Tải bản đầy đủ (.doc) (189 trang)

Quản lý nhà nước vể kinh tế biển của tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.34 MB, 189 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ QUỐC BANG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
KINH TẾ BIỂN CỦA TỈNH THANH HOÁ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NỘI – 2019


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ QUỐC BANG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
KINH TẾ BIỂN CỦA TỈNH THANH HOÁ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
Mã số: 62.34.04.10

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS KIM VĂN CHÍNH

HÀ NỘI – 2019


i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu sử dụng trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
án chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

LÊ QUỐC BANG


ii

MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU

.............................................................................................................1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU............8

1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước liên quan đến đề tài........................8
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài.......................15
1.3. Những khoảng trống chưa nghiên cứu và những vấn đề được
nghiên cứu trong luận án...................................................................29
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH
TẾ BIỂN CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH..........................................34

2.1. Kinh tế biển và quản lý nhà nước về kinh tế biển..............................34
2.2. Quản lý nhà nước về kinh tế biển của chính quyền cấp tỉnh......................47

2.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về kinh tế biển của một số địa phương
...........................................................................................................66
Chương 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ BIỂN CỦA TỈNH
THANH HOÁ......................................................................................80

3.1. Thực trạng kinh tế biển tỉnh Thanh Hoá.............................................80
3.2. Phân tích thực trạng quản lý kinh tế biển của tỉnh Thanh Hoá..........96
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý kinh tế biển của tỉnh Thanh Hoá.........106
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ KINH TẾ BIỂN CỦA TỈNH THANH HOÁ.........................117

4.1. Phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế biển của
tỉnh Thanh Hoá................................................................................117
4.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế biển của tỉnh
Thanh Hoá.......................................................................................127
KẾT LUẬN .........................................................................................................154
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN KHOA HỌC CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
TÁC GIẢ LUẬN ÁN..........................................................................158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................159
PHỤ LỤC


iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BHXH

: Bảo hiểm xã hội


CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GDP

: Tổng sản phẩm trong nước

KCN

: Khu công nghiệp

KKT

: Khu kinh tế

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

KH-CN

: Khoa học, công nghệ

NN - PTNT

: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

NSNN


: Ngân sách Nhà nước

ODA

: Hỗ trợ phát triển chính thức

QLNN

: Quản lý nhà nước

TN-MT

: Tài nguyên và Môi trường

UBND

: Ủy ban nhân dân


iv

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Các ngành kinh tế biển đã thiết lập và mới nổi...........................41
Bảng 2.2: Mức tăng doanh thu du lịch, hiện tại và đến năm 2020...............72
Bảng 3.1 : Số lượng tàu thuyền và sản lượng khai thác...............................85
Bảng 3.2. Số lượt khách du lịch đến Thanh Hóa ngày càng tăng................92
Bảng 3.3. Dân số và tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động.............................95



v

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1.1. Khái niệm về kinh tế biển....................................................................10
Hình 2.1: Lượng khách du lịch đến Đà Nẵng ngày càng tăng............................70
Hình 2.2: Kịch bản cho phát triển du lịch tỉnh Quảng Ninh................................74
Hình 3.1: Tốc độ phát triển tổng sản phẩm trong tỉnh hàng năm (Theo giá so
sánh 2010)...........................................................................................82
Hình 3.2: Thủy sản tăng dần trong cơ cấu Nông- Lâm nghiệp- Thủy sản..........87
Hỉnh 3.3: Khối lượng hàng hóa vận chuyển trên địa bàn....................................88
Hình 3.4. Cảng Nghi Sơn....................................................................................90
Hình 3.5. Đường phân định với tỉnh Ninh Bình bằng phương pháp công bằng
giả định..............................................................................................110
Hình 3.6. Biểu diễn kết quả phân định theo phương pháp đường vuông góc với
hướng chung của bờ biển....................................................................111
Hình 3.7. Phân định ranh giới hành chính trên biển giữa hai tỉnh Thanh Hóa Nghệ An.............................................................................................112


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biển, đảo là một phần lãnh thổ thiêng liêng, có vị trí chiến lược, có vai
trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm đến bảo vệ, quản lý để phát triển kinh tế biển, đảo.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương đưa Việt Nam thành “Quốc gia mạnh
về biển, giàu lên từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển gắn với cơ
cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả
cao với tầm nhìn dài hạn”[4]. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khóa XII) vừa
qua cũng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của kinh tế biển và đã đề ra trong nghị

quyết về mục tiêu, chủ trương của phát triển kinh tế biển bền vững.
Trong bối cảnh mới của tình hình các nước trong khu vực, kinh tế biển
chịu nhiều tác động của yếu tố bên ngoài, sự ảnh hưởng của các nước liên
quan đến biển. Do vậy, muốn kinh tế biển phát triển, quản lý nhà nước
(QLNN) phải được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu, đi tiên phong để hỗ trợ,
thúc đẩy các yếu tố khác cùng tham gia phát triển kinh tế biển. Chính vì vậy,
nhiệm vụ QLNN về kinh tế biển là một nhiệm vụ mang tính chiến lược trong
phát triển kinh tế biển nói riêng và phát triển kinh tế nói chung.
Quản lý nhà nước về kinh tế biển là yếu tố không thể thiếu ở cấp quốc
gia và ở các địa phương, đặc biệt là các địa phương ven biển. Thanh Hoá là
một tỉnh nằm trong số 28 tỉnh ven biển của cả nước, có 102 km bờ biển,
chiếm hơn 3% chiều dài bờ biển cả nước. Trên địa bàn Tỉnh có 6 huyện, thành
phố tiếp giáp với biển, trong số 138 huyện, thị xã và thành phố tiếp giáp với
biển, chiếm 4,3%. Thanh Hoá có vùng ven biển rộng lớn với diện tích
110.655 ha, chiếm 9,95% diện tích toàn tỉnh với các bãi tắm nổi tiếng như:
Hải Tiến- Hoằng Hoá; Hải Hoà- Tĩnh Gia, đặc biệt có khu nghỉ mát Sầm Sơn
là nơi thu hút rất nhiều du khách thường xuyên lui tới. Cảng Nghi Sơn là một
trong các hải cảng nước sâu quan trọng của tỉnh và của cả nước, là một cảng
có nhiều lợi thế, là cửa ngõ để đón tàu thuyền lớn trong nước cũng như quốc


