Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

BÀI báo cáo CHỌN GIỐNG cây NGÔ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.26 KB, 51 trang )

Trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên TP.HCM
Khoa: Sinh Học
Bộ môn: Di Truyền

BÀI BÁO CÁO

CHỌN GIỐNG CÂY NGÔ

Giảng viên: ThS Lưu Thị Thanh Tú

1


Mục Lục

I.Giới thiệu về cây Ngô (Bắp):
1.Nguồn gốc:
Bắp còn gọi là Ngô, tên khoa học là Zea may L. Trong tiếng Anh “maize” xuất phát từ
tiếng Tây Ban Nha (maíz) là thuật ngữ trong tiếng Taino để chỉ loài cây này, là từ thông
dụng Vương quốc Anh để chỉ cây Ngô. Tại Hoa Kỳ, Canada và Autralia, thuật ngữ hay
được sử dụng là corn, là từ trước đây dùng để gọi cho một loại cây lương thực, hiện nay
thuật ngữ này dùng để chỉ cây Ngô, là dạng rút gọn của “Indian corn” là cây lương thực
của người Anh Điêng”.
Lịch sử nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khảo cổ, di truyền học, thực vật học, dân tộc
học và địa lý học… đưa ra nhiều giả thuyết. Có giả thuyết cho là nguồn gốc cây Ngô
khoảng năm 5.500 tới 10.000 trước công nguyên (TCN). Những nghiên cứu về di truyền
học gần đây cho rằng quá trình thuần hóa Ngô diễn ra vào khoảng năm 7000 TCN tại
miền trung Mexico và tổ tiên của nó là loại cỏ teosinte hoang dại gần giống nhất với Ngô
ngày nay vẫn còn mọc trong lưu vực sông Balsas. Liên quan đến khảo cổ học, người ta
cũng đã phát hiện các bắp ngô có sớm nhất tại hang Guila Naquitz trong thung lũng
Oaxaca, có niên đại vào khoảng năm 4.250 TCN, các bắp ngô cổ nhất trong các hang


động gần Tehuacan, Puebla, có niên đại vào khoảng 2750 TCN. Một số giả thuyết cho
rằng, có lẽ sớm nhất khoảng năm 1500 TCN, Ngô bắt đầu phổ biến rộng và nhanh, Ngô
là lương thực chính của phần lớn các nền văn hóa tiền Columbus tại Bắc Mỹ, Trung Mỹ,
Nam Mỹ và khu vực Caribe. Với người dân bản xứ tại đây, Ngô được suy tôn như bậc
thần thánh và có tầm quan trọng về mặt tôn giáo do ảnh hưởng lớn của nó đối với đời
sống của họ.
Việc gieo trồng Ngô đã lan rộng từ Mexico vào tây nam Hoa Kỳ sau đó vào đông bắc
nước này cũng như đông nam Canada, làm biến đổi cảnh quan các vùng đất này do thổ
dân châu Mỹ đã dọn sạch nhiều diện tích rừng và đồng cỏ để trồng Ngô. Ngô lan truyền
sang châu Âu và phần còn lại của thế giới sau khi có tiếp xúc của người châu Âu với
châu Mỹ
Ngô được đưa vào châu Âu đầu tiên ở Tây Ban Nha trong chuyến thám hiểm thứ hai
của Columbus vào khoảng năm 1494. Người châu Âu đã nhận biết được giá trị của nó và
nhanh chóng phổ biến rộng rãi. Vào những năm đầu của thế kỷ XVI, bằng đường thủy
các tầu của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italia đã đưa cây Ngô ra hầu hết các lục địa của
thế giới cũ. Năm 1517, Ngô xuất hiện ở Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Đức. sau đó là nam
2


châu Âu và Bắc Phi. Năm 1521, Ngô đến Đông Ấn Độ và quần đảo Indonesia. Vào
khoảng năm 1575 Ngô đến Trung Quốc.
2.Phân loại học:
Giới (Regnum): Plantae.
Ngành (Division): Magnoliophyta.
Lớp (classis): Liliopsida (Monocotyledones).
Bộ (Ordo): Poales.
Họ (Familia): Gramineae (Họ hòa thảo), Poaceae.
Phân họ (Subfamilia): Pooideae.
Tông (Tribus): Maydeae.
Chi (Genus): Zea.

Loài (Species, sp): Zea may L, Z. Mexicana L, Z. Perrenis L.
Tên khác: Bắp, Ngô, Bẹ. Tên tiếng anh: Corn, Maize, Indian corn.
Ở Việt Nam ngô là cây lương thực đứng thứ hai sau lúa và trồng phổ biến nhiều vùng
trên cả nước. Cây ngô được đánh giá là cây trồng có vai trò hết sức quan trọng trong cơ
cấu cây trồng ở nước ta; năm 2010 là 1126,9 nghìn ha (trong đó trên 90% diện tích trồng
ngô lai), sản lượng đạt trên 4,6 triệu tấn. Tuy vậy sản xuất ngô trong nước vẫn chưa đáp
ứng đủ nhu cầu, hàng năm nước ta phải nhập khẩu lượng lớn ngô nguyên liệu cho chế
biến thức ăn chăn nuôi.
3.Đặc điểm thực vật học của cây Ngô:
 Các bộ phận của cây Ngô:
Các giống Ngô ở Việt Nam có những đặc điểm như chiều cao cây, thời gian sinh
trưởng, chống chịu sâu bệnh và thích ứng với điều kiện ngoại cảnh khác nhau. Song cây
Ngô đều có những đặc điểm chung về hình thái, giải phẫu. Các bộ phận của cây Ngô bao
gồm: rễ, thân, lá, hoa (bông cờ, bắp ngô) và hạt.
Rễ Ngô: là hệ rễ chùm tiêu biểu cho bộ rễ các cây họ hòa thảo. Độ sâu và sự mở rộng
của rễ phụ thuộc vào giống, độ phì nhiêu và độ ẩm của đất. Ngô có 3 lọai rễ chính: Rễ
mầm, rễ đốt và rễ chân kiềng.
Rễ mầm (còn gọi là rễ mộng, rễ tạm thời, rễ hạt) gồm có: rễ mầm sơ sinh và rễ mầm
thứ sinh.

3


- Rễ mầm sơ sinh (rễ phôi): là cơ quan đầu tiên xuất hiện sau khi hạt Ngô nảy mầm.
Ngô có một rễ mầm sơ sinh duy nhất. Sau một thời gian ngắn xuất hiện, rễ mầm sơ sinh
có thể ra nhiều lông hút và nhánh. Thường thì rễ mầm sơ sinh ngừng phát triển, khô đi và
biến mất sau một thời gian ngắn (sau khi cây Ngô được 3 lá). Tuy nhiên cũng có khi rễ
này tồn tại lâu hơn, đạt tới độ sâu lớn để cung cấp nước cho cây (thường gặp ở những
giống chịu hạn).
- Rễ mầm thứ sinh

Rễ mầm thứ sinh còn được gọi là rễ phụ hoặc rễ mầm phụ. Rễ này xuất hiện từ sau sự
xuất hiện của rễ chính và có số lượng khoảng từ 3 đến 7. Tuy nhiên, đôi khi ở một số cây
không xuất hiện lọai rễ này. Rễ mầm thứ sinh cùng với rễ mầm sơ sinh tạo thành hệ rễ
tạm thời cung cấp nước và các chất dinh dưỡng cho cây trong khoảng thời gian 2 - 3 tuần
đầu. Sau đó vai trò này nhường cho hệ rễ đốt.
Rễ đốt (còn gọi là rễ phụ cố định) phát triển từ các đốt thấp của thân, mọc vòng quanh
các đốt dưới mặt đất bắt đầu lúc Ngô được 3 - 4 lá. Số lượng rễ đốt ở mỗi đốt của Ngô từ
8 - 16. Rễ đốt ăn sâu xuống đất và có thể đạt tới 2,5m, thậm chí tới 5m, nhưng khối lượng
chính của rễ đốt vẫn là ở lớp đất phía trên. Rễ đốt làm nhiệm vụ cung cấp nước và các
chất dinh dưỡng suốt thời kỳ sinh trưởng và phát triển của cây Ngô.
Rễ chân kiềng (còn gọi là là rễ neo hay rễ chống) mọc quanh các đốt sát mặt đất. Rễ
chân kiềng to, nhẵn, ít phân nhánh, không có rễ con và lông hút ở phần trên mặt đất.
Ngoài chức năng chính là bám chặt vào đất giúp cây chống đỡ, rễ chân kiềng cũng tham
gia hút nước và thức ăn.
Thân Ngô: thân Bắp đặc khá chắc có đường kính từ 2-4 cm tùy thuộc vào giống điều
kiện sinh thái và chăm sóc. Chiều cao của thân Ngô khoảng 1.5-4 m. Thân chính của Ngô
có nguồn gốc từ chồi mầm. Từ các đốt dưới đất của thân chính có thể phát sinh ra 1-10
nhánh (thân phụ) với hình dáng tương tự như thân chính.
Thân Bắp trưởng thành bao gồm nhiều lóng nằm giữa các đốt và kết thúc bằng bông
cờ. Số lóng và chiều dài lóng là chỉ tiêu quan trọng trong việc phân loại các giống Bắp.
Thường các giống ngắn ngày (thân cao từ 1.2-1.5m) có khoảng 14-15 lóng. Các giống
trung ngày (thân cao 1.8-2.0m) có khoảng 18-20 lóng. Các giống dài ngày (thân cao 2.02.5m) khoảng 20-22 lóng. Nhưng không phải lóng nào cũng có bắp ngô, lóng mang bắp
ngô có một rãnh dọc cho phép bắp bám và phát triển bình thường.
Lá Ngô: Căn cứ vào vị trí trên thân và hình thái có thể chia lá Ngô làm 4 loại:
- Lá mầm: Là lá đầu tiên khi cây còn nhỏ, chưa phân biệt được phiến lá với vỏ bọc lá.
- Lá thân:Lá mọc trên đốt thân, có mầm nách ở kẽ chân lá.

