Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Bài tập quản trị hoạt động về QUản trị sản xuất hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.86 KB, 9 trang )

BÀI TẬP QUẢN TRỊ HOẠT ĐỘNG VỀ QUẢN TRỊ SẢN XUẤT HIỆU QUẢ

Hiện nay theo quan niệm phổ biến thì sản xuất được hiểu là một quá trình tạo ra sản
phẩm hoặc dịch vụ. Thực chất, sản xuất chính là quá trình chuyển hóa các đầu vào,
biến chúng thành các đầu ra dưới dạng sản phẩm hoặc dịch vụ.
Quản trị sản xuất và dịch vụ bao gồm tất cả các hoạt động liên quan đến việc quản trị
các yếu tố đầu vào, tổ chức phối hợp các yếu tố đó nhằm chuyển hóa thành các kết quả
đầu ra là các sản phẩm vật chất hoặc dịch vụ với hiệu quả cao nhất, đạt được các lợi
ích lớn nhất.
Như vậy quản trị sản xuất và dịch vụ có tầm quan trọng trong hoạt động của một
doanh nghiệp. Nếu quản trị tốt, ứng dụng các phương pháp quản trị klhoa học thì sẽ
tạo ra khả năng sinh lời lớn cho doanh nghiệp. Ngược lại nếu quản trị sản xuất kém sẽ
làm cho doanh nghiệp bị thua lỗ thậm chí có thể bị phá sản.
Chúng ta cần tìm hiểu, nghiên cứu các cơ sở khoa học, các lý thuyết cơ bản nào đã
được sử dụng để quản lý sản xuất trong thế kỷ 19 và 20 nhằm nâng cao năng suất và
chúng ta, trong giai đoạn hiện nay có thể ứng dụng, học hỏi được những gì qua những
lý thuyết đó.
Các lý thuyết về quản trị sản xuất và dịch vụ đã được nhiều nhà kinh tế đặt nền tảng và
được bổ sung không ngừng từ năm 1776 bởi Adam Smith và các nhà kinh tế khác. Tuy
nhiên có thể nói thế kỷ 19 và thế kỷ 20, Lý thuyết về Quản trị học của Taylor, Lý
thuyết về Quản trị hành chính của Fayol, Nhóm lý thuyết về hành vi xã hội – tâm lý
học của Pollet được coi là những lý thuyết cơ bản về Quản trị sản xuất thời kỳ này.
1. Lý thuyết về Quản trị học của Taylor.
Năm 1881 Taylor được coi là người khai sinh ra Lý thuyết Quản trị lao đọng khoa học.
Taylor đã xây dựng những tiêu chuẩn lao động, nghiên cứu việc hoạch định và lập lịch
tiến độ lao động, nghiên cứu các nguồn động lực thúc đẩy người lao động tăng năng
suất lao động, nghiên cứu hợp lý hóa các thao tác và định mức lao động.
Những nguyên lý cơ bản trong lý thuyết của Taylor là:
- Xây dựng các phương pháp khoa học để thực hiện công việc nhiệm vụ của từng công
nhân .



- Lựa chọn công nhân một cách khoa học và huấn luyện họ các phương pháp khoa học
để thực hiện công việc .
- Tổ chức giáo dục và giám sát công nhân để đảm bảo họ thực hiện theo đúng phương
pháp .
- Xây dựng và củng cố quan hệ giữa người lao động và nhà lãnh đạo, quản trị.
Nội dung quản lý khoa học dựa trên các nguyên tắc sau:
- Xác định một cách khoa học khối lượng công việc hàng ngày của các công nhân với
các thao tác và thời gian cần thiết để bố trí quy trình công nghệ phù hợp (chia nhỏ các
phần việc) và xây dựng định mức cho từng phần việc. Định mức được xây dựng qua
thực nghiệm( bấm giờ từng động tác).
- Lựa chọn công nhân thành thạo từng việc thay cho một công nhân biết nhiều việc
nhưng lại không thành thục. Các thao tác được tiêu chuẩn hóa cùng với các thiết bị
công cụ, vật liệu cũng được chuẩn hóa và môi trường làm việc thuận lợi. Mỗi công
nhân được gắn chặt với với một vị trí làm việc theo nguyên tắc chuyên môn hóa cao
độ.
- Thực hiện chế độ trả tiền lương theo số lượng sản phẩm (hợp lệ về chất lượng) và
chế độ thưởng vượt định mức nhằm khuyến khích nỗ lực của công nhân.
- Phân chia công việc quản lý, phân biệt từng cấp quản lý: cấp cao tập trung vào chức
năng hoạch định, tổ chức và phát triển kinh doanh còn cấp dưới làm chức năng điều
hành cụ thể. Thực hiện sơ đồ tổ chức theo chức năng và theo trực tuyến : tổ chức sản
xuất theo dây chuyền liên tục.
Khi thực hiện các nội dung nói trên năng suất lao động đã tăng vượt bậc, giá thành
thấp; kết quả cuối cùng là lợi nhuận cao để cả chủ và thợ đều có thu nhập cao.
Qua các nguyên tắc kể trên về điều kiện tác nghiệp, phân công chuyên môn hóa (đối
với lao động của công nhân và đối với chức năng quản lý) và cuối cùng là tư tưởng
con người kinh tế ( qua trả lương theo số lượng sản phẩm để kích thích tăng năng suất
và hiệu quả sản xuất). Từ những tư tưởng đó đã mở ra cuộc cải cách về quản lý doanh
nghiệp tạo được bước tiến dài theo hướng quản lý một cách khoa học trong thế kỷ XX
cùng với những thành tựu lớn trong nghành chế tạo máy.

