo vệ
quyền con người. Trên cơ sở nhận thức pháp lý ngày càng sâu sắc và thực hiện
công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, Hiến
pháp 2013 một lần nữa lại khẳng định việc thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền
con người một cách mạnh mẽ, rõ ràng và hiện đại nhất.
Mục tiêu quan trọng nhất của Hiến pháp 2013 là tiếp tục phát huy dân
chủ, bảo đảm quyền công dân, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người,
quyền công dân, đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ trong tư duy lý luận của
Đảng và Nhà nước ta trong một loạt vấn đề của Đảng và sự nghiệp đổi mới đất
nước trong đó có vấn đề quyền con người, quyền công dân. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển
năm 2011) chỉ rõ: “quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển
tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con
người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết”. Điều 2
6


Hiến pháp năm 2013 khẳng định mạnh mẽ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân
dân làm chủ. Tất cả quyền Nhà nước thuộc về nhân dân….”. Những nội dung
này đã tạo nền tảng nền tảng vững chắc bảo đảm thực hiện quyền con người,
quyền công dân ở nước ta.
Hiến pháp 2013 gồm 11 chương 120 điều. Riêng chế định về quyền con
người, quyền công dân trong Chương II từ điều 14 đến điều 49 gồm 36/120 điều
và là chương chứa đựng nhiều điều nhất với nhiều điểm mới tiến bộ.
Thứ nhất, về tên Chương, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, “quyền
con người” đã trở thành tên gọi của Chương, thay vì chỉ gọi là “quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân” như Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước
đó. Việc thay đổi tên Chương trong Hiến pháp năm 2013 đã phản ánh tư duy
phát triển, phù hợp với xu hướng của dân tộc, thời đại và nhân loại và còn thể
hiện sự nỗ lực và cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực
hiện các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 đã chuyển Chương “Quyền con người,
quyền và nghĩa vụ của công dân” từ vị trí Chương 5 trong Hiến pháp năm 1992
lên vị trí Chương 2, “…được đưa lên vị trí trang trọng hàng đầu trong Hiến
pháp” (Nguyễn Sinh Hùng). Đây cũng không chỉ đơn thuần là sự thay đổi số học
về vị trí các chương mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn thể hiện sự thay
đổi về nhận thức lý luận, tư duy lập hiến, là sự khẳng định giá trị, vai trò quan
trọng của quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Thứ ba, với quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”
(khoản 1 Điều 14), với điểm nhấn của nội dung này là việc bổ sung nguyên tắc
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (khoản 2 Điều 14).
7



Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các
nguyên tắc hiến định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân: quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ
tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối
với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không
được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác; mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội (Điều 15 và Điều 16),
khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền và nghĩa vụ, và việc tôn trọng các
quyền tự do của mỗi người phải đặt trong mối quan hệ với việc tôn trọng quyền
và tự do của người khác.
Thứ năm, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung
một số quyền mới: Quyền sống (Điều 19); Các quyền về văn hóa (Điều
41); Quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao
tiếp (Điều 42); Quyền sống trong môi trường trong lành (Điều 43);Quyền của
công dân không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác (Điều 17 khoản 2); Quyền
có nơi ở hợp pháp (Điều 22);Quyền hưởng an sinh xã hội (Điều 34)… mở rộng
phạm vi bảo vệ, bảo đảm thực hiện của Hiến pháp với các quyền con người,
quyền công dân.
Thứ sáu, Hiến pháp năm 2013 đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò, trách
nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các
quyền con người, quyền công dân, nhất là các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội.
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân không chỉ thể
hiện tại Chương II mà còn là quan điểm, nội dung xuyên suốt trong toàn bộ Hiến
pháp 2013, thể hiện trong các chế định về chế độ chính trị, các chế định về kinh
tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường; bảo vệ tổ quốc;
Quốc hội; Chủ tịch nước; Chính phủ; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân;
Chính quyền địa phương; Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.