4



- Lá ngọn: lá mọc ở ngọn, không có mầm nách ở kẽ lá.
- Lá bi: Là những lá bao bắp.
Lá Ngô điển hình được cấu tạo bởi bẹ lá, bản lá (phiến lá) và lưỡi lá (thìa lìa, tai lá).
Tuy nhiên có một số loại không có thìa lìa làm cho lá bó, gần như thẳng đứng theo cây:
- Bẹ lá (còn gọi là cuống lá): Bao chặt vào thân, trên mặt nó có nhiều lông. Khi cây
còn non, các bẹ lá lồng gối vào nhau tạo thành thân giả bao phủ, bảo vệ thân chính.
- Phiến lá: Thường rộng, dài, mép lá lượn sóng, ở một số giống trên phiến lá có nhiều
lông tơ. Lá ở gần gốc ngắn hơn, những lá mang bắp trên cùng dài nhất và sau đó chiều
dài của lá lại giảm dần.
- Thìa lìa: Là phần nằm giữa bẹ lá và phiến lá, gần sát với thân cây. Tuy nhiên, không
phải giống ngô nào cũng có thìa lìa; ở những giống không có thìa lìa, lá ngô gần như
thẳng đứng, ôm lấy thân.
Số lượng lá, chiều dài, chiều rộng, độ dày, lông tơ, màu lá, góc lá và gân lá thay đổi
tùy theo từng giống khác nhau. Số lá là đặc điểm khá ổn định ở ngô, có quan hệ chặt với
số đốt và thời gian sinh trưởng. Những giống ngô ngắn ngày thường có 15 - 16 lá, giống
ngô trung bình: 18 - 20 lá, giống ngô dài ngày thường có trên 20 lá.
Bông cờ và bắp ngô: ngô là loài cây có hoa khác tính cùng gốc. Hai cơ quan sinh sản:
đực (bông cờ) và cái (bắp) nằm ở những vị trí khác nhau trên cùng một cây.
Bông cờ (hoa đực): Hoa đực nằm ở đỉnh cây, xếp theo chùm gồm một trục chính và
nhiều nhánh. Hoa đực mọc thành bông nhỏ gọi là bông chét, bông con hoặc gié. Các gié
mọc đối diện nhau trên trục chính hay trên các nhánh. Mỗi bông nhỏ có cuống ngắn và
hai vỏ nâu hình bầu dục trên vỏ trấu (mày ngoài và mày trong) có gân và lông tơ. Trong
mỗi bông nhỏ có hai hoa: một hoa cuống dài và một hoa cuống ngắn. Một bông nhỏ có
thể có một hoặc ba hoa. Ở mỗi hoa có thể thấy dấu vết thoái hoá và vết tích của nhụy hoa
cái, quanh đó có ba chỉ đực mang ba nhị đực và hai mày cực nhỏ gọi là vẩy tương ứng
với tràng hoa. Bao quanh các bộ phận của một hoa có hai mày nhỏ - mày ngoài tương
ứng với lá bắc hoa và mày trong tương ứng với lá đài hoa.
Bắp ngô (hoa cái): Hoa tự cái (bắp ngô) phát sinh từ chồi nách các lá, song chỉ 1 - 3
chồi khoảng giữa thân mới tạo thành bắp. Hoa có cuống gồm nhiều đốt ngắn, mỗi đốt
trên cuống có một lá bi bao bọc. Trên trục đính hoa cái (cùi, lõi ngô), hoa mọc từng đôi

bông nhỏ. Mỗi bông có hai hoa, nhưng chỉ có một hoa tạo thành hạt, còn một hoa thoái
hóa. Phía ngoài hoa có hai mày (mày ngoài và mày trong). Ngay sau mày ngoài là dấu vết
của nhị đực và hoa cái thứ hai thoái hoá; chính giữa là bầu hoa, trên bầu hoa có núm và
vòi nhụy vươn dài thành râu. Râu ngô thuôn dài trông giống như một búi tóc, ban đầu

5


màu xanh lục và sau đó chuyển dần sang màu hung đỏ hay hung vàng. Trên râu có nhiều
lông tơ và chất tiết làm cho hạt phấn bám vào và dễ nảy mầm.
Hạt ngô thuộc loại quả dính gồm 5 phần chính: vỏ hạt, lớp alơron, phôi, nội nhũ và
chân hạt. Vỏ hạt là một màng nhẵn bao xung quanh hạt. Lớp alơron nằm dưới vỏ hạt và
bao lấy nội nhũ và phôi. Nội nhũ là phần chính của hạt chứa các tế bào dự trữ chất dinh
dưỡng. Nội nhũ có 2 phần: nội nhũ bột và nội nhũ sừng. Tỷ lệ giữa nội nhũ bột và nội
nhũ sừng tùy vào chủng ngô, giống ngô.
Phôi ngô chiếm 1/3 thể tích của hạt và gồm có các phần: ngù (phần ngăn cách giữa nội
nhũ và phôi), lá mầm, trụ dưới lá mầm, rễ mầm và chồi mầm.
Các hạt ngô có kích thước cỡ hạt đậu Hà Lan, và bám chặt thành các hàng tương đối
đều xung quanh một lõi trắng để tạo ra bắp ngô. Mỗi bắp ngô dài khoảng 10 – 25 cm,
chứa khoảng 200 - 400 hạt. Các hạt có màu như ánh đen, xám xanh, đỏ, trắng và vàng.
 Sinh trưởng và phát triển của cây Ngô:

Thời gian sinh trưởng (TGST) của cây ngô dài, ngắn khác nhau phụ thuộc vào giống
và điều kiện ngoại cảnh. Trung bình TGST từ khi gieo đến khi chín là 90 - 160 ngày.
Sự phát triển của cây ngô chia ra làm 2 giai đoạn:
1. Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng: Từ khi gieo đất đến khi xuất hiện nhị cái.
2. Giai đoạn sinh trưởng sinh dục: Bắt đầu với việc thụ tinh của hoa cái cho đến khi

hạt chín hoàn toàn.
Có nhiều ý kiến khác nhau về thời gian sinh trưởng phát triển của cây ngô, song có thể

chia ra các thời kỳ sau: Thời kỳ nảy mầm, thời kỳ 3 - 6 lá, thời kỳ 8 - 10 lá, thời kỳ xoáy
nõn, thời kỳ nở hoa và thời kỳ chín.
Thời kỳ nảy mầm:
Sau khi gieo với điều kiện nhiệt độ độ ẩm thích hợp, hạt ngô trương lên rồi xuất hiện
rễ mầm sơ sinh. Tiếp theo đó lá mầm mọc với chồi mầm bọc kín. Sau đó xuất hiện 3 hoặc
4 rễ hạch nách hay còn gọi là rễ mầm thứ sinh. Trụ gian là mầm đẩy bao mầm lên khỏi
mặt đất. Đây chính là giai đoạn mọc. Cây mọc trong 4-5 ngày sau khi gieo ở điều kiện đủ
ẩm và ấm, còn khi lạnh hoặc khô cây có thể mọc sau 2 tuần hoặc chậm hơn.
Điều kiện ảnh hưởng đến sự nảy mầm:
- Sức nảy mầm của hạt: tùy thuộc vào giống

6


- Độ ẩm: Lượng nước cần thiết cho hạt ngô nảy mầm tương đối thấp (khoảng 45%
trọng lượng khô tuyệt đối của hạt). Độ ẩm thích hợp của đất đảm bảo cho sự nảy mầm
khoảng 60 - 70% độ ẩm tương đối.
- Nhiệt độ: Nhiệt độ thích hợp cho ngô nảy mầm là 25 – 30oC. Nhiệt độ quá cao hay
quá thấp đều ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của mầm.
- Độ sâu khi gieo: Để cho cây ngô nảy mầm và mọc nhanh hơn ở thời kỳ gieo sớm,
cần gieo nông để lợi dụng nhiệt độ đất có lợi trên bề mặt. Độ sâu lấp đất khi gieo hạt
trung bình 5 - 6cm. Tuy nhiên, ở những vùng khô hạn nên gieo ở độ sâu sâu hơn.
Giai đoạn 3-6 lá:
Khi ngô được 3 lá điểm sinh trưởng còn nằm ở dưới mặt đất và thân mới kéo dài được
một ít. Lông hút mọc ra từ các rễ đốt. Hệ thống rễ mấm thực sự ngừng phát triển. Đây là
giai đoạn mà tất cả các lá và chồi bắp mà cây có thể sản sinh được tạo lập.
Vào khoảng lúc cây ngô được 5 lá, lá và khởi đầu mầm bắp sẽ hoàn chỉnh. Ở đầu đỉnh
thân, một mầm cờ đực nhỏ được hình thành.
Khi ngô được 6 lá, điểm sinh trưởng và bông cờ đã ở trên mặt đất. Chiều dài thân bắt
đầu tăng nhanh. Hàng loạt rễ đốt mọc dài ra từ 3 hoặc 4 đốt thân dưới cùng. Hệ thống rễ

