Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

ứng dụng lý thuyết cầu trong việc nghiên cứu thay đổi giá của mặt hàng sting

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.27 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


MÔN: KINH TẾ VI MÔ
Đề tài: ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT CẦU TRONG
VIỆC NGHIÊN CỨU THAY ĐỔI GIÁ CỦA MẶT
HÀNG STING
GVGD: Trần Minh Trí
Nhóm thực hành: Nhóm 8-Lớp thứ 5-Tiết 10,11,12

1
1


ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT CẦU TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU THAY
ĐỔI GIÁ CỦA MẶT HÀNG STING
1

Đặt vấn đề

Nếu bạn là doanh nghiệp thứ n bước vào thị trường, làm sao sản phẩm
của bạn có thể cạnh tranh được với các sản phẩm có tiếng trên thị trường lúc
bấy giờ? Tạo chủng loại mới là một trong những chiến thuật hữu hiệu và rất
nhiều tên tuổi lớn hiện nay đã đi lên từ chiến thuật này.
Thị trường nước giải khát ở nước ta hiện nay vô cùng đa dạng và
phong phú với nhiều chủng loại sản phẩm, đặc biệt là những sản phẩm nước
giải khát không cồn. Do nước ta có khí hậu nóng nên nhu cầu tiêu thụ nước
giải khát của người dân rất lớn. Các nhà sản xuất không ngừng tạo ra một
loại sản phẩm mới góp phần làm phong phú thêm cho thị trường nước giải
khát vốn luôn sôi động.
Chỉ riêng về hai sản phẩm đã và đang rất được ưa chuộng mà chúng


tôi muốn nghiên cứu: sting và trà xanh không độ. Sau một thời gian cạnh
tranh trên thị trường thì sản phẩm nào được người tiêu dùng ưa thích hơn?
Tại sao người tiêu dùng lại ưa thích sản phẩm này hơn sản phẩm kia dù nó
đều cùng có giá như nhau? Điều khác biệt nổi trội nào đã giúp cho sản
phẩm này thắng thế hơn sản phẩm kia trên thị trường? Giá cả quyết định như
thế nào đối với sự chọn lựa sản phẩm của người tiêu dùng? Liệu rằng nếu
giá một sản phẩm này tăng thì có kéo theo doanh thu của doanh nghiệp này
giảm hay không. Và nếu giá sản phẩm sting tăng thì người tiêu dùng có chọn
trà xanh không độ thay thế hay không?
Để giải thích cho những câu hỏi này, vào tháng 4 năm 2016 nhóm
chúng tôi có làm bài khảo sát thị trường đối với mặt hàng sting và trà xanh
không độ, qua bảng khảo sát hệ số co giãn cầu đối với 2 mặt hàng nhóm tôi
thu được kết quả sau:
(1) Xây dựng đường cầu đối với mặt hàng nước sting.
(2) Đo lường mức độ co dãn của cầu theo giá đối với mặt hàng nước
sting.
2
2


(3) Đánh giá tác động của việc thay đổi giá đối với doanh thu của mặt
hàng sting.
(4) Phân tích các yếu tố tác động đến sự thay đổi cầu cá nhân.
Bài khảo sát này vận dụng lý thuyết cầu trong kinh tế học để giải
quyết các vấn đề trên.

3
3



2
1

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu

Để có được các dữ liệu nhằm đạt được mục tiêu khảo sát đưa ra, khảo
sát này chủ yếu sử dụng các số liệu có được từ phương pháp khảo sát trực
tiếp các bạn sinh viên trong trường Đại học Nông Lâm. Sau 2 tuần làm việc
chúng tôi đã chọn được 125 phiếu khảo sát để phân tích cho nghiên cứu này.
Phương pháp phân tích
Nghiên cứu này chỉ sử dụng phương pháp thống kê, kết hợp với
những phép tính toán đơn giản dựa trên các công thức đo lường hệ số co
dãn.
Ngoài ra, để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến cầu, phương pháp
kiểm định Chi-square cũng được sử dụng, nhằm kiểm định các yếu tố như:
thu nhập của người sử dụng có ảnh hưởng đến quyết định cầu (bỏ uống sting
khi tăng giá) hay không. Ngoài ra việc kiểm định cũng xem xét yếu tố sản
phẩm thay thế (mặt hàng nước trà xanh không độ).
2.3 Một số giới hạn và giả định cho nghiên cứu
2

