Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Sự phát triển của du lịch sinh thái ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 21 trang )

Ngân hàng nhà nước….
Trường đại học Ngân Hàng thành phố Hồ Chí Minh

TIỂU LUẬN

Đề tài:

Sự phát triển của du lịch sinh thái ở Việt Nam

Tác giả: Nhóm 5

Tp HCM, ngày 28 tháng 5 năm 2018


Danh sách nhóm

STT

TÊN

NHIỆM
VỤ

1
2
3
4
5
6
7
8


9
10
11
12
13
14
15
16

ĐÁNH GIÁ


Contents


Mở đầu
Ngành du lịch từ trước đến nay vẫn được coi là “ Ngành công nghiệp không khói”. Nó
thực sự là ngành kinh tế quan trọng trong thời đại ngày nay vì nó đã tạo ra công ăn việc
làm cho hàng triệu lao động, nó là một nguồn làm tăng thu nhập quốc dân, là phương
thức hiệu quả để phân phối lại thu nhập giữa các quốc gia và điều chỉnh cán cân thương
mại quốc tế.
Ngày nay, hòa trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển với các chính sách mở
cửa của nền kinh tế và chính sách ngoại giao mới “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả
các nước trên thế giới” đã làm cho du lịch ngày càng phát triển.Du khách quốc tế đến
Việt Nam ngày càng tăng với nhiều mục đích khác nhau như: nghỉ ngơi, giải trí, tìm
hiểu về phong tục tập quán, văn hóa, thưởng ngoạn phong cảnh và tìm kiếm cơ hội đầu
tư kinh doanh.Nhìn nhận được sự phát triển ngày càng mạnh và hiệu quả mà ngành du
lịch có thể mang lại cho nền kinh tế của đất nước.Việt Nam gần đây đã chú trọng đầu tư
phát triển ngành du lịch.Nhà nước đã có nhiều chính sách phát triển thích hợp để thúc
đẩy sự phát triển của du lịch, đưa đất nước Việt Nam, con người Việt Nam ra giới thiệu

với thế giới và đưa thế giới đến với Việt Nam.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên thì ngoài việc khai thác và bảo tồn các tài nguyên du
lịch, đào tạo con người thì một điều không thể bỏ qua đó là vấn đề nâng cao cơ sở vật
chất kĩ thuật phục vụ du lịch tại các điểm đến.Đây là một yếu tố quan trọng tạo sức
mạnh để cạnh tranh với các nước trong khu vực và các quốc gia trên thế giới.
Thấy được tầm quan trọng của “ Ngành công nghiệp không khói” và xuất phát từ xu
hướng phát triển chung.Một trong những loại hình du lịch ngày càng phát triển mạnh
mẽ và thu hút du khách quốc tế và du khách trong nước –đó là loại hình du lịch sinh
thái biển.Du lịch sinh thái biển được xem như một giải pháp hữu hiệu để bảo vệ môi
trường sinh thái hướng tới sự phát triển bền vững thông qua quá trình làm sức ép khai
thác nguồn lợi tự nhiên, phục vụ nhu cầu của nhu khách, của ngườ dân địa phương khi
tham gia vào các hoạt động du lịch sinh thái biển.

4


I.

Giới thiệu chung về du lịch sinh thái:
1. Định nghĩa:
Luật Du lịch do Quốc hội thông qua năm 2005 xác định khái niệm Du lịch sinh
thái là hình thức du lịch “dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với
sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững”.
Du lịch sinh thái là loại hình du lịch có trách nhiệm đối với môi trường ở các
khu thiên nhiên còn tương đối hoang sơ với mục đích thưởng ngoạn thiên nhiên và cá
giá trị văn hóa kèm theo của quá khứ và hiện tại, thúc đẩy công tác bảo tồn, có ít tác
động tiêu cưc đến môi trường và tạo các ảnh hưởng tích cực về mặt kinh tế- xã hội cho
cộng đồng địa phương
2. Đặc điểm cơ bản


Dựa trên sự hấp dẫn về tự nhiên. Đối tượng của du lịch sinh thái là những khu vực hấp
dẫn với các đặc điểm phong phú về tự nhiên, đa dạng về sinh học và những nét văn hóa
bản địa đặc sắc. Đặc biệt những khu tự nhiên còn tương đối hoang sơ, ít bị tác động bởi
các hoạt động của con người. Chính vì vậy, hoạt động du lịch sinh thái thường được
diễn ra và thích hợp với các vườn Quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên.
- Hỗ trợ bảo tồn và quản lí bền vững về sinh thái. Đây là một đặc trưng khác biệt nổi
bật của du lịch sinh thái so với các loại hình du lịch khác. Trong du lịch sinh thái, hình
thức, địa điểm và mức độ sử dụng cho các hoạt động du lịch phải được quản lí cho sự
bền vững của cả hệ sinh thái và bản thân ngành du lịch. Đó là lí do tại sao các nhà quản
lí vườn Quốc gia nên đặt ưu tiên cao nhất vào việc quản lí các hoạt động du lịch trong
vườn Quốc gia của họ.
Có giáo dục và diễn giải về môi trường. Đặc điểm giáo dục môi trường trong du lịch
sinh thái là một yếu tố cơ bản thứ hai, phân biệt nó với loại du lịch tự nhiên khác. Diễn
giải và giáo dục môi trường là những công cụ quan trọng trong việc tăng thêm những
kinh nghiệm du lịch cho du khách. Khách du lịch sinh thái đích thực là những khách có
thể biết và mong muốn được gần gũi, tiếp xúc với môi trường nhằm nâng cao kiến thức
và sự trân trọng môi trường
5


Việt Nam với lợi thế có chiều dài bờ biển, rừng núi hoang sơ với nhiều khu bảo tồn
thiên nhiên, vườn quốc gia và nhiều rừng cấm, đó là những di sản thiên nhiên của quốc
gia, chứa đầy tiềm năng cho phát triển du lịch sinh thái như Vịnh Hạ Long, hồ Ba
Bể, động Phong Nha, vườn quốc gia Cát Tiên, vườn quốc gia Cúc Phương, khu bảo tồn
thiên nhiên Vân Long.v.v. đặc biệt là đã có tới 8 khu dự trữ sinh quyển Việt Nam
được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới nằm ở khắp ba miền.
DLST ở Việt Nam có bốn đặc tính cơ bản: phát triển dựa vào giá trị (hấp dẫn) của thiên
nhiên và văn hóa bản địa, được quản lý bền vững về môi trường sinh thái, có giáo dục,
diễn giải về môi trường, có đóng góp cho những nỗ lực bảo tồn và phát triển cộng đồng.
3.


