Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

luận văn: Sự tham gia của Kiểm sát viên trong các phiên tòa, phiên họp trong giải quyết vụ việc dân sự theo trình tự: sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.46 KB, 16 trang )

BÀI TẬP TIỂU LUẬN MÔN KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ
VÀ VIỆC KHÁC THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
ĐỀ TÀI: số 06
Sự tham gia của Kiểm sát viên trong các phiên tòa, phiên họp trong giải quyết
vụ việc dân sự theo trình tự: sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
A.

MỞ ĐẦU

Giải quyết vụ việc dân sự là vấn đề được đề cập và điều chỉnh bởi luật tố
tụng dân sự. Nhằm đảm bảo cho hoạt động giải quyết vụ án dân sự được tiến
hành một cách khách quan, đúng pháp luật; đảm bảo tối ưu quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự thì cần có sự kiểm sát các trình tự giải quyết. Theo quy định
của Khoản 1 Điều 7 Hiến pháp 2013: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Một trong những nội dung kiểm sát hoạt động
tư pháp đó chính là kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự, nội dung kiểm sát này
được thể hiện rõ nét thông qua quy định của pháp luật tố tụng về sự tham gia của
Viện kiểm sát trong các phiên tòa, phiên họp dân sự. Đồng thời, là hoạt động
kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự từ khi Tòa án thụ lí đến khi có bản án,
quyết định có hiệu lực và thi hành án.
NỘI DUNG
Sự tham gia của Kiểm sát viên trong các phiên tòa, phiên họp trong giải
B.

I.

quyết vụ việc dân sự theo trình tự: sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
1.

thẩm.
Quy định của pháp luật về sự tham gia của viện kiểm sát trong các phiên


họp, phiên tòa giải quyết vụ việc dân sự.
Trước đây, thoe quy định của các Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự, kinh tế, lao động thì Viện kiểm sát tham gia hầu hết các vụ việc dân
sự. Tuy nhiên, sau khi BLTTDS 2004 được ban hành thì sự tham gia của Viện
kiểm sát bị thu hẹp. Được lí giải bởi nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của
đương sự, khi các đương sự tự định đoạt các vấn đền liên quan đến giải quyết vụ
1


án thì Viện kiểm sát không nhất thiết tham gia tất cả các phiên tòa, phiên họp.
Trải qua thời gian thi hành bô luật tố tụng dân sự 2004, đã bộc lộ những hạn chế,
vướng mắc liên quan đến sự tham gia của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ
việc dân sự, đơn cử là khó khăn trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ mà
Hiến pháp quy định, khi các đương sự không phải lúc nào cũng có khả năng thu
thập tài liệu chứng cứ. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc giải
quyết không thích đáng, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự. Đến Bộ luật tố
tụng dân sự 2015, sự tham gia của Viện kiểm sát trong phiên họp, phiên tòa giải
quyết vụ việc dân sự thể hiện sự kế thừa những cũng có những thay đổi, bổ sung
cần thiết. Trước hết, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự, thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy
định của pháp luật nhằm đảm bảo hoạt động giải quyết vụ việc dân sự đúng
pháp luật.
Theo quy định tại Khoản 2, 3 Điều 21 BLTTDS 2015 thì Viện kiểm sát có
trách nhiệm tham gia phiên tòa, phiên họp trong các trường hợp sau:
Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự. Có
thể thấy, theo quy định của pháp luật tố tụng, Viện kiểm sát phải tham dự phiên
họp giải quyết việc dân sự nhằm đảm bảo cho hoạt động giải quyết việc dân sự
đúng pháp luật, giải quyết tối ưu yêu cầu của người có quyền yêu cầu, đảm bảo
quyền và lợi ích của công dân.
Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự trong

các trường hợp sau:
Phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập
chứng cứ. Điều này có nghĩa là, bất cứ vụ án dân sự nào mà Tòa án tiến hành thu
thập chứng cứ thì Viện kiểm sát có trách nhiệm tham gia phiên tòa, không phụ
thuộc vào việc đương sự có khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của Tòa án hay
không.