8


III- Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người,
quyền công dân theo Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2014.
Theo khoản 3 điều 107 Hiến pháp 2013 và khoản 2 điều 2 Luật tổ chức
VKSND năm 2014, VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Như vậy nếu như Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) chỉ quy định
VKSND có nhiệm vụ “góp phần bảo đảm…” thì đến hiến pháp 2013 quy định
VKSND có nhiệm vụ trực tiếp “bảo vệ…”, thể hiện vai trò,trách nhiệm của
VKSND trong việc góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất. Đặc biệt lần đầu tiên quy định VKSND có nhiệm vụ bảo vệ
quyền con người, quyền công dân. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân
của VKSND là một nhiệm vụ hiến định được thực hiện thông qua chức năng,
nhiệm vụ , quyền hạn của VKSND ở các khâu công tác kiểm sát.
Theo khoản 1 điều điều 107 Hiến pháp 2013, khoản 1 điều 2 Luật tổ
chức VKSND 2014, VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp.
Chức năng thực hành quyền công tố của VKSND được quy định trong
khoản 1 điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 về đối tượng và phạm vi thực
hành quyền công tố của VKSND: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của
VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
vụ án hình sự”. Với mục đích “bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội

phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh,
9


đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và xử lý kịp thời, không làm oan người vô
tội; không để lọt tội phạm và người phạm tội; không để người nào bị khởi tố, bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân trái pháp luật”.
Trong pháp luật hiện hành, VKSND là cơ quan duy nhất được giao chức
năng thực hành quyền công tố. Hoạt động công tố và kiểm sát điều tra được thực
hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, kết thúc
khi bản án , quyết định Tòa án có hiệu lực.
Theo khoản 1, khoản 2 điều 4 Luật tổ chức VKSND 2014, VKSND kiểm
sát hoạt động tư pháp là việc VKSND sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm cho hoạt động tư pháp được thực
hiện đúng đắn. Đối tượng của kiểm sát hoạt động tư pháp là tính hợp pháp của
hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp.
Phạm vi được bắt đầu từ khi tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải
quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân, gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động
tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Đó cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để VKSND thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
3.1. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân khi thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND;
Hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm của Viện kiểm sát được quy định tại điều 12, 13 Luật tổ chức VKSND

2014 có vị trí, vai trò và ý nghĩa tiên quyết để đảm bảo mọi hành vi phạm tội,
người phạm tội đều được phát hiện và xử lý kịp thời, đúng pháp luật. Thực tiễn
thực hành quyền công tố cho thấy, kiểm sát tốt việc giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm sẽ quyết định chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm
10


sát xét xử các vụ án hình sự. Đây cũng là một trong những bước quan trọng để
có thể khẳng định có hay không có hành vi tội phạm xảy ra, người nào thực hiện
hành vi phạm tội, tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội đó gây ra
như thế nào. Kiểm sát tốt việc giải quyết tin báo và tố giác tội phạm sẽ giúp cho
việc đồng ý hoặc hủy bỏ quyết định không khởi tố hay khởi tố của VKS đối với
Cơ quan điều tra chính xác và có căn cứ pháp luật, đảm bảo cho việc xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không bỏ lọt tội phạm.
3.2. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn khởi tố, kiểm sát điều tra vụ án hình sự của
VKSND;
Được quy định tại điều 14, 15 Luật tổ chức VKSND 2014, khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, bảo đảm việc điều tra
khách quan, toàn diện, đúng pháp luật khi phát hiện các quy định tố tụng của các
cơ quan điều tra không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền ra
quyết định “Hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê
chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can trái pháp luật” (khoản 2 điều 14 LTCVKSND 2014); VKS
còn “Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm
tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn các lệnh, quyết định của Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
hoặc trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm
pháp luật mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được khắc phục” (khoản 8 điều

14).
Khi đó, VKS có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện
pháp ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm và các biện pháp khác hạn chế quyền con
người, quyền công dân theo quy định của luật như: bắt, tạm giam, tạm giữ, cấm
đi khỏi nơi cư trú.
Sau khi việc điều tra kết thúc, Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra
đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra và nhiệm vụ, quyền hạn quan
11