2
tế. Đặc biệt khu kinh tế (KKT) Nghi Sơn được đầu tư và hoạt động với đủ quy
mô quy hoạch. Dọc bờ biển có 5 cửa lạch lớn, thuận tiện cho các đoàn thuyền
đánh cá của nhân dân các huyện, thành phố ra vào. Thanh Hóa còn có vùng
lãnh hải rộng 17.000 km2 với nhiều khu vực có cá, tôm và các loại hải sản
quý, hiếm, có giá trị kinh tế cao, cung cấp nguồn hải sản phục vụ phát triển
ngành khai thác.
Trong những năm gần đây, tỉnh Thanh Hóa đã xây dựng cơ chế và
phương thức quản lý nhà nước nhằm khuyến khích phát triển kinh tế biển.

Đặc biệt, nội dung quản lý nhà nước ngày càng làm rõ, hình thành cơ chế
quản lý, tạo đà cho kinh tế biển của Thanh Hoá phát triển và trên thực tế đã
thu được nhiều kết quả, kinh tế biển phát triển về cơ bản đúng hướng, góp
phần phát triển kinh tế- xã hội (KT-XH) của Tỉnh. Thể hiện cụ thể là trong
giai đoạn những năm gần đây, kinh tế biển đã có bước tiến, tạo tiền đề để
vùng biển và ven biển của Thanh Hoá dần trở thành một trong ba trung tâm
kinh tế ven biển trong vành đai kinh tế vịnh Bắc bộ: Quảng Ninh- Hải PhòngThanh Hoá. Tuy nhiên, so với yêu cầu và tiềm năng, kinh tế biển của Thanh
Hóa chưa đạt mức phát triển hợp lý. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả
đó, mà một nguyên nhân quan trọng quyết định đó là QLNN về kinh tế biển ở
cấp tỉnh. QLNN về kinh tế nói chung, QLNN về kinh tế biển nói riêng của
tỉnh Thanh hoá mới chỉ thiết lập được những bước đi ban đầu, chưa đồng bộ,
chưa tạo được môi trường thuận lợi để các vùng biển phát huy tiềm năng lợi
thế của mình.
Việc nghiên cứu về kinh tế biển và QLNN về kinh tế biển của tỉnh
Thanh Hóa trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Trước hết, thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế biển của quốc gia. Là địa phương ven biển, tỉnh Thanh Hóa
đã xác định rõ nội dung QLNN về kinh tế biển cả về lý luận, thực tiễn. Trong
những năm qua, từ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và thực trạng của kinh tế
biển, đã đề ra các giải pháp QLNN về kinh tế biển để phát huy được các tiềm


3
năng lợi thế biển của địa phương. Để xây dựng cơ chế, bộ máy tổ chức thực
hiện tốt các chức năng QLNN về kinh tế biển của tỉnh Thanh Hóa có những
nội dung chung cho tất cả các tỉnh, thành ven biển, nhưng cũng có những nội
dung rất đặc trưng của địa phương.
Từ những vấn đề lý luận, thực tiễn QLNN về kinh tế biển mà tỉnh đã
đạt được, những hạn chế thiếu sót còn tồn tại để tìm ra những giải pháp phù
hợp hoàn thiện QLNN về kinh tế biển ở Thanh Hóa, qua đó thúc đẩy kinh tế
biển phát triển trong mối quan hệ với kinh tế biển toàn quốc, cần có những

công trình nghiên cứu khoa học, tìm hiểu về mô hình QLNN về kinh tế biển ở
cấp tỉnh, các nội dung phân cấp QLNN về kinh tế biển đối với chính quyền
tỉnh, rà soát lại toàn bộ hoạt động QLNN của tỉnh về kinh tế biển, làm rõ
những điểm mạnh để phát huy, điểm yếu để khắc phục, từ đó có cơ sở luận
chứng các giải pháp xây dựng và hoàn thiện QLNN về kinh tế biển của tỉnh
Thanh Hóa. Đó chính là lý do nghiên cứu sinh chọn đề tài “Quản lý nhà
nước về kinh tế biển của tỉnh Thanh Hoá” làm đề tài nghiên cứu luận án
tiến sĩ.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực
tiễn của nội dung QLNN về kinh tế biển trên địa bàn tỉnh, làm rõ tiềm năng
và thực trạng QLNN về kinh tế biển của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua,
đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện nội dung QLNN về kinh tế biển
của tỉnh Thanh Hoá trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của QLNN về kinh
tế biển của chính quyền cấp tỉnh.
- Tổng hợp kinh nghiệm QLNN về kinh tế biển của một số tỉnh trong
nước, rút ra bài học cho Thanh Hóa.