đốt là hệ thống rễ chức năng chính. Một vài mầm bắp hoặc chồi nhánh đã thấy rõ thời
gian này. Nhánh (chồi bên) thường được hình thành ở các đốt dưới mặt đất nhưng ít khi
tiến triển.
Giai đoạn 8-10 lá:
Ở giai đoạn cây được 8 lá, 2 lá dưới có thể thoái hóa và mất. Hệ thống rễ đốt đã được
phân bổ đều trong đất.
Khi được 9 lá, cây ngô có rất nhiều chồi bắp. Trừ 6 đến 8 đốt cuối cùng dưới bông cờ,
còn từ thân ngô lúc này mỗi đốt còn lại sẽ xuất hiện một chồi bắp. Tuy nhiên, một số chồi
bắp trên cùng được phát triển thành bắp thu hoạch. Bông cờ bắt đầu phát triển nhanh.
Thân tiếp tục kéo dài theo sự kéo dài của lóng.
Trong giai đoạn này, nhiệt độ thích hợp cho cây ngô là khoảng 20-30 oC. Cây ngô cần
ít nước nhưng cần đảm bảo đủ ôxy cho rễ phát triển. Chính vì vậy mà kỹ thuật làm đất
phải phù hợp để đất được tơi xốp và thông thoáng như xới xáo hợp lý (không quá sâu
hoặc quá gần gốc cây ảnh hưởng đến rễ).
Khi cây ngô được 10 lá, thời gian xuất hiện các lá mới ngắn hơn, thường sau 2-3 ngày
mới có 1 lá mới. Cây ngô bắt đầu tăng nhanh, vững chắc về chất dinh dưỡng và tích lũy
chất khô. Quá trình này sẽ tiếp tục đến các giai đoạn sinh thực. Do vậy, nhu cầu về chất
dinh dưỡng và lượng nước trong đất lớn hơn.
7


Thời kỳ xoáy nõn:
Vào giai đoạn cây được 12 lá, số noãn (hạt thế năng) trên mỗi bắp và độ lớn của bắp
được xác định. Số hàng trên bắp đã được thiết lập. Các chồi bắp trên vẫn còn nhỏ hơn các
chồi bắp dưới, nhưng đang tiến tới sát dần nhau về độ lớn. Điều kiện quan trọng cần được
đảm bảo ở giai đoạn này là độ ẩm và chất dinh dưỡng , sự thiếu hụt của các yếu tố này
dẫn đến sự giảm sút nghiêm trọng số hạt tiềm năng và độ lớn của bắp. Các giống ngô lai
chín sớm thường có bắp nhỏ hơn nên cần được trồng với mật độ cây cao hơn giúp chúng
đảm bảo được lượng hạt tương đương với các giống lai chín muộn trên cùng đơn vị diện
tích.

Giai đoạn cây được 15 lá là giai đoạn quyết định đến năng suất hạt. Các chồi bắp phía
trên vượt hơn các chồi bắp phía dưới. Sau 1 - 2 ngày lại hình thành một lá mới. Râu ngô
bắt đầu mọc từ những bắp phía trên. Ở đỉnh của bẹ lá bao quanh, một số chồi bắp trên
cũng đã bắt đầu xuất hiện. Đỉnh của bông cờ cũng có thể nhìn thấy.
Trong giai đoạn này, sự đảm bảo đủ nước là điều kiện quan trọng nhất để có được
năng suất hạt tốt.
Rễ chân kiềng bắt đầu mọc ra từ các đốt trên mặt đất khi cây được 18 lá. Chúng giúp
cây chống đổ và hút nước, chất dinh dưỡng ở những lớp đất bên trên trong giai đọan sinh
thực.
Râu ngô mọc từ noãn đáy bắp rồi đến râu từ đỉnh bắp và tiếp tục phát triển. Bắp ngô
cũng phát triển nhanh chóng.
Cây ngô lúc này đang ở vào khoảng 1 tuần trước lúc phun râu.
Thời kỳ nở hoa:
Thời kỳ này bao gồm các giai đoạn: Trỗ cờ, tung phấn, phun râu, thụ tinh và mẩy hạt.
Giai đoạn trổ cờ: Bắt đầu khi nhánh cuối cùng của bông cờ đã thấy hoàn toàn, còn râu
thì chưa thấy. Đây là giai đoạn trước khi cây phun râu khoảng 2 - 3 ngày. Cây ngô hầu
như đã đạt được độ cao nhất của nó và bắt đầu tung phấn (Khi hoa đực chín, các mày của
nó phồng lên, các chỉ nhị dài ra, bao phấn tách ra khỏi hoa và tung ra các hạt phấn hình
trứng có đường kính khoảng 0,1mm. Mỗi bông cờ có 2 hoa, mỗi hoa có 3 nhị đực, mỗi
nhị đực có một bao phấn, mỗi bao phấn có 2 ô và trong mỗi ô có khoảng 1000 - 2500 hạt
phấn. Như vậy tổng cộng mỗi bông cờ cho 10 - 13 triệu hạt phấn. Khi bắt đầu nở, các hoa
ở 1/3 phía đỉnh trục chính tung phấn trước, sau đó theo thứ tự từ trên xuống và từ ngoài
vào trong. Một bông cờ trong mùa xuân, hè đủ ấm thường tung phấn trong 5 - 8 ngày;
mùa lạnh, khô có thể kéo dài 10 - 12 ngày). Tùy thuộc vào giống và điều kiện bên ngoài
mà thời gian giữa tung phấn và phun râu có thể dao động khác nhau. Ở điều kiện ngoài
đồng, tung phấn thường xuyên xảy ra vào cuối buổi sáng và đầu buổi chiều.
8


Giai đoạn phun râu: Giai đoạn này bắt đầu khi một vài râu ngô đã được nhìn thấy bên

ngoài lá bi. Khi những hạt phấn rơi được giữ lại trên những râu tươi, mới này thì quá
trình thụ phấn xảy ra. Hạt phấn được giữ lại cần khoảng 24 giờ để thâm nhập vào từ râu
cho đến noãn - mới xảy ra thụ tinh và noãn trở thành hạt. Thường thường, tất cả râu trên
1 bắp phun hết và thụ phấn hết trong khoảng 2 - 3 ngày. Râu mọc khoảng 2,5 - 3,8 cm
mỗi ngày và tiếp tục kéo dài đến khi được thụ tinh.
Noãn hay hạt ở giai đoạn phun râu hầu như hoàn toàn chìm trong các vật liệu cùi bao
quanh (mày, mày dưới, lá bắc nhỏ) và ở bên ngoài có màu trắng. Vật liệu bên trong của
hạt biểu hiện trong và hơi lỏng. Phôi hoặc mầm còn chưa thấy rõ. Đây là thời gian quyết
định số noãn sẽ được thụ tinh. Những noãn không được thụ tinh sẽ không cho hạt và bị
thoái hóa.
Thụ phấn: Bắp dễ thụ phấn chéo, do gió mang hạt phấn đi xa. Tỷ lệ thụ phấn chéo lên
đến 95% hoặc hơn. Do tỷ lệ hạt phấn/hoa cái cao (từ 1000-25000) nên hoa cái có thể thụ
phấn dễ dàng. Khi tung phấn, hạt phấn hoa chỉ có thể sống được trong không khí 18-24h
(nhưng gặp nhiệt độ cao, khô chỉ sống được vài giờ, và chỉ 3h ở 35 oC). Riêng nướm nhụy
cái nếu gặp thuận tiện có thể sống từ 10-20 ngày (ở 17-20 oC là 20-25 ngày). Sau khi rơi
lên nướm nhụy cái, hạt phấn nảy mầm và tiến vào gặp tiểu noãn trong vòng 12-28h, với
chiều dài nhất của nướm là 25cm. Nhiệt độ thích hợp để hạt phấn nảy mầm là 18-20 oC, ở
độ ẩm không khí 80oC.
Thụ tinh: Hạt phấn từ bông cờ rơi trên râu ngô 5 - 6 giờ thì bắt đầu nảy mầm. Ống
phấn mọc dài và đi dọc theo chiều dài của râu ngô đến tận túi phôi. Tế bào phát sinh
trong hạt phấn phân chia nguyên nhiễm sinh ra hai tinh trùng di chuyển ra phía đầu ống
phấn, khi noãn đầu ống vỡ ra, phóng hai tinh trùng vào trong noãn. Ở đây quá trình thụ
tinh diễn ra.
Mẩy hạt (10-14 ngày sau phun râu): Hạt có dạng hình mẩy và bên ngoài có màu trắng.
Nội nhũ và chất lỏng bên trong có màu trong và có thể thấy phôi rất nhỏ. Rễ mầm, bao lá
mầm và lá phôi đầu tiên đã được hình thành mặc dù phôi còn phát triển chậm.
Nhiều hạt đã mọc ra ngoài, các vật liệu bao quanh của cùi ở hạt và cùi đã gần như đạt
tới kích thước cuối cùng. Râu ngô đã hoàn thành chức năng ra hoa, đang thâm màu và bắt
đầu khô.
Trong nội nhũ loãng của hạt bắt đầu tích luỹ tinh bột. Hạt bắt đầu giai đoạn tích luỹ

chất khô nhanh, chắc và bắp đầy hạt dần. Mặc dù tổng lượng đạm và lân trong cây đang
còn tích lũy nhanh, nhưng những chất dinh dưỡng này đang bắt dầu di chuyển từ các
phần dinh dưỡng sang các bộ phận sinh thực. Hạt có khoảng 85% độ ẩm. Độ ẩm của hạt
giảm dần cho đến thu hoạch.
Thời kỳ chín:
9