Phân loại du lịch sinh thái:

Cho đến nay vẫn chưa có sự xác định hoàn hảo về loại hình du lịch sinh thái. Loại
hình du lịch này quả vẫn còn mới mẻ, mặc dù những năm 1997-1998 Tổ chức Du lịch
thế giới và Liên Hợp Quốc đã nêu một số quan điểm chuyển mạnh sang loại hình du
lịch sinh thái phù hợp với điều kiện của sự phát triển du lịch. Một số nhà khoa học về
du lịch cũng kết luận có các loại hình du lịch sinh thái như sau:


Du lịch xanh, du lịch dã ngoại.



Du lịch nhạy cảm, du thuyền trên sông, hồ, trên biển…



Du lịch thiên nhiên, tham quan miệt vườn, làng bản…



Du lịch môi trường.



Du lịch thám hiểm, mạo hiểm,lặn biển, thăm hang động…

II.


Thực trạng phát triển của du lịch sinh thái ở Việt Nam
1 Tiềm năng phát triển của du lịch sinh thái.

6


Nằm ở vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, lãnh thổ Việt Nam trải dài trên 15 độ vĩ
tuyến với 3/4 là địa hình đồi núi và cao nguyên, với hơn 3.200 km đường bờ biển, hàng
ngàn hòn đảo và hàng triệu km2 mặt biển…, và trên lãnh thổ đó là nơi sinh sống của
cộng đồng 54 dân tộc với lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, đấu tranh giữ nước với
nhiều truyền thống có những nét đặc trưng riêng, nhiều di tích văn hóa lịch sử…, nên
Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển du lịch sinh thái, hướng tới phát triển du lịch
bền vững.

Về các tiềm năng tự nhiên cho phát triển du lịch sinh thái, nét thể hiện rõ nhất là ở Việt
Nam có tính đa dạng sinh học khá cao, cũng như các hệ sinh thái đặc trưng.
Về thành phần các loài động thực vật, tại Việt Nam có tới 14.624 loài thực vật thuộc
gần 300 họ, trong đó có nhiều loài cổ xưa và hiếm có, ví dụ như Tuế phát triển từ
Đại Trung Sinh, các loài có giá trị kinh tế gồm hơn 1000 loài lấy gỗ, 100 loài có
dầu, hơn 1000 loài cây thuốc, 100 loài quả rừng ăn được... Về động vật có tới
11.217 loài và phân loài, trong đó có 1.009 loài và phân loài chim, 265 loài thú, 349
loài bò sát lưỡng cư, 2000 loài cá biển, hơn 500 loài cá nước ngọt và hàng ngàn loài
tôm, cua, nhuyễn thể và thủy sinh vật khác. Về các loài thú, Việt Nam có 10 loài đặc
trưng nhiệt đới: Cheo, Đồi, Chồn bay, Cầy mực, Cu li, Vượn, Tê tê, Voi, Heo vòi, Tê
giác, và đặc biệt, trong thế kỷ 20 có 5 loài thú lớn mới được phát hiện thì đều ở Việt
Nam. Điều này chứng tỏ tính đa dạng sinh học của nước ta khá cao và có thể còn có
nhiều loài sinh vật mới có mặt tại Việt Nam.
Cùng với các loài động thực vật tự nhiên, Việt Nam là một trong những cái nôi của
cây trồng nhân tạo. Trên thế giới có 8 trung tâm cây trồng thì 3 trung tâm tập trung ở
khu vực Đông Nam Á (Nam Trung Hoa - Hymalaya; Ấn Độ - Miến Điện; Đông

Dương - Indonexia) với khoảng 270 loài cây nông nghiệp, riêng tại Việt Nam đã có
hơn 200 loài cây trồng, trong đó có tới 90% cây trồng thuộc Trung tâm Nam Trung
Hoa, 70% cây trồng thuộc trung tâm Ấn, Miến. Đây là tiền đề cho tổ chức du lịch
sinh thái canh nông.
Về các hệ sinh thái tự nhiên có thể khai thác phục vụ phát triển du lịch sinh thái, ở
Việt Nam có một số hệ sinh thái đặc trưng gồm:
Hệ sinh thái san hô ở Việt Nam khá giàu về thành phần loài, tương đương với các
khu vực giàu san hô khác ở Tây Thái Bình Dương, trong đó ở khu vực ven bờ phía
Bắc có 95 loài, ở khu vực ven bờ phía Nam có 255 loài. Trong các rạn san hô quần
tụ nhiều loài sinh vật khác nhau, nhiều loài có màu sặc sỡ và có giá trị kinh tế cao.
7


Ngoài động vật biển còn có nhiều loại rong biển có giá trị dinh dưỡng cao,
nguồn dược liệu phong phú. Nước ta hiện có khoảng 638 loài rong biển, các loại rong
biển dễ gây trồng, ít bị mất mùa và cho năng suất thu hoạch cao sẽ là nguồn thực phẩm
quan trọng trong tương lai.