2


Những phiên tòa mà đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công
cộng. Sự tham gia của Viện kiểm sát trong những trường hợp này có vai trò như
một cơ quan thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi nhà nước, lợi ích công cộng
để kiểm sát việc tuân thủ theo pháp luật của Tòa án, bảo vệ tài sản công và lợi
ích công cộng, đang là đối tượng tranh chấp trong vụ án.
Những phiên tòa mà đối tượng tranh chấp là quyền sử dụng đất, nhà ở.
Những vụ án liên quan đến quyền sử dụng đất thường phức tạp, liên quan đến
nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc tham gia của Viện kiểm sát trong trường
hợp này sẽ giúp cho Tòa án giải quyết vụ án dân sự được nhanh chóng, thuận
lợi, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích của đương sự.
Những vụ án mà có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4
của Bộ luật này (Tòa án không được từ chối thụ lí vì lí do không có luật áp
dụng).
Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm. Đây là những thủ tục tố tụng dân sự khó khăn, phức tạp so với thủ tục
sơ thẩm, vì vậy BLTTDS 2015 bắt buộc Viện kiểm sát phải tham gia.
Một vấn đề lưu ý, Điều 21 BLTTDS 2015 chỉ nhắc đến sự tham gia của Viện
kiểm sát trong phiên họp, phiên tòa giải quyết vụ việc dân sự. Ở đây, phải nhấn

mạnh về mặt nhận thức, quy định này không chỉ quy định trong trường hợp thủ
tục thông thường mà còn cả thủ tục rút gọn. Nghĩa là, trong các phiên họp, phiên
tòa sơ thẩm, phúc thẩm theo thủ tục rút gọn, Viện kiểm sát vẫn phải tham gia
theo quy định trên.
2.

Sự tham gia của Kiểm sát viên trong các phiên họp, phiên tòa giải quyết vụ
việc dân sự.

3


Sự tham gia của Kiểm sát viên trong phiên họp, phiên tòa giải quyết vụ
việc dân sự là vấn đề cũng được luật quy định một cách cụ thể, chi tiết. Có thể
thấy, các quy định như sau:
2.1.

Sự tham gia của Kiểm sát viên tại phiên họp giải quyết việc dân sự
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 367 BLTTDS 2015: “Kiểm sát viên Viện

kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt
thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp”. Do việc dân sự chỉ do một Thẩm phán giải
quyết, trừ một số trường hợp đặc biệt nên để đảm bảo việc giải quyết việc dân sự
khách quan, đúng pháp luật, tránh sự lạm quyền của thẩm phán thì BLTTDS
2015 tiếp tục quy định sự tham gia của Kiểm sát viên cùng cấp tại phiên họp
này. Trước đây BLTTDS 2004 quy định trường hợp vắng Kiểm sát viên phải
hoãn phiên tòa, nhưng quy định này lại dẫn tới ảnh hưởng đến việc giải quyết
yêu cầu của đương sự, việc hoãn phiên tòa là không cần thiết nên BLTTDS 2015
đã sửa đổi theo hướng trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến
hành phiên họp nhằm khắc phục điểm chưa hợp lí trên.

2.2.

Sự tham gia của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm
Theo quy định tại Điều 232 BLTTDS 2015: “Kiểm sát viên được Viện

trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa; nếu
Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, không hoãn
phiên tòa. Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa hoặc không thể
tiếp tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết thì người
này được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên tòa từ
đầu”.
Xuất phát từ Khoản 2 Điều 21 BLTTDS 2015 nên Kiểm sát viên được
phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, để nâng cao tinh thần
trách nhiệm của Kiểm sát viên, hạn chế hoãn phiên tòa do Kiểm sát viên vắng
mặt, giảm chi phí cho người liên quan khi phải hoãn phiên tòa thì BLTTDS 2015
quy định việc Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử,
4


không hoãn phiên tòa. Đây là quy định mới thể hiện rõ việc tham gia phiên tòa
là trách nhiệm của Kiểm sát viên, không phải là quyền.
2.3.