4
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện QLNN về kinh tế biển của
tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2016, chỉ ra thành công, hạn
chế và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN về kinh tế biển
của tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn đến 2020 và tầm nhìn 2025.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu:

Nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn của chính quyền tỉnh
Thanh Hóa trong quản lý nhà nước về kinh tế biển đặt trong khuôn khổ phân
cấp theo quy định của Nhà nước và Chính phủ trong chiến lược phát triển
kinh tế biển.
Quan hệ quản lý của Nhà nước về kinh tế biển được xem xét chủ yếu ở
cấp tỉnh. Trong phạm vi nhất định, có đề cập đến các nội dung QLNN của
chính quyền cấp huyện, xã. Các nội dung QLNN ở cấp tỉnh được quy định
chung trong toàn quốc và thực hiện quản lý do Trung ương quy định cũng
được xem xét trong luận án.
Quản lý nhà nước về kinh tế biển là một lĩnh vực đặc thù tổng hợp,
không tách bạch và có cơ quan quản lý riêng biệt như các lĩnh vực khác như:
nông nghiệp, công nghiệp… Đối tượng nghiên cứu được xác định theo các
quan điểm và chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành, thể
hiện ở các ngành, các đối tượng quản lý trực tiếp ở các vùng ven biển và các
ngành nghề liên quan đến biển.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Từ đối tượng nghiên cứu trên, luận án tập trung
nghiên cứu về nội dung QLNN về kinh tế biển được tiếp cận theo nội dung
chiến lược quy hoạch, kế hoạch, thực hiện quy hoạch và bộ máy QLNN về
kinh tế biển trong khung khổ phân cấp cho cấp tỉnh. QLNN về kinh tế biển
bao gồm các lĩnh vực xác định, thực hiện chiến lược, quy hoạch, ban hành


5
thực hiện chính sách, tổ chức bộ máy quản lý, làm thủ tục hành chính về quản
lý, kiểm tra, thanh tra thực hiện... Về nội dung các ngành trong tập hợp kinh
tế biển, xem xét các ngành chủ lực đặc trưng của Thanh Hóa bao gồm ngư
nghiệp, du lịch, công nghiệp ở các KCN, KKT ven biển.
- Phạm vi về không gian: Kinh tế biển với tư cách đối tượng QLNN của
tỉnh Thanh Hoá được giới hạn trên địa bàn hành chính tỉnh thuộc trách nhiệm

quản lý của chính quyền tỉnh Thanh Hóa. Các vùng ven biển và các KKT ven
biển đã được thống nhất trong các số liệu thống kê, báo cáo của tỉnh Thanh
Hóa theo các chuẩn mực quy định.
- Phạm vi về thời gian: Thực trạng QLNN về kinh tế biển của tỉnh Thanh Hoá
trong giai đoạn 2010- 2016, các đề xuất dự kiến đến 2025, tầm nhìn đến 2030.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Luận án tiếp cận nội dung quản lý nhà nước về kinh tế biển và sử dụng
phương pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa, khái quát hóa, kế thừa có
chọn lọc các công trình nghiên cứu đã có và bổ sung các ý tưởng mới về quản
lý của tác giả. Chủ đạo ở đây là phương pháp nghiên cứu tài liệu bằng việc
tổng hợp các kết quả nghiên cứu có trước đã công bố và được thừa nhận rộng
rãi, đúc kết ra những kết luận cần thiết cho Luận án. Các quy định pháp lý,
hành chính cũng là nguồn quan trọng để kết luận về các nội dung học thuật về
QLNN được nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Kế thừa có chọn lọc, phân tích hệ thống, thống kê, so sánh trên cơ sở
các tài liệu, số liệu thực tế của các ngành địa phương để tổng hợp, đánh giá
thực tiễn đã có và dữ liệu thống kê chính thức đã được tổng hợp báo cáo.
- Phương pháp phân tích. Các phân tích về tình hình phát triển kinh tế
biển, về các khía cạnh QLNN của tỉnh Thanh Hóa được thực hiện theo lát cắt


6
theo thời gian để làm rõ sự thay đổi, biến chuyển. Luận án còn phân tích theo
thời gian, so sánh với kinh nghiệm địa phương khác dựa trên số liệu thống kê
và báo cáo của các Sở, ban ngành của tỉnh đối với quản lý nhà nước về kinh tế
biển ở tỉnh Thanh Hóa.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập thông tin, tài liệu, lấy ý kiến
của 600 cán bộ quản lý và nhân dân trên địa bàn 6 huyện, thành phố ven biển

tỉnh Thanh Hóa dựa trên phiếu điều tra xã hội học cũng là một phương pháp
quan trọng sử dụng trong Luận án. Phiếu điều tra chọn mẫu được thiết kế trên
số mẫu là 600, đủ đại diện để thu thập thông tin, lấy ý kiến của 600 cán bộ
quản lý và nhân dân trên địa bàn 6 huyện, thành phố ven biển tỉnh Thanh Hóa.
Phiếu điều tra được chia theo địa bàn đồng đều trên 6 huyện, thành phố ven
biển và các ý kiến ban đầu được thư thập bảo đảm sự khách quan, trung thực
về ý kiến của mọi người liên quan và am hiểu các vấn đề cần thu thập thông
tin. Kết quả thông tin của các phiếu điều tra được tổng hợp chủ yếu theo
phương pháp cộng dồn phân tổ để làm rõ các loại quan điểm phổ biến hoặc
không phổ biến, đồng tình hoặc không đồng tình làm cơ sở để phân tích, đánh
giá và đưa ra các kết luận khách quan về các quan điểm hoặc giải pháp cần có
sự đồng thuận của nhiều người.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án đã có những đóng góp mới về mặt khoa học sau đây:
- Phân tích và làm rõ khái niệm kinh tế biển, khái niệm QLNN về kinh
tế biển áp dụng cho cấp tỉnh của Việt Nam, chỉ rõ vị trí, vai trò của QLNN về
kinh tế biển ở cấp tỉnh trong điều kiện phát triển hiện nay.
- Làm rõ các nội dung chính QLNN về kinh tế biển ở cấp tỉnh: bao gồm
4 nhóm nội dung là tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách; xây dựng quy
hoạch, kế hoạch; tổ chức quản lý phát triển các ngành kinh tế biển mà tỉnh có
thế mạnh; thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm về kinh tế biển. Ngoài ra, cấp tỉnh