Tuy nhiên lý thuyết của Taylor cũng có những hạn chế nhất định.
Trước hết với định mức lao động thường rất cao đòi hỏi công nhân phải làm việc cật
lực . Hơn nữa, công nhân bị gắn chặt với dây chuyền sản xuất dẫn đến những hệ quả
như công nhân lao động như một cái máy.


Thuyết quản lý theo khoa học của Taylor chủ yếu đề cập đến công việc quản lý ở cấp
cơ sở ở tầm vĩ mô. Tuy nhiên nó đã đặt nền móng rất cơ bản cho thuyết quản lý nói
chung đặc biệt là về phương pháp làm việc tối ưu đạt được hiệu quả cao, tạo động lực
cho người lao động và việc phân cấp quản lý. Các thuyết quản lý và trường phái quản
lý khác vừa kế thừa thành tự đó vừa nâng cao những nhân tố mới để đưa khoa học
quản lý từng bước phát triển hoàn thiện hơn.
2.

Thuyết quản trị hành chính của Fayol

Trong khí thuyết quản lý theo khoa học của Taylor được truyền bá rộng rãi từ Mỹ sang
Châu Âu với ảnh hưởng lớn suốt nửa đầu thế kỷ XX thì ở Pháp xuất hiện một thuyết
mới thu hút sự chú ý. Fayol đã tiếp cận vấn đề quản lý ở tầm rộng hơn và xem xét dưới
góc độ tổ chức – hành chính.
Với thuyết này ông được coi là người đặt nền móng cho quản lý cổ điển .
Tư tưởng chủ yếu của thuyết Fayol là nhìn vấn đề quản lý ở cả tổng thể tổ chức quản
lý xí nghiệp, xem xét hoạt động quản lý từ trên xuống, tập trung vào bộ máy lãnh đạo
cao với các chức năng cơ bản của một nhà quản lý. Ông cho rằng thành công của quản
lý không chỉ nhờ phẩm chất của các nhà quản lý mà chủ yếu dựa vào các nguyên tắc
chỉ đạo hành động của họ và những phương pháp mà họ sử dụng. Với các nhà quản lý
cấp cao đòi hỏi phải có khả năng bao quát còn đối với cấp dưới thì khả năng chuyên
môn hóa là quan trọng nhất. Tư tưởng quản lý đó phù hợp với hệ thống kinh doanh
hiện đại và từ những nguyên lý đó có thể vận dụng cho việc quản lý các loại tổ chức
thuộc lĩnh vực khác.

Trước hết ông phân chia toàn bộ các hoạt động của xí nghiệp thành 06 nhóm công việc
chính:
1. Kỹ thuật ( khai thác)
2. Thương mại ( mua bán, trao đổi)
3. Tài chính ( huy động vốn, sử dụng vốn)
4.

