Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Nghiên cứu đánh giá hiệu quả của cắt túi thừa nội soi và điều trị bảo tồn trong viêm túi thừa đại tràng phải (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.84 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ HUY LƢU

NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA
CẮT TÚI THỪA NỘI SOI VÀ ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN
TRONG VIÊM TÚI THỪA ĐẠI TRÀNG PHẢI

Chuyên ngành: Ngoại Tiêu hóa
Mã số: 62720125

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2019


1

GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
1. Đặt vấn đề
Bệnh túi thừa đại tràng rất phổ biến ở người phương Tây, chiếm
30-50% ở người trên 40 tuổi và khoảng hai phần ba dân số ở độ tuổi
80. Bệnh thường biểu hiện ở dạng đa túi thừa và hầu hết tập trung ở
đại tràng trái. Ngược lại, túi thừa đại tràng phải lại phổ biến ở các
nước Á Đông, gặp ở người trẻ hơn và có số lượng túi thừa ít hơn,
thậm chí là túi thừa đơn độc. Tại Việt Nam những năm gần đây có
khá nhiều báo cáo về túi thừa đại tràng, các đặc điểm bệnh khá tương


đồng với các nước Á Đông khác.
Cho tới nay, đã có hướng dẫn chẩn đoán và điều trị rất rõ ràng
cho bệnh túi thừa đại tràng trái của người phương Tây. Trong khi đó
việc điều trị bệnh túi thừa đại tràng phải ở người Á Đông thì chưa có
hướng dẫn và có nhiều tranh cãi, đặc biệt là khi túi thừa viêm chưa
biến chứng. Các phương pháp điều trị viêm túi thừa đại tràng phải
chưa biến chứng bao gồm: điều trị bảo tồn, cắt túi thừa và cắt đại
tràng phải. Điều trị bảo tồn giúp tránh được cuộc mổ nhưng có nguy
cơ diễn tiến nặng hơn nếu không đáp ứng và có nguy cơ tái phát; cắt
túi thừa triệt để hơn nhưng bệnh nhân phải trải qua cuộc mổ và vẫn
có nguy cơ tái phát ở bệnh nhân có nhiều túi thừa; cắt đại tràng là
cách triệt để nhưng đây lại là phẫu thuật lớn, có nguy cơ biến chứng.
Hiện nay, nhiều bệnh nhân viêm túi thừa đại tràng phải vẫn còn
bị chẩn đoán nhầm với viêm ruột thừa. Vì vậy, nhiều tình huống
viêm túi thừa được chẩn đoán trong khi mổ cắt ruột thừa nội soi.
Điều này càng khiến tranh cãi nhiều hơn, phẫu thuật viên bị lúng
túng trong việc quyết định có nên phẫu thuật cắt túi thừa nội soi hay
tiếp tục điều trị bảo tồn.
Một trong các lý do gây ra các tranh cãi này là chúng ta chưa làm
sáng tỏ được hiệu quả của từng phương pháp điều trị. Điều trị bảo tồn


2
giúp tránh được cuộc mổ nhưng tỉ lệ thành công bao nhiêu, nếu
không đáp ứng thì có hậu quả gì, tỉ lệ tái phát ra sao theo thời gian?
Tương tự, cắt túi thừa có ưu điểm triệt để hơn nhưng có tai biến biến
chứng ra sao, nguy cơ tái phát (viêm các túi thừa khác nếu có) theo
thời gian có thấp hơn điều trị bảo tồn hay không?
Để góp phần giải quyết các tranh cãi, trong nghiên cứu này,
chúng tôi muốn tìm hiểu rõ hơn về hiệu quả điều trị của 2 phương

pháp là điều trị bảo tồn và phẫu thuật nội soi cắt túi thừa ở bệnh nhân
viêm túi thừa đại tràng phải chưa biến chứng. Mục tiêu nghiên cứu
là:
1. Xác định đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng của
bệnh viêm túi thừa đại tràng phải.
2. Đánh giá kết quả điều trị của phương pháp điều trị bảo tồn và
phẫu thuật nội soi cắt túi thừa ở bệnh nhân viêm túi thừa đại
tràng phải chưa biến chứng.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, trong tình hình hiện nay, viêm túi thừa đại tràng
phải thường bị chẩn đoán nhầm lẫn với các bệnh lý khác, đặc biệt là
viêm ruột thừa. Thực tế trước đây chúng ta vẫn thường thấy có những
chẩn đoán như là viêm manh tràng, viêm bờm mỡ manh tràng, áp xe
cạnh đại tràng hoặc thậm chí là u đại tràng... rất có thể trong số đó có
nguyên nhân là túi thừa. Rất cần thiết có nghiên cứu xác định các đặc
điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh, từ đó giúp chúng ta
có thể nhận ra và chẩn đoán chính xác bệnh lý này.
Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới, vẫn chưa có
hướng dẫn điều trị cho viêm túi thừa đại tràng phải. Vì vậy, chúng ta
còn rất lúng túng trong thái độ xử trí viêm túi thừa đại tràng phải cả
khi được chẩn đoán trước mổ lẫn trong mổ. Các nghiên cứu tiến cứu
đánh giá các phương pháp điều trị viêm túi thừa đại tràng phải còn rất


3
ít, đặc biệt là phương pháp cắt túi thừa nội soi. Nghiên cứu này có thể
cho chúng ta biết hiệu quả của 2 phương pháp điều trị, cho ta biết
được khả năng thực hiện thành công là bao nhiêu, tai biến và biến
chứng thế nào, có khác biệt trong tỉ lệ tái phát hay không. Biết được
các câu trả lời đó sẽ giúp ta có một sự lưa chọn hợp lý khi đứng trước