Sự tham gia của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm
Theo quy định tại Điều 294 BLTTDS 2015: “Kiểm sát viên Viện kiểm sát

cùng cấp tham gia phiên tòa phúc thẩm” và Điều 296 BLTTDS 2015 quy định:
“Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa phúc thẩm vắng mặt thì Hội
đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa, trừ trường hợp Viện
kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm”.

Nghĩa là, Kiểm sát viên được phân công phiên tòa phúc thẩm vắng mặt,
nếu vụ án không có kháng nghị của Viện kiểm sát thì HĐXX vẫn tiến hành xét
xử bình thường mà không hoãn phiên tòa, nếu có kháng nghị phúc thẩm của
Viện kiểm sát thì hoãn phiên tòa. Quy định này nhằm khắc phục hạn chế, khó
khăn cho Tòa phúc thẩm các đương sự và những người tham gia phiên tòa khi
Kiểm sát viên vắng mặt một cách cố tình. Đồng thời, đề cao trách nhiệm của
Kiểm sát viên trong việc tham gia giải quyết vụ án dân sự. Trong trường hợp có
kháng nghị của Viện kiểm sát thì phải đặt ra việc hoãn phiên tòa. Điều này là vì,
Kiểm sát viên của Viện kiểm sát cùng cấp bắt buộc phải có mặt để trình bày
kháng nghị, lập luận để bảo vệ kháng nghị, thực hiện quyền bổ sung, thay đổi và
rút kháng nghị tại tòa và tiến hành kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm.
2.4.

Sự tham gia của Kiểm sát viên tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái
thẩm
Theo quy định tại Điều 338, 357 BLTTDS 2015: Phiên tòa giám đốc

thẩm, tái thẩm phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp.
Để đảm bảo cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát của mình
thông qua việc tham gia phiên tòa, BLTTDS 2015 quy định phiên tòa giám đốc
thẩm, tái thẩm phải có mặt của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp bởi vì đây
là thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, mang tính phức tạp
trong quá trình giải quyết, được thực hiện trên cơ sở quyền kháng nghị của Tòa
5


án, Viện kiểm sát cấp có thẩm quyền. Sự tham gia của Kiểm sát viên trong
trường hợp này là cần thiết để đảm bảo sự tuân theo pháp luật, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho đương sự.
II.


Các công việc cần tiến hành để kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự trong tình
huống
1.

Kiểm sát thụ lí vụ án

Thụ lí vụ án là hoạt động của tòa án sau khi xem xét các điều kiện thụ lí
(điều kiện khởi kiện, nộp tạm ứng án phí nếu có và tài liệu, chứng cứ kèm theo)
tiến thành thụ lí. Việc thụ lí sẽ được thông báo bằng văn bản đến Viện kiểm sát
cùng cấp trong 03 ngày để thực hiện kiểm sát thông báp thụ lí. Trong vụ án trên,
ngày 01/07/2017 Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì đã tiến hành thụ lí vụ án.
Sau khi Viện kiểm sát nhận được thông bá thụ lí trên, Kiểm sát viên được
phân công tiến hành công tác kiểm sát giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng
giữa nguyên đơn là K và bị đơn là M, N” phải tiến hành các công tác sau:
Thứ nhất, vào sổ thụ lý:
Số vụ án dân sự được thụ lý và số văn bản thông báo về việc thụ lý.
Ngày, tháng, năm, thụ lý là 1/7/2016 và ngày, tháng, năm, của văn bản
thông báo thụ lý là ngày ghi trong thông báo thụ lí (trong thời hạn 03 ngày làm
việc, từ ngày thụ lí vụ án).
Quan hệ tranh chấp: Tranh chấp hợp đồng giữa nguyên đơn là K và bị đơn
là M, N.
Thông tin đương sự: Nguyên đơn: ông K; Bị đơn: M, N – hộ khẩu tại
Vĩnh Tuy – Thanh Trì – Hà Nội.
Kiểm tra văn bản thông báo: Thực hiện đầy đủ theo quy định tại Điều 196
BLTTDS 2015, có đầy đủ nội dung theo yêu cầu và tuân thủ theo biểu mẫu số
30 - DS Ban hành kèm Nghị quyết 01/2017 NQ - HĐTP TANDTC.