Rặng san hô ở Nha Trang (Nguồn: Cheapbooking)
Hệ sinh thái đất ngập nước ở các vùng có những đặc thù riêng, trong đó nổi bật
là các hệ sinh thái ngập mặn ven biển trải dài suốt dọc bờ biển từ Móng Cái (Quảng
Ninh) đến Mũi Nai (Kiên Giang). Tiêu biểu nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long
phân bố một diện tích lớn các hệ sinh thái đất ngập nước, chủ yếu là các hệ sinh thái
ngập mặn và các hệ sinh thái đất ngập phèn. Trong các hệ sinh thái ngập mặn thì các
hệ sinh thái rừng ngập mặn châu thổ sông Cửu Long nuôi dưỡng một số lớn diệc,
cò, cò lớn, cò quăm. Tại đây, có các sân chim lớn của Việt Nam. Rừng ngập mặn là
nơi sinh sản, cư trú của nhiều hải sản, chim nước, chim di cư và các loài động vật có
ý nghĩa kinh tế lớn như khỉ, lợn rừng, kỳ đà, chồn, trăn... Một dạng hệ sinh thái đất
ngập nước điển hình khác là các đầm lầy nội địa hoặc đầm phá ven bờ, trong đó có
các hệ sinh thái rừng tràm U Minh, tứ giác Long Xuyên là nổi tiếng và có giá trị cao.

Các hệ sinh thái đầm lầy nội địa kết hợp với các vùng sình lầy cửa sông tạo nên các
vùng đất ngập nước lớn ở hai châu thổ, nơi có số lượng lớn chim cư trú và chim di
cư hàng năm cùng với nguồn lợi quý là mật ong rừng.
Hệ sinh thái vùng cát ven biển của nước ta đa dạng với 60 vạn ha, tập trung chủ
yếu ở ven biển miền Trung. Các nhóm hệ sinh thái cát hình thành trên các loại cát
khác nhau: hệ sinh thái vùng cồn cát trắng vàng; hệ sinh thái vùng đất cát biển; hệ
sinh thái vùng đất cát đỏ. Đặc biệt lớn là khối cát đỏ ở Tây Bắc Phan Thiết với các
cồn cát di động (do gió tạo nên) vừa có sức hấp dẫn lớn với du khách, vừa có thể
phục vụ sản xuất nông nghiệp (trồng hoa màu, dưa hấu, đào lộn hột...).

8


Vịnh Lăng Cô, Thừa Thiên- Huế (Nguồn: Vnexpress)
Các hệ sinh thái rừng nhiệt đới với nét đặc trưng là hệ thống các khu rừng đặc
dụng là nơi lưu trữ các nguồn gen quý của nước ta phân bố ở khắp từ Nam ra Bắc,
từ đất liền tới các hải đảo. Tính đến nay, cả nước đã có 107 khu rừng đặc dụng trong
đó có 30 vườn quốc gia, 43 khu bảo tồn thiên nhiên và 34 khu rừng văn hóa - lịch sử
- môi trường với tổng diện tích là 2.092.466 ha.
Bên cạnh đó, các tiềm năng văn hóa cho phát triển du lịch sinh thái văn hóa ở Việt
Nam cũng rất đa dạng và phong phú. Dân tộc Việt Nam có hàng ngàn năm lịch sử
dựng nước và giữ nước với nền văn hóa đa dạng bản sắc của 54 dân tộc anh em,
trong đó có nhiều tài nguyên đặc biệt có giá trị. Chỉ tính riêng về các di tích, trong
số khoảng 40.000 di tích hiện có thì hơn 2.500 di tích được xếp hạng cấp quốc gia.
Tiêu biểu nhất Hoàng Thành Thăng Long, Khu di tích danh thắng Tràng An, Thành
Nhà Hồ, Cố Đô Huế; đô thị cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa thế giới. Ngoài ra, còn có nhiều di sản văn hóa phi vật thể
khác cũng được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của Nhân loại (Dân ca Quan
họ, Ca Trù, hát Xoan, Nhã nhạc Cung đình Huế…).


Rừng cúc phương
Ngoài các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng, nhiều nghề thủ công truyền thống với
kỹ năng độc đáo, nhiều lễ hội truyền thống gắn liền với sinh hoạt văn hóa, văn nghệ
dân gian đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc, cùng với những nét riêng, tinh tế của
nghệ thuật ẩm thực được hòa quyện, đan xen trên nền kiến trúc phong cảnh có giá trị
triết học phương Đông đã tạo cho Việt Nam sức hấp dẫn về du lịch.

9


Nghi lễ nghi ông trong lễ hội cầu ngư trên biển Nha Trang- Ảnh: Văn Thành Châu
Ngoài ra nước ta là một nước nông nghiệp, có đến 70% dân số lao động trong lĩnh vực
này. Vì vậy, sản xuất nông nghiệp đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân. Nhiều năm trở lại đây, sản phẩm du lịch sinh thái nông nghiệp là điểm
nhấn thu hút, thúc đẩy tăng trưởng du khách. Tại TPHCM, nhu cầu khách du lịch tham
quan trải nghiệm ở khu nông trại miệt vườn tăng đều mỗi năm từ 20-30%. Tại Quảng
Nam, các hoạt động du lịch sinh thái nông nghiệp mỗi năm đón hàng chục nghìn lượt
khách, đóng góp không nhỏ vào tổng du khách năm 2017 tăng trưởng 85,1% so với
cùng kỳ năm 2007 và thu nhập du lịch đạt 9.200 tỷ đồng. Thực tế, du lịch sinh thái nông
nghiệp đã đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội cho nhiều địa phương, doanh nghiệp. Sự
tham gia trực tiếp của bà con nông dân trong các hoạt động du lịch nông nghiệp đã tạo
nên sự phong phú, hấp dẫn của các sản phẩm du lịch, đồng thời đem lại thu nhập cao
hơn cho bà con nông dân bên cạnh hoạt động nông nghiệp thuần túy.
Du lịch sinh thái nông nghiệp được coi là một phương thức xóa đói giảm nghèo đặc biệt
tại những cộng đồng khó khăn, tạo thêm nguồn sinh kế, việc làm ổn định, cải thiện đời
sống của nông dân, giúp người dân gắn bó với quê hương hơn.

