Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Đường lối công nghiệp hóa của đảng ta trong thời kỳ công nghiệp 4 0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.1 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
KHOA: KỸ THUẬT GIAO THÔNG

TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: Đường lối công nghiệp hóa của Đảng ta trong thời kỳ công nghiệp 4.0

GVHD: Trịnh Công Tráng

1


Nha Trang, Ngày ….. tháng ….. năm 2018

LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ta đang trên đường phát
triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH–HĐH) đất nước. Việc đặt nhiệm
vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước là tiêu chí hàng đầu thì
một vấn đề không kém phần quan trọng và cần thiết là phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì khi một đất nước nghèo nàn,
lạc hậu thì cũng đồng nghĩa với đất nước đó sẽ là con nợ, sẽ lệ thuộc, và
thậm chí có thể trở thành thuộc địa của những nước khác. Vì thế, để phát
triển kinh tế thì chúng ta cần phát huy và tận dụng rất nhiều nguồn lực như:
nguồn lực tự nhiên, nguồn nhân lực, vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật - công
nghệ tiên tiến hiện đại...
Sau khi được tìm hiểu môn học đường lối cách mạng của Đảng cộng sản
Việt Nam, dưới sự chỉ dạy tận tình của Thầy giáo bộ môn chúng tôi đã phần
nào hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của những chính sách, đường lối đúng
đắn của Đảng ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt tâm
đắc là những đường lối về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, con đường giúp


chúng ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, đưa nước ta trở thành một
nước có nền kinh tế vững mạnh, có thể sánh vai cùng các cường quốc năm
châu.
Với mong muốn học hỏi và chia sẻ những hiểu biết nhỏ bé của mình về
những đường lối chính sách của Đảng về công nghiệp hóa hiện đại hóa mà
chúng tôi quyết định chọn đề tài “Đường lối công nghiệp hóa của Đảng ta
trong thời kỳ công nghiệp 4.0”.
Bằng những phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp từ những tài
liệu quý báu mà chúng tôi đã tìm được kết hợp với phương pháp biện chứng
duy vật...đã giúp chúng tôi hiểu sâu sắc hơn về môn học này, đặc biệt là
đường lối công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới cũng như tầm quan trọng của nó.
Để hiểu sâu sắc vấn đề này chúng ta cùng tìm hiểu ở phần nội dung.
Lịch sử công nghiệp hóa thế giới cho đến nay đã trải qua hơn 200 năm, kể từ
cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ thứ XVIII ở nước Anh. Cuộc cách
mạng công nghiệp này sau đó nhanh chóng lan rộng sang các nước Tây Âu
2


và các nước khác như một trào lưu phát triển mới của thế giới. Khi đó, theo
cách hiểu đơn giản, công nghiệp hóa đơn thuần chỉ là quá trình thay thế lao
động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, nhằm biến một nước nông
nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, tùy thuộc
vào đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội mà quá trình phát triển công nghiệp
hóa ở mỗi quốc gia có những sự khác biệt. Ở Việt Nam, đường lối công
nghiệp hóa có thể chia ra làm hai thời kỳ chính, trước và sau khi đổi mới
(Đại hội Đảng VI-1986).

3



NỘI DUNG

I. KHÁI NIỆM CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ CÔNG NGHIỆP 4.0
1. Khái niệm công nghiệp hóa:
a. Khái niệm:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên
sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất
lao động xã hội cao”.
b. Các yếu tố tác động đến nền công nghiệp hóa của Việt Nam:
Với tư cách là môi trường, điều kiện và không gian của quá trình phát triển
kinh tế quốc gia, thế giới (nền kinh tế) toàn cầu hóa gắn cung cấp các cơ sở
để xác định và thực thi mô hình tăng trưởng và phát triển mới. Trong số này,
gắn với quá trình CNH, HĐH của nền kinh tế Việt Nam, xin nhấn mạnh bốn
yếu tố: Xu hướng tự do hóa (di chuyển các nguồn lực); Tính mở (tính không
bị giới hạn) của quá trình phát triển; Tính kết nối mạng của các quá trình
kinh tế trên phạm vi toàn cầu; Vai trò nổi lên của các tập đoàn xuyên quốc
gia.
_Xu hướng tự do hóa đồng nghĩa với việc các rào cản việc di chuyển các
nguồn lực trên thế giới bị hạ thấp (tiến tới “không”). Các nguồn vốn tài
chính, công nghệ, thiết bị, nhân lực (bao gồm nhân lực trí tuệ) có thể tự do di
chuyển trên toàn cầu để đến chỗ nào mà chúng có điều kiện phát huy tác
dụng cao nhất và sinh lợi nhiều nhất. Khi đó, hệ quả đối với một nước đi sau
sẽ là “không sợ thiếu vốn, không sợ thiếu công nghệ, không sợ thiếu người
tài, chỉ sợ thiếu chính sách đúng để thu hút các nguồn lực sẵn có trên toàn
thế giới”.
_Tính mở của hệ thống kinh tế toàn cầu hóa hàm ý về không gian vô tận
cho sự phát triển. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với bất cứ nền kinh

tế thị trường nào, nơi mà quá trình phát triển luôn luôn dựa trên một nguyên
lý tiền đề: sự khan hiếm Trung Quốc đang vận dụng rất thành công lợi thế
toàn cầu hóa này khi lựa chọn nguồn cung đầu vào tài nguyên thiên nhiên
4