bệnh nhân viêm túi thừa.
3. Những đóng góp mới của luận án
Nghiên cứu đã xác định các đặc điểm dịch tễ, đặc điểm lâm sàng
của bệnh viêm túi thừa đại tràng phải ở người Việt Nam. Đây là một
trong số ít các nghiên cứu có số lượng lớn, có giá trị và độ tin cậy để
phần nào phản ánh được tình hình bệnh viêm túi thừa đại tràng phải ở
nước ta. Nghiên cứu cũng cho biết các đặc điểm hình ảnh của viêm
túi thừa trên siêu âm và CT scan bụng.
Về phương pháp cắt túi thừa nội soi, nghiên cứu này thực hiện
trên 78 trường hợp, đây là số lượng rất lớn không chỉ trong nước mà
cả trên thế giới. Kết quả khả quan như tỉ lệ thành công cao, biến
chứng thấp và không có tái phát trong thời gian theo dõi trung bình
44 tháng. Do đó, kết quả này có đóng góp nhất định vào y văn thế
giới.
Đề xuất được lưu đồ xử trí bệnh nhân bị viêm túi thừa đại tràng
phải.
4. Bố cục luận án
Luận án có 128 trang, trong đó đặt vấn đề 3 trang, tổng quan tài
liệu 38 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 15 trang, kết quả
nghiên cứu 28 trang, bàn luận 40 trang, kết luận 2 trang và kiến nghị
2 trang. Luận án có 24 bảng, 5 biểu đồ, 1 sơ đồ, 18 hình và 136 tài
liệu tham khảo (18 tài liệu tiếng Việt và 118 tài liệu tiếng Anh, 44 tài
liệu mới trong vòng 5 năm chiếm hơn 32% toàn bộ tài liệu tham
khảo).


4

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.4. Chẩn đoán viêm túi thừa đại tràng phải

1.4.1. Lâm sàng
Túi thừa đại tràng phải khi viêm thường biểu hiện đau tại vùng
bụng phải. Có khá nhiều bệnh lý biểu hiện triệu chứng đau ở vùng
này như các bệnh lý của gan mật, đại tràng phải, hồi manh tràng, thận
niệu quản phải… mà phổ biến nhất là viêm ruột thừa. Chính vì vậy
khi một bệnh nhân đến khám với biểu hiện đau hố chậu phải thì
thường được nghĩ tới viêm ruột thừa hơn là viêm túi thừa.
Các dấu hiệu lâm sàng đơn thuần không thể giúp chẩn đoán xác
định viêm túi thừa đại tràng phải. Tuy nhiên, với việc hỏi kỹ bệnh sử,
thăm khám kỹ càng, đánh giá tương quan giữa các dấu hiệu có thể
giúp chúng ta sàng lọc được những bệnh nhân nghi ngờ viêm túi thừa
đại tràng phải để chỉ định các phương tiện hình ảnh phù hợp giúp xác
định chẩn đoán.
1.4.2. Siêu âm
Về mặt giải phẫu, túi thừa có đường kính rất thay đổi, chiều dài
thì ngắn hơn ruột thừa và có thể xuất phát từ bất cứ chỗ nào trên đại
tràng (ruột thừa chỉ xuất phát từ manh tràng). Như vậy, nếu có cấu
trúc hình tròn hay bầu dục nhô ra ngoài và có xuất phát từ đại tràng
phải mà không đủ tiêu chuẩn của viêm ruột thừa thì có thể là túi thừa.
Hoặc nếu xác định được cấu trúc này không xuất phát từ manh tràng
thì càng có nhiều khả năng là túi thừa. Chẩn đoán càng trở nên chắc
chắn khi ngoài cấu trúc đó chúng ta còn thấy được cấu trúc ruột thừa
bình thường. Một số hình ảnh khác cũng cần được đánh giá là tình
trạng thành đại tràng và mô mỡ bao xung quanh.
Dấu hiệu phổ biến nhất của túi thừa đại tràng phải viêm không
biến chứng là 1 cấu trúc giảm âm hoặc gần như không phản âm hình
tròn hoặc hình bầu dục nhô ra khỏi thành của đoạn đại tràng. Một số


5

trường hợp cấu trúc này chứa chất phản âm mạnh bên trong, đó có
thể là khí hoặc sỏi phân (fecalith) trong lòng túi thừa. Khi túi thừa
chứa mủ, mô mềm xung quanh tăng âm không đồng nhất biểu hiện
phản ứng viêm mô mỡ quanh đại tràng. Với những đặc điểm này, đặc
biệt là hình ảnh ruột thừa bình thường cũng được thấy trên siêu âm,
thì nhiều khả năng đó là túi thừa.
1.4.3. CT scan
Tương tự như siêu âm, CT scan cho những hình ảnh cắt qua cơ
quan nên có thể đánh giá tốt cả trong và bên ngoài đại tràng, là những
chi tiết mà nội soi hay chụp đại tràng không thể có được. CT scan có
ưu điểm hơn siêu âm là cho những hình ảnh khách quan và toàn diện
hơn trong khi siêu âm phụ thuộc rất nhiều vào người làm siêu âm.
Chính vì vậy, CT scan không những có thể chẩn đoán tốt túi thừa đại
tràng mà còn đánh giá tốt các biến chứng và độ nặng của nó.
Ngày nay, CT scan được xem là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán và
phân giai đoạn bệnh viêm túi thừa đại tràng, đặc biệt là trong tình
huống cấp cứu. Độ nhạy và đặc hiệu của CT scan trong chẩn đoán
viêm túi thừa đại tràng phải được báo cáo là trên 98%. Tiêu chuẩn
chẩn đoán viêm túi thừa đại tràng phải trên CT scan là dày thành đại
tràng; thâm nhiễm mỡ quanh đại tràng; áp xe quanh đại tràng; các
bóng khí trong niêm mạc đại tràng, thành đại tràng và khí bên ngoài
lòng ống.
Sự hiện diện hình ảnh túi thừa viêm được cho là bằng chứng
khách quan nhất của viêm túi thừa, nhưng cần phải phân biệt đúng là
túi thừa gây ra viêm hay chỉ là sự hiện diện của 1 túi thừa trong môi
trường viêm do nguyên nhân khác. Và khi đó, cần phải tìm nguyên
nhân chính gây bệnh, túi thừa lúc này chỉ đơn thuần là bệnh kèm
theo. Các túi thừa chứa sỏi phân hoặc chứa đầy chất phân thì dễ nhận
biết trong khi các túi thừa viêm với hình ảnh bắt quang kém kiểu mô
mềm sẽ rất khó để nhận ra. May mắn là đa số túi thừa thường bắt cản