trọng của Viện kiểm sát trong giai đoạn này mà không cơ quan nào khác có thể
thay thế được là quyết định việc có truy tố bị can ra trước Toà án để xét xử hay
không. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu xét thấy có đủ căn cứ để truy tố bị can
thì Viện kiểm sát thực hiện việc truy tố bị can ra trước Toà án bằng bản cáo
trạng.
3.3. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân khi thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố của VKSND;
VKSND là cơ quan duy nhất có quyền truy tố bị can có hành vi vi phạm
quyền con người, quyền công dân ra trước Tòa án để xét xử. Theo khoản 7 điều
16 Luật tổ chức VKSND năm 2014: “Quyết định truy tố, không truy tố bị can”.
Vai trò của VKSND trong giai đoạn truy tố là hết sức quan trọng, nó có tác động
mạnh mẽ đến quyền con người, quyền công dân của mỗi cá nhân vì quyết định
truy tố là xác định một người có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không, có ý
nghĩa quan trọng khi các quyền tự do của họ sẽ bị hạn chế bởi các biện pháp
ngăn chặn được quy định tại khoản 1 điều 16: “Quyết định áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giam, tạm giữ, các biện pháp khác hạn chế quyền con
người, quyền công dân theo quy định của luật; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã
bị can”.
Khi VKSND truy tố bị can đúng người, đúng tội, đúng pháp luật sẽ góp
phần bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân khi họ bị xâm phạm một cách trái pháp luật. Tuy nhiên,
có trường hợp không đủ chứng cứ buộc tội thì VKSND ra quyết định không truy
tố bị can, tức là phải đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do không chứng minh
được tội phạm. Bởi đến giai đoạn truy tố, VKSND được trao quyền truy tố hoặc
không truy tố bị can, thì phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Như vậy,
việc chứng minh người một người phạm tội thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng,
đây là nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp
năm 2013: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
12


minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Quy định này, ràng buộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong
đó VKSND trong việc chứng minh tội phạm để đưa ra quyết định truy tố và
buộc tội trước tòa án hoặc không truy tố, đình chỉ, trả tự do cho người phạm tội
khi không chứng minh được họ thực hiện tội phạm. Đồng thời, quy định này là
cơ sở pháp lý mạnh mẽ nhằm bảo vệ tốt nhất quyền con người, quyền công dân
trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
3.4. Bảo vệ quyền con người , quyền công dân khi thực hành quyền
công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự;
Với những nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định tại điều 18, 19
Luật tổ chức VKSND năm 2014 trong giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát bảo vệ
quyền con người thông qua hoạt động truy tố, buộc tội người phạm tội, để Tòa
án xét xử, kết tội, quyết định hình phạt . Bằng cách đó góp phần phòng ngừa tội
phạm và khôi phục các quyền và lợi ích của người bị hại, người có quyền, lợi
ích có liên quan bị kẻ phạm tội xâm phạm. Mặt khác, hoạt động kiểm sát xét xử
của Viện kiểm sát còn bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án tuân thủ đúng quy
định của pháp luật, khắc phục tình trạng xét xử oan người vô tội, quyết định
hình phạt và các biện pháp xử lý đối với bị cáo nặng hơn quy định của pháp luật
hoặc áp dụng các biện pháp không được áp dụng đối với bị cáo (khoản 3 điều

18, khoản 5 điều 19 Luật tổ chức VKSND năm 2014), bảo đảm mọi hoạt động
vi phạm pháp luật đều phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh.
3.5. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự;
Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị quy định quyền
không bị tra tấn Điều 7: “Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một
cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị
sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự
nguyện của người đó”. Công ước đặt ra những chuẩn mực cho các quốc gia
13


thành viên để bảo vệ nhóm quyền không bị tra tấn, được đối xử nhân đạo, không
bị giam giữ độc đoán, tra tấn, nhục hình. Các nước thành viên Công ước, dựa
trên các nguyên tắc nền này và tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, xã
hội và văn hóa của nước mình có thể đưa ra những quy định riêng nhưng không
được trái với các nguyên tắc cơ bản đã được quy định trong Công ước.
Hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự là một
trong những phương thức bảo vệ quyền con người, quyền công dân của người bị
tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành hình phạt tù. Bảo đảm việc tạm giam,
tạm giữ theo đúng quy đinh pháp luật, chế độ tạm giam, tạm giữ được chấp hành
nghiêm chỉnh, khách quan; đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật phải được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời, đồng thời
không được xâm phạm đến các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ.
3.6. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khi tham
gia vào quan hệ pháp luật phi hình sự;
Tăng cường vai trò của VKSND trong các lĩnh vực phi hình sự, nhằm
bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức.Khoản 4 điều 27 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND: “Tham
gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan điểm của VKSND về việc giải quyết vụ