7
còn có nhiệm vụ xác định ranh giới biển, đảo với các tỉnh lân cận để để phối
hợp, cùn quản lý, khai thác và bảo vệ tài nguyên biển có hiệu quả nhất.
- Làm rõ quá trình thực hiện QLNN, chỉ ra các thành công, hạn chế và
nguyên nhân trong QLNN về kinh tế biển của tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất các giải pháp mang tính mới và đột phá trong hệ thống giải
pháp hoàn thiện QLNN về kinh tế biển của tỉnh Thanh Hoá có thể áp dụng

nhân rộng cho các tỉnh tương đồng. Đó là: tăng cường phối hợp chính sách,
lồng ghép các chương trình đầu tư phát triển giữa các ngành và cơ quan trong
phát triển kinh tế biển, nâng cao chất lượng và tăng cường tính tuân thủ quy
hoạch, kế hoạch về kinh tế biển.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án được trình bày trong 4 chương, 11 tiết.


8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Những nghiên cứu về khái niệm kinh tế biển
Quan niệm và khoa học và pháp luật trên thế giới về những vấn đề như
kinh tế biển, sở hữu vùng biển, thềm lục địa, đặc quyền kinh tế mới xuất hiện
vài chục năm trở lại đây đang là những nội dung tranh luận, chưa đưa ra được
sự thống nhất. QLNN về kinh tế biển và phát triển kinh tế biển lại càng là lĩnh
vực khá chuyên sâu nên chưa được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Tuy nhiên, trên thế giới diễn đàn lý luận cũng đã xuất hiện một số công trình
bàn về lĩnh vực này. Có thể nêu ra một số thành tựu đã đạt được và các công
trình tiêu biểu được ghi nhận như sau:
Các nhà khoa học bàn luận khá nhiều về khái niệm kinh tế biển. Yang
Jinsen. Bàn về khái niệm kinh tế biển, ông cho rằng: “kinh tế biển là tổng hợp
các hoạt động hàng hải hoặc cho sự phát triển của nguồn tài nguyên biển và
đối tượng của hoạt động kinh tế khác nhau” [110]. Theo quan điểm này, tác
giả nhìn nhận kinh tế biển theo quan điểm chủ yếu là lấy ngành vận tải biển
làm trục trung tâm.

Các học giả Trung Quốc : Dương Kim Thâm, Lương Hải Tân và Hoàng
Minh Lỗ cho rằng:
Kinh tế biển bao gồm ba loại ngành nghề theo các thời kỳ khác
nhau là nghề đánh bắt hải sản, làm muối và vận tải biển là những
nghề biển truyền thống, khai thác dầu khí trên biển, nghề nuôi trồng
hải sản và ngành du lịch biển là nghề biển mới phát triển,[62].
Trong tương lai có thể khai thác các nguồn năng lượng có trong biển và
các loại tài nguyên khoáng sản của biển như băng cháy, nước biển là những
ngành nghề biển đóng góp một phần quan trọng đối với kinh tế biển.


9
Định nghĩa này đã khái quát tương đối đầy đủ các ngành nghề của kinh
tế biển. Tuy nhiên, các học giả chưa đề cập đến một số ngành nghề khác như
chế biến hải sản, dịch vụ hậu cần nghề cá, cảng biển,…
Xu Zhibin chia thành “ba cấp độ của nền kinh tế biển” [109]. Ông tin
rằng bản chất của các tài sản gắn liền với kinh tế biển không chỉ khác nhau từ
các điểm phân giới cắm mốc đất nền kinh tế biển, mà còn để xác định kinh tế
biển chủ yếu dựa vào nội dung phù hợp với mức độ hoạt động kinh tế liên
quan đến biển. Kinh tế biển có thể được chia thành ba cấp độ sau đây: (i) kinh
tế biển theo nghĩa hẹp, đề cập đến sự phát triển và sử dụng các nguồn tài
nguyên biển, nước biển và không gian biển và sự hình thành của nền kinh tế,
(ii) kinh tế biển theo nghĩa rộng, đề cập đến việc cung cấp các điều kiện kinh
tế cho các hoạt động phát triển hàng hải, bao gồm cả kinh tế biển và thu hẹp
giao diện của ngành công nghiệp, cũng như sản xuất thiết bị chung đất và
biển, vv; ; (iii) kinh tế trên đảo, cũng như hệ thống đất ven biển công nghiệp,
trong đó có nền kinh tế đảo và nền kinh tế ven biển.
Charles S. Colgan tin rằng “kinh tế biển là những hoạt động có nguồn
gốc từ biển. Cụ thể gồm hoạt động liên quan đến biển như khai thác biển, hải
sản và ngành vận tải biển” [112].