6
quang lớp niêm mạc mạnh, do đó chụp CT scan cần có sự hỗ trợ của
thuốc cản quang đường tĩnh mạch.
1.5. Các phƣơng pháp điều trị viêm túi thừa đại tràng phải
1.5.1. Điều trị bảo tồn
Tuỳ theo tình trạng bệnh mà điều trị bảo tồn có thể thay đổi từ
điều trị ngoại trú với kháng sinh đường uống kèm thay đổi chế độ ăn,
đến việc phải nhập viện dùng kháng sinh tĩnh mạch và nhịn ăn uống.
Có trường hợp nhẹ có thể chỉ thay đổi chế độ ăn uống mà không cần
phải dùng kháng sinh, và có trường hợp nặng có thể cần phải làm
thêm các thủ thuật như chọc hút mủ hay dẫn lưu ổ áp xe.
Ưu điểm nổi bật của phương pháp này đó là tránh được một cuộc
mổ cấp cứu. Nhược điểm của phương pháp này là vẫn còn để lại túi
thừa nên có nguy cơ tái phát, thậm chí túi thừa viêm có thể diễn tiến
sang thể nặng hơn.
1.5.2. Cắt đại tràng phải hoặc cắt hồi manh tràng
Cắt đại tràng được xem là phương pháp đương nhiên khi muốn
điều trị triệt để bệnh túi thừa đại tràng bên trái do đa túi thừa. Cắt đại
tràng cũng được chấp nhận rộng rãi như là phương pháp điều trị tốt
nhất cho bệnh nhân túi thừa đại tràng phải bị tái phát hoặc có biến
chứng như tắc ruột, áp xe, rò, thủng hoặc khi không thể loại trừ được
ung thư.
Tuy nhiên, áp dụng thường quy cắt đại tràng để điều trị túi thừa
đại tràng phải thì vẫn còn nhiều tranh cãi vì túi thừa đại tràng phải
thường có số lượng ít hoặc đơn độc. Cắt đại tràng là một phẫu thuật
lớn, có thể có các tai biến và biến chứng nguy hiểm. Hơn nữa, bệnh
nhân còn phải gánh chịu những hậu quả do sự biến đổi về mặt giải
phẫu cũng như sinh lý của đại tràng do mất van hồi manh tràng.

1.5.3. Cắt túi thừa và các biến thể
Điều trị bảo tồn có nhược điểm là phương pháp điều trị không
triệt để vì còn để lại túi thừa. Cắt đại tràng là phương pháp triệt để


7
nhưng lại làm thay đổi giải phẫu cũng như sinh lý của ruột, chưa kể
những tai biến và biến chứng kèm theo. Cắt túi thừa nổi lên là một
phương pháp có thể dung hoà được 2 phương pháp trên. Hiện nay mổ
nội soi đã được áp dụng nhiều, cắt túi thừa nội soi còn làm cho phẫu
thuật nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, nhược điểm là kỹ thuật có thể khó
cho các phẫu thuật viên chưa có kinh nghiệm, khó khăn khi nhận
định thương tổn. Ngoài ra, tính triệt để có thể không đạt ở bệnh nhân
có nhiều túi thừa.
1.6. Tình hình nghiên cứu về điều trị viêm túi thừa đại tràng phải
1.6.1. Phƣơng Tây
Túi thừa đại tràng phải rất hiếm ở người Phương Tây, điều trị chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm. Các nghiên cứu chủ yếu là báo cáo loạt ca
với số lượng rất ít. Đa số các tác giả có chủ trương cắt bỏ triệt để bao
gồm cắt túi thừa khi viêm nhẹ và dễ nhận ra; cắt đại tràng khi viêm
nặng hoặc không phân biệt được với ung thư. Một số tác giả đề nghị
điều trị bảo tồn.
1.6.2. Châu Á
Bệnh túi thừa đại tràng phải phổ biến ở Châu Á hơn, cho nên các
báo cáo quy mô lớn đều đến từ các quốc gia Á Đông như Hàn Quốc,
Nhật Bản, Hồng Kông Trung Quốc, Đài Loan, Singapore... Nhìn
chung, hầu hết các nghiên cứu ở các nước Á Đông đều có chủ trương
điều trị bảo tồn không mổ hoặc mổ tối thiểu như cắt túi thừa, cắt ruột
thừa, các tác giả không có chủ trương cắt đại tràng. Tuy nhiên, các
nghiên cứu thường là hồi cứu, ít có so sánh và có thời gian theo dõi

không dài.
1.6.3. Việt Nam
Tại Việt Nam có ít công trình nghiên cứu về bệnh viêm túi thừa
đại tràng. Chỉ có một số các báo cáo tập trung ở một số trung tâm
như bệnh viện Việt Đức, bệnh viện Đại học Y Hà Nội, bệnh viện
Nhân Dân Gia Định là có sự liên tục, còn lại chỉ là những báo cáo


8
đơn lẻ. Nhìn chung, các nghiên cứu trong nước cho thấy bệnh vẫn
chưa được chú ý đầy đủ, đa số chẩn đoán trong mổ do nhầm lẫn, các
số liệu chỉ là hồi cứu và việc điều trị như thế nào vẫn còn chưa thống
nhất.

Chƣơng 2:
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Dân số nghiên cứu: những bệnh nhân viêm túi thừa đại tràng phải
không biến chứng được điều trị tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ
tháng 12 năm 2009 đến tháng 09 năm 2014.
Để chọn bệnh nhân tham gia nghiên cứu, chúng tôi sử dụng
phương pháp chọn mẫu thuận tiện liên tiếp cho đến khi đạt được cỡ
mẫu đã tính. Các bệnh nhân thoả tiêu chuẩn chọn mẫu, không có tiêu
chuẩn loại trừ và đồng ý tham gia nghiên cứu đều được đưa vào
nghiên cứu.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định trước điều trị thông qua CT
scan bụng hoặc chẩn đoán xác định trong mổ là viêm túi thừa đại
tràng bên phải, chưa có biến chứng áp xe hay viêm phúc mạc, cụ thể:
- Có hình ảnh rõ ràng viêm túi thừa đại tràng phải trên chụp cắt

lớp điện toán (bắt buộc nếu là nhóm điều trị bảo tồn).
- Hoặc được chẩn đoán xác định trong mổ với yêu cầu:
+ Phẫu tích thấy rõ cấu trúc giống túi thừa
+ Thấy rõ lỗ thông tự nhiên từ túi thừa vào đại tràng
- Bệnh ở giai đoạn 0 và Ia theo phân loại Hinchey cải biên hoặc
khi mổ không ghi nhận áp xe hay viêm phúc mạc.