cho sự phát triển kinh tế của Trung Quốc ở các nước ngoài Trung Quốc (để
dành tài nguyên quốc gia thành nguồn dự trữ chiến lược). Trung Quốc đang
thành công với chiến lược châu Phi nhằm vượt qua những giới hạn về nguồn
cung đầu vào trong nước hoặc do các nguồn cung cấp đầu vào chiến lược
trên thế giới đã bị các cường quốc “già” khống chế.
_Kết nối mạng của nền kinh tế toàn cầu hàm ý rằng muốn tận dụng được
các lợi thế phát triển do thời đại và loài người đem lại, cách thức duy nhất là
phải gia nhập mạng, kết nối với các thành tố mạng toàn cầu để làm thông
suốt các đường dẫn các nguồn lực về nước mình, “nội địa hóa” chúng để
thúc đẩy công cuộc phát triển nền kinh tế quốc gia.
_Vai trò nổi lên của các công ty xuyên quốc gia. Không ai có thể phủ nhận
tầm quan trọng đặc biệt của lực lượng chủ thể này trong việc thúc đẩy các
quá trình kinh tế thế giới, tạo động lực mạnh để kéo các nền kinh tế đi sau
nhập vào hệ thống kinh tế thế giới, nhờ đó, các nền kinh tế này có thể tăng
tốc phát triển. Vai trò dẫn dắt và tạo động lực thu hút đầu tư của Intel, của
Toyota, v.v. khi các công ty này đầu tư vào một nền kinh tế nào đó, dù đó là
nền kinh tế còn nhỏ yếu (Honduras ở Trung Mỹ chẳng hạn), giúp các nền
kinh tế này nhanh chóng “lột xác” thành hiện đại là điều đã được thực tế
kiểm định.
2. Định nghĩa về nền công nghiệp 4.0:
a. Định nghĩa:
Theo Gartner, Cách mạng Công nghiệp 4.0 (hay Cách mạng Công nghiệp
lần thứ Tư) xuất phát từ khái niệm "Industrie 4.0" trong một báo cáo của
chính phủ Đức năm 2013. "Industrie 4.0" kết nối các hệ thống nhúng và cơ

sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa công nghiệp, kinh
doanh, chức năng và quy trình bên trong.
Nếu định nghĩa từ Gartner còn khó hiểu, Klaus Schwab, người sáng lập và
chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế Giới mang đến cái nhìn đơn giản
hơn về Cách mạng Công nghiệp 4.0 như sau:
"Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để
cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng
để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ
thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc Cách mạng Công nghiệp

5


Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại
với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học".
Theo ông Klaus Schwab, tốc độ đột phá của Cách mạng Công nghiệp 4.0
hiện "không có tiền lệ lịch sử". Khi so sánh với các cuộc cách mạng công
nghiệp trước đây, 4.0 đang tiến triển theo một hàm số mũ chứ không phải là
tốc độ tuyến tính. Hơn nữa, nó đang phá vỡ hầu hết ngành công nghiệp ở
mọi quốc gia. Và chiều rộng và chiều sâu của những thay đổi này báo trước
sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị.

II. CÔNG NGHIỆP HÓA THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI
1. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa:
a. Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa:
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III
(tháng
9-1960) của Đảng. Quá trình công nghiệp hóa của nước ta diễn ra trong bối
cảnh tình hình trong nước và quốc tế luôn diễn biến phức tạp và không thuận
chiều. Thực hiện công nghiệp hóa được 4 năm (1960-1964) thì đế quốc Mỹ

mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Đất nước phải trực tiếp thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại, vừa xây dựng kinh tế, miền Nam thực hiện cách mạng giải
phóng dân tộc. Khi đất nước vừa thống nhất (1975), cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội được vài năm thì lại xảy ra chiến tranh biên giới phía Bắc, rồi
kết thúc cuộc chiến này lại kéo theo sự cấm vận của Mỹ. Như vậy, trước thời
kỳ đổi mới, nước ta có khoản 25 năm tiến hành công nghiệp hóa theo 2 giai
đoạn: từ 1960 đến 1975 công nghiệp hóa ở miền Bắc và từ 1975 đến 1985
công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước, hai giai đoạn này có mục tiêu,
phương hướng rõ rệt.
Ở miền Bắc, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua phát triển chủ nghĩa tư bản,
mặt khác, vừa phải xây dựng CNXH vừa phải chiến đấu chống Mỹ. Điểm
xuất phát của Việt Nam khi bước vào thực hiện CNH rất thấp. Năm 1960,
6


công nghiệp chiếm tỉ trọng 18,2% và 7% lao động xã hội; tương ứng nông
nghiệp chiếm tỷ trọng 42,3% và 83%. Sản lượng lương thực/người dưới 300
Kg; GDP/người dưới 100 USD. Trong khi phân công lao động chưa phát
triển và LLSX còn ở trình độ thấp thì QHSX đã được đẩy lên trình độ tập thể
hóa và quốc doanh hóa là chủ yếu (đến năm 1960: 85,8% nông dân vào
HTX; 100% hộ tư sản được cải tạo, gần 80% thợ thủ công cá thể vào HTX
tiểu thủ công nghiệp). Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng III xác định rõ mục
tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là xây dựng một nền kinh
tế XHCN cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
CNXH. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.
+ Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định: kết hợp công nghiệp với nông nghiệp
lấy công nghiệp nặng làm nền tảng. (Tỷ trọng giá trị công nghiệp tăng từ
18,2%/1960 lên 22,2%/1965; 26,6%/1971; 28,7%/1975)