6



Thứ hai, kiểm tra thời hạn gửi thông báo: trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày
thụ lý.
Thứ ba, kiểm tra nội dung văn bản thông báo:
Thẩm quyền thông báo: TAND huyện Thanh Trì là đúng quy định pháp
luật.
Họ tên người khởi kiện, hộ khẩu thường trú… Nghiên cứu vấn đề cụ thể
người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Kiểm tra thời hiệu, kiểm tra tư cách
pháp lý và kiểm tra việc Thẩm phán có thông báo cho những đối tượng được
nhận thông báo hay không.
Thứ tư, lập phiếu thông báo kiểm sát thụ lý: Tuân thủ mẫu số 22 Ban hành
quyết định 204/2017 QĐ-VKSTC. Cần theo dõi những vấn đề về thời hạn gửi
thông báo thụ lý vụ án; hình thức thông báo bằng văn bản; nội dung thông báo;
đề xuất giải quyết của Kiểm sát viên.
Thứ năm, Báo cáo lãnh đạo về công tác kiểm sát thông báo thụ lí, phát
hiện các vi phạm nếu có để đề nghị lãnh đạo cho phương hương giải quyết (theo
mẫu số 13 Quyết định 204/QĐ – VKSTC.
Thứ sáu, kiến nghị khắc phục vi phạm. Sau khi báo cáo đề xuất, nếu có vi
phạm Viện trưởng tiến hành quyền kiến nghị hoặc tập hợp vi phạm để kiến nghị
Tòa án khắc phục.
2.

Kiểm sát trong giai đoạn chuẩn bị xét xử

Trong giai đoạn này, Kiểm sát viên sẽ kiểm sát các quyết định của Tòa án
như quyết định chuyển, tách, nhập vụ án; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
biện pháp khẩn cấp tạm thời; quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên;
quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án… Kiểm sát viên thực hiện
một số kỹ năng như sau:
Thứ nhất, nếu có nhiều loại quyết định cần phân loại các quyết định có thể

kiến nghị và các quyết định có thể kháng nghị. Trong tình huống trên không đề
7


cập những tình tiết có các quyết định nên không thể xác định có loại quyết định
nào để tiến hành phân loại.
Thứ hai, vào sổ thụ lý kiểm sát các quyết định tố tụng của Tòa án, việc vào
sổ thụ lý kiểm sát các quyết định được Kiểm sát viên, Kiểm tra thực hiện tương
tự như ở kỹ năng kiểm sát thông báo thụ lý vụ án dân sự.
Thứ ba, kiểm sát các quyết định về một số các vấn đề như sau:
Một là, thời hạn gửi quyết định, tùy từng loại quyết định mà thời hạn gửi
khác nhau, ví dụ: Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho Viện kiểm
sát trong thời hạn là 3 ngày kể từ ngày ra quyết định 1, nếu không tuân thủ thời
hạn gửi thì bị xem là vi phạm thời hạn gửi quyết định.
Hai là, kiểm sát về hình thức. Mỗi loại quyết định đều phải tuân thủ theo
mẫu riêng, ví dụ: Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm phải tuân thủ theo mẫu
số 47 ban hành kèm Nghị quyết 01/2017/HĐTP-TANDTC.
Ba là, kiểm sát căn cứ ban hành. Mỗi loại quyết định do Tòa án ban hành
đều phải dựa trên các căn cứ được quy định trong BLTTDS. Cụ thể, đối với
quyết định đưa vụ án ra xét xử căn cứ là tài liệu chứng cứ đầy đủ, thủ tục tiến
hành theo quy định, không rơi vào các trường hợp tạm đình chỉ hay đình chỉ giải
quyết vụ án…
Bốn là, kiểm sát thẩm quyền ban hành, đối với quyết định đưa vụ an ra xét
xử Thẩm phán là chủ thể có thẩm quyền ban hành.
Năm là, kiểm sát nội dung, nội dung các quyết định về cơ bản đều được
quy định trong các Điều luật của BLTTDS, đối với quyết định đưa vụ án ra xét
xử, nội dung phải có đầy đủ theo quy định tại khoản 1 Điều 220 BLTTDS 2015.
Sáu là, sau khi kiểm sát các vấn đề như trên, kiểm sát viên sẽ xác định và
tập hợp các vi phạm, đánh giá mức độ, ghi vào phiếu kiểm sát và chuẩn bị báo
cáo đề xuất lãnh đạo Viện kiểm sát.