9
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Giải phẫu bệnh sau mổ không phù hợp: ung thư hay các viêm
đặc hiệu như bệnh lao, bệnh Crohn...
- Các trường hợp cắt đại tràng phải do nguyên nhân khác không
vì nguyên nhân túi thừa trong quá trình theo dõi không được đưa vào
tính tỉ lệ tái phát.
- Bệnh nhân có các bệnh nội khoa nặng như các bệnh về gan,
thận và tim mạch có nguy cơ cao với gây mê hồi sức, cũng như có
tình trạng rối loạn đông máu nặng. Các bệnh nhân có chống chỉ định
bơm hơi trong ổ bụng.
Đây là nghiên cứu tiến cứu, can thiệp trên hai nhóm bệnh nhân
với hai phương pháp điều trị là điều trị bảo tồn và cắt túi thừa nội soi.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1.1. Loại hình nghiên cứu: Đây là nghiên cứu tiến cứu, can thiệp
lâm sàng, loạt ca.
2.2.1.2. Cỡ mẫu
Để so sánh hiệu quả lâu dài của hai phương pháp điều trị, chúng
tôi dựa vào tỉ lệ tái phát. Cỡ mẫu được tính theo công thức so sánh 2
tỉ lệ:

Trong đó:

- P1: Tỉ lệ viêm tái phát khi sau cắt túi thừa nội soi, ước tính là
1%.
- P2: Tỉ lệ viêm tái phát khi sau điều trị bảo tồn, theo nghiên cứu
của tác giả Komuta là 20,5%.
P* = (P1 + P2)/2 = 0,105


10
- α: sai lầm loại 1 = 0,05  Z(1- /2): trị số từ phân phối chuẩn
= 1,96.
- β: sai lầm loại 2 = 0,10  Z(1- ): trị số từ phân phối chuẩn
= 1,28.
Khi đó, số lượng bệnh nhân mỗi nhóm theo công thức là 51. Với
tỉ lệ mất dấu trong thời gian theo dõi ước tính là 20%, vậy số lượng
bệnh nhân mỗi mẫu tối thiểu là 64 bệnh nhân.
2.2.1.3. Các khái niệm chính dùng trong nghiên cứu
Điều trị nội thất bại: là khi bệnh diễn tiến nặng hơn trong 24 giờ
hoặc bệnh không thuyên giảm trong 48 giờ, có chỉ định chuyển phẫu
thuật hoặc có các biến chứng của viêm túi thừa. bao gồm áp xe và
viêm phúc mạc.
Biến chứng của điều trị nội: chuyển sang giai đoạn nặng hơn.
Điều trị nội thành công: khi các triệu chứng cải thiện và bệnh
nhân được xuất viện
Phẫu thuật cắt túi thừa nội soi thất bại: cần phải chuyển mổ mở
cắt túi thừa vì gặp khó khăn về mặt kỹ thuật khi mổ nội soi.
Biến chứng của phẫu thuật nội soi cắt túi thừa: bao gồm các tai
biến, biến chứng xảy ra do gây mê, do phẫu thuật.
Phẫu thuật cắt túi thừa nội soi thành công: thực hiện an toàn,
diễn tiến hậu phẫu ổn định.
Bệnh tái phát: được xem là tái phát khi bệnh nhân xuất hiện các

triệu chứng trở lại sau khi đã có thời gian 1 tháng hoàn toàn hết triệu
chứng.


11

Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
3.1.1. Mô tả và sơ đồ nghiên cứu
Trong khoảng thời gian từ tháng 12/2009 đến tháng 9/2014, tại
bệnh viện Nhân dân Gia Định, chúng tôi đã chọn 155 bệnh nhân
(BN) viêm túi thừa đại tràng phải đủ tiêu chuẩn và đưa vào nghiên
cứu, bao gồm 103 nam và 52 nữ (tỉ lệ nam: nữ # 2:1), tuổi trung bình
là 35,59 ± 12,83 (nhỏ nhất là 15, lớn nhất là 80). Được phân vào 2
nhóm như sau: 81 trường hợp (TH) điều trị bảo tồn (ĐTBT) và 78
TH mổ cắt túi thừa nội soi (CTTNS). Trong số 78 TH CTTNS, có 4
trường hợp trong nhóm điều trị bảo tồn thất bại phải chỉ định mổ và
được cắt túi thừa qua nội soi. Để tiện cho tính toán, chúng tôi chỉ đưa
4 trường hợp này vào nhóm CTTNS khi tính kết quả sau điều trị, các
chỉ số khác sẽ được tính theo tuyển chọn ban đầu là 74 TH.
3.2. Đặc điểm lâm sàng
3.2.2. Triệu chứng lâm sàng
Bảng 3.3: Triệu chứng lâm sàng
Đặc điểm đau
Thời gian đau
1 ngày
2 ngày
≥3 ngày
Trung bình (ngày)
Vị trí đau

Hố chậu phải
Hông phải
Hạ sườn phải

Bảo tồn
(n=81)

Phẫu thuật
(n=74)

Giá trị p
0,367*

44 (54,3)
23 (28,4)
14 (17,3)
1,7 ± 1,0

39 (52,7)
16 (21,6)
19 (25,7)
1,8 ± 1,1
0,942**

58 (71,6)
21 (25,9)
2 (2,5)

55 (74,3)
18 (24,3)

1 (1,4)


12
Đặc điểm đau
Đau di chuyển
Không

Cường độ đau
Ít
Vừa
Nhiều
Kiểu đau
Âm ỉ
Quặn cơn

Bảo tồn
(n=81)

Phẫu thuật
(n=74)

Giá trị p
0,609*

62 (76,5)
19 (23,5)

54 (73,0)
20 (27,0)