Theo một báo cáo gần đây của Cục quản lý cạnh tranh, trên thị trường
nước giải khát (NGK) Việt Nam hiện có khoảng 300 loại NGK với nhiều
tính năng, tác dụng khác nhau như giải nhiệt, đẹp da, giảm béo, chữa bệnh,
tăng cường sức khỏe…Tạm thời chúng ta có thể phân loại NGK theo 03
nhóm
sau
đây:
- Nhóm nước ngọt có gas như Coca - Cola, Pepsi, 7-Up, Mirinda, Twister,

Sting, Cola Number One, Cream Soda Number One, Soda…
- Nhóm nước ngọt không có gas như nước ép trái cây, sữa đậu nành, Trà
xanh Không độ, nước yến, cà phê đóng lon, nước tăng lực Number One…
- Nhóm nước khoáng, nước tinh khiết đóng chai, đóng bình như La Vie,
Aquafina, Vĩnh Hảo…
Với tổng lượng sản phẩm như vậy, việc nghiên cứu tổng thể khách
hàng sử dụng các sản phẩm này là một điều không thể. Việc chọn mẫu
không đảm bảo tính đại diện, nhưng kết quả này cũng là một cơ sở tham
khảo tốt. Với số mẫu khá (125 mẫu khảo sát) , một số kết quả trong nghiên
của này cũng có thể làm một cơ sở tham khảo có giá trị cho các nhà kinh
4
4


doanh trong việc nắm bắt được phản ứng của người tiêu dùng trước chính
sách tăng giá. Các phân tích kết luận sẽ dựa trên các mẫu khảo sát trên.

5
5


Kết quả nghiêm cứu
3.1 Phân tích cầu cá nhân và cầu thị trường đối với mặt hàng sting
3

a) Cầu cá nhân
Trong nghiên cứu này, sự thay đổi giá với ba mức giá từ 10000VNĐ12000VNĐ – 8000VNĐ. Về lượng, nếu sinh viên vẫn tiếp tục uống mặt
hàng sting được xem như là có lượng. Sau khi tăng giá, nếu sinh viên từ bỏ
uống mặt hàng sting thì được xem như là giảm lượng. sau khi giảm giá thì số
lượng sinh viên uống mặt hàng sting nhiều hơn.

Kết quả khảo sát của 125 sinh viên khi dùng mặt hàng sting cho thấy
sau khi mặt hàng sting tăng giá từ 10000VNĐ-12000VNĐ, lượng trung
bình/ tháng giảm từ 6 chai – 4 chai. Khi mặt hàng sting giảm giá từ
10000VNĐ- 8000VNĐ, lượng trung bình/ tháng tăng từ 6 chai – 8 chai.
>> Do vậy cầu hai nhóm đối tượng này là khác nhau.
Đối với những người tiếp tục sử dụng mặt hàng sting, có thể hiểu
được là lượng dịch vụ không đổi khi có sự tăng về giá. Ngược lại, đối với
những người không uống mặt hàng sting nữa, lượng uống mặt hàng sting
thay đổi khi có sự tăng về giá . Biểu cầu và đường cầu được thể hiện như
sau:

6
6


Bảng 1.Biểu cầu và đường cầu cá nhân khi giá sting giảm
+Biểu cầu
Đơn giá(1000VNĐ)

Lượng (chai)

10

6

8

8

+Đường cầu


Bảng 2. Biểu cầu và đường cầu khi giá sting tăng

7
7


+Biểu cầu
Đơn giá(1000VNĐ)

Lượng( chai)