Một định nghĩa tương tự được Park, đề xuất sau khi tiến hành một
nghiên cứu rộng về các định nghĩa và nhận thức khác nhau trên thế giới về
kinh tế biển. Theo họ, “Kinh tế biển là các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển
và cả các hoạt động cung cấp hàng hóa và dịch vụ liên quan đến biển” [113].
Nói cách khác, kinh tế biển có thể được định nghĩa là các hoạt động kinh tế
trực tiếp hoặc gián tiếp diễn ra trên biển, khai thác đại dương để tạo ra hàng
hoá và dịch vụ.
Theo quan điểm của OECD, bất cứ một định nghĩa nào về kinh tế biển
được coi là đầy đủ cũng cần phải bao gồm các nguồn dự trữ tài nguyên thiên
nhiên không thể định lượng và các hàng hóa và dịch vụ phi thị trường của hệ
sinh thái biển (Hình 1.1).


10

Hình 1.1. Khái niệm về kinh tế biển
Nguồn: OECD, The Ocean Economy in 2030
Richard Bunroughs trong công trình Coastal Grovermance - Quản trị
vùng ven biển,[106] đã chỉ ra những thách thức đối với vùng ven biển trong
quá trình phát triển kinh tế xã hội, những hoạt động sản xuất không gắn liền
với kinh tế ven biển cũng được phân tích, chỉ ra các yếu tố liên quan đến việc
quản lý đối với sự phát triển của kinh tế ven biển như khai thác dầu, đánh cá,
quản lý nước thải…nghiên cứu này cũng đề cập đến quá trình quản lý thực thi
chính sách và áp dụng đối với việc phát triển kinh tế biển.
William H.Arery trong công trình “Năng lượng có thể thay mới từ Đại
dương” (Renewwable Energy From the Ocean) ) [117] đã nghiên cứu các
hoạt động công nghệ thông tin trên biển, khẳng định việc sử dụng năng lượng
tái tạo đang phát triển và mở rộng ứng dụng trên toàn cầu.
Tại Hội thảo khoa học quốc gia “Nghiên cứu và quản lý vùng ven biển
Việt Nam” tháng 12/1992, Giáo sư Joe Baler của Viện Khoa học biển Autralia



11
đã dẫn ra mộ số định nghĩa về dải ven biển như sau: Đầu tiên ông cho rằng:
“Dài ven biển là độ dài đường bờ biển của đất nước” (The lineal of the
country’s coastlene) [114] . Nhưng cũng theo ông, định nghĩa này chưa thật
thỏa đáng vì nó không thể hiện được sự tương tác giữa biển và lục địa cũng
như những biến đổi diễn ra do mối tương tác đó. Vì vậy, ông đưa ra định
nghĩa khác: “vùng ven biển là dải đất rộng khoảng 3 km dọc đường bờ biển”.
Tuy định nghĩa này đã đề cập đến sự tương tác biển – lục địa thông qua tác
động của thủy triều, song vẫn còn những hạn chế, nhất là khi nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến sử dụng đất đai, thổ nhưỡng và các vấn đề về
kinh tế - xã hội của dải ven biển. Sau cùng ông đưa ra định nghĩa: “vùng ven
biển là vùng đất – biển kéo dài từ giới hạn phía trên của lưu vực các sông,
suối chảy vào biển tới giới hạn ảnh hưởng của lục địa”. Tuy nhiên, nếu định
nghĩa này thì vùng ven biển nước ta có phạm vi rất rộng và hầu như bao trùm
toàn bộ lãnh thổ của Việt Nam. Khi đó việc xác định nội dung nghiên cứu,
trọng điểm nghiên cứu và quy hoạch phát triển vùng ven biển ở nước ta sẽ
gặp nhiều khó khăn, không cụ thể và không sát với thực tế.
1.1.2. Những nghiên cứu về quản lý nhà nước về kinh tế biển
Dương Kim Thâm, Lương Hải Tân, Hoàng Minh Lỗ trong công
trình“Chiến lược khai thác biển của Trung Quốc” [62] đã đề cập khá toàn
diện đến các nội dung của quản lý kinh tế biển ở Trung Quốc như: Khai thác
hải sản, phát triển kinh tế hàng hải, phát triển du lịch biển,.. Các tác giả không
chỉ phân tích hiện trạng của các ngành này trong hiện tại, mà còn đưa ra các
dự báo về trữ lượng hải sản, vạch ra chiến lược phát triển của những ngành
này trong tương lai, cũng như đưa ra một số khuyến nghị chính sách phát kinh
tế biển. Các tác giả chú ý đặc biệt đến ngành thủy sản, đã khảo sát trữ lượng
đánh bắt hải sản của Trung Quốc và kiến nghị Nhà nước Trung Quốc phải có
các chính sách quản lý thích hợp để phát triển một cách đồng bộ ngành thủy

sản từ đánh bắt, nuôi trồng tới chế biến và xuất khẩu thủy sản.