Thứ tư, lập phiếu kiểm sát các quyết định tố tụng của Tòa án, Viện kiểm sát
cần sử dụng đúng mẫu để thực hiện công việc này, đối với quyết định đưa vụ án
1 Khoản

2 Điều 220 BLTTDS 2015
8


ra xét xử, phiếu kiểm sát phải tuân thủ mẫu số 22 ban hành kèm Quyết định
204/2017/QĐ-VKSNDTC.
Thứ năm, lập hồ sơ kiểm sát các quyết định tố tụng, ở giai đoạn chuẩn bị
xét xử Viện kiểm sát chỉ lập hồ sơ kiểm sát với ba loại quyết định là quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các bên; quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án
và quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Thứ sáu, báo cáo đề xuất kiến nghị hoặc kháng nghị
Thứ bảy, thực hiện quyền kiến nghị và kháng nghị nếu có vi phạm.
3.

Kiểm sát xét xử sơ thẩm
3.1.
Kiểm sát trước phiên tòa sơ thẩm

Thứ nhất, nghiên cứu hồ sơ vụ án:
Khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và gửi quyết định này cho
Viện kiểm sát kèm theo hồ sơ vụ án, thì Viện kiểm sát sẽ tiến hành nghiên cứu
hồ sơ vụ án, thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án là 15 ngày kể từ ngày nhận được
hồ sơ, hết thời hạn này Viện kiểm sát phải trả lại cho Tòa án. Kiểm sát viên được
phân công kiểm sát giải quyết vụ án tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án. Việc
nghiên cứu hồ sơ vụ án là để nắm vững chứng cứ vụ án. Trong tình huống trên,
các vấn đề cần nghiên cứu: Quan hệ pháp luật tranh chấp (Quan hệ hợp đồng);

Đương sự (nguyên đơn: M, N và bị đơn: K); Chứng cứ, tài liệu cần nghiên cứu
(Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; Di chúc (nếu
có); giấy bán nhà; biên bản hòa giải; biên bản lấy lời khai; các giấy tờ, tài liệu
khác….); Nghiên cứu pháp luật áp dụng: pháp luật về hợp đồng, pháp luật về
thừa kế; pháp luật về đất đai,…Nghiên cứu các quyết định tố tụng của Tòa án.
Thứ hai, chuẩn bị các điều kiện để tham gia phiên tòa sơ thẩm:
Kiểm sát viên được phân công phải chuẩn bị bài phát biểu để nêu rõ được
ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa. Mẫu bài phát
biểu thực hiện mẫu 24 (Quyết định 204/QĐ – VKSTC): phát biểu về sự tuân
theo pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng; phát biểu về
quan điểm giải quyết vụ án. Trong đó, phân tích, đánh giá chứng cứ trong hồ sơ
9