10

6

12

4

+Đường cầu

b) Cầu thị trường
Cầu thị trường, theo lý thuyết, là tổng của tất cả các cầu cá nhân trong
trong thị trường đó. Như phần trên đã đề cập, việc khảo sát tất cả sinh viên
của trường là việc không thể, do vậy nghiên cứu này chỉ phân tích cầu thị
trường với giả định thị trường chỉ gồm 125 sinh viên được khảo sát.
Việc phân tích giả định trên dù không phản ánh được tổng cầu thị
trường, nhưng việc sử dụng kết quả này để ước lượng các tỷ kệ phần trăm
8

8


thay đổi lượng theo tỷ lệ thay đổi giá có thể suy rộng, trong trường hợp mẫu
mang tính đại diện.
Kết quả khảo sát cho thấy sự tăng, giảm giá với ba mức giá từ
10000VNĐ-12000VNĐ-8000VNĐ làm cho lượng của mặt hàng sting tăng,
giảm từ 767 chai – 503 chai-1035 chai. Điều này phản ứng đúng luật cầu
''giá tăng, lượng giảm và ngược lại, hay lượng và giá có mối quan hệ nghịch
biến''. Điều này có thể được thể hiện như sau:

+ Biểu cầu
Đơn giá(1000VNĐ)

Lượng (chai)

10

767

12

503

8

1035

3.2


Hệ số co giãn cầu theo giá và các yếu tố tác động
a) Đo lường hệ số co giãn

Hệ số co giãn cầu theo giá, theo lý thuyết, là một đại lượng đo lường
mức độ thay đổi của giá. Cụ thể, nó đo lường tỷ lệ phần trăm thay đổi của
lượng khi giá thay đổi 1 phần trăm.
Trong nghiên cứu này, công thức hệ số co dãn khoảng được sử dụng
để xác định hệ số co dãn. Công thức và kết quả vận dụng để tính toán hệ số
co giãn được thể hiện dưới đây.

Khi giá tăng
9
9


Khi giá giảm
b) Một số yếu tố tác động mức độ co giãn
Như vậy, hệ số co dãn cầu theo giá của mặt hàng sting đối với 125
sinh viên được khảo sát là -2,86. Dựa vào giá trị này, có thể đánh giá cầu co
dãn nhiều, với |Ed|= 2,86 >1 khi giá tăng và |Ed|= 1,34>1, khi giá giảm . Kết
quả này sẽ dẫn đến một điều tất yếu là doanh thu của mặt hàng sting sẽ giảm
do tăng giá hoặc ngược lại. Mức độ thay đổi của doanh thu sẽ ứng với mức
độ thay đổi giá sẽ được phân tích ở phần sau. Tình trạng co dãn nhiều của
mặt hàng sting có thể hiểu được với những lý do được lý luận từ thực tiễn
như sau:
Thứ nhất, mặt hàng sting là mặt hàng thông thường, không qua thiết
yếu đối với một số sinh viên. Do vậy, khi tăng giá, một số sinh viên từ bỏ
uống mặt hàng sting. Điều này khiến lượng giảm nhiều khi giá tăng dẫn đến
mức độ co dãn cao.
Thứ hai, mặt hàng sting không phải là nước giải khát duy nhất mà

sinh viên có thể lựa chon. Vì vậy khi giá mặt hàng sting tăng thì sinh viên có
thể lựa chọn mặt hàng trà xanh không độ(sản phẩm thay thế) cho nên việc từ
bỏ mặt hàng sting khi tăng giá cũng là dễ hiểu.
Thứ ba, mặt hàng trà xanh không độ cũng rất dễ tìm mua(hầu như khu
vực quanh trường chỗ nào cũng có) và giá cả hợp lý cũng là một nguyên
nhân khiến nhiều sinh viên từ bỏ mặt hàng sting khi tăng giá. Trường hợp
của nhóm tôi là một ví dụ điển hình cho việc từ bỏ mặt hàng sting do giá
tăng và chọn mặt hàng trà xanh không độ là một giải pháp thay thế.
Thứ tư, mức giá 10000VNĐ-12000VNĐ đối với một số sinh viên là
không đáng kể với thu nhập của họ, nhưng đối với một số ít sinh viên khác
thì mức giá như vậy vẫn khiến họ phải suy nghĩ so với mức thu nhập của họ.
Vì vậy, tỉ trọng mức giá sử dụng mặt hàng sting trong cơ cấu chi tiêu cũng
có thể là một lý do khác ảnh hưởng tới mức độ co dãn.
Thứ năm, tâm lý ''chống độc quyền'' cũng có thể là lí do khiến tỉ lệ
giảm của lượng cao hơn tỉ lệ tăng của giá. Khi đồng loạt các đều tăng giá thì
người tiêu dùng có thể bị tác động và đổi qua sử dụng các măt hàng thay thế.
10
10