10



nhiều sản phẩm du lịch sinh thái nông nghiệp mới mẻ, hấp dẫn, như tour một ngày làm

nông dân ở làng rau Trà Quế, Hội An (Quảng Nam), tour du lịch miệt vườn sông nước
Cửu Long, tour thưởng ngoạn ruộng bậc thang mùa lúa chín ở Mù Cang Chải, Sa Pa, Pù
Luông, Mai Châu…
Kết luận.
Tiềm năng du lịch sinh thái ở Việt Nam là hết sức to lớn, bởi chứa đựng các giá
trị tài nguyên du lịch thiên nhiên phong phú, văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, là nền
tảng cho sự phát triển các loại hình du lịch sinh thái độc đáo, hình thành nên các trung
tâm du lịch thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Để phát triển tiềm năng du lịch sinh thái , rất cần sự quan tâm đầu tư của Nhà
Nước và các tổ chức doanh nghiệp. Bên cạnh việc đầu tư phát triển còn có các biện
pháp bảo tồn, tôn tạo các giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên, giá trị văn hóa truyền thống
để chúng mãi là những giá trị tiềm năng đóng g
4. Thuận lợi và khó khăn để phát triển du lịch sinh thái

a. Thuận lợi
• Tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng
Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam Á, vừa có
biên giới lục địa, vừa có hải giới rộng lớn, là cửa ngõ đi ra Thái Bình Dương của một số
nước và của vùng Đông Nam Á. Nước ta nằm ở vành đai nhiệt đới bắc bán cầu, đúng
vào khu vực gió mùa Đông Nam Á, do đó, mang lại đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió
mùa Châu Á. Nhờ đó mà Việt Nam có hệ thống động thực vật phong phú, đa dạng. Việt
Nam còn có những danh thắng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới
như vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An, cố đô Huế, thánh địa Mỹ Sơn, vườn quốc gia Phong
Nha- Kẻ Bảng ngoài ra còn có di sản văn hoá thế giới phi vật thể là nhã nhạc Huế.
Chúng ta còn thu hút du khách nước ngoài bằng hàng loạt các điểm du lịch sinh thái
kéo dài khắp ba miền tổ quốc: Bản Gốc, Mẫu Sơn, Sa Pa, Thác Mơ, hồ Ba Bể, vườn
quốc gia Ba Vì, Mai Châu, Tam Cốc- Bích Động, Cát Tiên, khu ngập nước Văn Long,
Bà Nà, Đồng Tháp Mười, địa đạo Củ Chi, U Minh…

Hiện nay, du lịch sinh thái đang được nhiều du khách quan tâm nên đây là điều
kiện tốt để du lịch Việt Nam khai thác tiềm năng sẵn có. Mặt khác lãnh thổ nước ta kéo
11


dài từ Bắc vào Nam tiếp giáp với biển cũng tạo cho chúng ta những bãi biển cát mịn và
đẹp như Trà Cổ, Bãi Cháy, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu… Ngoài những
thắnh cảnh tươi đẹp, Việt Nam còn có rất nhiều các làng nghề, lễ hội truyên thống.
Tiềm năng phát triển du lịch làng nghề truyền thống của nước ta rất lớn, mỗi
làng nghề gắn với một vùng văn hoá, hệ thống di tích và truyền thống riêng, với cung
cách sáng tạo sản phẩm riêng của mình. Du khảo hết các làng nghề truyền thống, du
khách có thể thấy rõ bản sắc cũng như đặc trưng của bộ mặt nông thôn Việt Nam.
Hiện nay, cả nước đã có hơn 2000 làng nghề thủ công thuộc 11 nhóm nghề
chính như: cói, sơn mài, mây tre đan, gốm sứ, thêu ren, dệt, gỗ, đá, giấy, tranh dân gian.
Đi dọc Việt Nam du khách có thể thấy nhiều vùng quê mà mật độ làng nghề truyền
thống dày đặc rải từ bắc vào nam. Những cái nôi của làng nghề là Hà Nôi, Hà Tây, Hải
Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thừa Thiên Huế…
Thực tế,du khách muốn đến tận làng nghề nhìn cảnh cây đa, bến nước, sân đình,
thăm các di tích của một làng nghề truyền thống Việt Nam, tìm hiểu các vị tổ làng nghề
hoặc các danh nhân văn hoá. Làng nghề truyền thống Việt Nam chứa đựng tiềm năng
dồi dào về du lịch còn bởi vì du khách muốn đến tận nơi xem các công đoạn nghệ nhân
làm ra sản phẩm và cũng muốn tận tay tham gia làm sản phẩm theo trí tưởng tượng của
riêng mình. Tìm hiểu về văn hoá và truyền thống làng nghề là điều mà du khách trong
và ngoài nước quan tâm.
Việt Nam còn có các tài nguyên có giá trị lịch sử, các tài nguyên có giá trị văn
hoá thu hút khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu. Với lịch sử hơn 4000
năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã tạo dựng được một nền văn hoá phong phú
và độc đáo. Không những vậy 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên một mảnh đất,
lại có bao phong tục, tập quán, lễ hội khác nhau tạo nên sự đa dạng cho sản phẩm du
lịch Việt Nam.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, cơ sở hạ tầng, không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ. Đặc biệt con người
Việt Nam thân thiện, hiếu khách đã tạo sự thoải mái cho du khách. Chính tất cả những
tiềm năng trên là một nền tảng để du lịch Việt Nam phát triển, hội nhập với các nước
trên thế giới. Nhưng vấn đề là chúng ta tận dụng những tiềm năng đó như thế nào nó
phụ thuộc vào cách làm của chúng ta.
• Chính sách khuyến khích phát triển du lịch của Nhà nước
Những năm gần đây du lịch đã được nhà nước chú trọng phát triển bởi tiềm năng
lợi ích mà du lich mang lại là rất lớn. Giao thông thuận tiện giúp du khách thuận tiện đi
lại và giảm chi phí đi lại, nhiều công trình như đường hầm, cáp treo .. được xây dựng.
Các di tích, di sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển được tôn tạo, bảo tồn và
phát triển.
Nhiều khu vui chơi, giải trí được xây dựng tại các địa điểm du lich hấp dẫn. Có
chính sách phát triển du lịch cho từng địa phương.
Tổ chức các sự kiện , các chương trình lớn kích cầu về du lịch.
Mở trường , mở khoa đào tạo về khách sạn du lịch.
Tạo dựng hình ảnh , quảng bá văn hóa , thắng cảnh của Việt Nam ra thế giới
nhằm thu hút khách quốc tế.
• Thị trường du lịch ngày càng được mở rộng
Đời sống của nhân dân hiện nay ngày càng được nâng cao vì thế nhu cầu về du
lịch ngày càng nhiều, hơn thế nhận thức của người dân cũng cao hơn, mong muốn có
sức khỏe tốt, muốn khám phá thế giới, vui chơi giải trí. Cuộc sống thành thị ồn ào, ngột
ngạt, căng thẳng cũng khiến con người ta có nhu cầu tìm đến những nơi trong lành,
12