0,452**

73 (90,1)
3 (3,7)
5 (6,2)

62 (83,8)
6 (8,1)
6 (8,1)
0,025*

71 (87,7)
10 (12,3)

*Phép kiểm Chi2

72 (97,3)
2 (2,7)

**Phép kiểm Fisher

3.3. Đặc điểm chẩn đoán hình ảnh
3.3.1. Siêu âm
Bảng 3.5: Mô tả và kết luận của siêu âm
Đặc điểm siêu âm

Bảo tồn

Phẫu thuật


(n=81)

(n=74)

Mô tả của siêu âm

0,077*

Không khảo sát được (HA-)

13 (16,0)

11 (14,9)

Hình ảnh gián tiếp (HAgt)

12 (14,8)

22 (29,7)

Hình ảnh trực tiếp (HAtt)

56 (69,1)

41 (55,4)

Kết luận của siêu âm

<0,001**


Không nghĩ VTT (VTT-)

11 (13,6)

38 (51,4)

3 (3,7)

0 (0,0)

VTT là chẩn đoán chính (VTT)

50 (61,7)

27 (36,5)

Chỉ mô tả, không kết luận

17 (21,0)

9 (12,2)

VTT là chẩn đoán phân biệt (VTTpb)

*Phép kiểm Chi

Giá trị p

2


**Phép kiểm Fisher


13
3.3.2. CT scan
Bảng 3.8: Đặc điểm trên CT scan của 2 nhóm
Đặc điểm CT-scan
Số lượng túi thừa
1
2
3
Rải rác >3
Nhiều
Vị trí túi thừa
Manh tràng
Đại tràng lên
Đại tràng góc gan
Nhiều vị trí
Sỏi phân
Không


Bảo tồn
(n=81)

Phẫu thuật
(n=19)

Giá trị p
0,253**


47 (58,0)
4 (4,9)
3 (3,7)
22 (27,2)
5 (6,2)

16 (84,2)
0 (0,0)
1 (5,3)
2 (10,5)
0 (0,0)
0,294**

33 (40,7)
31 (38,3)
2 (2,5)
15 (18,5)

11 (57,9)
6 (31,6)
1 (5,3)
1 (5,3)
0,433**

73 (90,1)
8 (9,9)

16 (84,2)
3 (15,8)


Vị trí túi thừa viêm so với phúc mạc

0,226*

Trước phúc mạc

43 (53,1)

13 (68,4)

Sau phúc mạc

38 (46,9)

6 (31,6)

Khí cạnh túi thừa
Không


0,020**
76 (93,8)

14 (73,7)

5 (6,2)

5 (26,3)


Tình trạng đại tràng
Chỉ viêm túi thừa

0,036**
1 (1,2)

3 (15,8)

Dày quanh túi thừa

43 (53,1)

8 (42,1)

Dày hết chu vi đại tràng

37 (45,7)

8 (42,1)

2

*Phép kiểm Chi ; **Phép kiểm Fisher


14
3.4. Kết quả của nhóm điều trị bảo tồn
3.4.1. Kết quả sớm
Chúng tôi có 73 TH thành công chiếm 90,1%, 8 TH khác phải
chỉ định mổ với các phương pháp phẫu thuật khác nhau (biểu đồ 3.3).


1 TH
(1,2%)
73 TH
(90,1%)

3 TH
(3,7%)

8 TH
(9,9%)
4 TH
(4,9%)

Thành công

Mổ cắt túi thừa

Mổ cắt ruột thừa

Mổ cắt đại tràng

Biểu đồ 3.3: Tỉ lệ thành công của điều trị bảo tồn
Bảng 3.10: Biến chứng của điều trị bảo tồn
Tần số (tỷ lệ %)
Biến chứng điều trị bảo tồn
(n=81)
Không biến chứng
74 (91,4)
Viêm lan rộng

4 (4,9)
Viêm lan toả đại tràng phải kèm áp xe
2 (2,5)
Viêm phúc mạc
1 (1,2)
3.4.3. Theo dõi
74 trường hợp điều trị bảo tồn thành công được đưa vào theo dõi
tái phát. Thời gian theo dõi trung bình là 32,73 ± 22,77 tháng (1-56
tháng). Có 4 TH tái phát, thời điểm tái phát sớm nhất là 1 tháng,
muộn nhất là 3 năm. Có 1 TH tái phát 2 lần (1 năm và 3 năm). Tất cả
các TH này đều tiếp tục được điều trị nội thành công. 12 TH đôi khi


15
có cảm giác khó chịu thoáng qua ở bụng phải, 5 TH khác than phiền
hay bị đau vùng này.
3.5. Kết quả của nhóm cắt túi thừa nội soi
3.5.1. Kết quả sớm
Mổ nội soi cắt túi thừa thành công trong 68 trường hợp (87,2%),
10 trường hợp chuyển mổ mở (chiếm 12,8%).
Bảng 3.15: Biến chứng sau mổ
Biến chứng
Không biến
chứng
Thủng ruột
non
Chảy máu tiêu
hoá

Tần số (tỷ lệ %)

(n=78)
69 (88,5)

Xử trí

Ghi chú

1 (1,3)

Mổ lại

1 (1,3)

Nội khoa

Sốt ác tính

1 (1,3)

Nội khoa

Viêm phổi

1 (1,3)

Nội khoa

Tai biến do thuốc mê,
suy thận cấp, nằm viện
15 ngày

Bệnh nhân lao phổi

Bí tiểu do phì
đại tiền liệt
tuyến

1 (1,3)

Cắt đốt
UXTLT

Nằm khoa niệu 15
ngày, Tiêu hoá 8 ngày

Nhiễm trùng
vết mổ
Liệt ruột sớm
sau mổ

3 (3,8)

Chăm sóc Chảy dịch lổ trocar rốn
tại chỗ
Nội khoa Nằm viện 10 ngày

1 (1,3)

Tai biến không phát
hiện trong mổ
Bệnh nhân dùng kháng

đông

3.5.3. Theo dõi
Tổng cộng có 78 trường hợp cắt túi thừa (68 trường hợp cắt túi
thừa nội soi, 10 trường hợp nội soi chuyển mổ mở cắt túi thừa). Thời