vụ án. Quan điểm giải quyết vụ án cơ bản của Viện kiểm sát có thể là: Vì nhà đất
(đối tượng của hợp đồng bị tranh chấp) là đi sản thừa kế, việc M, N thực hiện
giao dịch chuyển nhượng cho K là không đúng pháp luật. Bởi lẽ, nhà đất của
ông bà A, B là di sản thừa kế, theo quy định pháp luật thừa kế thì M, N, P, Q đều
là con chung của ông bà, là hàng thừa kế thứ nhất theo thừa kế theo pháp luật
(trường hợp tình huống trên là không có di chúc thừa kế). Như vậy, tài sản trên
không thuộc quyền sở hữu của M, N nên việc giao dịch với K là không đúng
quy định pháp luật. Quan điểm giải quyết của Viện kiểm sát là không chấp nhận
yêu cầu của K và giao dịch trên là vô hiệu (Điều 117 BLDS 2015). Bên cạnh đó,
Kiểm sát viên cần chuẩn bị đề cương hỏi. Kiểm sát viên có thể chuẩn bị nội
dung các câu hỏi dành cho những người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Có thể
hỏi những vấn đề liên quan đến nội dung vụ án, các vấn đề chưa rõ, chưa mâu
thuẫn. Đồng thời, dự kiến các tình huống phát sinh tại phiên tòa (Đương sự cung
cấp thêm tài liệu chứng cứ, thay đổi lời khai, hoãn, tạm ngừng phiên tòa…).
Thứ ba, thực hiện lập hồ sơ kiểm sát. Hồ sơ kiểm sát bao gồm: các tài liệu
thể hiện hoạt động nghiệp vụ của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; ý kiến chỉ đạo

của lãnh đạo cung cấp hoặc cấp trên (nếu có).
Thứ tư, báo cáo kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án và đường lối giải quyết.
Kiểm sát viên xây dựng báo cáo kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án theo mẫu của
VKSTC gồm các nội dung: Yêu cầu khởi kiện, tài liệu chứng cứ, nhận xét đánh
giá, áp dụng luật, tài liệu chứng cứ thu thập, đường lối giải quyết, ý kiến chỉ
đạo…
Sau khi hoàn tất các bước trên, Kiểm sát viên có thể tham gia phiên tòa sơ
thẩm một cách hiệu quả.
3.2.

Kiểm sát tại phiên tòa

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tiến hành kiểm sát các hoạt động theo trình
tự tố tụng:

10


Thứ nhất, kiểm sát hoạt động bắt đầu phiên tòa. Kiểm sát viên cần tiến
hành kiểm tra số lượng, điều kiện tham gia của mỗi thành viên HĐXX. Đối
chiếu thành phần HĐXX với thành phần trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Kiểm tra tư cách pháp lí của thư kí tòa án. Kiểm tra tư cách pháp lí của các
đương sự và những người tham gia tố tụng khác.
Thứ hai, Kiểm sát tranh tụng và tham gia việc tranh tụng. Tại phiên tòa,
Kiểm sát viên tiến hành kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng tranh tụng
tại phiên tòa của HĐXX, thư kí tòa án và người tham gia tố tụng. Khi Kiểm sát
viên tiến hành hỏi tại phiên tòa với mục đích kiểm tra chứng cứ qua việc hỏi và
trả lời, phát hiện vi phạm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Khi hỏi phải đặt những câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, rõ ràng, không trùng lắp.
Thứ ba, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát. Kiểm sát viên tiến hành

phát biểu sự tuân thủ pháp luật của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng từ khi thụ lí đến trước khi HĐXX nghị án (mẫu bài phát biểu: mẫu 24-DS
Quyết định 204/QĐ-VKSTC). Phát biểu về quan điểm giải quyết của Viện kiểm
sát, Kiểm sát viên nêu sự đánh giá về vụ án, phân tích tài liệu, chứng cứ và
hướng giải quyết vụ án (trình bày ở trên).
Khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên án, Kiểm sát viên phải tiến hành
kiểm sát việc tuyên án theo quy định tại Điều 266, 267 BLTTDS 2015.
3.3.