thoải mái, yên tĩnh... Việc quảng bá hình ảnh Việt Nam cũng tạo thuận lợi cho việc
chúng ta khai thác thị trường ngoài nước góp phần tăng nguồn ngoại tệ và phát triển
b. Khó khăn
• Khó khăn trong quy hoạch

Được coi là điểm sáng của năm 2005 tốc độ tăng trưởng được duy trì ở mức cao
(trên 20%), thu hút hơn 3,4 triệu khách quốc tế và 16 triệu khách nội địa. Tuy nhiên, so
với các nước trong khu vực, số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam vẫn còn nhỏ bé.
“Hiện chúng ta đang thiếu các điểm du lịch quy mô, “ra tấm ra miếng”. Thực trạng đầu
tư manh mún, nhỏ lẻ, chạy theo số lượng mà không chú ý đến tính chuyên nghiệp”
- Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Phạm Từ thừa nhận, “một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng trên là do qui hoạch du lịch tổng thể, chi tiết từng vùng chưa
được thực hiện tốt”. Vấn đề đặt ra là nêu chúng ta không có biện pháp quy hoạch ngay
thì liệu một thời gian nữa còn có chỗ mà quy hoạch không và du lịch có thật sự được
phát triển .
• Ý thức người dân và việc bảo vệ môi trường
Hiện nay có một tình trạng là khách du lịch đi đến các điểm du lịch xả rác bừa bãi gây
mất cảnh quan và ô nhiễm môi trường, trước tình hình đó ngành du lịch phải có biện
pháp cụ thể để ngăn chặn nếu không sẽ để lại hình ảnh xấu trong mắt khách du lịch
quốc tế và ảnh hưởng tới môi trường sống .
Vấn đề nữa là người dân chưa có ý thức bảo vệ tại nguyên du lịch, chưa nhận
biết tầm quan trọng của việc bảo vệ tài nguyên du lịch, khiến việc tu sửa, bảo tồn, phát
triển gặp khó khăn. Tài nguyên và môi trường đang có sự suy giảm do khai thác, sử
dụng thiếu hợp lý và những tác động của thiên thai ngày càng tăng và diễn ra ở nhiều
vùng, nhiều địa phương trong nước. Nhiều tài nguyên có tiềm năng khai thác nhưng do
bị mai một, lãng quên, và bị hủy hoại nên vẫn bỏ ngỏ.
• Nhân lực cho ngành du lịch chưa đạt yêu cầu
Việc gia tăng lượng khách du lich hàng năm là một dấu hiệu đáng mừng, nhưng cũng
không đủ cầu và cung như thế nào để thỏa mãn nhu cầu của cầu là một vấn đề đặt ra
cho ngành du lịch, bởi đội ngũ nhân lực cho ngành du lịch còn đang thiếu và yếu về
chuyên môn, yếu về ngoại ngữ.
Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng quyết định đến sự phát triển thì cho đến
nay, chúng ta vẫn chưa đào tạo được đội ngũ nhân viên du lịch (lái xe, tiếp viên, hướng
dẫn viên…) có nghiệp vụ, có văn hoá, biết ngoại ngữ đủ để đáp ứng yêu cầu của thị
trường đang ngày càng tăng.

Hoạt động du lịch ngày càng đa dạng hoá về sản phẩm du lịch, loại hình du lịch
và chất lượng các sản phẩm du lịch. Điều này đòi hỏi đội ngũ lao động phải không
ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ. Những người làm công tác quản lý trong ngành du
lịch có trình độ không đồng đều, một số chưa qua đào tạo về quản lý doanh nghiệp du
lịch.
Tuy tiềm năng du lịch rất lớn nhưng hệ thống cơ sở đào tạo du lịch còn quá ít.
Trong khi nguồn nhân lực có chuyên môn, nghiệp vụ còn thiếu thì sự sắp xếp bộ máy
cán bộ không hợp lý, rườm rà gây ra lãng phí rất nhiều nhân lực. Do đó, kiện toàn sắp
xếp lại đội ngũ cán bộ là một đòi hỏi cần phải giải quyết ngay. Cơ sở vật chất, trang
thiết bị đào tạo mới ở các trường và đào tạo lại, bồi dưỡng ở các cơ quan, doanh nghiệp,
mặc dù đã được đầu tư xây dựng, trang bị mới và nâng cấp nhưng vẫn thiếu, không
đồng bộ, nhất là ở các cơ sở đào tạo mới tham gia vào đào tạo du lịch. Đội ngũ giáo
viên, giảng viên và đào tạo viên du lịch hạn chế về số lượng, chất lượng. Đặc biệt, thiếu
13


giáo viên tay nghề cao. Số giảng viên sử dụng thành thạo ngoại ngữ không nhiều.
Phương pháp đào tạo nặng về lý thuyết, độc thoại. Lực lượng giáo viên cơ hữu mỏng và
rất khác nhau giữa các trường. Các trường ngoài công lập và trường mới thành lập có
mở ngành du lịch tỷ lệ giáo viên cơ hữu rất thấp, thường dưới 50% .
• Chính sách của Nhà nước
Trong nhiều năm qua, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chính sách và nỗ lực để
phát triển cơ sở hạ tầng, Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng hiện nay còn yếu kém, chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành kinh tế, trong đó có du lịch, hạn chế khả năng
tiếp cận, phát triển và khai thác các tuyến, điểm du lịch giàu tiềm năng ở các vùng núi,
hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
Giao thông vận tải cũng là một vấn đề đáng bàn, nó là một trong những yếu tố
quyết định trong phát triển du lịch, tuy vậy hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển. Nhận thức xã hội về du lịch vẫn còn bất cập, thiếu thốn nhất trong xây dựng,
chỉ đạo, quản lý và thực hiện quy hoạch ngành và lãnh thổ.