12
David K.Y.Chu trong công trình “Friyian: Tỉnh ven biểu trong quá
trình chuyển đổi và biến đổi” (Fiyian: A coastal Province in Transition an
Transformation) )[113] đã khái quát quá trình quản lý phát triển kinh tế biển
ở Fiyian trên các khía cạnh nông nghiệp, phát triển kinh doanh và thu hút vốn
đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài vào phát triển khu vực này. Các chiến
lược chính sách được thực thi đối với việc phát triển kinh tế ven biển ở khu
vực này đã được các tác giả phân tích về phương diện thực tiễn của Fiyian.
“The Asian experiencein developing the marintime sector: Some case
studies and lessons for Malaysia - Kinh nghiệm quản lý, phát triển kinh tế biển
của một số nước Châu Á và bài học cho Malaysia” của Nazery Khalid, Armi
Suzana Zamil và Farida Farid [113] đã nêu bật vai trò và tầm quan trọng của
ngành khai thác tài nguyên biển, đặc biệt là khai thác dầu khí. Một trong các vấn
đề quan trọng mà công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra là khai thác khoáng sản là
ngành rất dễ gây ô nhiễm môi trường. Do đó, Nhà nước phải có chính sách về
quản lý khai thác nguồn tài nguyên biển để sao cho hoạt động khai thác vừa có
hiệu quả lại không ảnh hưởng tới vấn đề ô nhiễm môi trường.
Các nhà kinh tế Trung Quốc đã có nhiều công trình nghiên cứu về các
khu kinh tế ven biển. Các tác giả này coi các khu kinh tế ven biển như là cực
tăng trưởng tạo động lực cho sự phát triển các ngành kinh tế khác trong nội
địa. Theo họ, vai trò của các khu kinh tế ven biển như là “cửa sổ” để mở cửa
ra với bên ngoài thông qua thu hút FDI và đẩy mạnh xuất khẩu, “cực tăng
trưởng” để lôi kéo các vùng khác trong cả nước phát triển, “phòng thí
nghiệm” của cải cách thể chế trong cả nước. Các tác giả này đã chỉ ra chiến
lược chính sách quản lý để phát triển khu kinh tế ven biển thông qua một số
bước như: (1) Xây dựng các đặc khu kinh tế; (2) Tăng cường mở cửa thành
phố cảng ven biển; (3) xây dựng khu kinh tế tự do ven biển.

Trung Quốc đã rất thành công trong việc áp dụng các mô hình quản lý
để phát triển ở dải ven biển. Các đặc khu kinh tế ven biển như Thâm Quyến,


13
Chu Hải, Phúc Kiến, Sán Dầu…đã tạo được tốc độ tăng trưởng rất cao trong
thời gian dài và trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy các vùng khác trong
nước. Các mô hình kinh tế du lịch, cảng biển, kinh tế làng nghề…được thực
hiện ở nhiều địa phương ven biển cũng tạo ra sự phát triển năng động và đóng
góp lớn cho nền kinh tế của địa phương (tỉnh Quảng Tây chỉ có hơn 500 km
bờ biển nhưng hàng năm biển đã đóng góp tới 37-38% GDP của tỉnh). Bài
học lớn của Trung Quốc là quản lý tốt để đầu tư có trọng điểm và lồng ghép
có hiệu quả vấn đề môi trường sinh thái trong các quy hoạch phát triển vùng
ven biển.
Thái Lan cũng đã quản lý nhà nước về kinh tế biển, nên đã thu được
những kết quả quan trọng trong phát triển các khu công nghiệp, các mô hình
kinh tế du lịch, cảng biển…ở ven biển phía Tây và mô hình kinh tế du lịch,
các làng chài ở ven biển phía Đông. Đặc biệt, Thái Lan đã rất thành công
trong việc nghiên cứu và áp dụng mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên môi
trường biển và ven biển trong phát triển tổng hợp khu vực cửa sông ven biển
Pak Phanang.
Có thể nói, những bài học kinh nghiệm về quản lý để phát triển dải ven
biển nói chung và các mô hình quản lý để phát triển KT-XH điển hình ven
biển nói riêng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là một số nước trong khu vực
đã mở ra những triển vọng lớn cho việc tổ chức nghiên cứu và áp dụng các
mô hình quản lý để phát triển phù hợp đối với ven biển Việt Nam.
“State of the U.S. Ocean and Coastal Economies: 2016 Update” của
các tác giả: Judith T. Kildow, Charles S. Colgan, Pat Johnston, Dr. Jason D.
Scorse và Maren Gardiner Farnum cho rằng, so với các quốc gia có biển khác
trên thế giới thì kinh tế biển, kinh tế ven biển của Mỹ đóng góp một giá trị

không tương xứng cao cho nền kinh tế nước này. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu
giai đoạn 2010-2014 để phân tích, đánh giá sự phát triển nền kinh tế biển,
kinh tế ven biển của Mỹ. Trong chương 2 nghiên cứu về nền kinh tế ven biển,


14
nghiên cứu cho thấy trong giai đoạn 2010-2014, nền kinh tế Mỹ phục hồi từ
cuộc suy thoái nghiêm trọng của giai đoạn 2007-2009. Tăng trưởng GDP cả
nước trung bình 1,8%/năm, việc làm tăng trưởng trung bình 1,6%/năm. Nhờ có
mô hình phát triển kinh tế phù hợp mà tốc độ tăng trưởng việc làm ở các khu
vực ven biển là rất lớn, tăng nhanh hơn tỷ lệ tăng trưởng của dân số. Tuy nhiên,
đây chỉ là một đánh giá đơn thuần dựa trên số liệu thực tế, chưa có sự phân tích
sâu sắc tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến sự quản lý để phát triển kinh
tế biển, kinh tế ven biển của Mỹ giai đoạn 2010-2014.
“The estimation of the ocean economy and coastal economy in South
Korea - Dự báo kinh tế biển và kinh tế ven biển ở Hàn Quốc” của tác giả
Kwang Seo Park khẳng định rằng, Hàn Quốc có ngành công nghiệp biển,
công nghiệp tàu thủy hàng đầu thế giới, dịch vụ vận tải biển và dịch vụ cảng
biển cũng có khả năng cạnh tranh đẳng cấp thế giới. Tuy nhiên, tác giả cho
rằng, rất khó để biết được quy mô và tình trạng của các ngành công nghiệp
đại dương trong nền kinh tế quốc gia Hàn Quốc vì nước này chưa có thống kê
riêng đối với kinh tế biển, kinh tế ven biển.
Như vậy, các học giả nước ngoài đã có những nghiên cứu có giá trị về
các khái niệm, quan điểm đối với kinh tế biển. Nhìn chung có thể khái quát
rằng mặc dù còn có những khác biệt về quan điểm luật pháp cũng như chính
sách đối với một số đối tượng thuộc về kinh tế biển nhưng các học giả thống
nhất với nhau ở điểm chung cho rằng, kinh tế biển là một phạm trù có vị trí
vai trò riêng, đủ để phân lập thành một lĩnh vực riêng để nghiên cứu, ra những
quy định pháp lý và có những biện pháp chính sách riêng. Nội hàm kinh tế
biển có thể quan niệm rộng hẹp khác nhau nhưng ít nhất nó bao gồm tất cả