Hạt trải qua các giai đoạn: Giai đoạn chín sữa (18 - 22 ngày sau phun râu) =>Giai
đoạn chín sáp (24 - 28 ngày sau phun râu)=>Giai đoạn hình thành răng ngựa (35 - 42
ngày sau phun râu) => Giai đoạn chín hoàn toàn - chín sinh lý (55 - 65 ngày sau phun
râu). Hạt tích lũy dần tinh bột , giảm độ ẩm, phôi phát triển đầy đủ.
 Đặc điểm di truyền:

Ngô có bộ nhiễm sắc thể 2n=20 (n=10). Chiều dài tổng cộng của các nhiễm sắc thể là
1.500 cM. Một số nhiễm sắc thể của ngô có cái mà người ta gọi là "bướu nhiễm sắc thể":
các vùng tạp sắc lặp đi lặp lại cao với vết màu sẫm. Mỗi bướu riêng biệt là đa hình trong
số các giống của cả ngô lẫn cỏ ngô. Barbara McClintock đã sử dụng các bướu này để
chứng minh thuyết transposon của bà về các "gen thay đổi đột ngột", và với công trình
này bà đã đoạt giải Nobel năm 1983 trong lĩnh vực sinh lý học và y học. Ngô vẫn còn là
sinh vật mẫu quan trọng cho di truyền học và sinh học phát triển ngày nay.
Tại Hoa Kỳ có một kho trung tâm các đột biến ở ngô, The Maize Genetics
Cooperation — Stock Center, do Cục Nghiên cứu Nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp Hoa
Kỳ (USDA) thành lập và nằm tại Khoa các khoa học cây trồng của Đại học Illinois tại
Urbana-Champaign. Tổng cộng bộ sưu tập có gần 80.000 mẫu. Bộ sưu tập này bao gồm
vài trăm gen đã đặt tên, cộng với các tổ hợp gen bổ sung và các biến thể có thể di truyền
khác. Ở đây có khoảng 1.000 sai lệch nhiễm sắc thể (chẳng hạn các hoán vị hay nghịch
đảo) và các nguồn với số nhiễm sắc thể bất thường (như các dạng tứ bội). Dữ liệu di
truyền miêu tả các nguồn đột biến ở ngô cũng như vô số các dữ liệu khác về di truyền học
của ngô có thể truy cập tại MaizeGDB (Maize Genetics and Genomics Database: Cơ sở

dữ liệu di truyền học và bộ gen ngô).
 Giá trị dinh dưỡng:

Protein: Ngô có trung bình 10,6% protein, protein chính của ngô là zein, một loại
prolamin gần như không có lysin và tryptophan. Nếu ǎn phối hợp ngô với đậu đỗ và các
thức ǎn động vật thì giá trị protein ngô sẽ tǎng lên nhiều.
Lipit: Lipit trong hạt ngô toàn phần từ 4-5%, phần lớn tập trung ở mầm. Trong chất
béo của ngô có 50% là axit linoleic, 31% là axit oleic, 13% là axit panmitic và 3% là
Stearic.
Gluxit: Gluxit trong ngô khoảng 69% chủ yếu là tinh bột. Ở hạt ngô non có thêm một
số đường đơn và đường kép.
Chất khoáng: Ngô nghèo calci, giàu phospho. Giống như gạo, ngô cũng là thức ǎn
gây toan.
Vitamin:Vitamin của ngô tập trung ở lớp ngoài hạt ngô và ở mầm. Ngô cũng có nhiều
vitamin B1. Vitamin PP hơi thấp cộng với thiếu tryptophan một axit min có thể tạo
10


vitamin PP. Vì vậy nếu ǎn ngô đơn thuần và kéo dài sẽ mắc bệnh Pellagre. Riêng ngô
vàng có chứa nhiều caroten (tiền vitamin A).
 Giá trị sử dụng:

Ngô làm lương thực thực phẩm; Ngô phục vụ sinh hoạt (rượu ngô tại chợ Bắc Hà Lào
Cai, ngô bung); Làm thức ăn chăn nuôi: ngô chế biến thức ăn chăn nuôi, sử dụng hạt nuôi
gia cầm, thủy cầm, gia súc. Dùng thân lá làm thức ăn cho Trâu, Bò, Ngựa, Dê,…; Ngô
làm thuốc chữa bệnh (món ăn từ ngô làm thuốc chữa bệnh); ngô làm nhiên liệu, chất đốt,
nguyên liệu cho công nghiệp.
4.Các giống ngô ở Việt Nam:
Một số giống ngô đang trồng phổ biến trong sản xuất:
Giống ngô lai đơn LVN10:


* Vụ Thu: 95 - 100 ngày.

Nguồn gốc:

* Vụ Đông: 110 - 125 ngày.

- Tác giả và cơ quan tác giả : GS.TSKH
Trần Hồng Uy, GS.TS Ngô Hữu Tình,
TS. Phan Xuân Hào và CTV – Viện
Nghiên Cứu Ngô

- Màu dạng hạt: Bán đá vàng cam

- Nguồn gốc và phương pháp : LVN-10
là giống ngô lai đơn được tạo ra từ các
dòng tự phối DF2/DF1 do Viện nghiên
cứu.

- Chiều dài bắp: 20±4cm

- Chiều cao cây: 200±20 cm.
- Chiều cao đóng bắp: 100±10 cm.

- Số hàng hạt/bắp: 10 - 14 hàng.
- Tỷ lệ hạt/bắp: 82-84%

- LVN10 được công nhận là giống tiến
bộ kỹ thuật tháng 8 năm 1994


- Trọng lượng 1000 hạt: 330 gr

Đặc điểm:

- Tỷ lệ cây 2 bắp: 50-80% (nếu trồng
xen tỷ lệ cao hơn)

- Thời gian sinh trưởng:trung bình muộn.

- Lá bi bọc kín, chắc, mỏng

* Vụ Xuân: 120 - 135 ngày.

- Tiềm năng năng suất: 8-12 tấn/ha.

Giống ngô lai đơn LVN4:

-Tác giả và cơ quan tác giả: TS. Phan
Xuân Hào, GS.TSKH Trần Hồng Uy và
CTV – Viện Nghiên cứu Ngô.

Nguồn gốc:

11


- Nguồn gốc và phương pháp: LVN4 là
giống ngô lai đơn được tạo ra từ 2 dòng
tự phối.


Tác giả và cơ quan tác giả: GS.TS Ngô
Hữu Tình, KS. Lưu Phúc Sắt, KS. Tạ
Duy Mạnh và CTV- Viện Nghiên Cứu
Ngô

- LVN4 được công nhận giống quốc gia
theo Quyết định soos1659 QĐ/BNNKHCN ngày 13/5/1999.

- Nguồn gốc và phương pháp: Là giống
lai đơn có các dòng được rút từ các
giống lai ưu tú nhập nội có nguồn gốc
nhiệt đới

Đặc điểm:
- Thời gian sinh trưởng: Giống trung
bình sớm,
+ Vụ Xuân: 118 - 120 ngày

- LVN99 được công nhận giống quốc gia
theo Quyết định 2182 QĐ/BNN- KHCN
ngày 29 tháng 7 năm 2004

+ Vụ Thu Đông: 90 - 110 ngày

Đặc điểm:

+ Vụ Hè Thu: 85 - 90 ngày

Thời gian sinh trưởng: Giống được xếp
vào nhóm ngô ngắn ngày


- Chiều cao cây: 170 - 200cm

+ Vụ Xuân: 115 - 120 ngày;

- Chiều cao đóng bắp: 80 - 100cm

+Vụ Hè - Thu: 90 - 95 ngày;

- Dạng, màu hạt: Bán đá, màu da cam.

+ Vụ Thu Đông: 95 -105 ngày.

- Chiều dài bắp: 17 - 22cm

- Chiều cao cây: 205 cm ± 5 cm.

- Đường kính bắp: 4,5 - 5,5 cm

- Chiều cao đóng bắp: 95 cm ± 5 cm.

- Số hàng hạt: 12 - 14 hàng

- Chiều dài bắp: 18 - 20cm

- Số hạt/ hàng: 35 - 48 hạt

- Đường kính bắp: 4,3 - 4,8 cm

- Tỷ lệ hạt/ bắp: 84 - 85%


- Số hàng/ bắp: 14 - 16 hàng.

- Khối lượng 1000 hạt: 350 - 380 g

- Số hạt/ hàng: 38 - 45 hạt

- Tiềm năng năng suất: 8 - 10 tấn/ha.

- Khối lượng 1000 hạt: 350 - 370 gam.
- Tiềm năng năng suất: 9 - 12 tấn/ha.