An ninh ( bảo vệ tài sản và nhân viên)

5. Kế toán ( kiểm kê tài sản, theo dõi công nợ, hạch toán giá thành, thống kê)
6. Quản lý – điều hành ( kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp, kiểm tra)
Qua đó, ông xác định nội hàm quản lý gồm: lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp
và kiểm tra. Chính đó là sự khái quát các chức năng quản lý bảo đảm cho hoạt động
tiến hành thuận lợi và có hiệu quả. Như vậy chức năng quản lý chỉ tác động đến con
người. Rõ ràng thuyết của Fayol có sự phân biệt rõ ràng lãnh đạo và quản lý, trong đó


quản lý chỉ là một công cụ đảm bảo sự lãnh đạo nhằm đạt được mục đích của cả tổ
chức và do đó hoạt động chủ yếu của nhà lãnh đạo là phát huy cao tác dụng của quản
lý, thông qua hoạt động quản lý để thúc đẩy các hoạt động của tổ chức.
Mặt khác Fayol cũng cho rằng quản lý không phải là đặc quyền của từng cá nhân
đứng đầu mà phải phân chia cho các thành viên khác trong hệ thống tổ chức quản lý.
Từ đó ông đưa ra trật tự thứ bậc trong hệ thống trong đó bao gồm 03 cấp cơ bản. Cấp
cao là hội đồng quản trị và giám đốc điều hành; cấp giữa là các người tham mưu và chỉ
huy thực hiện từng phần việc với từng công đoạn; cấp thấp là các người chỉ huy tác
nghiệp ở từng khâu. Trật tự đó thể hiện sự phân phối quyền lực và trách nhiệm với
ranh giới rõ ràng.
Với những nội dung nói trên thuyết quản trị hành chính của Fayol có ưu điểm nổi bật
là tạo được kỷ cương trong tổ chức song nó chưa chú trọng đầy đủ các mặt tâm lý và
môi trường lao động, đồng thời chưa đề cập đến mối quan hệ với bên ngoài doanh

nghiệp.
Cùng với thuyết Taylor thuyết này đã đề ra được hàng loạt vấn đề quan trọng của quản
lý như chức năng, nguyên tắc, phương pháp, vừa chú trọng việc hợp lý hóa lao động
vừa quan tâm đến hiệu lực quản lý điều hành. Cho đến nay nhiều luận điểm cơ bản vẫn
mang giá trị lâu dài, được các thuyết tiếp sau bổ sung và nâng cao về tính xã hội và
yếu tố con người cũng như về các mối quan hệ bên ngoài tổ chức.
3. Thuyết hành vi xã hội tâm lý học của Pollet.
Pollet cho rằng trong quá trình làm việc, người lao động có các mối quan hệ với nhau
và giữa họ có một thể chế tổ chức nhất định bao gồm:
- Quan hệ giữa công nhân với công nhân.
- Quan hệ giữa công nhân với các nhà lãnh đạo, quản trị và hiệu quả quản trị của các
nhà lãnh đạo phụ thuộc vào mối quan hệ này.
Tác giả này cũng cho rằng hoạt động của con người phụ thuộc vào các yếu tố tâm lý
xã hội. Chính các yếu tố này tạo nên các quan hệ tốt đẹp trong quá trình làm việc.
Tiếp cận các động cơ về hành vi của con người, các tác giả đã tập trung vào nghiên
cứu các yếu tố tác động đến hành vi của con người trong quá trình làm việc với tư cách
là động cơ của họ. Đó chính là:
- Kỹ năng con người.
- Kỹ năng nhận thức.
Kỹ năng con người:


Đây chính là khả năng của người quản lý trong việc lao động một cách có hiệu quả với
tư cách là một thành viên của nhóm và động viên hợp tác trong nhóm mà anh ta lãnh
đạo.
Người có kỹ năng con người phát triển cao là người nhận thức được những thái độ, giả
thiết và niềm tin của chính mình với các cá nhân khác hay đối với các nhóm. Để hoạt
động có hiệu quả thì kỹ năng này phải được phát triển một cách tự nhiên và vô ý thức
cũng như phải phù hợp, phô diễn trong những hành vi cá nhân đó.
Kỹ năng nhận thức