Ngoài những lý do trên, có thể còn một số lý do khác khiến hệ số co
dãn không cao.

11
11


3.3

Tác động của giá đối với doanh thu của doanh nghiệp.

* Khi giá sản phẩm tăng

Như phần trên đã đề cập, cầu mặt hàng sting co dãn nhiều và chắc
chắn doanh thu của nhà kinh doanh sẽ giảm nếu tăng giá. Mức giảm được
xác định qua bảng dưới đây (khảo sát 125 người)
Chỉ tiêu

Giá (1000đ)

Lượng (chai)

Doanh thu (1000đ)

Giá trị

10

767

7670

12

503

6036

Chênh lệch

2


-264

-1634

Tỷ lệ (%)

20,0

-34,4

-21,3

Khi giá tăng từ 10000VNĐ-12000VNĐ, doanh thu của các nhà kinh
doanh sting đối với 125 người được khảo sát giảm 1.634.000VNĐ, tương
úng tỉ lệ 21,3%. Đây là một tỉ lệ giảm không quá lớn nhưng cũng không phải
là con số nhỏ. Kết quả phân tích này là một minh chứng cho lý thuyết về hệ
số co dãn. Theo đó, doanh thu chắc chắn sẽ giảm khi cầu co dãn nhiều,
lượng giảm trên 20% khi giá tăng 20% đối với mặt hàng sting
* Khi giá sản phẩm giảm
Chỉ tiêu

Giá (1000đ)

Lượng (chai)

Doanh thu (1000đ)

Giá trị


10

767

7670

8

1035

8280

Chênh lệch

2

268

610

Tỷ lệ (%)

20,0

35,0

8,0

12
12



Khi giá giảm từ 10000VNĐ-12000VNĐ, doanh thu của các nhà kinh
doanh sting đối với 125 người được khảo sát tăng 610.000VNĐ, tương ứng
tỉ lệ 8%. Đây là một tỉ lệ tăng hơi nhỏ nhưng cũng đã gia tăng thu nhập cho
doanh nghiệp khi giảm giá. Theo đó, doanh thu chắc chắn sẽ tăng khi cầu co
dãn nhiều, lượng tăng trên 20% khi giá giảm 20% đối với mặt hàng sting
=> Tóm lại, lượng cầu đối với mặt hàng sting bị ảnh hưởng bởi sự
thay đổi giá
3.4

Các yếu tố quyết định cầu
Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu gồm:
- Sự thay đổi về thu nhập
-Sự thay đổi về giá hàng hóa liên quan
-Thị hiếu hay sở thích người tiêu dùng
- Qui mô thị trường

- Kỳ vọng, tiên đoán của người tiêu dùng về các sự thay đổi liên quan
đến giá mặt hàng sting
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, việc phân tích đúng các yếu tố trên
là không khả thi, vì các thay đổi khác không diễn ra đồng thời với sự thay
đổi giá. Dù vậy, việc phân tích mối tương quan giữa quyết định từ bỏ hay
tiếp tục sử dụng mặt hàng sting của tường cá nhân với các yếu tố trên phần
nào cũng cho thấy được các yếu tố ảnh hưởng đến cầu.
a) Thu nhập của sinh viên dùng mặt hàng sting
Đối với mối cá nhân, thu nhập có thể ảnh hưởng đến quyết định của
họ về việc sử dụng một mặt hàng nào đó. Giả thuyết về mối quan hệ này có
thể được đặt ra là ''khi thu nhập giảm thì người tiêu dùng có xu hướng từ bỏ
mặt hàng sting nhiều hơn khi thu nhập tăng'' (dựa vào số liệu bảng khảo sát).