Giống ngô lai đơn LVN99:
Nguồn gốc:
Và nhiều giống ngô khác như:
1. Giống ngô nếp VN2

2. Giống ngô lai VN8960
12


3. Giống ngô lai LVN145

11. Giống ngô lai LVN9

4. Giống ngô lai LVN885

12. Giống ngô lai LVN61

5. Giống ngô lai LVN45 (ĐP5)


13. Giống ngô lai LVN98

6. Giống ngô lai đơn LVN14

14. Giống ngô nếp lai số 1

7. Giống ngô lai đơn LVN184

15. Giống ngô lai C919

8. Giống ngô lai đơn LVN37

16. Giống ngô lai NK54

9. Giống ngô nếp VN6

17. Giống ngô lai NK4300

10. Giống ngô lai LVN66

Các giống ngô được Bộ Nông nghiệp & PTNT công nhận giống từ 1980 đến nay
Các giống ngô thụ phấn tự do:

+ Các giống do Viện nghiên cứu ngô tạo
ra:

1. Giống ngô TSB-2

1. Giống ngô T1


2. Giống ngô MSA-49

2. Giống ngô LVN25

3. Giống ngô Q2

3. Giống ngô LVN17

4. Giống ngô MSB2649

4. Giống ngô LVN12

5. Giống ngô chịu hạn CV-1

5. Giống ngô LVN20

Các giống ngô lai quy ước:

6. Giống ngô LVN22

+ Các giống ngô nhập nội:

7. Giống ngô LVN24

1. Giống ngô P11

8. Giống ngô LVN31

2. Giống ngô P60


9. Giống ngô HQ2000

3. Giống ngô DK-888

10. Giống ngô LCH9

4. Giống ngô Pacific 848 (P848)

11. Giống ngô LVN32

5. Giống ngô Pacific 963 (P963)

12. Giống ngô LVN33

6. Giống ngô NK46

+ Các giống do Viện khoa học kỹ thuật
nông nghiệp miền Nam tạo ra:

7. Giống ngô lai ba NMH2002
13


1. Giống ngô VN25-99

14. Giống ngô DK5252

2. Giống ngô V98-1


15. Giống ngô CPA88

3. Giống ngô V2002

16. Giống ngô CP989

+ Các giống do Trung tâm khảo nghiệm
giống cây trồng Trung ương tạo ra:

Các giống ngô lai không quy ước:
1. Giống ngô LS5

1. Giống ngô T3

2. Giống ngô LS6

2. Giống ngô T5

3. Giống ngô LS8

3. Giống ngô T6

Các giống ngô nếp:

4. Giống ngô T7

1. Giống ngô nếp MX2

5. Giống ngô lai đơn T9


2. Giống ngô nếp MX4

+Các giống do công ty liên doanh nước
ngoài và trong nước tạo ra :

3. Giống ngô nếp Nù N-1
4. Giống ngô nếp Wax22

1. Giống ngô B.9681

5. Giống ngô nếp Wax33

2. Giống ngô B9698

Các giống ngô đường:

3. Giống ngô B9797

1. Giống ngô TST3

4. Giống ngô B9999

2. Giống ngô Siêu ngọt Sakita (ngô

5. Giống ngô B9034

đường Sakita)

6. Giống ngô Uniseed 90


3. Giống ngô ngọt TN115 (ngô

7. Giống ngô Uniseed 38

đường TN115)
4. Giống ngô ngọt Sugar 75.

8. Giống ngô G5449 (gọi tắt G49)

Các giống ngô rau:

9. Giống ngô G5445(gọi tắt G45)
10. Giống ngô P3011

1. Giống ngô Pacific423

11. Giống ngô P3012

2. Giống ngô Pacific 116

12. Giống ngô DK414

3. Giống ngô rí Bạc Liêu

13. Giống ngô DK171

4. Giống ngô LVN23 (EE3)

14



Đối với trồng ngô rau chú ý giai đoạn rút cờ: Rút cờ trên ruộng sản xuất ngô rau là biện pháp
kỹ thuật rất quan trọng với ngô rau. Rút cờ sớm sẽ mang lại các hiệu quả như cờ được rút bỏ kịp
thời thì lượng dinh dưỡng sẽ được tập trung để nuôi bắp nên bắp phát triển nhanh hơn, do vậy
thời gian từ gieo đến thu hoạch sẽ rút ngắn hơn; rút cờ sẽ ngăn cản quá trình thụ phấn, ngăn cản
sự phát triển của hạt do đó nâng cao chất lượng ngô thương phẩm; Rút cờ làm tăng năng suất
trên đơn vị diện tích do tăng số lượng bắp thu hoạch được trên cây.
5.Các vùng trồng ngô và thời vụ:
• Vùng đồng bằng Bắc Bộ: Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây cũ, Hải Hưng, Thái Bình, Nam
Hà, Ninh Bình, thành phố Hà Nội và thành phố Hải Phòng. Thời vụ: ngô Đông Xuân từ
tháng 12, ngô Xuân trồng từ tháng 1 đến hết tháng 2, ngô Thu Đông trồng từ cuối tháng 8
đầu tháng 9, ngô Đông trồng từ trung tuần tháng 9 đến đầu tháng 10.


Vùng Việt Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ: chia làm 02 vùng nhỏ là Vùng Đông bắc và Vùng
Việt Bắc-Hoàng Liên Sơn.

Vùng ngô Đông Bắc gồm các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Bắc Kạn và
Thái Nguyên. Thời vụ: Vụ ngô chính của vùng này thường gieo từ hạ tuần tháng 4 đến đầu tháng
5, thu hoạch vào cuối tháng 8 đến đầu tháng 9. Đối với vùng núi thấp phải tranh thủ trời ấm để
gieo sớm hơn vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4. Ngoài ra, có thể trồng ngô Hè Thu trên đất cao
dễ thoát nước và ngô Thu Đông (gieo vào cuối tháng 8 đến đầu tháng 9) trên đất bãi sông, ngô
ngắn ngày trên đất bỏ hóa vụ xuân.
Vùng ngô Việt Bắc – Hoàng Liên Sơn gồm các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên
Quang, Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Thời vụ: Cũng giống như vùng Đông Bắc, vùng này thường gieo
từ hạ tuần tháng 4 đến đầu tháng 5, thu hoạch vào cuối tháng 8 đến đầu tháng 9. Đối với vùng
núi thấp phải tranh thủ trời ấm để gieo sớm hơn vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4. Ngoài ra, có
thể trồng ngô Hè Thu trên đất cao dễ thoát nước và ngô Thu Đông (gieo vào cuối tháng 8 đến
đầu tháng 9) trên đất bãi sông, ngô ngắn ngày trên đất bỏ hóa vụ xuân.



Vùng Tây Bắc Bắc Bộ: Gồm các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Hòa Bình. Thời
vụ: Mùa mưa vùng này bắt đầu từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5 và thời vụ trồng ngô vụ
hè thu cũng từ cuối tháng 4 đầu tháng 5 và thu hoạch tháng 8, nếu gieo sớm hơn khi đất
còn khô thì ngô không mọc được, nếu gieo muộn hơn vào tháng 6 thì đất ướt dính, rất
khó làm đất. Những nơi đất đủ ẩm có thể tranh thủ gieo sớm vào tháng 3 làm vụ Xuân-Hè
đến đầu tháng 4 để cuối tháng 7 đầu tháng 8 thu hoạch rồi trồng tiếp ngô Thu Đông.



Vùng Bắc Trung Bộ: Gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị và Thừa Thiên - Huế. Thời vụ: Các vụ ngô chính của vùng này là ngô Đông Xuân bắt
đầu từ cuối tháng 9 đầu tháng 10, ngô Xuân từ cuối tháng 2 đầu tháng 3 đến cuối tháng
6, ngô Đông gieo từ giữa tháng 9 đầu tháng 10 trên đất 2 vụ lúa.




Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ: Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ gồm các tỉnh thành
Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và
Bình Thuận. Thời vụ: Các tỉnh thành phố từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa thường trồng 2 vụ
ngô chính: ngô Đông Xuân xuống giống tập trung (từ 25/12 đến 20/1) đến đầu tháng 4
thu hoạch, vụ này thường đạt năng suất cao, vụ Hè thu diện tích trồng ngô lớn, nhưng
gieo không tập trung (từ 25/4 đến 20/6), khi ngô trở cờ gặp điều kiện thời tiết khô nóng
nên năng suất ngô đạt thấp.

Hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận thường trồng 1 vụ ngô vào đầu mùa mưa, trên những
ruộng có nước tưới có thể trồng thêm 1 vụ thứ 2 vào tháng 8. Ngô Đông Xuân của các tỉnh phía
bắc vùng Duyên hải miền Trung thường gặp mưa vào đầu vụ và ngô hè thu thường bị hạn và
nắng nóng làm giảm năng suất.



Vùng Tây Nguyên: gồm các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm Đồng.
Thời vụ: Nhìn chung vùng này thường trồng một vụ ngô chính vào mùa mưa từ cuối
tháng 4 đến đầu tháng 5 (vụ xuân hè) bằng giống dài ngày năng suất cao, Ngoài ra có thể
trồng vụ 2 từ giữa tháng 8 (hè thu).