những ngành sản xuất gắn với các đối tượng sản xuất ở vùng biển và ven
biển. Việc nhà nước có những biện pháp đối với những đối tượng thuộc về
kinh tế biển có thể coi là nội dung QLNN về kinh tế biển bao gồm chủ yếu là
khuôn khổ pháp luật và hệ thống chính sách. Hệ thống này đòi hỏi tính chuấn


15
mực chung vì nó liên quan đến các công ước quốc tế về biển, về kinh tế biển
và các ngành sản xuất, vận tải gắn với biển.
1.2.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.2.1. Những nghiên cứu về kinh tế biển
Ở Việt Nam, nghiên cứu về biển và kinh tế biển đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu phục vụ cho nhu cầu luật pháp, chính sách và quản lý trong
những năm vừa qua.
Trước hết là về khái niệm “kinh tế biển”. Trong cuốn sách “Phát triển
kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam” của Đào Duy Quát và Phạm
Văn Linh đã đưa ra khái niệm kinh tế biển cũng có thể được hiểu theo nhiều khía
cạnh, trong đó có quan điểm cho rằng: “kinh tế biển là hoạt động kinh tế có ba
lợi ích kinh tế phục vụ con người rõ ràng nhất là vận tải đường biển, khai thác
nguồn tài nguyên phong phú của biển và du lịch, viễn thông” [52].
Khi nói về khái niệm kinh tế biển, tác giả Huỳnh Văn Thanh trong
Giải pháp cơ bản nhằm phát triển bền vững và có hiệu quả kinh tế biển thành
phố Đà nẵng, Đề tài Khoa học cấp Thành phố, Sở Kế hoạch và Đầu tư,
UBND Tỉnh Đà Nẵng cũng đã đưa ra quan điểm:
Kinh tế biển là sự kết hợp hữu cơ giữa các hoạt động kinh tế trên
biển với các hoạt động kinh tế trên đất liền, trong đó biển chủ yếu
đóng vai trò khai thác nguyên liệu, cho hoạt động vận tải, hoạt động
du lịch trên biển, còn hầu hết các hoạt động tổ chức sản xuất, chế
biển, hậu cần dịch vụ phục vụ khai thác biển lại nằm trên đất

liền[78].
Nhờ có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật của những thập kỷ
gần đây làm cho con người có thể khai thác, sử dụng nhiều loại tài nguyên
thiên nhiên của biển và đại dương .
Theo Bùi Tất Thắng trong bài viết về “Chiến lược kinh tế biển: Cách
tiếp cận và những nội dung chính” [65] thì cho rằng khái niệm kinh tế biển


16
vẫn là khái niệm còn chưa có sự thống nhất. Tuy nhiên, trên thực tế, trong
phân tích và thống kê kinh tế, việc quy ước nội dung kinh tế biển lại không
phải vấn đề gây nhiều tranh cãi về mặt học thuật. Về cơ bản, kinh tế biển là
khái niệm mang tính thực tiễn, nghĩa là người ta có thể không tranh cãi nhiều
về bản thân các ngành nghề thuộc kinh tế biển, mà phần phải bàn cãi nhiều
hơn lại thuộc về lĩnh vực liên quan và không phải diễn ra trên biển. Do tính
đặc thù của môi trường biển, mọi hoạt động kinh tế biển đều liên quan mật
thiết và được quyết định từ trong đất liền, nên không thể nói về kinh tế biển
mà không tính tới những hoạt động kinh tế liên quan đến biển ở vùng duyên
hải- vùng ven biển. Vùng ven biển phải được coi như một khu vực gắn với
biển và kinh tế biển.
Trong báo cáo khoa học của Ủy ban Quốc gia về biển của Việt Nam
(IOC), Đặng Ngọc Thanh, chủ nhiệm các Chương trình điều tra nghiên cứu
biển của Việt Nam giai đoạn 1977-2000 đã đưa ra khái niệm vùng ven biển
như sau: Vùng ven biển Việt Nam chạy dài trên 3260 km bờ biển của đất
nước, bao gồm 24/50 tỉnh và thành phố, 100/400 huyện với số dân chiếm ¼
dân số cả nước Vùng ven biển phải được coi như một khu vực gắn với biển và
kinh tế biển.
Như vậy, các học giả Việt Nam cũng đã bước đầu nghiên cứu và có kết
quả khẳng định về những khái niệm cơ bản về kinh tế biển. Các nghiên cứu
này có kế thừa rõ rệt các nghiên cứu quốc tế và do vậy không có sự khác biệt

với các kết quả nghiên cứu quốc tế. Luật Biển Việt Nam đã được ban hành
năm 2012 đánh dấu thành tự nghiên cứu về luật pháp và chính sách đối với
kinh tế biển. Các phạm trù như biển, vùng biển, vùng ven biển, kinh tế biển,
các ngành kinh tế biển đã được làm rõ và đưa vào ngôn ngữ thể chế luật pháp
và chính sách. Đồng thời, các biện pháp QLNN về biển và kinh tế biển cũng
đã được chính thức thừa nhận.