13
13


*Khi thu nhập tăng 30%
Chỉ tiêu

Thu nhập trung Lượng (chai)
bình (triệu đ)

Doanh thu ( 1000 đ)

Giá trị

2,6

767

7670

3,38

860

8600

Chênh lệch

0,78


93

930

Tỷ lệ (%)

30

12,1

12,1

Khi thu nhập trung bình tăng từ 2.600.000đ-3.380.000đ, doanh thu
của các nhà kinh doanh sting đối với 125 người được khảo sát tăng
930.000VNĐ, tương ứng tỉ lệ 12,1% . Đây là một tỉ lệ tăng không quá lớn
nhưng cũng đã gia tăng thu nhập cho doanh nghiệp. Theo đó, ta thấy được
lượng sẽ tăng khi thu nhập người tiêu dùng tăng nên hàng hóa này có thể
thuộc loại thông thường hoặc xa xỉ.
* Khi thu nhập giảm 30%
Chỉ tiêu

Thu nhập trung Lượng (chai)
bình (triệu đ)

Doanh thu ( 1000 đ)

Giá trị

2,6


767

7670

1,82

613

6130

Chênh lệch

0,78

-154

-154

Tỷ lệ (%)

30

20,1

20,1

14
14



Khi thu nhập trung bình giảm từ 2.600.000đ-1.820.000đ, doanh thu
của các nhà kinh doanh sting đối với 125 người được khảo sát giảm
154.000VNĐ, tương ứng tỉ lệ 20,1% . Đây là một tỉ lệ giảm tương đối lớn.

b) Sự thay đổi giá của mặt hàng thay thế ( mặt hàng trà xanh
không độ)
Mặt hàng trà xanh không độ rất dễ tìm mua cũng có thể ảnh hưởng
đến quyết định của họ khi giá sản phẩm thay thế thay đổi
* Khi giá sản phẩm thay thế tăng 30%
Chỉ tiêu

Giá ( 1000đ)

Lượng (chai)

Doanh thu ( 1000 đ)

Giá trị

10

767

7670

13

841


8410

Chênh lệch

3

74

740

Tỷ lệ (%)

30,0

9,6

9,6

Khi giá sản phẩm thay thế tăng từ 10000VNĐ-13000VNĐ, doanh thu
của các nhà kinh doanh sting đối với 125 người được khảo sát tăng
740.000VNĐ, tương ứng tỉ lệ 9,6%. Đây là một tỉ lệ tăng hơi nhỏ nhưng
cũng đã gia tăng thu nhập cho doanh nghiệp khi giá sản phẩm thay thế tăng.
Theo đó ta thấy được người tiêu dùng có xu hướng chuyển từ lựa chọn trà
xanh không độ sang sting khi giá trà xanh không độ tăng
* Khi giá sản phẩm thay thế giảm 30%
Chỉ tiêu

Giá ( 1000đ)

Lượng (chai)


Doanh thu ( 1000 đ)

Giá trị

10

767

7670

7

570

5700

3

-197

-1970

Chênh lệch

15
15


Tỷ lệ (%)


30,0

25,7

25,7

Khi giá sản phẩm thay thế giảm từ 10000VNĐ-7000VNĐ, doanh thu
của các nhà kinh doanh sting đối với 125 người được khảo sát giảm
1.970.000VNĐ, tương ứng tỉ lệ 25,7%. Đây là một tỉ lệ giảm khá lớn. Theo
đó ta thấy được người tiêu dùng có xu hướng chuyển sang chọn trà xanh
không độ khi giá trà xanh không độ giảm, làm ảnh giảm lượng tiêu thụ cũng
như doanh thu đối với mặt hàng sting.
c) Sở thích/thị hiếu của người sử dụng.
Sở thích/thị hiếu là khái niệm khá trừu tượng và khó có thể đo lường.
Đối với mặt hàng sting, sở thích đối với mỗi sinh viên cũng là khác nhau.
Đối với những sinh viên thích uống mặt hàng sting thì dù giá tăng từ
10000VNĐ-12000VNĐ thì họ cũng không bỏ. Điều này phản ánh sự trung
thành của người tiêu dùng.