Vùng Đông Nam Bộ: gồm các tỉnh, thành phố: Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước,
Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh và Bà Rịa-Vũng Tàu. Thời vụ: Vùng này thường trồng 2 vụ
ngô (Xuân hè và Hè thu) liên tiếp trong mùa mưa từ cuối tháng 4 đến tháng 11, trong đó
vụ thứ nhất (xuân hè) từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 8 đạt năng suất cao nhất, vụ thứ 2 (hè
thu) từ trung tuần tháng 8 đến đầu tháng 12 trồng bằng các giống ngô ngắn ngày. Ngoài
ra trên các chân đất đảm bảo nước tưới thì có thể trồng thêm 1 vụ ngô Đông Xuân từ
tháng 12 đến tháng 3 đạt năng suất khá cao.



Vùng đồng bằng sông Cửu Long: gồm các tỉnh, thành phố: Cần Thơ, Long An, Tiền
Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau, Bạc
Liêu và Sóc Trăng. Thời vụ: Vụ ngô chính của vùng này (vụ xuân hè) từ cuối tháng 4 đầu
tháng 5 đến đầu tháng 8. Những năm gần đây để tránh độc canh lúa, cây ngô lai đã được
đưa vào vùng này sau 2 vụ lúa đạt hiệu quả kinh tế cao, nên diện tích ngô phát triển
nhanh.

II.Phương pháp chọn giống truyền thống
Đặc điểm chính của các nhóm giống ngô
Từ trước những năm 90, nước ta chỉ gieo trồng các giống ngô thụ phấn tự do, các giống ngô
lai tuy có được nghiên cứu nhưng diện tích trong sản xuất không đáng kể. Những năm gần đây,

do hiệu quả kinh tế cao nên diện tích trồng ngô lai của nước ta tăng nhanh (theo số liệu chưa đầy
đủ năm 1994 diện tích ngô lai khoảng 20%).


Giữa giống ngô thụ phấn tự do và giống ngô lai có những khác biệt cơ bản. Trong ngô lai còn
được phân chia ra 2 loại: ngô lai quy ước và ngô lai không quy ước, mỗi loại lại có nhiều kiểu
với những đặc điểm riêng. Để sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nhóm ngô, chúng ta cần nắm
vững những đặc điểm cơ bản và những khác nhau giữa chúng, làm cơ sở áp dụng các tiến bộ kĩ
thuật
Trong thực tiễn sản xuất ngày nay ở nước ta bao gồm các nhóm giống ngô sau đây:
1.Giống ngô lai (maize hybrid)
a. Giống ngô lai quy ước:
Là những giống ngô lai được tạo ra bằng cách lai giữa các dòng tự phối, như DK 888, P 11,
Bioseed 9670, Uniseed 90, T 5, LVN 10, LVN 11, LVN 12, LVN 19…
Đặc điểm cơ bản của nhóm này:



Năng suất cao hơn hẳn các giống thụ phấn tự do
Độ thuần của đa số các đặc tính như cao cây, cao đóng bắp, kích thước bắp, màu sắc

hạt…


Yêu cầu thâm canh cao, cần trồng trên đất tốt và lượng phấn bón cao hơn trồng ngô
thường mới phát huy hết ưu thế năng suất

Khả năng chịu đựng khó khăn như hạn, úng, đất xấu thiếu phân… thường không bắng
các giống thụ phấn tự do


Hạt giống chỉ dụng một vụ, nếu lấy hạt thu hoạch vụ này làm giống chi vụ sau thì ngô sẽ
phân ly ra nhiều dạng hình làm độ thuần và năng suất giảm mạnh
Do quá trình tách và chọn dòng bố mẹ rất phức tạp, tốn kém, hơn nữa năng suất hạt lai thấp
nên giá hạt giống cao, nhất là giống lai đơn và sau đó là lai ba. Giống lai ba và lai kép chỉ là biện
pháp làm giảm giá nhằm phổ cập nhanh giống lai vào sản xuất, không có ý nghĩa gì về mặt cải
thiện tính di truyền của giống.


Giống lai đơn: là giống lai giữa hai dòng thuần A x B như các giống LVN 10, LVN 20,
LVN 23, LVN 25…

Lai đơn cải tiến: (A x A’) x B hoặc (A x A’) x (B x B’), trong A và A’, B và B’ là các cặp
dòng chị em như LVN 4

Giống lai ba: là giống lai giữa một lai đơn và một dòng thuần: (A x B) x C như LVN 17,
Pacific 60…Lai ba cải tiến: (A x B) x (C x C’), như LVN 33, LVN 34… trong đó C và C’ là cặp
dòng chị em

Giống lai kép: là giống lai giữa hai lai đơn: (A x B) x (C x D) như LVN 5, LVN 12, LVN
31, Pacific 11, Bioseed 9670, bioseed 9681…

Giống lai nhiều dòng: (A x B) x (C x D) x E là giống lai năm dòng
Thông thường trong điều kiện thâm canh các giống lai càng ít dòng cho ưu thế lai và năng
suất càng cao, nhưng yêu cầu đầu tư cao và giá hạt giống cũng cao hơn những giống lai nhiều
dòng


b.Giống lai không quy ước:
Là những giống ngô lai được tạo bằng cách lai một giống lai quy ước với một giống thụ phấn
tự do, ví dụ LS 4, LS 5, LS 6, LS 8… chúng thường mang những đặc điểm trung gian của hai

dạng bố me: năng suất và độ thuần khá, khả năng thích ứng và chịu đựng khó khăn khá hơn
giống lai quy ước, hạt giống cũng chỉ dụng một vụ nhưng do dễ sản xuất, năng suất hat lai cao
nên giá rẻ…
Nhóm giống này được khuyến cáo gieo trồng ở giai đoạn đầu khi nông dân chuyển từ trồng
ngô thường sang ngô lai. Các giống này năng suất cao hơn các giống ngô thụ phấn tự do, nhưng
thấp hơn các giống lai quy ước
Quy trình tạo giống lai ở bắp gồm hai bước sau: tạo dòng tự phối làm bố mẹ và sản xuất
hạt lai
Tạo dòng tự phối
Các dòng tự phối làm bố mẹ được tạo ra bằng cách tự phối đến mức đồng hợp tử nhất định
thông qua tự thụ (tự phối) hay thụ phấn chị em. Tự phối là con đường nhanh nhất để đạt được
mức đồng hợp tử. Tuy nhiên, cần chú ý mức độ tự phối trước khi một dòng được coi là đồng hợp
tử thích hợp, vì nó ảnh hưởng tới sức sống của dòng làm bố mẹ, khả năng duy trì tính toàn vẹn di
truyền và quản lý trong quá trình sản xuất hạt lai.

Các
phương pháp được sử dụng tạo dòng tự phối gồm phương pháp chọn lọc phả hệ, hỗn hợp,


phương pháp một hạt, phương pháp thử sớm. Sự lựa chọn một phương pháp hay phối hợp các
phương pháp phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của nhà chọn giống. Phương thức thụ phấn là tự
phối, thụ phấn chị em (fullsibbing, halfsibbing). Phương pháp phổ biến nhất là phương pháp
phả hệ.
Sản xuất hạt lai
Công nghệ sản xuất hạt giống bắp lai đơn F1:
Việc sản xuất hạt giống bắp lai trước hết phải tuân thủ đúng quy trình công nghệ của cơ quan
chuyển giao công nghệ. Điều đặc biệt chú ý là bố, mẹ có gieo cùng ngày hay gieo lệch ngày. Sau
đó là tỷ lệ giữa hàng bố và hàng mẹ. Để đảm bảo mật độ cây trên đơn vị diện tích, cần phải thử
độ nẩy mầm của hạt trước lúc gieo.
Ở Việt Nam, sản xuất hạt giống bắp lai đơn thông thường người ta gieo 2 hàng bố, 6 hàng mẹ

(hay 1 bố - 3 mẹ). Với những dòng bố nhiều phấn và có điều kiện thụ phấn bổ khuyết bằng tay
người ta gieo 1 bố, 4 mẹ. Việc gieo hàng mẹ nhiều hơn, quá tỷ lệ này không khuyến khích vì dễ
nguy hiểm. Ở các nước nếu thụ phấn nhờ gió thì tỷ lệ giữa bố và mẹ là 1:2 hoặc 2:4.
- Kiểm tra loại bỏ cây lẫn: là công việc thường xuyên. Thường do gió hoặc côn trùng gây ra
nên các dòng bố mẹ vẫn có lẫn phấn (bẩn phấn) khoảng 0,1-0,5%. Vì vậy khi sản xuất hạt giống,
nhất là giống lai đơn phải chú ý khử bỏ cây lẫn. Việc khử bỏ làm thường xuyên nhưng chú ý vào
2 thời điểm chính: khi cây 5-6 lá và trước lúc trỗ cờ. Thấy cây nào khỏe, cao vọt, khác dạng hình
(tức cây đã bị lai) thì loại bỏ. Khi hàng bố trỗ cờ, chú ý quan sát thấy cây nào có dạng cờ khác
cũng phải loại bỏ trước khi nó tung phấn. Việc loại bỏ cây lẫn phải tiến hành cả ở hàng bố và
hàng mẹ.
- Rút cờ hàng mẹ: đây là công việc phải làm nghiêm túc. Khi trên hàng mẹ trổ bông cờ thì
phải khử bông cờ trước khi cờ tung phấn. Khử bằng cách rút cờ nhưng không được làm mất lá,
hoặc ngắt bông cờ nhưng phải ngắt sát gốc cờ, không được để sót nhánh cờ lại (khử cờ khi cờ
mới nhoi lên).
- Tiến hành thụ phấn bổ khuyết theo hướng dẫn của quy trình sản xuất hạt giống cụ thể.
- Việc chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh làm theo hướng dẫn của quy trình cụ thể của
từng giống.
- Thu hoạch: Việc thu hoạch hạt giống bắp lai phải kịp thời. Khi bắp chín đến kỳ thu hoạch
phải nhanh chóng thu hoạch đưa bắp về sấy chế biến để đảm bảo chất lượng.
Công nghệ sản xuất hạt giống bắp lai ba F1.
Việc sản xuất hạt giống bắp lai 3 không khác nhiều so với sản xuất bắp lai đơn. Chỉ khác mẹ
là giống lai đơn - to, cao, lá rậm rạp, bố là dòng thuần - bé nhỏ. Vì vậy, cần lưu ý điều này khi tổ
chức sản xuất hạt giống.
Thông thường người ta bố trí 2 bố, 6 mẹ (tức 1 bố, 3 mẹ) nếu dòng bố nhiều phấn và thụ phấn
bổ khuyết nhân tạo được thì có thể bố trí 2 bố, 8 mẹ (tỷ lệ 1:4).
Sản xuất hạt giống bắp lai 3 phải chú ý quan sát quá trình thụ phấn của dòng bố và dòng mẹ
để có sự can thiệp kịp thời (vì dòng mẹ to lớn, dòng bố bé nhỏ).
Công nghệ sản xuất hạt giống bắp lai kép F1
Nói chung sản xuất hạt giống bắp lai kép cũng cùng nguyên tắc như sản xuất hạt giống bắp lai
đơn, lai 3. Sản xuất hạt giống bắp lai kép dễ dàng hơn vì cả bố và mẹ đều là giống lai đơn nên