án, vụ việc theo quy định của pháp luật”.
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong việc tiến hành hoặc tham gia tố tụng giải quyết các
vụ án hành chính, vụ việc dân sự đảm bảo cho hoạt động tố tụng được tuân thủ
các quy định của pháp luật, bảo đảm quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương
sự.
3.7. VKSND có trách nhiệm giải quyết và kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp;
Luật tổ chức VKSND quy định VKSND có trách nhiệm giải quyết và
kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp. Tại Điều 29 Luật
14


tổ chức VKSND năm 2014, quy định VKSND có thẩm quyền giải quyết các
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp. Tại Điều 30 Luật tổ chức VKSND
năm 2014 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi
kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp. VKS chịu
trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt
động tư pháp của các cơ quan, bảo đảm quyền dân chủ trong lĩnh vực này quy
định tại khoản 1 Điều 31. Tại khoản 1 Điều 9 Luật tổ chức VKSND năm 2014
quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành
các quyết định, yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân; có
quyền kiến nghị, khiếu nại, tố cáo các hành vi, quyết định trái pháp luật của
Viện kiểm sát nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân phải giải quyết, trả lời theo quy
định của pháp luật”.
Ngoài ra, những cán bộ Kiểm sát là một phần không nhỏ trong đóng góp
bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Do đó việc tuyển chon kiểm sát viên
luôn được chú trọng với những tiêu chuẩn cơ bản được quy định tại điều 75 Luật
tổ chức VKSND: “1.Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến
pháp nước CHXHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung

thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế
XHCN; 2.Có trình độ cử nhân luật trở lên; 3.Đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm
sát; 4.Có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của Luật này; 5.Có sức
khỏa bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao”. Và tiêu chuẩn được nâng cao
hơn theo các cấp bậc Kiểm sát khi hoàn thành tốt nghiệp vụ kiểm sát.
Bảo vệ quyền con người, quyền công dân được VKSND thực hiện trong
suốt các khâu công tác trong quá trình kiểm sát. Như vậy, khi thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình
sự, VKSND chịu trách nhiệm về việc áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con
người, quyền công dân , gồm các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp cưỡng chế
tố tụng khác, truy tố hoặc không truy tố bị can ra Tòa…; khi kiểm sát các hoạt
động tư pháp, VKSND phát hiện những sai phạm trong hoạt động này phải
nhanh chóng và kịp thời thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị đối với
15


các cơ quan tư pháp thực hiện đúng những quy định của pháp luật nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân.

IV- Một số sai sót trong việc thực hiện vai trò bảo vệ quyền
con người, quyền công dân của VKSND trong thực tiễn
Những năm gần đây bắt, giam, giữ là vấn đề thu hút sự chú ý của nhiều
cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, và đông đảo quần chúng nhân dân. Việc
bắt người tuỳ tiện, bắt oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người không
có lệnh đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Trường hợp của hai chị em cô Hắc Thị Bạch Tuyết và
cô Hắc Thị Bạch Thủy tại tỉnh Bình Thuận mà báo chí đã phản ánh là một trong
những ví dụ vi phạm pháp luật không đáng xảy ra nếu người thi hành công vụ có
chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Thật khó tin khi chỉ mới nghi ngờ cô Hắc Thị
Bạch Tuyết và em gái là Hắc Thị Bạch Thủy tráo vàng giả mà chủ tiệm vàng Mỹ