+ Về chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị TW lần thứ 7 (khóa III)
nêu lên phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:
 Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
 Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
 Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng. (Vốn đầu tư cho công nghiệp nặng trong thời kỳ 1960-1975
tăng 11,2 lần, cho công nghiệp nhẹ tăng 6,9 lần, nông nghiệp tăng 6 lần)
 Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển
công nghiệp địa phương. (Hình thành các trung tâm công nghiệp như Hải
Phòng, Quảng Ninh, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định…)
 Về thực chất, đây là sự lựa chọn mô hình chiến lược CNH thay thế nhập
khẩu mà nhiều nước, cả nước XHCN và TBCN đã và đang thực hiện lúc đó.
Chiến lược này được duy trì trong suốt 15 năm ở miền Bắc (1960-1975) và
10 năm tiếp theo trên phạm vi cả nước (1976-1986).
Trên phạn vi cả nước, sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập
thông nhất và quá độ lên CNXH. Chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng…” tiếp tục được khẳng định lại sau 16 năm tại Đại hội IV của Đảng
(1976) nhưng chính sách thì đã có thay đổi chút ít “Đẩy mạnh công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển
7


nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông
nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế
công – nông nghiệp vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa xây dựng kinh tế
địa phương, kết hợp kinhh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một
cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất”.
Những thay đổi trong chính sách CNH dù còn chưa thật rõ nét xong đã tạo

một sự thay đổi nhất định trong phát triển:
+ Số xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng từ 1913 cơ sở năm 1976 lên
2627 cơ sở năm 1980 và 3220 cơ sở năm 1985.
+ 1976-1978 công nghiệp phát triển khá. Năm 1978 tăng 118,2% so với năm
1976.
Tuy nhiên, do trên thực tế chúng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện) nguồn
viện trợ từ nước ngoài đột ngột giảm, cách thức quản lý nền kinh tế nặng
tính quan liêu, bao cấp, nhiều công trình nhà nước xây dựng dở dang vì thiếu
vốn, công nghiệp trung ương giảm, nhiều mục tiêu không đạt được…) nên
đây vẫn là sự biểu hiện của tư tưởng nóng vội trong việc xác định bước đi,
và sai lầm trong việc lựa chọn ưu tiên giữa công nghiệp và nông nghiệp. Kết
quả là thời kỳ 1976-1980 nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, suy thoái, cơ
cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định trong chặng đường đầu
tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng
đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và
phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa
sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng
đường trước mắt. Đây là bước điều chỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực
tiễn Việt Nam. Nhờ vậy, nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ này đã có sự
tăng trưởng khá hơn so với thời kỳ 5 năm trước đó. Cụ thể là:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1981: 2,3% 1985: 5,7%
+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1981: 9,5%
+ Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1981: 5,3% 1985: 3%
+ Năm 1985, công nghiệp nhóm A chiếm 32,7%, công nghiệp nhẹ 67,3%,
tiểu thủ công nghiệp 43,5%, công nghiệp địa phương 66%, công nghiệp
quốc doanh và công tư hợp doanh 56,5%.
8



+ Tỷ trọng công nghiệp tăng từ20,2%/1980 lên 30%/1985.
+ Nhập khẩu lương thực giảm hẳn so với 5 năm trước (từ 5,6 triệu tấn thời
kỳ 1976-1980 xuống 1 triệu tấn thời kỳ 1981-1985).
Tuy nhiên, trên thực tế chính sách này vẫn không có mấy thay đổi so với
trước. Mặc dù nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu nhưng Đại
hội vẫn xác định “Xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp hiện đại, lấy
hệ thống công nghiệp nặng tương đối phát triển làm nồng cốt”. Sự điều
chỉnh không dứt khoát đó đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam không tiến xa
được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn và khuyết điểm mới, tình
hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân sau 5 năm không những không ổn
định được mà còn lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
b. Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới:
Nhìn chung trong thời kỳ 1960-1985 chúng ta đã nhận thức và tiến hành
công nghiệp hóa theo kiểu cũ với các đặc trưng cơ bản sau đây:
Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về
phát triển công nghiệp nặng.
Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ
của các nước xã hội chủ nghĩa, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà
nước và doanh nghiệp nhà nước; việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa
chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu trong nền kinh tế thị
trường.
Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không
quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.
2. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a. Kết quả thực hiện chủ trương và ý nghĩa:
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới diễn ra trong cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, những tiền đề vật chất cần thiết cho công nghiệp hóa còn hết sức
hạn chế và trong điều kiện có chiến tranh phá hoại. Mặc dù vậy, quá trình
công nghiệp hóa vẫn đạt được những kết quả quan trọng.