chúng khỏe, phát triển nhanh, nhiều phấn - thụ phấn dễ dàng hơn, năng suất hạt giống cao.
Thông thường ruộng sản xuất hạt giống bắp lai kép người ta gieo tỷ lệ 2 bố, 8 mẹ (1 bố, 4 mẹ)
nếu thụ phấn tự nhiên. Nếu bố nhiều phấn và thụ phấn bổ khuyết bằng tay thì có thể nâng tỷ lệ
lên 2:10.


Cần chú ý rằng: Sản xuất hạt giống của bất kỳ giống bắp nào, vấn đề khử cây lẫn và khử cờ
hàng mẹ là cực kỳ quan trọng.
c.Các giống ngô mới
Các giống lai quy ước
Giống LVN 10
1. Nguồn gốc

LVN 10 là giống lai đơn do TS. Trần Hồng Uy, PTS. Ngô Hữu Tình, PTS. Phan Xuân Hào và
cộng tác viên của Viện nghiên cứu ngô tạo ra từ các dòng tự phối DF1/DF2, được Bộ Nông
nghiệp và CNTP cho phép khu vực hóa và quy trình sản xuất hạt lai LVN 10 được công nhận
là TBKT mới tháng 8/1994.
2. Những đặc điểm chủ yếu

Giống LVN 10 thuộc nhóm chín muộn, thời gian sinh trưởng vụ xuân 125 – 135 ngày, vụ hè
thu 95 – 100 ngày, vụ thu đông 110 – 120 ngày.
Cây cao 200 – 240 cm, cao đóng bắp 100 – 140 cm, có 20 – 21 lá
Bắp dài trung bình 18 – 22 cm, đường kinh bắp 4,5 – 5,5 cm, có từ 10 – 14 hàng hạt, số
hàng/hạt 35 – 45 hạt, tỷ lệ hạt/bắp 82 – 84%, khối lượng 1.000 hạt 300 – 330 g, hạt bán răng
ngựa, màu vàng da cam
Năng suất trung bình 55 – 65 tạ/ha, thâm canh tốt có thể đạt 80 – 90 tạ/ha
LVN 10 chịu hạn, chịu chua phèn tốt; khả năng chống đổ khá, ít nhiễm các loại sâu bệnh
3. Hướng dẫn sử dụng và yêu cầu kĩ thuật

Giống yêu cầu thâm canh cao do đó nên gieo trồng ở những vùng có điều kiện đầu tư, đất tốt,

số giờ nắng cao, chủ động tưới tiêu
Kết quả sản xuất thử ở Đông Nam Bộ và đồng bằng Sông Cửu Long và duyên hải miền
Trung cho thấy LVN 10 rất thích hợp và năng suất cao. Ở phía Bắc nên gieo trồng trong vụ
xuân, hè thu, đối với vụ đông cần kết thực gieo trước 5/9, khoảng cách gieo: hàng x hàng =
70 cm, cây x cây = 33 – 36 cm.
Giống LVN 11
1. Nguồn gốc

LVN 11 là giống lai ba của Viện nghiên cứu ngô, lai tạo từ các dòng DF2/DF1//DF5, được
Bộ Nông nghiệp và CNTP cho phép khảo nghiệm tháng 2/1994, là giống có triển vọng
2. Những đặc tính chủ yếu

Giống LVN 11 thuộc nhóm chín muộn, ở phía Bắc vụ xuân 125 – 132 ngày, vụ hè thu 100 –
105 ngày, vụ thu đông 110 – 120 ngày


Cây cao 190 – 220 cm, cao đóng bắp 90 – 110 cm, có 19 – 20 lá
Bắp dài trung bình 17 – 20 cm, đường kinh bắp 4,5 – 5 cm, có từ 12 – 16 hàng hạt, khối
lượng 1.000 hạt 290 – 310 g, hạt abn1 răng ngựa, màu vàng da cam
Năng suất trung bình 5 – 6 tấn, thâm canh tốt có thể đạt 7 – 8 tấn/ha
LVN 11 chịu hạn khá, chống đổ trung bình, ít bị sâu bệnh
3. Hướng sử dụng và yêu cầu kĩ thuật

Nên gieo trồng ở những vùng có điều kiện thâm canh, đất đai tương đối màu mỡ, ánh sáng
dồi dào… Ở phía Bắc thích hợp là vụ xuân hè, hè thu, đối với vụ đông cần kết thực gieo
trước 5/9.
Giống P 11
1. Nguồn gốc

Giống ngô P11 là giống lai kép của Công ty Pacific Seed Australia. được nhập nội và trồng

thử nghiệm ở nước ta từ năm 1990- 1991. Từ năm 1992 diện tích trồng P11 được mở rộng ở
nhiều nơi
2. Những đặc tính chủ yếu

Giống P11 có chiều cao trung bình 180 – 200 cm, chiều cao đóng bắp từ 75 – 85 m. Có 16 –
18 lá, bộ lá gọn, màu xanh đậm.
Giống thuộc nhóm chín trung bình, thời gian sinh trởng vụ xuân từ 115 – 120 ngày, vụ thu 90
– 95 ngày, vụ đông 110 – 120 ngày. P11 có tiềm năng năng suất cao, năng suất trung bình 50
– 55 tạ/ha, thâm canh tốt có thể đạt tới 70 – 75 tạ/ha. Bắp dài 15 – 16 cm, mỗi bắp có 14 – 16
hàng hạt, khối lợng 1.000 hạt 300 – 320 g. Hạt sâu cay, dạng bán răng ngựa, màu vàng.
Cứng cây, chống đổ tốt. Chịu hạn, chịu rét, chịu đất ớt khá. Bị bệnh đốm lá lớn và khô
vằn.
3. Hướng dẫn sử dụng và yêu cầu kỹ thuật

Khả năng thích ứng rộng, dễ tính hơn các giống lai khác, có thể trồng ở mọi vùng, trên các
chân đất tốt thuộc phù sa sông, đất đồi dốc, đất ớt có lên luống.
Giống P11 gieo trồng được tất cả các vụ trong năm.
Giống ngô T 3
1. Nguồn gốc

T 3 là giống lai nhiều dòng do PTS. Trương Đích, PTS. Phạm Đồng Quảng và cộng tác viên,
trung tâm khảo kiểm nghiệm giống cây trồng Trung ương tạo ra từ các vật liệu tốt nhập nội.
Giống được khảo nghiệm và trồng thử từ năm 1992, được phép khu vực hóa từ tháng 8/1994.