Kiểm sát sau phiên tòa sơ thẩm

Sau phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu kiểm tra biên bản
phiên tòa, phát hiện những vi phạm thực hiện quyền yêu cầu thư kí sửa đổi, bổ
sung ngay tại phiên tòa.
Kiểm sát viên thực hiện việc báo cáo lãnh đạo kết quả xét xử sơ thẩm
(mẫu số 21). Báo cáo lập thành 02 bản, 01 bản gửi Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp, 01 bản báo cáo lãnh đạo cấp mình và lưu hồ sơ kiểm sát.

11


Yêu cầu tòa án gửi bản án để thực hiện quyền kháng nghị theo quy định
pháp luật nếu như Tòa án chưa gửi cho Viện kiểm sát (Khoản 2 Điều 269 và
Khoản 1 Điều 280 BLTTDS 2015).
3.4.

Kiểm sát bản án sơ thẩm

Khi nhận được bản án của tòa án huyện Thanh Trì gửi sang, Viện kiểm sát
nhân dân huyện Thanh Trì phải gửi ngay 01 bản kèm theo phiếu kiểm sát bản án

và kháng cáo (nếu có) để thực hiện các hoạt động theo thẩm quyền. Có quyền
yêu cầu Tòa án huyện Thanh Trì chuyển bản án để nghiên cứu các vấn đề: Kiểm
tra hình thức bản án xem có đúng với mẫu ban hành không, có phù hợp về hình
thức, có mắc lỗi gì không? Kiểm tra nội dung tranh chấp, ý kiến đương sự, ý
kiến của Kiểm sát viên có đúng không? Kiểm tra lại nhận định, căn cứ trong bản
án có phù hợp không… Với những vi phạm ít nghiêm trọng, Kiểm sát viên tổng
hợp vi phạm và báo cáo lãnh đạo kiến nghị với tòa án. Với những vi phạm
nghiêm trọng, đường lối giải quyết trái quan điểm thì ngay sau phiên tòa, Kiểm
sát viên phải báo cáo lãnh đạo thực hiện kháng nghị phúc thẩm theo quy định
pháp luật.
III.

Một số khó khăn trong công tác kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự của Viện
kiểm sát
Công tác kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự của Viện kiểm sát ngày càng
được chú trọng và nâng cao. Theo các quy định của BLTTDS 2015 và các văn
bản hướng dẫn liên quan, phạm vi và thẩm quyền của Viện kiểm sát trong hoạt
động kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy nhiều trường hợp kiểm sát viên chưa coi trọng công tác kiểm sát
dân sự như kiểm sát các vụ án hình sự. Chính vì thế mà không phát hiện ra được
những vi phạm của Tòa án dẫn đến tình trạng bỏ qua không đề xuất lãnh đạo
viện để có đường lối xử lí.
Ngoài ra, những khó khăn cho công tác kiểm sát lại bắt nguồn từ những
quy định của pháp luật, Sự không rõ ràng, mâu thuẫn và những quy định chưa có
12


hướng dẫn, hoặc hướng dẫn không thống nhất tạo ra những trở ngại cho hoạt
động kiểm sát. Theo quy định tại khoản 1 Điều 232, khoản 1 Điều 296, khoản 1
Điều 367 BLTTDS năm 2015 thì: Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên

tòa, phiên họp (sơ thẩm hoặc phúc thẩm) mà vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn
tiến hành việc xét xử, không hoãn phiên tòa, trừ trường hợp Viện kiểm sát kháng
nghị phúc thẩm. Quy định này gây khó khăn trong công tác kiểm sát giải quyết
các vụ việc dân sự vì: có những trường hợp sự vắng mặt của Kiểm sát viên là lí
do khách quan, như việc đồng thời bị động phải giải quyết vụ vụ án cùng lúc,
mà điều kiện không kịp chuẩn bị Kiểm sát viên dự khuyết hoặc thay đổi kiểm
sát viên. Thậm chí nhiều trường hợp gần đến ngày xét xử Tòa án án mới chuyển
hồ sơ vụ án cho VKS để nghiên cứu. Do thời gian ngắn Kiểm sát chưa có sự
chuẩn bị nội dung để tham gia phiên tòa hoặc qua nghiên cứu hồ sơ thấy có
nhiều nội dung cần yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ nhưng không còn thời
gian để thực hiện nhưng nếu Kiểm sát viên tham gia phiên tòa vắng mặt thì Tòa
án vẫn xử dẫn đến chất lượng tham gia phiên tòa không đáp ứng yêu cầu. Mặt
khác, theo quy định mới của BLTTDS năm 2015 thì số lượng công việc của
Viện kiểm sát tăng lên đáng kể do việc nghiên cứu án để tham gia phiên toà. Tuy
vậy, số lượng kiểm sát viên, cán bộ của Phòng nghiệp vụ - Viện kiểm sát tỉnh và
cán bộ phụ trách công tác dân sự của các Viện kiểm sát cấp huyện còn ít, đặc
biệt là số lượng Kiểm sát viên nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng công tác
giải quyết án dân sự.
Bên cạnh đó, đặc biệt trong những vụ án về đất đai, có thể thấy Viện kiểm
sát gặp rất nhiều khó khắn trong hoạt động kiểm sát. Cụ thể, là các hoạt động về
chứng cứ, chứng minh, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân (đặc biệt là cơ quan
chức năng) cung cấp tài liệu, chứng cứ. Từ đó, dẫn tới quá trình giải quyết và
công tác kiểm sát gặp rất nhiều khó khăn.
Để thực hiện tốt công tác kiểm sát giải quyết vụ án. Kiểm sát viên cần
phải nắm vững các quy định của pháp luật, chỉ có nắm vững các quy dịnh của
pháp luật mới có thể phát hiện các sai phạm và kịp thời khắc phục. Nhận thức
13


đầy đủ vai trò, nhiệm vụ của mình trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án dân

sự; thực hiện công tác báo cáo lãnh đạo để có hướng giải quyết, đường lối đúng
đắn, kịp thời; Không ngừng nâng cao kỹ năng chuyên môn, đào tạo, bồi dưỡng,
rèn luyện kiến thức nghiệp vụ để thực hiện tốt công tác kiểm sát. Đồng thời, cần
có những sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật sao cho phù hợp, ban hành các
văn bản hướng dẫn thống nhất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm
sát giải quyết vụ án dân sự của Kiểm sát viên.

C.

KẾT LUẬN

Như vậy, qua việc tìm hiểu và nghiên cứu quy định của pháp luật về sự
tham gia của Kiểm sát viên trong các phiên tòa, phiên họp trong giải quyết vụ
việc dân sự theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm giúp việc
nhận thức được đúng đắn hơn về các trường hợp Kiểm sát viên và Viện kiểm sát
được tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự. Đồng thời, nắm
được trình tự, thủ tục cần thiết phải tiến hành để kiểm sát hoạt động giải quyết
vụ án, một số kỹ năng cũng như các khó khăn vướng mắc trong các trường hợp
cụ thể, từ đó, có những kinh nghiệm, phương hướng khắc phục nhằm thực hiện
tốt công tác chức năng của Ngành kiểm sát nhân dân.

MỤC LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình kiểm sát giải quyết các vụ

2.
3.


việc dân sự và việc khác theo quy định pháp luât, 2018.
Bộ luật dân sự 2015.
Bộ luật tố tụng 2015.
14


4.

Thông tư liên tịch 02/2016/ttlt-tandtc-vksndtc quy định việc phối hợp giữa
viện kiểm sát nhân dân và tòa án nhân dân trong việc thi hành quy định

5.

của bộ luật tố tụng dân sự.
Quyết định số 364/qđ-vkstc về việc ban hành quy chế công tác kiểm sát

6.
7.

việc giải quyết các vụ việc dân sự.
Quyết định 204/QĐ-VKSTC – ban hành mẫu văn bản tố tụng.
- Sự tham gia của Viện kiểm sát trong các phiên

8.

tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn.
- Khó khăn, vướng mắc và giải pháp khắc phục
nhằm nâng cao chất lượng công tác giải quyết các vụ án dân sự liên quan
đến quyền sử dụng đất.


15



×