16
gian theo dõi trung bình là 44 tháng, 1 bệnh nhân bị mổ cắt đại tràng
phải do ung thư trong quá trình theo dõi nên không tiếp tục đánh giá
tái phát. Không trường hợp nào tái phát, 6 trường hợp đôi lúc cảm
giác khó chịu vùng mổ.
3.6. So sánh kết quả của 2 phƣơng pháp
Nhằm hạn chế yếu tố gây nhiễu, khi so sánh kết quả sớm của 2
phương pháp chúng tôi loại bỏ ra khỏi nhóm phẫu thuật 4 trường hợp
ban đầu được điều trị bảo tồn.
Khi so sánh tỉ lệ tái phát tái phát thì chúng tôi so sánh những
trường hợp chưa được cắt túi thừa với những trường hợp đã cắt túi
thừa (dù mổ mở hay nội soi).
Bảng 3.18: So sánh tính khả thi và an toàn của 2 phương pháp
Đặc điểm

Bảo tồn

Phẫu thuật

(n=81)

(n=74)


Kết quả điều trị (tính khả thi)
Thành công
Thất bại

0,48*

73 (90,1)

64 (86,5)

8 (9,9)

10 (13,5)

Biến chứng điều trị (tính an toàn)
Không biến chứng
Có biến chứng

Giá trị p

0,472*

74 (91,4)

65 (87,8)

7 (8,6)

9 (12,2)


So sánh tính hiệu quả của 2 phƣơng pháp qua thời gian theo dõi
Biểu đồ Kaplan – Meier thể hiện tỉ lệ bệnh nhân không tái phát
của 2 nhóm (Biểu đồ 3.5). Tỉ lệ tái phát chung của nhóm bảo tồn là
5,4%, nhóm mổ là 0%. Sử dụng phép kiểm log-rank so sánh tỉ lệ tái
phát của 2 nhóm cho thấy khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,031).


17

Biểu đồ 3.5: Biểu đồ Kaplan-Meier về tỉ suất tái phát

Chƣơng 4 BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm đối tƣợng
4.1.2. Tuổi và giới tính
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là
35,59 ± 12,83 (15-80 tuổi), khá tương đồng với các tác giả khác như
nghiên cứu của Lý Minh Tùng là 36 tuổi, Trịnh Thành Vinh là 39,6
tuổi. Nghiên cứu của các nước Á Đông như Hàn Quốc, Nhật Bản,
Đài Loan, Singapore là 37,9-50 tuổi.
Số lượng BN nam chiếm nhiều hơn so với BN nữ, tỉ lệ nam/nữ là
2:1, không có khác biệt giữa 2 nhóm. Tỉ lệ này không chênh lệnh
nhiều so với các nghiên cứu của các tác giả khác với ưu thế nghiêng
về nam.
4.3. So sánh triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng giữa 2 nhóm
4.3.1. Lâm sàng
Nghiên cứu của chúng tôi, thời gian đau trung bình nhóm bảo tồn
là 1,7 ngày, nhóm phẫu thuật là 1,8 ngày, không có sự khác biệt có ý


18

nghĩa thống kê giữa 2 nhóm. Vị trí đau ở hố chậu phải chiếm đa số
với 71,6% ở nhóm bảo tồn và 74,3% ở nhóm phẫu thuật, khác biệt
không có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, các đặc điểm khác của đau như
cường độ đau, kiểu di chuyển cũng không có sự khác biệt giữa 2
nhóm.
Triệu chứng toàn thân không đáng kể, đa số không sốt hoặc sốt
nhẹ với 72,9% nhóm bảo tồn và 78,4% nhóm phẫu thuật có nhiệt độ
không quá 38,5oC, khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Xét nghiệm
công thức bạch cầu cũng tương đồng giữa 2 nhóm với hình ảnh
chung là bạch cầu tăng nhẹ, tỉ lệ bạch cầu đa nhân trung tính không
quá cao.
Như vậy, về mặt lâm sàng, khác với viêm túi thừa, bệnh nhân
viêm túi thừa đại tràng phải biểu hiện đau bụng dưới phải dài hơn (do
đau nhẹ không thúc giục bệnh nhân đi khám) và không biểu hiện các
dấu hiệu nhiễm độc toàn thân và không nôn ói. Đau thường khởi đầu
và duy trì đau ở bụng dưới phải chứ không di chuyển từ thượng vị.
4.3.2. Chẩn đoán hình ảnh
4.3.2.1. Siêu âm
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều được
thực hiện siêu âm bụng, tuy nhiên tỉ lệ chẩn đoán viêm túi thừa qua
siêu âm không cao mặc dù đa số trường hợp có mô tả các dấu hiệu
gợi ý viêm túi thừa. Nhóm bảo tồn chỉ có 13 TH siêu âm không khảo
sát được gì, còn lại 68 TH (84%) có hình ảnh gián tiếp hoặc trực tiếp
gợi ý viêm túi thừa, nhưng chỉ có 53 TH được chẩn đoán hoặc đưa
vào diện nghi ngờ viêm túi thừa. Đáng chú ý có 6 TH dù mô tả hình
ảnh rất phù hợp túi thừa nhưng lại hoàn toàn không nghĩ tới mà chẩn
đoán sang bệnh lý khác (viêm ruột thừa, viêm bờm mỡ, lồng ruột).
Tương tự như vậy, nhóm phẫu thuật cũng có khá nhiều trường hợp
bác sĩ siêu âm không nghĩ tới viêm túi thừa (38 trường hợp) dù rất
nhiều trong số đó (36/38 TH) được mô tả hình ảnh thể hiện dấu hiệu

của viêm túi thừa. Phần lớn các trường hợp này rơi vào năm 2010 và
2011, giai đoạn này kinh nghiệm của bác sĩ siêu âm ở bệnh viện