So với năm 1955, số xí nghiệp tăng lên 16,5 lần. Nhiều khu công nghiệp lớn
đã hình thành, đã có nhiều cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng
quan trọng như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng.
Đã có hàng chục trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy
nghề đã đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật xấp xỉ 43 vạn
người, tăng 19 lần so với 1960 là thời điểm bắt đầu công nghiệp hóa.
9


Trong điều kiện đi lên từ điểm xuất phát thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng
nề, thì những kết quả đạt được trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng - tạo
cơ sở ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn tiếp theo.
b. Hạn chế và nguyên nhân:
 Hạn chế:
Bên cạnh những kết quả đạt được, công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới
còn nhiều hạn chế. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn hết sức lạc hậu. Những ngành
công nghiệp then chốt còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ
sức làm nền tảng vững chắc cho nên kinh tế quốc dân.
Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông
nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội.
Đất nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, rơi vào
khủng hoảng kinh
tế - xã hội.
 Nguyên nhân:
Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc
hậu, nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng
nề, vừa không thể tập trung sức người sức của cho công nghiệp hóa.
Về chủ quan, chúng ta mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định
mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu
đầu tư... Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý trí trong nhận thức

và chủ trương công nghiệp hóa.

III. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới
1. Quá trình đổi mới tư duy về CNH
a. Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương
CNH thời kỳ 1960 -1986:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) với tinh thần
“nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm
khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa
thời kỳ 1960-1985, mà trực tiếp là mười năm từ 1975 đến 1985:
Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây
dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh
tế...Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi
10


cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi
chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế.
Việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ
xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu
công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây dựng
công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn , không tập trung sức giải
quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đại hội lần thứ V như: Nông
nghiệp vẫn chưa thật sự coi là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không
phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
b. Quá trình đổi mới tư duy về CNH từ Đại hội V đến Đại hội XII:
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội

dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu
tiên là thực hiện cho bằng được 3 chương trình lương thực, thực phẩm; hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu trong những năm còn lại của chặng đường đầu
tiên của thời kỳ quá độ. Ba chương trình này liên quan chặt chẽ với nhau.
Phát triển lương thực thực phẩm và hàng tiêu dung là nhằm bảo đảm nhu cầu
thiết yếu cho đời sống nhân dân sau mấy chục năm chiến tranh ác liệt và
trong bối cảnh của nền kinh tế còn đang trong tình trạng thiếu hụt hàng hóa
nghiêm trọng, góp phần ổn định kinh tế - xã hội; phát triển hàng xuất khẩu là
yếu tố quyết định để khuyến khích sản xuất và đầu tư trong nước, tạo nguồn
thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ sản xuất. Xác định thứ
tự ưu tiên đó đã cho phép phát huy sức mạnh nội lực và tranh thủ sức mạnh
từ bên ngoài để phát triển kinh tế xã hội.
=> Thực chất, đây là sự thay đổi trong lựa chọn mô hình chiến lược CNH,
chuyển từ mô hình hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây bằng mô hình
hỗn hợp (hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đang được áp
dụng phổ biến và khá thành công tại các nước Châu Á lúc bấy giờ.
 Như vậy, chính sách CNH của ĐH VI đã:
Đưa ra một thứ tự ưu tiên mới: nông nghiệp – công nghiệp hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu – công nghiệp nặng.
Tạo một sự chuyển biến quan trọng cả về quan điểm nhận thức cũng như tổ
chức chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa đất nước. Đó là sự chuyển biến
hướng chiến lược CNH từ:
11


+ Cơ chế KHHTT sang cơ chế TT có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
+ Cơ chế khép kín sang cơ chế mở cửa kinh tế.
+ Từ xây dựng ngay từ đầu một cơ cấu kinh tế đầy đủ, tự cấp tự túc sang cơ
cấu bổ sung kinh tế và hội nhập.
+ Mục tiêu “ưu tiên phát triển công nghiêp nặng” đã chuyển sang “lấy nông

nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm”. Từ
đó dẫn đến sự đổi mới trong cơ cấu đầu tư: “Đầu tư có trọng điểm và tập
trung vào những mục tiêu và các ngành quan trọng, trước hết đầu tư cho sản
xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, cho chế biến nông sản và
một số ngành công nghiệp nặng trực tiếp phục vụ 3 chương trình kinh tế
lớn”
+ Phát huy nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế.
Tiếp theo, Đại hội VII (năm 1991) Đảng ta tiếp tục có những nhận thức mới,
ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.
Đại hội đã xác định rõ vai trò “mặt trận hàng đầu” của nông nghiệp, và trên
thực tế đầu tư cho nông nghiệp từ ngân sách đã tăng lên. Đại hội đề cập đến
lĩnh vực Dịch vụ kinh
tế - kỹ thuật trong việc đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống và hợp tác quốc
tế; đưa ra chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược chung
cả nước. Thực hiện đường lối công nghiệp hóa của Đại hội VII, nền kinh tế
đã có những bước phát triển cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất
hơn so với nhiều năm trước:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1991: 5,8% 1995: 9,5%
+ Tương ứng công nghiệp tăng: 1991: 5,3 % 1995: 15,5%
+ Nông nghiệp tăng 1991: 2,2% 1995: 4,8%
+ Xuất khẩu tăng 1991: -13,2% 1995: 34,4%
+ Lạm phát được kiềm chế ở mức thấp 1991: 67% 1995: 12,7%
+ Cơ cấu kinh tế: 1991: 40,5 – 23,8 – 35,7(%)1995: 27,2 – 28,8 – 44(%)
+ Vốn đầu tư cho công nghiệp giai đoạn 1991 – 1995 chiếm 38,4% tổng đầu
tư xã hội (20,8 tỷ USD)
Đại hội Đảng VIII (năm 1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã nhận
định: nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa

12



đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội VIII đã điều chỉnh chính sách CNH theo hướng lấy nông nghiệp làm
khâu đột phá, coi nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là mặt trận
hàng đầu. Tiếp tục thực hiện rộng rãi hơn chính sách mở cửa, phát triển kinh
tế nhiều thành phần, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các
doanh nghiệp. Gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, lấy khoa học – công
nghệ làm động lực, lấy nguồn lực con người làm yếu tố trung tâm của CNH,
HDH. Đặt ra nội dung cụ thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những
năm trước mắt (1996-2000) là “đặc biệt coi trọng CNH, HDH nông nghiệp
nông thôn…”. Kết quả là:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1996: 9,3%; 2000: 6,75%
+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1996: 14,5% ;2000: 10,1 %
+ Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1996: 4,4%; 2000: 4%
+ Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 1996: 33,2%; 2000: 24%
+ Cơ cấu kinh tế 1996: 27,8 – 29,7 – 42,5 (%); 2000: 24,3 – 36,6 – 39,1 (%)
Đại hội IX (năm 2001) và Đại hội X (năm 2006) Đảng ta tiếp tục bổ sung và
nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa:
Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so
với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu
hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới. Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ
thuật, công nghệ và thành quả của các nước đi trước, tận dụng xu thế của
thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngăn thời gian.
Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi
trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công
nghệ phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy
những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước

phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con
người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho CNH, HĐH.
Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phải phát triển nhanh và
có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu
cầu trong nước và xuất khẩu.
13


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công
nghiệp hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại.
Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn với việc nâng cao năng suất,
chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Đẩy mạnh CNH, HĐH phải tính toán đến yêu cầu phát triển bền vững trong
tương lai.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong
nước có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, trong điều kiện của thế
giới và khu vực có nhiều biến động, với sự xuất hiện nhiều nhân tố mới,
trong đó nổi bật là xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển kinh tế tri thức.
Những nhân tố đó đã có tác động nhiều mặt (cả tích cực và tiêu cực) đến quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI dự báo, toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ
phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế
tri thức. Nhiệm vụ chủ yếu được nêu ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ XI là “Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân
lực cho phát triển kinh tế tri thức. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”.

Văn kiện Đại hội XII đã đưa ra định hướng đổi mới mô mình tăng trưởng
kinh tế “trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với
chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và
sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh
và bền vững”.
Văn kiện Đại hội XII đã kế thừa những nhiệm vụ và giải pháp của Đại hội
XI, có bổ sung một số nhiệm vụ, giải pháp mới, nổi bật là: “Đổi mới mô
hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư
sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường
trong nước”. Như vậy, bên cạnh chủ trương tăng trưởng chủ yếu dựa vào
14


xuất khẩu và đầu tư, Đại hội XII đã đưa ra chủ trương phát triển thị trường
trong nước nhằm phát huy vai trò của nội lực đồng thời thu hút có hiệu quả
nguồn lực bên ngoài. Để phát huy những đóng góp tích cực của khoa học công nghệ cho phát triển kinh tế - xã hội, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII
đã đưa ra phương hướng: “Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học và đổi
mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển
khai”. Như vậy, Văn kiện của Đại hội XII đặc biệt chú trọng vai trò của khoa
học - công nghệ, coi khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động
lực quan trọng nhất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức: “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm
cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan
trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Tuy
nhiên, năng lực khoa
học - công nghệ của Việt Nam còn yếu nên đã hạn chế khả năng nắm bắt cơ
hội và tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài của các doanh nghiệp và nền

kinh tế. Khoa học - công nghệ chưa thực sự gắn kết và chưa trở thành động
lực phát triển kinh
tế - xã hội... Văn kiện Đại hội XII xây dựng lộ trình phấn đấu: “Đến năm
2020, khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các
nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên
tiến trên thế giới”. Văn kiện còn nêu định hướng cơ cấu lại nền kinh tế, phát
huy sức mạnh tổng hợp của các giai tầng xã hội trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế.
Như vậy, Đảng ta đã đưa ra đường lối có căn cứ lý luận và thực tế vững chắc
để tranh thủ thời cơ phát triển nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại
với nền tảng là kinh tế tri thức.
2. Mục tiêu, quan điểm CNH-HĐH
a. Mục tiêu CNH-HĐH:
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh
vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
15


Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ
thể. Đại hội X xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
b. Quan điểm CNH-HĐH:
 Một là CNH gắn với HĐH và CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp hoá. Khi
đó công nghiệp hoá được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng

lao động sử dụng máy móc. Nhưng trong thời đại ngày nay, Đại hội X của
Đảng nhận định: “Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và những
bước đột phá lớn”. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá
trình phát triển lực lượng sản xuất. Vì vậy Đại hội X của Đảng chỉ rõ: đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi
kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Kinh tế tri thức là gì? Theo Giáo sư, Viện sĩ Đặng Hữu - Trưởng ban Công
nghệ thông tin thì "Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra,
phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh
tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống". Theo định nghĩa của WBI
- là "nền kinh tế dựa vào tri thức như động lực chính cho tăng trưởng kinh
tế. Đó là nền kinh tế trong đó kiến thức được lĩnh hội, sáng tạo, phổ biến và
vận dụng để thúc đẩy phát triển". Tại hội thảo, Jean-Eric Aubert, chuyên gia
hàng đầu của WBI, nói cụ thể hơn: "Phải phân biệt đó không phải là nền
kinh tế dựa vào công nghệ và viễn thông! Kinh tế tri thức là đặt tri thức,
sáng tạo và các chính sách liên quan đến chúng vào trọng tâm của chiến lược
phát triển cho tất cả các nước ở nhiều mức độ phát triển khác nhau”. Như
vậy, kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất của thế kỷ 21. Đặc trưng của nền
kinh tế tri thức "Là nền kinh tế sử dụng một cách hiệu quả tri thức cho sự
phát triển KT-XH. Điều này bao gồm việc chuyển giao, cải tiến công nghệ
nước ngoài cũng như sự thích hợp hoá và sáng tạo hoá các tri thức cho
những nhu cầu riêng biệt". Theo đà thị trường chất xám. Trong đó, con
người là vốn quý nhất. Tri thức là yếu tố quyết định của sản xuất, sáng tạo
đổi mới là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Công nghệ mới trở thành
16


nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, công
nghệ thông tin được ứng dụng một cách rộng rãi. Muốn nâng cao năng suất

lao động xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm phải có tri thức, phải làm chủ
được tri thức, phải biết vận dụng, quản lý tri thức mới có thể cạnh tranh và
đồng thời đảm bảo phát triển bền vững.
Có người còn cho rằng: Kinh tế tri thức là hình thái phát triển cao nhất hiện
nay của nền kinh tế hàng hóa, trong đó công thức hoạt động cơ bản Tiền Hàng - Tiền được thay thế bằng Tiền – Tri Thức- Tiền và vai trò quyết định
của tri thức.






3.

Vậy kinh tế tri thức là gì? Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh
ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát
triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống, khoa học - kỹ
thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Hai là, CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.
Bốn là, coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực CNH HĐH.
Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo
tồn đa dạng sinh học.
Đường lối của Đảng trong hội nhập nền công nghiệp 4.0
a. Nhận diện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0:
Khái niệm về cách mạng công nghiệp lần thứ tư (hay còn gọi là cách mạng
công nghiệp 4.0) xuất hiện đầu tiên cách đây hơn sáu năm tại Đức. Đầu năm

2016, tại Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) lần thứ 46 tổ chức ở Thụy Sĩ với
sự có mặt của 40 nguyên thủ quốc gia và hơn 2.500 quan khách từ hơn 100
nước trên thế giới, chủ đề “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” được
phân tích, mổ xẻ một cách sâu sắc, đầy đủ và toàn diện hơn. Đặc trưng cơ
bản của CMCN 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các
công nghệ thông minh để tối ưu hóa các quy trình và phương thức sản xuất,
kinh doanh. Trong đó, các công nghệ đang và sẽ tác động mạnh vào đời sống
của con người là công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự
17


động hóa, trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật và điện toán đám mây…
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, trong tương lai
không xa (dự kiến đến năm 2030) trên thế giới sẽ có 90% dân số sử dụng
điện thoại thông minh, 30% công việc kiểm toán trong các công ty, doanh
nghiệp được thực hiện bằng trí tuệ nhân tạo, khoảng 80% hình ảnh người
dân hiện diện số trên internet, 10% ô-tô chạy trên đường ở Mỹ không cần
người lái; lúc đó cũng xuất hiện dược sĩ robot đầu tiên và triển khai ghép
tạng trên người bằng công nghệ in 3D…
Rõ ràng CMCN 4.0 sẽ mở ra kỷ nguyên mới của sự lựa chọn các phương án
sản xuất, kinh doanh, tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực; thúc đẩy năng
suất lao động và hiệu quả; tạo bước đột phá về tốc độ phát triển cũng như
làm biến đổi cơ bản hệ thống sản xuất và hoạt động quản trị xã hội cả bề
rộng lẫn chiều sâu.
Bên cạnh những tác động tích cực to lớn, CMCN 4.0 đặt ra không ít thách
thức, nhất là sẽ làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu nguồn nhân lực và thị trường
lao động. Các hệ thống máy móc tự động hóa sẽ thay thế dần lao động thủ
công trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, dĩ nhiên tỷ lệ lao động chất lượng
cao ngày càng gia tăng khiến người lao động trình độ thấp hoặc không được
đào tạo sẽ bị đào thải.

b. Diễn biến cách mạng công nghiệp 4.0:
Nối tiếp từ định nghĩa của Klaus Schwab, Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ
diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ sinh học, Kỹ thuật số và Vật lý.
Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân tạo
(AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data).
Trên lĩnh vực công nghệ sinh học, Cách mạng Công nghiệp 4.0 tập trung vào
nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông nghiệp, Thủy sản, Y
dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và
vật liệu.
Cuối cùng là lĩnh vực Vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các
vật liệu mới (graphene, skyrmions…) và công nghệ nano.
18


Hiện Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như
Mỹ, châu Âu, một phần châu Á. Bên cạnh những cơ hội mới, cách mạng
công nghiệp 4.0 cũng đặt ra cho nhân loại nhiều thách thức phải đối mặt.
c. Cơ hội và thách thức:
Mặt trái của Cách mạng Công nghiệp 4.0 là nó có thể gây ra sự bất bình
đẳng. Đặc biệt là có thể phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế
lao động chân tay trong nền kinh tế, khi robot thay thế con người trong nhiều
lĩnh vực, hàng triệu lao động trên thế giới có thể rơi vào cảnh thất nghiệp,
nhất là những người làm trong lĩnh vực bảo hiểm, môi giới bất động sản, tư
vấn tài chính, vận tải.
Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới đã đặt ra vấn đề này theo các giai
đoạn khác nhau. Giai đoạn đầu tiên sẽ là thách thức với những lao động văn
phòng, trí thức, lao động kỹ thuật. Giai đoạn tiếp theo sẽ là lao động giá rẻ,
có thể sẽ chậm hơn. Với sự chuyển động của cuộc cách mạng này, trong
khoảng 15 năm tới thế giới sẽ có diện mạo mới, đòi hỏi các doanh nghiệp
thay đổi.