Bên cạnh đó hệ thống các chính sách, quy định pháp luật liên quan đến phát triển
du lịch thiếu đồng bộ so với yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế. Vốn đầu tư phát
triển du lịch rất thiếu, trong khi đó đầu tư lại dàn trải kém hiệu quả đang là một thách
thức không nhỏ đối với sự phát triển ngành du lịch.
Trình độ phát triển kinh tế xã hội của nước ta cũng như mức sống của người dân
nhìn chung còn thấp, ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu đối với phát triển du lịch. - Visa
du lịch là yêu cầu đối với hầu hết khách du lịch đến Việt Nam và thủ tục để xin visa
thường rát mất thời gian, tốn kém và không cho phép nhiều thay đổi trong lịch trình đi
lại.- Còn nhiều cản trở trong việc cấp giấy phép hoạt động cho các công ty du lịch
Nhiều công ty du lịch đang hoạt động ở Việt Nam bày tỏ mong muốn giảm thiểu sự
khác biệt trong các quy định quản lý công ty du lịch nội địa và du lịch quốc tế về quy
định và giấy phép hoạt động.
5. Ví dụ thực tiễn du lịch sinh thái biển ở Việt Nam
Khánh Hòa là tỉnh ven biển Nam Trung bộ, diện tích 5.197 km2 (kể cả các đảo, quần
đảo), dân số khoảng 1,2 triệu người. Thành phố Nha Trang là trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật và du lịch của tỉnh; đồng thời là đầu mối giao thông
đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường biển trong nước và quốc tế.

Thuận lợi:
So với các tỉnh khu vực miền Trung - Tây nguyên, Khánh Hòa có tài nguyên du
lịch thiên nhiên đa dạng. Về tài nguyên du lịch biển đảo, Khánh Hòa có bờ biển dài 385
km với gần 200 đảo ven bờ và trên 100 đảo, bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa.
Dải ven biển có 4 vịnh lớn là Vân Phong, Nha Phu, Nha Trang và Cam Ranh; trong đó
vịnh Nha Trang được công nhận là thành viên Câu lạc bộ các vịnh đẹp nhất thế giới.
Ven biển Khánh Hòa có nhiều bãi tắm đẹp, cát trắng, nước biển trong xanh, không có
14


các loài cá dữ và dòng nước xoáy ngầm. Ngoài ra, Khánh Hòa còn có nhiều tài nguyên
du lịch thuộc sông, hồ, suối nước nóng, nước khoáng (ở thị xã Ninh Hòa, TP.Nha Trang,

H.Diên Khánh, TP.Cam Ranh) và rừng đặc dụng (Khu bảo tồn biển Hòn Mun)…
Khó khăn:
Nguồn nhân lực đối với yêu cầu thực tế của hoạt động du lịch dù có nhiều tiến
bộ nhưng vẫn chưa đủ khả năng đáp ứng. Người lao động trong lĩnh vực du lịch còn
hạn chế nhiều về trình độ chuyên môn, khả năng giao tiếp bằng tiếng nước ngoài. Đối
với đội ngũ những người làm công tác quản lý nhà nước về du lịch ở các cơ quan
chuyên môn, xã, phường cũng gặp khó cả về số lượng lẫn chất lượng.

Một khó khăn khác liên quan đến vấn đề phân cấp, phân quyền quản lý trong hoạt động
du lịch cũng ảnh hưởng tới chất lượng của công tác quản lý nhà nước. Điều này thể hiện
rõ nhất thông qua việc thanh tra, kiểm tra những vi phạm của các doanh nghiệp du lịch.
Chính điều này đã gây nên những khó khăn cho chính quyền thành phố trong công tác
chấn chỉnh hoạt động kinh doanh lữ hành như thời gian vừa qua. Việc kiểm soát, thống
kê số lượng các cơ sở kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa, quốc tế, đại lý lữ hành, cũng
như việc nắm bắt hạng sao của các cơ sở lưu trú trên địa bàn còn nhiều bất cập, chủ yếu
là do chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các ban, ngành cấp tỉnh với thành phố.
Tuy nhiên, đáng lo ngại tình trạng là thải nước bẩn, hôi thối ra biển cũng như xả
rác bừa bãi sẽ để lại những hình ảnh xấu với du khách khi đến TP Nha Trang. Và hằng
năm Nha Trang đón lượng khách du lịch lớn chính vì thế cũng mang theo một khối
lượng rác thải ở đây.

Theo tiêu chuẩn về môi trường, hiện vùng biển này tuy chưa bị xem là ô nhiễm nhưng
rác thải, nước thải đã ảnh hưởng lớn đến khu vực. Vào mùa mưa lũ, phía Bắc đảo Hòn
Tre dù xa đất liền, nằm gần vùng lõi khu bảo tồn biển cũng đã xuất hiện vi khuẩn
Coliform. Hàm lượng hydrocarbon nhiều thời điểm khá cao, vượt mức cho phép. Điều
này tăng nguy cơ phát triển các tảo có hại, hủy hoại môi trường sống của một số loại
san hô, vi sinh vật biển…

15



Hằng năm, Ban Quản lý vịnh Nha Trang đều phối hợp với Viện Hải dương học tiến
hành khảo sát 13 điểm cố định trong vịnh vào mùa khô (tháng 4) và mùa mưa (tháng
11), qua đó đánh giá tình trạng nhiễm bẩn vi sinh khá phổ biến. Trạm “nền” ở phía Bắc
vịnh Nha Trang vốn được coi là sạch nhất cũng có thời điểm bị nhiễm bẩn bởi vi khuẩn
Coliform và Vibrio.
Bão số 12 lịch sử đổ bộ vào Nha Trang đã làm cho môi trường cây cối ở đây tàn phá
nghiêm trọng cũng ảnh hưởng đến du lịch đến các đảo ở đây. Phải cần thời gian rất lâu
thì mới có thể khôi phục như hiện trạng ban đầu.