19
chúng tôi về bệnh lý này chưa nhiều, thậm chí có người chưa nghĩ
đến bệnh lý này.
4.3.2.2. CT scan
CT scan là phương tiện chẩn đoán túi thừa đại tràng với độ nhạy
cao, đặc biệt phù hợp trong tình huống cấp cứu khi mà các phương tiện
tin cậy khác như nội soi hay chụp đại tràng không an toàn khi thực hiện.
CT scan còn giúp đánh giá tốt mức độ nặng của viêm túi thừa và đã
được nhiều tác giả trong nước báo cáo. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
81 trường hợp bảo tồn đều dựa vào CT scan để xác định chẩn đoán, tất
cả đều có hình ảnh đặc hiệu là phải thấy rõ túi thừa.
4.4. Kết quả điều trị bảo tồn
4.4.1. Tỉ lệ thành công và các biến chứng
Điều trị bảo tồn được xem là thất bại nếu các biểu hiện lâm sàng
xấu đi trong 24 giờ và hoặc không cải thiện đáng kể sau 48 giờ điều
trị, với tiêu chí này thì tỉ lệ thành công của nhóm điều trị bảo tồn là
90,1%. Tỉ lệ này khá thấp so với các báo cáo của các tác giả khác
trong các năm gần đây, thường là trong khoảng 98-100% (bảng 4.2).
Bảng 4.2: Kết quả một số nghiên cứu điều trị bảo tồn
Năm

Tác giả

Số ca

% thành


Nằm

% tái

công

viện (*)

phát (**)

Follow

Loại nghiên
cứu

2004

Komuta

81

98,8

20,5

35,2

Hồi cứu


2006

Yang HR

88

98,9

12,6 (18,2)

15,1

Hồi cứu

2007

Moon

55

100

3,6

23,9

Hồi cứu

2009


Park SJ

185

98,9

2010

Kim MR

135

2010

Matsushima

107

2010

Park HC

296

2011

Kim TJ

2012
2014


4,2

8,2
7,6 (6,1)

17,9

100

8 (4,8)

8,4

100

6 (4,7)

2

61

100

4,6 (3,8)

13,1

Issa


15

100

5

Park SM

104

Hồi cứu
34,3

Hồi cứu
Hồi cứu

38

Hồi cứu
Hỗn hợp

6,6

32

Hồi cứu

19,2 (26,3)

36,9


Hồi cứu

Giá trị trong dấu (*) là ngày dùng kháng sinh; (**) là tỉ lệ % tái phát lần 2


20
Tỉ lệ không thành công phải chuyển mổ là 9,9%, trong số này có
1 trường hợp viêm phúc mạc (1,2%), 2 trường hợp viêm lan rộng
kèm có các ổ áp xe cạnh đại tràng (chiếm 2,5%). Cả 3 trường hợp
này phải cắt đại tràng. Các trường hợp còn lại chỉ có viêm khu trú
nên vẫn có thể cắt túi thừa (4 trường hợp, chiếm 4,9%), thậm chí chỉ
cắt ruột thừa mà không cần cắt túi thừa (1 trường hợp, chiếm 1,2%).
Tỉ lệ tái phát của nhóm Bảo tồn trong nghiên cứu của chúng tôi là
5,4%, thời gian theo dõi trung bình là 32,73 ± 22,77 tháng (1-56
tháng). Tỉ lệ tái phát trong nghiên cứu của chúng tôi khá thấp so với
các tác giả khác (Bảng 4.2).
4.5. Kết quả cắt túi thừa nội soi
4.5.1. Tỉ lệ thành công và các biến chứng
Tất cả 78 bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều được cắt
túi thừa thành công nhưng có 10 TH phải chuyển mổ mở để thực
hiện, tỉ lệ cắt túi thừa nội soi thành công 87,2%, thất bại là 12,8%.
Theo các tài liệu chúng tôi tham khảo được trong y văn trong và
ngoài nước thì không có tác giả nào có báo cáo số lượng cắt túi thừa
lớn như chúng tôi. Lee In Kyu và cộng sự thực hiện cắt túi thừa khá
nhiều (46 TH), tuy nhiên, chỉ có 17 TH được cắt túi thừa nội soi
trong đó có 3 TH phải chuyển mổ mở để cắt túi thừa, tỉ lệ thất bại của
họ là 17,6%, cao hơn một chút so với nghiên cứu của chúng tôi. Họ
cho rằng cắt túi thừa là phẫu thuật tối thiểu, ít rủi ro và biến chứng.
Biến chứng xảy ra ở 9 trường hợp, chiếm tỉ lệ 11,5%. Đa số các

biến chứng đều nhẹ và liên quan đến bệnh nền sẵn có. Chỉ có 3
trường hợp có biến chứng nặng bao gồm: 1TH viêm phổi bội nhiễm
(dẫn đến sốc nhiễm trùng, suy hô hấp) trên nền lao phổi; 1 TH sốt
cao ác tính trên cơ địa phản ứng với thuốc gây mê và 1 TH thủng ruột
non. Đặc biệt không có TH nào có biến chứng liên quan đến bục xì


21
chỗ khâu túi thừa. Trường hợp tai biến thủng ruột non xảy ra trong
thời gian đầu nghiên cứu, khi kinh nghiệm vẫn còn ít nhiều hạn chế.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian theo dõi trung bình là
44 tháng (lâu nhất theo dõi được 81 tháng), không trường hợp nào tái
phát, 6 trường hợp đôi lúc cảm giác khó chịu vùng mổ. Có tác giả
báo cáo bệnh vẫn tái phát dù đã cắt túi thừa, điều đó cho thấy một số
lượng nhất định bệnh nhân vẫn còn có các túi thừa khác.
4.6. So sánh kết quả và lựa chọn phƣơng pháp điều trị
Tính khả thi của các phƣơng pháp: Tính khả thi thể hiện ở tỉ lệ
thành công của mỗi phương pháp. Tính khả thi của phương pháp cắt
túi thừa nội soi tức là khả năng thực hiện được phẫu thuật này mà
không cần mổ mở. Trong khi đó, điều trị bảo tồn được xem là thành
công khi bệnh nhân diễn tiến qua giai đoạn cấp mà không cần phải
mổ. Với tiêu chí này, kết quả nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ thực
hiện thành công của 2 phương pháp bảo tồn và cắt túi thừa nội soi lần
lượt là 90,1% và 86,5%. Nhóm bảo tồn có tỉ lệ thành công cao hơn
nhưng khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (Phép kiểm Chi2,
p = 0,48).
Tính an toàn (tỉ lệ biến chứng): Điều trị bảo tồn sẽ đối mặt với
nguy cơ bệnh diễn tiến nặng hơn trong khi mổ cắt túi thừa thì đối mặt
với nguy cơ biến chứng liên quan tới phẫu thuật như xì rò, chảy máu
hay các biến chứng liên quan đến gây mê khác. Nhóm bảo tồn có