Sau đó, những bất ổn về kinh tế nảy sinh từ Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ
dẫn đến những bất ổn về đời sống. Hệ lụy của nó sẽ là những bất ổn về
chính trị. Nếu chính phủ các nước không hiểu rõ và chuẩn bị đầy đủ cho làn
sóng công nghiệp 4.0, nguy cơ xảy ra bất ổn trên toàn cầu là hoàn toàn có
thể.
Bên cạnh đó, những thay đổi về cách thức giao tiếp trên Internet cũng đặt
con người vào nhiều nguy hiểm về tài chính, sức khoẻ. Thông tin cá nhân
nếu không được bảo vệ một cách an toàn sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn
lường.
Cách mạng công nghiệp lần 4 mang đến cơ hội, và cũng đầy thách thức với
nhân loại.
d. Việt Nam giải bài toán 4.0:
Nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, cũng như hội nhập quốc tế sâu rộng nhưng trình độ sản xuất trong các
nhà máy, doanh nghiệp phần lớn ở trạng thái của cách mạng công nghiệp lần
thứ 2 và cách mạng công nghiệp lần thứ 3, đồng thời có một số ít yếu tố của
cách mạng công nghiệp 4.0.
19


Để chủ động nắm bắt cơ hội, đưa ra các giải pháp thiết thực tận dụng các lợi
thế, mặt khác giảm thiểu những tác động tiêu cực của CMCN 4.0, đầu tháng
5-2017, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị về việc tăng cường năng lực tiếp
cận cuộc CMCN lần thứ 4. Trong Chỉ thị, người đứng đầu Chính phủ yêu
cầu các bộ, ngành và các địa phương từ nay đến năm 2020 cần tập trung chỉ
đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp và nhiệm vụ mà Chính phủ
đề ra. Trong đó, nhấn mạnh tập trung thúc đẩy phát triển, tạo sự bứt phá về
hạ tầng kỹ thuật, công tác ứng dụng và nguồn nhân lực công nghệ thông tin truyền thông. Phát triển hạ tầng kết nối số và bảo đảm an toàn, an ninh
mạng, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng, bình đẳng
trong việc tiếp cận các cơ hội phát triển nội dung số. Đẩy mạnh hơn nữa ứng

dụng công nghệ thông tin - truyền thông đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa công
nghệ thông tin - truyền thông trong phạm vi cả nước; từng bước tiếp cận,
nghiên cứu và phát triển mạng truyền thông di động 5G, đáp ứng yêu cầu
internet kết nối vạn vật trong thời gian sớm nhất có thể. Bộ Khoa học và
Công nghệ chủ trì, phối hợp các bộ, ngành và địa phương kết nối các chương
trình nhiệm vụ khoa học và công nghệ nhằm tăng cường năng lực tiếp cận
cuộc CMCN 4.0.
Đáng chú ý, cuộc CMCN 4.0 đòi hỏi nền giáo dục và đào tạo còn nhiều hạn
chế, bất cập lâu nay ở nước ta phải có những cải cách và đổi mới cơ bản,
toàn diện. Cũng chính vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh việc thí
điểm và khẩn trương triển khai mô hình giáo dục STEM trong nhà trường
phổ thông. Giáo dục STEM được hiểu là trang bị cho người học những kiến
thức và kỹ năng cần thiết liên quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ
thuật và toán học. Việc học các môn học STEM (mang tính tích hợp cao)
không chỉ giúp người học sớm làm quen với các hoạt động trải nghiệm sáng
tạo mà còn giúp họ khả năng định hướng, lựa chọn nghề nghiệp trong tương
lai.
Một trong những hạn chế, yếu kém dễ thấy lâu nay là năng lực nghiên cứu
sáng tạo, sự kết nối giữa các trường đại học và doanh nghiệp trong đào tạo
nghiên cứu và chuyển giao công nghệ hầu như chưa có. Chính vì thế, Nhà
nước cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ việc hình thành và phát triển các vườn
ươm khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo trong các trường đại học chuyên đào tạo
20


về kỹ thuật, công nghệ. Trước mắt, ưu tiên các ngành và lĩnh vực Việt Nam
có thế mạnh như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học. Nhất là tạo sự bứt
phá về công nghệ thông tin, tập trung đầu tư nghiên cứu, ứng dụng mới theo
xu thế tất yếu của các công nghệ Iot, Big data, Cloud… nhằm hỗ trợ các
doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, hoạt động sản xuất nhanh hơn, thông