17
Kỷ yếu Hội thảo: Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển thủy sản Việt
Nam, do Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên Quốc tế, Trung tâm phát triển Cộng
đồng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…phối hợp tổ chức. 22 bài
tham luận tại Hội thảo cho thấy, khai thác tiềm năng biển, sử dụng các nguồn
lực biển ở nước ta trong thời gia qua đã được coi trọng nên đã đem lại lợi ích
tích cực cho công cuộc phát triển kinh tế. Các ngành khai thác đem lại hiệu quả
cao như: dầu khí, thủy sản, du lịch, cảng biển… đã đóng góp đáng kể vào tăng
trương của kinh tế biển và ngày càng khẳng định vị thế quan trọng, chủ lực trong
nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, hiệu quả thu được trong phát triển kinh tế nhờ
lợi thế kinh tế biển chưa đúng tiềm năng kinh tế vốn có của nó. Chính vì vậy cần
phải xây dựng tầm nhìn chiến lược đối với việc phát triển thủy sản và kinh tế
biển ở Việt Nam trong giai đoạn tới. Các giải pháp phát triển kinh tế biển và phát
triển thủy sản của Việt Nam trong giai đoạn tới nên hướng tới mục tiêu huy động
tối đa nguồn lực trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên của vùng biển.
Hội nghị Xúc tiến đầu tư kinh tế biển Việt Nam với mục tiêu góp phần
nhận diện rõ các tiềm năng và triển vọng của tài nguyên biển và kinh tế biển
của Việt Nam; tìm kiếm giải pháp và đóng góp ý kiến cho việc hoạch định
chiến lược phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Hội nghị cũng chú trọng vào
việc xúc tiến các hoạt động quản lý, đầu tư, tạo cơ hội cho các nhà đầu tư
trong và ngoài nước gặp gỡ trao đổi và tìm kiếm cơ hội đầu tư.
Diễn đàn Kinh tế Biển Việt Nam với chủ đề “Động lực và thách thức

cho sự phát triển của khu kinh tế ven biển Việt Nam” [13] tổ chức tại Thành
phố Nha Trang. Tại diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trường
Nguyễn Văn Đức khẳng định: “Chúng ta cũng chưa có được nguồn nhân lực
mạnh và một hạ tầng kỹ thuật cần thiết, nhất là các thiết bị công nghệ hiện đại
khảo sát nghiên cứu để phục vụ cho sự phát triển kinh tế biển. Bên cạnh đó,
cuộc sống của phần lớn cư dân ven biển, những người trực tiếp tham gia vào
việc khai thác tài nguyên biển còn gặp nhiều khó khăn, chịu nhiều rủi ro từ


18
thiên tai, có nhiều bấp bênh”. Hội thảo cho rằng để phát triển kinh tế biển
trong giai đoạn tới một trong các giải pháp là tập trung nguồn lực xây dựng
các tuyến giao thông ven biển nối liền các khu kinh tế làm cơ sở tạo mối liên
kết, tương hỗ lẫn nhau giữa các khu kinh tế ven biển, làm tiền đề hình thành
trục động lực phát triển ven biển.
Cuốn sách “Vấn đề phát triển các khu kinh tế mở hiện đại vùng ven
biển Việt Nam” của Nguyễn Quang Thái, Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà
Nội [74] đã chỉ ra những thành công trong việc phát triển các khu kinh tế đặc
biệt nói chung, các khu kinh tế mở hiện đại ven biển nói riêng. Tác giả cho
rằng, để tiếp tục triển khai mạnh mẽ hơn nữa việc phát triển các khu kinh tế
mở hiện đại ven biển cần quan tâm tới hai vấn đề then chốt đó là 1) Cần đầu
tư tập trung hơn, hiện đại hơn để phát huy các lợi thế ven biển; 2) Có cơ chế
quản lý mở vùng ven biển để thích ứng với tình hình mới.
Cuốn sách “Phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam”
của Đào Huy Quát và Phạm Văn Linh [52], đã tập trung nghiên cứu các vấn
đề về quản lý, điều tra, khai thác tài nguyên biển đảo, phát triển kinh tế hàng
hải, an ninh và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Nguyễn Bá Diến với nghiên cứu: “Chính sách, pháp luật biển của Việt
Nam và chiến lược phát triển bền vững” được thực hiện trong khuôn khổ Dự
án “các nguyên tắc trong thực tiễn quản lý biển và đới bờ”,[14] giữa Đại học

Quốc gia Hà Nội, trường đại học Dalhousie (Canada) và Trường Đại học
Visâys (Philipin) dưới sự tài trợ của cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Canada.
Nội dung của nghiên cứu trình bày tổng quan về: chính sách, pháp luật về biển
và nguyên tắc phát triển bền vững; phân tích thực trạng và đề xuất một số kiến
nghị, giải pháp hoàn thiện chính sách quản lý biển của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay; giới thiệu về một số hoạt động hợp tác quốc tế trong khai thác,
quản lý biển giữa Việt Nam và các nước trong khu vực; nghiên cứu cung cấp
những kiến thức, thông tin cơ bản, toàn diện, hệ thống về biển của Việt Nam,


×