8,6% trường hợp bệnh diễn tiến nặng hơn, trong khi nhóm cắt túi
thừa nội soi có 12,2% xảy ra các biến chứng. Tỉ lệ biến chứng của
nhóm bảo tồn thấp hơn nhưng khác biệt này cũng không có ý nghĩa
thống kê (Phép kiểm Chi2, p = 0,472). Tuy nhiên, khi xem xét cụ thể
các biến chứng thì nó lại đặc thù cho từng phương pháp, trong đó
nhóm bảo tồn có 3 TH diễn tiến sang giai đoạn nặng phải cắt đại


22
tràng phải trong khi nhóm mổ có 1 TH thủng ruột non, 1 TH tai biến
với thuốc mê và vài TH khác liên quan nhiễm trùng hậu phẫu.
Tính hiệu quả (tái phát): Một trong những nhược điểm lớn nhất
của điều trị bảo tồn là nguy cơ tái phát. Trong khi đó, với cắt túi thừa,
ban đầu được cho là đủ để tránh tái phát nhưng các nghiên cứu gần
đây cho thấy bệnh nhân có thể có đa túi thừa nên tái phát vẫn có thể
xảy ra. Để đánh giá tỉ lệ tái phát của phương pháp cắt túi thừa, chúng
tôi không phân biệt bệnh nhân được cắt nội soi hay mở vì bản chất
điều trị là như nhau. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, nhóm cắt túi
thừa không ghi nhận trường hợp nào có dấu hiệu tái phát trong khi
nhóm bảo tồn có 4 trường hợp (5,4%) với 5 lượt tái phát (1 trường
hợp tái phát 2 lần). Khác biệt có ý nghĩa thống kê (Phép kiểm logrank, p = 0,031).

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 155 TH viêm túi thừa đại tràng phải chưa biến
chứng tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định thành phố Hồ Chí Minh từ
tháng 12/2009 đến tháng 09/2014, gồm 81 TH ban đầu là điều trị bảo
tồn, 74 TH là cắt túi thừa nội soi, chúng tôi có những kết luận sau:
1. Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh viêm túi
thừa đại tràng phải:
Bệnh thường biểu hiện ở độ tuổi khá trẻ với tuổi trung bình là

35,6 ± 12,8 tuổi. Phái nam chiếm ưu thế hơn phái nữ với tỉ lệ nam:
nữ là 2:1.
Thời gian đau đến lúc nhập viện khoảng 1,74 ± 1,02 ngày; khởi
phát chủ yếu ở hông hoặc hố chậu phải, ít khi di chuyển; mức độ đau
ít hoặc vừa và ít khi sốt cao.


23
Số lượng bạch cầu tăng vừa phải. Siêu âm có thể phát hiện các
dấu hiệu gợi ý của viêm túi thừa. CT scan có thể giúp xác định chính
xác cả túi thừa viêm và không viêm.
2. Kết quả điều trị của phƣơng pháp điều trị bảo tồn và phẫu
thuật nội soi cắt túi thừa:
Tỉ lệ thành công khá cao ở cả 2 nhóm điều trị: nhóm điều trị bảo
tồn là 90,1% và nhóm cắt túi thừa nội soi 87,2%.
Biến chứng của hai nhóm đều thấp với 8,4% ở nhóm bảo tồn và
11,5% ở nhóm cắt túi thừa nội soi. Biến chứng ở nhóm bảo tồn là do
viêm chuyển sang giai đoạn nặng hơn, bệnh nhân phải đối diện với
phẫu thuật cắt đại tràng. Trong khi biến chứng ở nhóm cắt túi thừa
nội soi chủ yếu là biến chứng của gây mê ở bệnh nhân có bệnh nội
khoa kèm theo (viêm phổi, bí tiểu, liệt ruột…) hơn là biến chứng của
phẫu thuật cắt túi thừa.
Tỉ lệ tái phát cả 2 nhóm thấp: nhóm cắt túi thừa là 0% (thời gian
theo dõi trung bình 44 tháng); nhóm bảo tồn là 5,4% sau thời gian
theo dõi trung bình là 32,73 tháng. Nhóm cắt túi thừa có tỷ lệ tái phát
thấp hơn nhóm bảo tồn, khác biệt có ý nghĩa thống kê.

KIẾN NGHỊ
Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy việc chọn lựa giữa
điều trị bảo tồn và phẫu thuật nội soi cắt túi thừa hợp lý nhất là nên

tùy thuộc vào tình huống viêm túi thừa được phát hiện:
1. Nếu VTT được chẩn đoán bằng chụp CT scan, nên chọn điều
trị bảo tồn. Tuy nhiên, cần theo dõi sát lâm sàng và cả chụp CT scan
kiểm tra để theo dõi chính xác diễn tiến và có chỉ định phẫu thuật khi
bệnh chuyển sang giai đoạn nặng hơn. Ưu điểm của phương pháp này
là không phải mổ nhưng bệnh nhân có thể phải đối mặt với phẫu


24
thuật cắt đại tràng ở tình trạng bệnh lan rộng nặng (áp xe, VPM mủ,
VPM phân) và nguy cơ tái phát cao hơn.
2. Nếu VTT được chẩn đoán trong mổ vì nhầm với các nguyên
nhân bụng cấp khác (ví dụ viêm ruột thừa), các phẫu thuật viên có
kinh nghiệm có thể thực hiện cắt TT qua nội soi ở những bệnh nhân
ít nguy cơ với gây mê toàn thân. Lợi ích của phương pháp này là giúp
bệnh nhân tránh biến chứng do bệnh chuyển sang giai đoạn nặng hơn
và giúp tránh tái phát cho trường hợp VTT đơn độc.
Chúng tôi xin đề nghị phác đồ điều trị cho viêm túi thừa đại tràng
phải qua lưu đồ sau:


×