16
16


4

Kết luận và khuyến nghị

Tóm lại, từ số liệu khảo sát mặt hàng sting, nghiên cứu này đã xây
dựng đường cầu, đo lường hệ số co dãn cầu và từ đó minh họa được cho lý

thuyết cầu về tác động của độ co dãn cầu đối với doanh thu của người bán
mặt hàng sting, lý thuyết cho rằng, ''khi cầu co dãn nhiều, doanh thu của
doanh nghiệp giảm khi tăng giá và ngược lại''. Cụ thể khi tăng giá mặt hàng
sting từ 10000VNĐ-12000VNĐ(20%), doanh thu từ 125 sinh viên được
khảo sát giảm 21,3%. Khi giảm giá mặt hàng sting từ 10000VNĐ8000VNĐ(20%), doanh thu từ 125 sinh viên được khảo sát tăng 8%. Suy ra
tổng thể, bằng phương pháp phân tích độ nhạy 2 chiều, nghiên cứa này ước
lượng được doanh thu của mặt hàng sting có thể giảm nhiều từ quyết định
tăng giá.
Ngoài tác động trên, việc tăng giá cũng ảnh hưởng đến thặng dư của
người tiêu dùng. Tổng hợp 2 tác động, kết quả nghiên cứa cho thấy không có
ai được lợi từ việc tăng giá này nếu chỉ xem xét mức giá 12000VNĐ theo
tháng này. Thực tế, các nhà sản xuất sting cũng có thể có những mối lợi
khác từ việc tăng giá mà nghiên cứu không đề cập, chẳng hạn tăng chất
lượng của mặt hàng sting, tổ chức các chương trình khuyến mãi để củng cố
uy tín,...
Phân tích các yếu tố quyết định đến cầu, nghiên cứu này cho thấy yếu
tố thu nhập và giá của mặt hàng thay thế là nhân tố chính ảnh hưởng đến
quyết định từ bỏ hay tiếp tục sử dụng mặt hàng sting .
Với những kết quả phân tích được, nghiên cứu này có thể được xem là
một cơ sở tham khảo có giá trị cho người dạy và học kinh tế vi mô, minh họa
cho lý thuyết bằng một ví dụ thực tiễn. Ngoài ra, vài kết quả trong nghiên
cứu này cũng có ý nghĩa tham khảo cho những người kinh doanh khi đứng
trước quyết định điều chỉnh giá bán sản phẩm. Người kinh doanh cần xem
xét tính chất co dãn của hàng hóa, trước khi đưa ra quyết định về giá. Bên
cạnh đó, người kinh doanh cũng cần xem xét đặc điểm nhận khẩu học của
khách hàng để đưa ra quyết định sao cho hợp lý nhất. Điều này quan trọng
bởi lẽ mỗi khách hàng với những đặc điểm cá nhân khác nhau có phản ứng
khác nhau với sự điều chỉnh giá, như được phân tích ở trên.
17
17



Tuy nhiên, do những hạn chế như dã được đề cập ở phần 2, kết quả
nghiên cứu này còn hạn chế khi suy rộng cho tổng thể. Những kết quả và kết
luận trong nghiên cứu có thể đúng trong trường hợp 125 sinh viên được khảo
sát, chưa đủ độ tin cậy để suy rộng cho tổng thể. Vì lẽ đó, những nghiên cứu
qui mô lớn hơn, những phân tích sâu hơn cần được quan tâm nghiên cứu.

18
18



×