Rạn san hô bị gãy sau bão 12
Đảo hòn tằm ở Nha Trang
Hòn Tằm Nha Trang hay đảo Thủy Kim Sơn cách Thành phố Nha Trang 7 km về phía
Đông Nam. Đảo Hòn Tằm trở thành địa điểm du lịch Nha Trang lý tưởng cho những ai
yêu thích du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng, vì nơi đây còn giữ nhiều nét đẹp nguyên sơ
và thuần khiết cùng với địa thế nằm giữa vùng biển trong xanh bốn mùa đầy nắng gió.
Đảo Hòn Tằm thơ mộng và lãng mạn nằm thu mình trên dòng biển tĩnh lặng. Nước biển
quanh khu vực đảo khá tĩnh, sóng êm nên rất thích hợp nuôi ngọc trai.

Đảo hòn tằm

16


Đảo Hòn Tằm xinh đẹp và lãng mạn, có bờ biển dài hơn 1 km với cát trắng mịn và nước
biển trong xanh. Vì sóng êm, biển lặng nên thích hợp để nuôi ngọc trai. Nơi đây còn có

rừng cây nhiệt đới.

Hiện nay, đảo Hòn Tằm được quy hoạch và khai thác thành đảo du lịch với các hạng

mục: Hòn Tằm Resort, khu vui chơi giải trí Sparkling Waves và Sunset Villas nhưng
vẫn giữ được màu xanh tự nhiên theo tiêu chí eco-green.
Hòn Tằm Resort (5 sao) với 49 bungalow cao cấp hướng biển. Các bungalow được bố
trí đơn lập hoặc song lập.

Khu nghỉ dưỡng cao cấp trên đảo Hòn Tằm thuộc tập đoàn Merperle

Một số trò chơi biển ở đảo Hòn Tằm

17


Khu vui chơi giải trí Sparkling Waves phục vụ du khách nhiều trò chơi vận động biển
như: chèo thuyền Kayak, bóng chuyền bãi biển, Floating Park cùng các trò chơi thể
thao cảm giác mạnh như: Flyboard, môtô nước, dù bay… Ngoài ra còn cho du khách
khám phá đại dương với lặn biển, đi bộ dưới nước (seawalker) và lặn ngắm ngọc trai…
Đây cũng là khu vực tập trung đa dạng các loài sinh vật biển, đặc biệt là san hô.

Lặn biển ở Hòn tằm
Sunset Villas là khu biệt thự cao cấp vừa khai trương vào tháng 6/2016; chỉ có 15 căn
biệt thự hướng biển, trong đó có 11 căn hướng biển và 4 căn trên đồi.
III.

Giải pháp và mục tiêu phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam
1 Giải pháp
Để Du lịch Việt Nam phát triển bền vững và hiệu quả, cần tập trung giải quyết những
vấn đề sau:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực tham gia vào
quá trình toàn cầu hóa như gia nhập WTO, Cộng đồng kinh tế ASEAN, đàm phán ký
kết các hiệp định thương mại tự do… ngành Du lịch Việt Nam đứng trước những cơ hội

và thách thức không nhỏ, đòi hỏi phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Một trong những
cách tiếp cận để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch Việt Nam là nghiên
cứu xu hướng nhu cầu của du khách để tạo ra những sản phẩm mới, hấp dẫn, đáp ứng
đúng nguyện vọng và mang đến sự hài lòng cho du khách.
- Chú trọng phát triển sản phẩm du lịch địa phương. Ngoài việc nâng cao năng lực cạnh
tranh còn cần nâng cao chất lượng dịch vụ các khu, tuyến, điểm du lịch đã khai thác.
Khai thác những lợi thế khác biệt để tạo nên những sản phẩm du lịch đặc thù, từ đó hình
thành các tuyến du lịch nội vùng và liên vùng có tính hấp dẫn và cạnh tranh cao.
- Đẩy mạnh hoạt động quảng bá, xúc tiến và liên kết du lịch. Cụ thể, cần tăng cường
công tác quảng bá, xúc tiến, tạo ra các sản phẩm du lịch phù hợp với nhiều phân khúc
thị trường du lịch. Lựa chọn, tham gia có chọn lọc vào các hoạt động, sự kiện du lịch,
thành lập Quỹ Xúc tiến du lịch quốc gia để tăng cường hơn nữa việc quảng bá hình ảnh
đất nước, con người Việt Nam tới bạn bè quốc tế; Đề xuất xây dựng những sản phẩm du
lịch mới, tăng cường xây dựng những tour, tuyến du lịch liên vùng nhằm đa dạng hóa
18


sản phẩm du lịch, phối kết hợp các hoạt động du lịch giữa các tỉnh trong vùng với các
địa phương khác để du lịch thực sự trở thành một hoạt động thông suốt, có tính cạnh
tranh cao hơn.
- Đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch. Chất lượng sản
phẩm du lịch phụ thuộc nhiều vào việc cơ sở hạ tầng có được đầu tư tốt hay không và
thái độ phục vụ cũng như trình độ của nhân viên. Vì vậy, phải chú trọng đến việc đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực du lịch trong đó tập trung đào tạo kỹ
năng nghề và thực hành homestay.
- Chú trọng bảo vệ môi trường. Trong khai thác du lịch, các cơ quan quản lý phải luôn
nhấn mạnh đến vấn đề bảo vệ môi trường và duy trì hệ sinh thái tự nhiên vốn có tại các
điểm du lịch; Đặt vấn đề bảo vệ môi trường trở thành một trong những nhiệm vụ quan
trọng trong quy hoạch các đề án, chiến lược phát triển du lịch của tỉnh và các khu, điểm
du lịch.