Kỹ năng nhận thức bao gồm khả năng bao quát doanh nghiệp như một tổng thể. Khả
năng này bao gồm việc thừa nhận các tổ chức khác nhau của tổ chức phụ thuộc lẫn
nhau như thế nào và những thay đổi trong bộ phận bất kỳ .
Tuy nhiên không chỉ có việc phối hợp một cách hiệu quả các bộ phận khác nhau của
doanh nghiệp mới phụ thuộc vào kỹ năng nhận thức của nhà quản lý mà toàn bộ đường
hướng săc thái tương lai của tổ chức cũng tùy thuộc vào đó.
Như vậy có thể nói học thuyết về lãnh đạo và Quản trị kinh doanh là những khái quát
lý luận về lãnh đạo quản trị các hoạt động kinh doanh. Các học thuyết về lãnh đạo
quản trị là cơ sở, nền tảng dẫn đường cho các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách
khoa học và có hệ thống. Sự kết hợp của các lý thuyết này tạo thanhf một khuôn mẫu
mới về quản trị công việc và tổ chức, được xem như là nếp suy nghĩ về thời đại lúc ấy
về cung cách quản trị .
Tuy nhiên trong vòng khoảng 15 năm lại đây, một thuật ngữ mới đã được đưa ra về
phương pháp quản trị sản xuất: đó là LEAN.
LEAN là một triết lý sản xuất, rút ngắn khoảng thời gian từ khi nhận đơn của khách
hàng cho đến khi giao các sản phẩm hoặc chi tieeta bằng cách loại bỏ mọi dạng lãng
phí. Sản xuất tiết kiệm giúp giảm được các chi phí, chu trình sản xuất và các hoạt động
phụ không cần thiết không có giá trị khiến cho công ty trở nên cạnh tranh hơn, đáp
ứng nhu cầu của thị trường. LEAN là triết lý sản xuất nhằm lien tục tìm kiếm và giải
quyết các vấn đề trong sản xuất nhằm giảm tồn kho và tăng năng suất sản xuất. LEAN
nhấn mạnh vào việc liên tục cải tiến, tôn trọng nhân viên trao quyền và thực hành công
việc được tiêu chuẩn hóa. Sản xuất LEAN mang đến cho khách hang những sản phẩm
họ cần khi mà họ cần mà không có lãng phí. Như vậy nguyên lý của sản xuất LEAN là


cắt giảm chi phí đến mức tối đa, cải tiến liên tục, tôn trọng con người, phát huy tính
sang tạo và lấy sự thỏa mãn của khách hang làm trọng tâm.
Để thực hiện quản lý sản xuất theo lý thuyết LEAN cần chú ý đến nguyên tắc 5S dưới
đây:
1-Seiri - Sàng lọc (Sort - tiếng Anh): Nhằm loại bỏ tất cả mọi thứ không cần thiết,

không có giá trị ra khỏi công việc, nhà xưởng, tổ chức...
2-Seiton - Sắp xếp (Simply - tiếng Anh): Phần loại, hệ thống hoá để bất cứ thứ gì cũng
có thể "dễ tìm, dễ thấy, dễ lấy, dễ kiểm tra, dễ trả lại".
3-Seiso - Sạch sẽ (Shine - tiếng Anh): Thực chất là lau chùi, quét dọn, vệ sinh, kiểm tra
xem mọi thứ có được sắp xếp đúng nơi quy định.
4-Seiketsu - Săn sóc (Standardize - tiếng Anh): Nhằm "Tiêu chuẩn hoá", "quy trình
hoá" những gì đã đạt dược với ba nguyên tắc nêu trên đề mọi thành viên của doanh
nghiệp tuân theo một cách bài bản, hệ thống.
5-Shitsuke - Sẵn sàng (Sustain - tiếng Anh): Giáo dục, duy trì và cải tiến bốn nguyên
tắc nêu trên trong bất kỳ mọi hoàn cảnh nào và trong suất quá trình hoạt động của
doanh nghiệp.
Để quy trình sản xuất diễn ra một cách hoàn thiện, chính xác, các công ty cần phải
dựa trên mô hình sản xuất chính là “Sản xuất tức thời” (Just in time).
- “Just in time” là việc tạo ra các dòng sản phẩm trong sản xuất với phương châm
“đúng sản phẩm - với đúng số lượng - tại đúng nơi - vào đúng thời điểm cần thiết”.
Đây chính là chiến lược cơ bản để nâng cao năng lực sản xuất. Nguyên vật liệu sẽ
được cung cấp đúng nơi, đúng chỗ và đúng thời điểm đồng thời doanh nghiệp phải xác
định đúng các vấn đề và loại bỏ lãng phí nhằm giảm chi phí và tăng sản lượng. Để làm
được việc này thì doanh nghiệp cần phải có mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp.
Thực hiện tốt quy trình sản xuất JIT thì việc bố trí sản xuất sẽ chặt chẽ hơn và tự động
hóa nhanh hơn. Việc hoạch định các kế hoạch sản xuất sẽ ổn định hơn.
Như vậy các hoạc thuyết về quản trị kinh doanh nêu trên chính là những khái quát lý
luận về lãnh đạo, quản trị các hoạt đọng kinh doanh. Các học thuyết này được coi là cơ
sở, là nền tảng dẫn đường cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc áp dụng các ưu
điểm của những ký thuyết này vào quản lý doanh nghiệp là hết sức cần thiết trong giai
đoạn hiện này cung như trong thời gian tới. Ví dụ, thuyết của Taylor đưa ra những
phương pháp làm việc tối ưu, đạt được hiệu quả cao, tạo động lực cho người lao động
và phân cấp trong quản lý. Thuyết của Fayol giúp tạo ra kỷ cương, quản lý trong tổ