T 3 là giống ngô lai có triển vọng, được nhiều địa phương mở rộng trong sản xuất, đặc biệt
cho vụ đông ở phía Bắc và vụ hai ở phía Nam
2. Những đặc tính chủ yếu

Giống T 3 có chiều cao trung bình 180 – 200 cm, chiều cao đóng bắp từ 75 – 85 cm, có 16 –

18 lá
Thời gian sinh trưởng thuộc nhóm chín trung bình, vụ xuân ở phía Bắc 110 – 120 ngày, vụ
thu 90 – 95 ngày, vụ đông 105 – 115 ngày
T 3 có tiềm năng năng suất cao, năng suất trung bình 45 – 50 tạ/ha, thâm canh tốt có thể đạt
65 – 70 tạ/ha. Bắp dài 14 – 16 cm, mỗi bắp có 14 – 16 hàng hạt, khối lượng 1.000 hạt 290 –
300 g. Hạt dạng bán răng ngựa, màu vàng
Cứng cây, chống đổ tốt. Chịu hạn, chịu rét, chịu đất ướt và chịu úng khá, nhiễm khô vằn nhẹ
3. Hướng sử dụng và yêu cầu kĩ thuật

Khả năng thích ứng rộng, có thể trồng được ở các vùng ngô trong cả nước, trên những chân đất
thâm canh, đặc biệt vụ đông trên đất 2 lúa, không nên trồng dày.
Các giống ngô lai không quy ước
Giống ngô LS 8
1. Nguồn gốc

Giống ngô LS 8 do Viện nghiên cứu ngô tạo ra. Được khảo nghiệm và sản xuất thử từ vụ
đông năm 1992. Là giống ngô có triển vọng, được nhiều địa phương, nhất là Đông Nam bộ
và đồng bằng Sông Cửu Long mở rộng trong sản xuất.
2. Những đặc tính chủ yếu

Giống LS 8 có chiều cao trung bình 200 – 220 cm, chiều cao đóng bắp từ 90 – 110 cm, có 19
– 20 lá
Thời gian sinh trưởng vụ xuân từ 120 – 150 ngày, vụ thu 100 – 105 ngày, vụ đông 120 – 130
ngày
LS 8 ó tiềm năng năng suất cao, năng suất trung bình 45 – 50 tạ/ha, thâm canh tốt có thể đạt
65 – 70 tạ/ha. Tỷ lệ cây bắp khá, bắp dài 14 – 16 cm, đường kinh bắp 4,0 – 4,4 cm, mỗi bắp có
14 – 16 hàng hạt, khối lượng 1.000 hạt 280 – 300 g. Hạt dạng bán răng ngựa, màu vàng da cam
3. Hướng sử dụng và yêu cầu kĩ thuật

Khả năng thích ứng rộng, có thể trồng ở mọi vùng, đặc biệt trên các chân đất thâm canh

thuộc phù sa ven sông, đất đỏ bazan, đất đen dốc tụ…
Giống LS 8 gieo trồng được tất cả các vụ trong năm. Ở phía Bắc thích hợp nhất là vụ xuân và
vụ thu đông, riêng vụ đông phải trồng sớm trước 30/8.


2.Chọn giống ngô thụ phấn tự do:
a.Định nghĩa:
Giống ngô thụ phấn tự do là loại giống mà trong quá trình sản xuất hạt không cần sự can thiệp
của con người vào quá trình thụ phấn- chúng thụ phấn tự do (sự can thiệp của con người chỉ hỗ
trợ cho quá trình thụ phấn tốt hơn, bản thân nó đã có khả năng thụ phấn). Gọi là giống ngô thụ
phấn tự do để phân biệt với giống ngô lai. Vì ngô là cây thụ phấn chéo nên có nền di truyền rộng,
dị hợp và không đồng nhất. Bao gồm:
 Giống địa phương
 Giống tổng hợp
 Giống hỗn hợp
 Giống thụ phấn tự do cải thiện

b.Tiêu chuần ngành đối với kĩ thuật sản xuất giống ngô thụ phấn tự do:
Ban hành kèm theo Quyết định số 4100 QĐ/BNN-KHCN, ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Phạm vi áp dụng:
Quy định những yêu cầu kỹ thuật cơ bản để chứng nhận chất lượng các lô hạt giống ngô thụ
phấn tự do thuộc loài Zea mays L. Được sản xuất và kinh doanh trên phạm vi cả nước.
Yêu cầu kĩ thuật:
Yêu cầu ruộng giống:
Ruộng sản xuất hạt giống ngô thụ phấn tự do trước khi gieo trồng phải sạch cỏ dại và các cây
trồng khác.
Số lần kiểm định:
Ruộng sản xuất hạt giống ngô thụ phấn tự do phải được kiểm định ít nhất 3 lần:
• Lần 1: khi ngô có 5-7 lá

• Lần 2: trong thời gian thụ phấn
• Lần 3: trước khi thu hoạch 5-10 ngày

Tiêu chuẩn ruộng giống:


Cách ly:

Ruộng phải được cách li với các ruộng ngô khác ở xung quanh bằng một trong những phương
pháp ở bảng 1:


Bảng 1
Phương pháp
1. Cách ly
không gian (m)

Giống nguyên chủng
400

Giống xác nhận
200

Thời điểm phun râu của ruộng ngô giống phải chênh lệch so với thời điểm
tung phấn của các ruộng ngô khác trong phạm vi cách ly không gian ít nhất 20
ngày.
Độ thuần ruộng giống:

2. Cách ly thời
gian (ngày)



Tại mỗi lần kiểm định phải đạt như quy định dưới đây:
 Nguyên chủng: 99,5% số cây.
 Xác nhận: 90,0% số cây.

Tiêu chuẩn hạt giống:
Chất lượng hạt giống ngô thụ phấn tự do phải đạt như quy định ở bảng 2:
Bảng 2
Chỉ tiêu

Giống nguyên
chủng

Độ sạch, % khối lượng, không nhỏ hơn
99,0
Hạt cỏ dại, số hạt/kg, không lớn hơn
0
Hạt khác giống có thể phân biệt được, số hạt/ kg
20
không lớn hơn
Tỷ lệ nảy mầm, % số hạt, không nhỏ hơn*
85
Độ ẩm, % khối lượng, không lớn hơn
- Trong bao thấm nước
13,0
- Trong bao không thấm nước
11,0
(*) Đối với ngô đường, tỷ lệ nảy mầm không nhỏ hơn 70%.


Giống xác nhận
99,0
5
40
85
13,0
11,0

c.Phương pháp tạo giống:
Giống ngô địa phương:
Là giống đã tồn tại trong một thời gian dài ở địa phương, có những đặc trưng, đặc tính khác
biệt với các giống khác và di truyền được cho thế hệ sau. Giống ngô địa phương có các đặc tính
sau:
 Có độ thích nghi cao với địa phương thông qua tính chống chịu sâu bệnh và điều kiện bất thuận

của địa phương đó.
 Có chất lượng cao.
 Năng suất thấp.


Các giống ngô nổi tiếng trước đây như Gié Bắc Ninh, Lừ Phú Thọ, Xiêm trắng, Làng Khuyên,
Bắp đỏ Cao Miên,... nay hầu như đã được thay thế bằng các giống mới năng suất cao.
 Phương pháp:
• Chọn những cá thể tốt của vụ trước làm giống cho vụ sau theo chỉ tiêu ba tốt:
 Ruộng tốt: ruộng để trồng ngô làm giống phải là ruộng có chân đất tốt, cách li an toàn với các

ruông ngô khác. Chăm sóc đầy đủ, bón phân cân đối, phòng trừ sâu bệnh kịp thời. Cây xấu
được khử cờ, cây lẫn phải loại bỏ đi sớm.
 Bắp tốt: bắp to, dài, nây và múp đầu, lá bi mỏng, không bị sâu bệnh, hạt sâu, cấy thẳng hàng,
đúng dạng hình bắp và màu hạt của giống đó. Không dùng bắp có hạt mang nhiều màu sắc khác

để làm giống.
 Hạt tốt: hạt nậy và mẩy đều, màu sắc đẹp đúng với màu của giống. Không dùng hạt ở đầu và
đuôi bắp (bỏ 3- 5 cm) chỉ lấy hạt ở phần giữa bắp (10- 15 cm) làm giống.
• Thu hoạch ngô giống: khi ngô chín cần thu hoạch ngay, không để lâu trên ruộng dễ ẩm mốc và
dịch hại xâm nhập làm giảm phẩm chất giống. Bắp thu về để nơi thoáng, loại bỏ bắp không bình
thường, bắp bị sâu bệnh. Phơi 1-2 nắng, tẽ bỏ đầu đuôi, phơi tiếp 1-2 nắng nữa rồi tẽ riêng hạt
đó làm giống. Thường tỷ lệ hạt giống chiếm 50% năng suất.
• Phơi ngô giống: phơi 3-4 nắng đến khi độ ẩm trong hạt còn 12% (hạt ngô rạn chân chim). Nếu
phơi không kĩ, độ ẩm trong hạt cao (15-16%) thường dễ bị mốc mọt. Khi phơi chú ý tránh lẫn
giống bằng cách phơi riêng cho từng loại.
• Bảo quản ngô giống: bảo quản tốt để có tỷ lệ nảy mầm cao, sức nảy mầm khỏe. Khi đã phơi khô
(độ ẩm 12%), để nguội rồi cho vào bảo quản trong chum, vại bằng sành, sứ, xi măng. Lót ở đáy
chum 5-10cm vôi cục đã đập nhỏ hay tro bếp thật khô, lót thêm 1-2 lượt lá chuối khô. Trộn
chung ngô giống với lá xoan phơi khô đã vò nhỏ rồi cho vào chum. Phủ lên một lớp lá chuối
khô, một lớp vôi cục nhỏ. Đậy kín miệng chum và để nơi khô ráo thoáng mát, thường xuyên
kiểm tra nếu bị ẩm thì phải phơi lại giống. Phơi lại 1-2 lần trước khi gieo để đảm bảo hạt ngô
giống nảy mầm tốt.
Giống tổng hợp:
Là thế hệ tiên tiến của giống lai nhiều dòng bằng thụ phấn tự do. Quá trình chọn tạo giống
ngô tổng hợp gồm các bước:



Chọn tạo các dòng thuần.
Xác định khả năng kết hợp chung các dòng thuần (thử bằng tester hoặc khu cách li)

 Thử bằng tester: để đảm bảo chính xác sử dụng 2- 3 vật liệu thử

A x X1 = AX1
A x X2 = AX2

A x X3 = AX3


×