-Nước ta có nhiều thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái, nên chúng ta phải biết tận
dụng để phát triển, một mặt có thể giúp phát triển kinh tế ổn định xã hội , mặc khác có
thể làm môi trường sạch đẹp hơn. Chúng ta xây dựng chú trọng mở rộng nhân giống
cây trồng, lai tao nhân giống sinh vật biển,bảo tồn những động vật có nguy cơ tiệt
chủng để giúp hệ sinh thái được cân bằng, phát triển sinh thái một cách bền vững.
6. Mục tiêu

a Mục tiêu sinh thái – môi trường
Xem xét đến khả năng gánh chịu của vùng sinh thái về lượng du khách. Tính nhạy
cảm của sinh vật và các hệ sinh thái, vấn đề ô nhiễm môi trường, tải lượng rác thải,
nước thải và các quá trình làm gián đoạn sinh thái do du khách gây ra. Phát triển DLST
phải đi đôi với việc bảo vệ môi trường sinh thái bền vững, từ đó đặt ra các kế hoạch và
cơ chế quản lý phù hợp với việc khai thác, tôn tạo các
loại tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.
c. Mục tiêu tăng tính thẩm mỹ
Tối thiểu hóa những thiệt hại sinh thái do du khách mang lại là một phần trong mục
tiêu thẩm mỹ của DLST. Du khách có thể giảm “thiện chí trả tiền” một khi tính hấp
dẫn về thẩm mỹ, sinh thái của cảnh quan đã bị suy giảm, bị phá vỡ. DLST ở đây thực
chất là hiện thân của một loạt các chờ đợi nóng bỏng về tính hoang dã của thiên nhiên
hoặc những nơi chưa được khám phá.
Về bản chất thì DLST là một loại hình du lịch nhằm làm gia tăng sự mong đợi và đồng
thời cũng làm tăng nguy cơ về một loại hình du lịch “đến rồi chạy xa một cách vô trách
nhiệm” một sự tràn vào của những dòng người yêu thích thiên nhiên đến “điên dại” tại
những điểm mới nhất và sau đó chúng lại bị bỏ rơi một khi đã được khám phá và môi
trường ở đó đã bị thoái hóa. Vì vậy, trong quy hoạch và
điều hành DLST phải dự tính đến khả năng này.
d. Mục tiêu kinh tế
Việc xác định lợi ích từ du lịch dựa trên cơ sở “tổng thu nhập” đơn thuần giờ đây không
còn phù hợp nữa. DLST theo chúng tôi, nếu chỉ quan tâm đến những trang giấy với
19



những “cột cân đối tiền tệ” thì chắc chắn sẽ không phản ánh được gì cả. Cần so sánh về
thiệt hại bỏ ra so với tổng lợi ích kinh tế, các yếu tố ngoại vi và chi phí cơ hội đối với
du khách được thu hút và vấn đề phụ thuộc kinh tế do DLST
mang lại.
Rõ ràng mục tiêu kinh tế đạt được của DLST thể hiện ở khía cạnh kinh tế sinh thái và
thôi thúc sự phát triển kinh tế của những vùng có khu DLST.
e. Mục tiêu an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội
Quy hoạch và phát triển DLST không ngoài mục tiêu thu hút lữ hành thiên
nhiên trong và ngoài nước đến với cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, không vì thế mà
chúng ta bỏ qua vấn đề an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội. Cần chú ý tạo
thêm việc làm, tăng thêm thu nhập và góp phần ổn định kinh tế, xã hội và bảo vệ an
ninh quốc phòng cho khu vực.
f. Mục tiêu văn hóa - xã hội
Văn hóa đã từng là một nhân tố bị bỏ rơi trong bảo tồn. Bảo tồn và phát triển du lịch
mà từ chối quyền lợi và mối quan tâm của cộng đồng địa phương là tự chuốc
hại vào mình, nếu không muốn nói là xâm phạm đến văn hóa và làm hỏng đến nền kinh
tế bản địa; nguy cơ về thất bại trong DLST sẽ rất cao. Do đó, trong quy hoạch DLST,
theo chúng tôi cần phải gắn kết việc giữ gìn và tôn tạo các truyền thống văn hóa
đặc trưng của địa phương, bảo tồn được môi trường nhân văn trong sạch, đồng
thời khai thác tốt các di sản văn hóa có giá trị phục vụ cho du lịch.
g. Mục tiêu hỗ trợ phát triển
Nghiên cứu về DLST ở đây không chỉ nhằm mục đích đơn thuần là tìm hiểu về thị hiếu
du khách để tối đa hóa lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường mà còn phải cung cấp các
thông tin tư liệu, những định hướng chiến lược cơ bản để khuyến khích hỗ trợ
cho sự phát triển, xúc tiến, lập kế hoạch, thiết lập mối quan hệ giữa các ban ngành,
tạo lực đẩy cho sự phát triển của ngành “công nghiệp xanh” này.
Như vậy, DLST phải hội đủ các yêu cầu sau:
- Kích thích sự gia tăng lữ hành về với thiên nhiên.

- Bảo tồn các giá trị của tự nhiên, các giá trị của đa dạng sinh học.
- Giải quyết các mối quan tâm trăn trở về môi trường, kinh tế - xã hội… lấy bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên làm trọng tâm.
- Thúc đẩy sự phát triển bền vững - một trong những nền tảng cơ bản của ngành
kinh tế “sạch” và “xanh”.
IV. Kết luận
 Du lịch sinh thái biển là loại hình cần được đẩy mạnh phát triển trên cơ sở khia
thác hợp lý các thế mạnh của tiềm năng du lịch Việt Nam để đảm bảo sự phát
triển bền vững.
 Để đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái biển đòi hỏi phải có sự chỉ đạo, kết hợp
đồng bộ thể hiện ở 3 lĩnh vực chủ yếu:
- Chủ trương đường lối chính sách của Nhà nước
- Sự quản lý điều hành của chính quyền các cấp
- Sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương

20


Tài liệu tham khảo:
/> /> /> /> /> /> /> /> /> />
21



×