minh hơn và chất lượng cao hơn. Chỉ có như vậy chúng ta mới mong tránh
được khoảng cách tụt hậu khá xa so các nước công nghiệp phát triển và
hướng đến mục tiêu cao đẹp là “Khát vọng phồn vinh toàn dân tộc”.
e. Xây dựng nghị quyết về cách mạng 4.0 trình chính phủ trong năm
2018:
Đến nay Việt Nam đã có những “bước đi” đầu tiên và cách tiếp cận cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0 một cách thận trọng nhưng quyết liệt. Hiện Bộ
KH&CN tiếp tục làm đầu mối phối hợp với các bộ, ngành địa phương xây
dựng Nghị quyết về cách mạng 4.0 trình Chính phủ trong năm 2018.
Thông tin trên được Bộ khoa học và Công nghệ (KH&CN) cho biết tại buổi
họp báo thường kỳ chiều 25/1, tại Hà Nội.
Phát biểu tại buổi họp báo, Thứ trưởng Bộ (KH&CN) Phạm Công Tạc cho
biết, thời gian qua Bộ KH&CN đã hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành
nhiều Nghị định, Thông tư về lĩnh vực ngành như: Nghị định số 119/NĐ-CP
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường,
chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Thông tư số 13 hướng dẫn thành lập và
hoạt động của Hội đồng quản lý trong tổ chức KH&CN công lập; Thông tư
số 15 về “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với máy gia tốc tuyến tính dùng
trong xạ trị”... Bên cạnh công tác xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật về
KH&CN, Bộ KH&CN đã tổ chức nhiều sự kiện quan trọng như: Ngày Hội
Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2017 (Techfest 2017); trình
diễn Đổi mới sáng tạo và công bố Chương trình quan hệ đối tác về đổi mới
sáng tạo Australia - Việt Nam; Lễ Khởi động Viện KH&CN Việt Nam – Hàn
Quốc (V-KIST)…
Đặc biệt, triển khai Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 04/05/2017 về tăng cường năng
lực tiếp cận Cách mạng 4.0, Bộ KH&CN với vai trò là cơ quan chủ trì đã tổ
chức làm việc, trao đổi với các Bộ, ngành về tình hình triển khai Chỉ thị 16:
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thông tin và Truyền thông,
21



Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Giao thông vận tải; Bộ Văn hóa Thể
thao và Du lịch…
Về các nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2018 của ngành, Thứ trưởng cho biết,
quý I/2018, Bộ KH&CN tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách pháp luật
về khoa học và công nghệ. Đồng thời, thực hiện những chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ nêu tại hội nghị tổng kết công tác năm 2017 của Bộ
KH&CN và phương hướng, nhiệm vụ năm 2018 về 4 trụ cột chính cần đổi
mới, 3 đột phá cần tập trung và 5 lưu ý cần thực hiện.
Tại cuộc họp báo, lãnh đạo Bộ đã trả lời một số vấn đề được báo chí quan
tâm như: Vấn đề tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; vấn đề gỡ
vướng mắc cho doanh nghiệp KH&CN…
Trả lời về xu hướng phát triển cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Vụ trưởng
Vụ Công nghệ cao, Đàm Bạch Dương nhấn mạnh: Cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ
thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học với sự đột phá của internet vạn vật và
trí tuệ nhân tạo, đang diễn ra với tốc độ khác nhau tại các quốc gia trên thế
giới, tạo ra những tác động mạnh mẽ, ngày một gia tăng tới mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội, dẫn đến việc thay đổi phương thức và lực lượng sản
xuất của xã hội.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường
năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 để chủ động nắm bắt cơ
hội, đưa ra các giải pháp thiết thực, tận dụng tối đa các lợi thế, đồng thời
giảm thiểu những tác động tiêu cực đối với Việt Nam.
Với vai trò là cơ quan được giao làm đầu mối thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg,
Bộ KH&CN xác định phương pháp triển khai là phải làm rõ nội hàm, nhận
thức, hiểu rõ đúng bản chất từ đó xác định được hướng tiếp cận đúng, đặc
biệt là phương án ứng xử phù hợp đối với cơ hội và thách thức của cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0; không triển khai theo phong trào mà phải triển
khai một cách thực chất, lồng ghép với những chiến lược, chương trình đã

có, đảm bảo phù hợp với những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước.
22


Có thể nói, đến nay Việt Nam đã có những “bước đi” đầu tiên và cách tiếp
cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 một cách thận trọng nhưng quyết liệt.

23


KẾT LUẬN
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường
lối công nghiệp hoá và coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã chứng minh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ có những tác dụng to lớn về nhiều mặt
trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đó là:
_Công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện
mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông
nghiệp thành một xã hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước
quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của
chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
_Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình tạo ra những điều kiện vật
chất - kỹ thuật cần thiết về con người và khoa học - công nghệ, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực
hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
_Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi về
chất lực lượng sản xuất, nhờ đó mà nâng cao vai trò của người lao động nhân tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; tạo điều kiện vật chất

cho việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
_Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển
khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là tác
dụng góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy
quản lý kinh tế của Nhà nước.
_Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân
công và hợp tác quốc tế.
24


_Công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước thúc đẩy sự phân công lao động
xã hội phát triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo
hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các
miền trở nên thống nhất cao hơn.
_Công nghiệp hoá, hiện đại hóa không những có tác dụng thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng,
phát triển và hiện đại hoá nền quốc phòng - an ninh. Sự nghiệp quốc phòng
và an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội.
_Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển
đồng bộ về kinh tế - chính trị, văn hoá - xã hội, quốc phòng và an ninh.
Thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố
quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân
dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hoá kinh tế được coi là
nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

25



×