Kim đã dẫn giải hai cô tới công an thị trấn Chợ Lầu; và tại đây, được công an thị
trấn cho phép, chủ tiệm vàng đã tự tiện “giữ” chị em cô Tuyết từ 16 giờ ngày
21/1 đến 2 giờ ngày 22/1/2006, thậm chí còn cởi hết quần áo của các cô để khám
xét.
Bắt người, tạm giữ, tạm giam oan sai không những đã xảy ra ở nhiều địa
phương, gây nên sự bất bình trong dư luận xã hội, có trường hợp gây ra hậu quả
nghiêm trọng. Ví dụ, trường hợp oan sai của thầy giáo Nguyễn Minh Hoàng ở
huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh. Một lần đi dự tiệc cưới về thầy “chếnh choáng”
và bị té ngã bầm tay. Cũng đêm đó xảy ra vụ đánh nhau tại nhà vợ chồng anh
Hùng, chị Đôi. Nghe tiếng lộn xộn bà Hum và con trai là anh Đức chạy sang.
Một bóng đen dùng gậy phang anh Đức và bà Hum ngất xỉu. Bóng đen cùng
đồng bọn bỏ chạy. Anh Hùng bị thương tật 4%, chị Đôi 10%, Bà Hum 10%, anh
Đức 8%. Một tuần sau thầy giáo Hoàng được mời lên xã. “Tới nơi thấy có đủ cả
công an tỉnh, công an huyện, công an xã chờ sẵn, chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì
thầy nghe tiếng hô:Tên giết người, cướp của hạ vũ khí đầu hàng! Thầy choáng
váng, đang nghĩ xem vũ khí của minh là gì thì họ thoăn thoắt cởi hết đồ của thầy
16


rồi thầy bị đưa lên xe chở thẳng về nơi giam giữ suốt sáu tháng. Trong phòng
giam thầy mới máng máng hiểu mình bị bắt vì có các yếu tố gần giống với
những điều mà các nạn nhân kể lại một cách lộn xộn thiếu thống nhất”. Tại Điều
9 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 quy định “không ai bị coi là có tội và phải chịu
hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”; như
vậy, cơ quan công an thực hiện lệnh bắt nhưng không nói lý do bắt cho thầy
Hoàng, việc công an gọi thầy là “tên giết người cướp của”, cởi hết đồ của thầy là
vi phạm pháp luật, xúc phạm nghiêm trọng danh dự nhân phẩm của thầy Hoàng.
Có thể thấy rằng VKSND trong vai trò bảo vệ quyền con người, quyền
công dân là hết sức quan trọng nhưng cũng đã có một bộ phận cán bộ nhỏ lại
mắc sai lầm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của cá nhân,

nhiều vụ án gây oan sai. Với yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm,
việc bắt, giam giữ cần phải được tiến hành kiên quyết, kịp thời. Tuy nhiên,
không thể vì bất cứ một lí do gì mà áp dụng các biện pháp ngăn chặn tràn lan,
sai tính chất, sai đối tượng, không đảm bảo các yêu cầu của pháp luật làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó cần phải nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, công tâm, bồi dưỡng nâng cao ý thức pháp luật,
ý thức chính trị và đạo đức công vụ.

17


PHẦN KẾT LUẬN
Trong bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc năm 1950,
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến vai trò, ý nghĩa của pháp luật: “… Pháp luật
của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động…Pháp luật của
ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho
nhân dân lao động....Người nào sử dụng quyền tự do quá mức của mình mà
phạm đến tự do của người khác là phạm pháp”, Người căn dặn: “...Phải cố
gắng làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn.…Phải gần dân,
hiểu dân, giúp dân, học dân…”. Nhận thức sâu sắc về vai trò của pháp luật
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), trải
qua 55 năm hoàn thiện và phát triển, được sự tin tưởng và giao phó của Đảng,
Nhà nước và nhân dân, ngành Kiểm sát nhân dân đã đạt được nhiều thành quả to
lớn, đóng góp vào công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, bình ổn chính trị, đảm
bảo quyền con người, quyền công dân không bị xâm phạm. Trong giai đoạn hiện
nay, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo yêu cầu của cải cách tư pháp,
toàn thể cán bộ, Kiểm sát viên ngành Kiểm sát nhân dân sẽ tiếp tục phấn đấu,
khắc phục khó khăn, thử thách vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng và
Nhà nước giao cho, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ có hiệu
quả sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xứng đáng với sự tin cậy

của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật Hiến pháp - Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
2. Luật Hiến pháp 2013 – NXB Lao Động
3. Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014 – NXB Chính
trị Quốc gia.
4. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của Viện
kiểm sát - TS. Phạm Mạnh Hùng
5. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con
người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 - Ths.
NCS. Lê Ngọc Duy
6. />option=com_content&view=article&id=377:bqcntvbtgtg&catid=105:c
tc20063&Itemid=109
7. tks.edu.vn, vksndtc.gov.vn

19



×