chức hay thuyết của Pollet giúp tác động tích cực đến tâm lý của công nhân, giúp tăng
năng suất lao động.
Ngày nay do nhu cầu cạnh tranh hiệu quả trong nền kinh tế toàn cầu, áp lực đòi hỏi hạ
giá thành sản phẩm nhưng vẫn phải đảm bảo các yêu cầu về chất lượng thì việc chuẩn
hóa các quá trình để luôn đạt được các kết quả như mong muốn là điều hết sức cần
thiết. Để cạnh tranh được trong nền kinh tế hiện nay thì các doanh nghiệp cần phải
phấn đấu ít nhất bằng các đối thủ cạnh tranh hoặc phải hơn. Điều này không chỉ đúng
về mặt chất lượng mà còn về chi phí, thời gian sản phẩm, chế biến, giao hàng, lắp đặt,
phản ứng và các vấn đề khác. Việc áp dụng LEAN vào quá trình sản xuất là việc hết
sức cần thiết để tránh lãng phí, tiết kiệm thời gian, nguồn lực đầu vào. Loại bỏ các
biến thiên trong LEAN giúp các tổ chức trở nên cạnh tranh hơn, nhanh nhậy hơn, đáp
ứng được các đòi hỏi của thị trường. Quản lý việc hoạch định và tiến hành LEAN là
những điểm mấu chốt để đạt được kết quả trọn vẹn.
2. Áp dụng các lý thuyết vào thực tế của doanh nghiệp.
Như đã nói ở trên quản trị hoạt động là quy trình hết sức quan trọng trong điều hành,
quản lý doanh nghiệp. Ta hãy xem xét quy trình sản xuất tại nhà máy xi măng Phúc
Sơn tại huyện Kim Môn – Hải Dương.
Nhà máy xio măng Phúc Sơn là một nhà máy có công nghệ và trang thiết bị sản xuất
tiên tiến, trang bị dây chuyền đồng bộ và hệ thống điều khiển với mức độ tự động hóa
cao, chất lượng sản phẩm tốt, mang lại hiệu quả kinh tế và kỹ thuật.
Quy trình sản xuất của nhà máy như sau:
Các nguyên liệu đầu vào như đá vôi, than cám, phụ gia, thạch cao… được nhập, sơ chế
và chứa vào kho tổng hợp.
Từ kho chứa, các nguyên liệu trên được chuyển đến trặm cân và đưa đi nghiền, sấy để
tạo thành phối liệu. Bột phối liệu được làm đống nhất trong si lô để cấp cho lò nung.
Quy trình sản xuất của nhà máy được thực hiện với hệ thống tự động hóa và thực hiện
điều khiển tập trung tại Phòng điều khiển trung tâm. Mỗi chương trình tối ưu hóa cho
sản xuất được áp dụng để kiểm soát toàn bộ các hoạt động của nhà máy và điều chỉnh
sản xuất kịp thời khi các thong số công nghệ thay đổi.
Sản phẩm khi xuất xưởng được phân phối cho các đại lý bao gồm đại lý của công ty

(đại lý cấp 1) và đại lý của doanh nghiệp, cửa hàng (đại lý cấp 2) và được phân phối
tới người tiêu dùng. Bên cạnh đó Công ty cũng ký hợp đồng cung cấp trực tiếp cho các
Tổng công ty, hộ công nghiệp tuy nhiên dịch vụ này rất ít và không được công ty chú
trọng.
Những hạn chế trong quy trình sản xuất của Công ty:


Có thể nói xi măng Phúc sơn hiện nay là một sản phẩm được khách hàng tin dùng và
bước đầu đã tạo được thương hiệu trên thị trường. Trong qus trình thực hiện sản xuất,
Công ty đã nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tiên tiến, thực hiện triển khai đồng bộ,
quy trình sản xuất gọn nhẹ, đảm bảo được chất lượng và tiết kiệm chi phí, giá thành.
Tuy nhiên qua nghiên cứu vẫn còn những hạn chế nhất định, điều này làm ảnh hưởng
không nhỏ tới hieeeuj quả sản xuất kinh doanh của Công ty, cụ thể như sau:
1.Một số sản phẩm đầu vào như đất sét, quặng, phụ gia, than… trước khi sản xuất đều
được chứa vào kho tổng hợp, điều này sẽ ảnh hưởng đến năng suất khi cùng lúc thực
hiện cả hai dây chuyển dẫn đến đôi khi bị thiếu than nếu vận hành 2 dây chuyền cùng
lúc với cường độ cao.
2. Nguồn nguyên liệu đá vôi do Công ty tự khai thác do đã xin được giấy phép. Tuy
nhiên Công ty lại chưa chú trọng đến công nghệ, chủ yếu vẫn áp dụng lao động thủ
công và máy móc thô sơ dẫn đến hiệu quả chưa cao, đôi khi vẫn phải mua từ bên ngoài
dẫn đến ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và giá thành của sản phẩm.
3. Hệ thống dây chuyền đóng bao của Trung Quốc chất lượng chưa tốt có tính hao mòn
nhanh, chóng hỏng và công suất chậm.
4. Trong công tác bán hàng chưa chú trọng đến việc khai thác chiều sâu, ký các thỏa
thuận với các tập đoàn lớn có nguồn tiêu thụ xi mưng lớn nhừm tiết kiệm chi phí bán
hàng và chiếm dụng vốn ứng trước của khách hàng. Thông thường khi giao hàng cho
các đại lý ký gửi, việc thu hồi vốn sẽ rất lâu, chi phí lãi vay, quay vòng vốn chậm do
vậy hiệu quả kinh doanh của Công ty chưa cao.
Áp dụng LEAN vào trong quy trình sản xuất của công ty xi măng Phúc Sơn.
Lãng phí trong các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hay dịch vụ là điều không thể

tránh khỏi. Quan trọng là các doanh nghiệp có nhận ra và loại bỏ hay không. Trong
quá trình sản xuất, xi măng Phúc Sơn cũng như các doanh nghiệp khác không tránh
khỏi được tình trạng lãng phí, kém hiệu quả, nổi bật là theo quan điểm của LEAN là
các yếu tố như sản xuất thừa, chờ đợi, vận chuyển, lưu kho…
+ Đợi chờ: Đợi chờ đưa than vào trong kho trong khi đóng bao.
+ Vận chuyển: Chi phí cao, chưa quản lý chặt chẽ, không áp dụng khoán gọn.
+ Lưu kho: hàng lưu kho còn nhiều, trong thời gian dài.
Để áp dụng các ưu điểm của các lý thuyết trong quản trị, Công ty xi măng Phúc Sơn
cần phải sắp xếp, quản trị các nguồn nhân lực của Công ty một cách hiệu quả. Nghiên
cứu quan điểm về JIT, quy tắc 5S và 7 loại lãng phí để bố trí nguồn nhân lực, công
nghệ, nguyên vật liệu một cách hợp lý, khoa học sẽ giúp công ty sản xuất, tiết kiệm


được chi phí, nắm bát cơ hội kinh doanh, hiểu được cung cầu của thị trường, chiến
lược tác nghiệp, dự báo nhu cầu… để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời.
Cụ thể với Công ty xi măng Phúc Sơn cần phải biết:
- Xác định thị trường và nhóm khách hàng mục tiêu,
- Quan tâm đến yếu tố công nghệ, nguồn nhân lực, sắp xếp nhân công cho phù hợp với
từng bộ phận sản xuất.
- Đặc biệt quan tâm đến việc tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.
- Xây dựng kế hoạch sản xuất dài hạn.
- Chú trọng nâng cao chất lượng, tổ chức tốt công tác tiếp thị khách hàng, nâng cao uy
tín, chất lượng và thương hiệu sản phẩm.
- JIT chú trọng tập trung vào quá trình học hỏi của nhân viên và trrao quyền hệ thống
trong sản xuất.
- Sản xuất LEAN tập trung vào việc đáp ứng mong muốn của khách hàng cụ thể là
chất lượng sản phẩm và giá bán.

Tài liệu tham khảo:
- Bài giảng môn Quản trị hoạt động – Giáo trình Quản trị hoạt động – Chương trình

MBA – Đại học Griggs
- www.diendankinhte.infor
-www.tinkinhte.com.vn



×