Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN cứu về DINH DƯỠNG và THỨC ăn GIA súc VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.94 KB, 85 trang )

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ DINH
DƯỠNG VÀ THỨC ĂN GIA SÚC VIỆT NAM
TỪ 1982 ĐẾN 2002

1. Đặt vần đề
Trong 20 năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước,
ngành chăn nuôi gia súc đã có nhiều tiến bộ vượt bậc cả về số lượng lẫn chất
lượng. Giá trị sản lượng của ngành chăn nuôi tăng (giá cố định năm 1994) từ
11651 tỷ năm 1992 lên đến 21199,7 tỷ năm 2002, tăng 82%. Cùng với sự
phát triển của ngành chăn nuôi, ngành công nghiệp sản xuất thức ăn gia súc
đã có những tiến bộ đáng kể. Sản xuất thức ăn công nghiệp tăng cả về số
lượng tuyệt đối cũng như tương đối so với tổng số thức ăn gia súc tiêu thụ.
Chỉ tính riêng trong khoảng từ năm 1996 đến năm 1999, sản lượng thức ăn
công nghiệp tăng từ 0,04 triệu tấn năm 1990 tăng lên 1,05 triệu tấn năm
1996 lên đến 2,7 triệu tấn năm 2000 và 3,5 triệu tấn trong năm 2003 và có
xu hướng càng ngày càng tăng. Có được những thành tựu đó là nhờ chính
sách cùng mở cửa của Đảng và Nhà Nước ta cùng sự cố gắng nổ lực của các


doanh nghiệp và đóng góp khơng nhỏ của các nhà khoa học về dinh dưỡng
thức ăn gia súc. Trong 20 năm gần đây, tình hình nghiên cứu và phát triển
chăn nuôi và đặc biệt là trong lãnh vực thức ăn gia súc đã có nhiều tiến bộ rõ
rệt. Những tiến bộ trong lĩnh vực nghiên cứu về dinh dưỡng thức ăn gia súc
đã góp phần cải thiện năng suất và chất lượng sản phẩm chăn nuôi đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của xã hội và hướng tới xuất khẩu. Các nghiên cứu
trong lĩnh vực dinh dưỡng và thức ăn gia súc trong 20 năm qua tập trung
vào:



Xác định thành phần hoá học gần úng của các loại



nguyên liệu làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Xác định thành phần
các axít amin cũng như các phương pháp ước tính giá trị năng lượng
tiêu hoá, trao đổi cho lợn, gà.



Nghiên cứu xác định tỷ lệ tiêu hoá và khả năng tiêu hoá

các chất dinh dưỡng cũng đang được chú ý thực hiện.



Nghiên cứu xác định nhu cầu các chất dinh dưỡng: năng

lượng, protein, axít amin cho các loại gia súc, gia cầm khác nhau.
Hiện nay các nghiên cứu không những đi sâu vào xác định nhu cầu
các axít amin mà còn xem xét trong mối quan hệ với nhu cầu năng
lượng.




Nghiên cứu về chế biến nguyên liệu để tăng khả năng

tiêu hoá của thức ăn, tận dụng các phụ phế phẩm để hạ giá thành thức
ăn chăn nuôi cũng như loại trừ các độc tố, kháng dinh dưỡng trong các
loại thức ăn gia súc, gia cầm.
2. Tình hình nghiên cứu về thành phần hoá học và giá trị dinh
dưỡng của các loại nguyên liệu làm thức ăn cho gia súc, gia cầm

Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng là cơ sở dữ liệu đầu tiên để
thiết lập khẩu phần ăn tối ưu cho gia súc. Xác định đúng thành phần hoá học
và giá trị dinh dưỡng của các loại nguyên liệu thức ăn cho gia súc là điều
kiện tiền đề để xác định nhu cầu dinh dưỡng và tối ưu hoá khẩu phần, hạ giá
thành sản phẩm. Việc xác định thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của
các nguyên liệu làm thức ăn gia súc cần phải được thực hiện thường xuyên
và liên tục. Số liệu đa dạng về chủng loại thức ăn và số lượng mẫu phân tích
càng làm cho cơ sở dữ liệu về thành phần dinh dưỡng thêm chính xác và có
độ tin cậy cao. Mặt khác, sự tiến bộ về mặt di truyền trong ngành trồng trọt
đã tạo ra các giống mới có giá trị dinh dưỡng ngày càng được cải thiện do đó
địi hỏi dữ liệu thành phần hố học của thức ăn phải luôn được cập nhật mới.
2.1 Giai đoạn trước năm 1992 (1982-1992)


Trước năm 1992 đã có một số cơng trình nghiên cứu xác định thành
phần hoá học của các loại thức ăn cho gia súc, gia cầm ở Việt Nam. Đáng kể
nhất là chương trình hợp tác giữa Viện Chăn ni quốc gia và Viện Trung
tâm Nghiên cứu Nơng hố phục vụ nông nghiệp Liên Xô đã cho ra đời cuốn
sổ tay: thành phần dinh dưỡng thức ăn gia súc Việt nam. Cuốn sổ tay này
được bổ sung những số liệu phân tích trong hai kế hoạch hợp tác 1981-1985
và 1986-1990 giữa Viện Chăn nuôi Việt Nam và Viện Trung Tâm Nghiên
cứu Nơng hố phục vụ nơng nghiệp Liên Xơ. Đây là tập hợp những số liệu
phân tích thức ăn ở các vùng khác nhau do Viện Chăn nuôi, Viện Khoa học
Nông nghiệp miền Nam, trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, trường Đại
học Nơng nghiệp II Huế phân tích. Cuốn sổ tay này đã tổng hợp và hiệu
chỉnh các kết quả phân tích thành phần hố học của các loại thức ăn gia súc
được sử dụng phổ biến ở Việt Nam và có đưa ra tỷ lệ tiêu hố của các loại
nguyên liệu tham khảo từ tài liệu nước ngồi để làm cơ sở để tính tốn giá
trị năng lượng trao đổi cho các loại gia súc, gia cầm.
Trong giai đoạn này cũng có một số nghiên cứu xác định thành phần

hố học và thành phần axít amin của một số loại nguyên liệu thức ăn, tuy
nhiên các nghiên cứu này khá tản mạn, chưa được hệ thống hoá. Các phịng
thí nghiệm phân tích thức ăn của các Viện, Trường cũng đã tiến hành phân
tích xác định thành phần hoá học của các loại thức ăn gia súc, nhưng số


lượng chưa nhiều. Phân tích xác định thành phần axít amin cũng đã được
tiến hành trong giai đoạn này, cho một số kết quả nhất định. Hoàng Kim
Nhuệ (1979) đã xác định các hợp chất chứa nitơ và thành phần axít amin của
một vài loại cỏ họ lúa làm thức ăn cho gia súc. Nguyễn Nghi (1984) đã tiến
hành phân tích dưới sự giúp đỡ của phịng phân tích thuộc Viện Nghiên cứu
nơng hóa phục vụ nơng nghiệp Liên Xơ xác định thành phần axít amin của
một số loại thức ăn gia súc thường dùng ở Việt Nam. Tác giả đã tiến hành
phân tích xác định thành phần của 17 axít amin của 63 mẫu thức ăn gia súc
các loại bao gồm thức ăn xanh, rau bèo, cỏ hòa thảo và bộ đậu, thức ăn củ
quả, ngũ cốc, hạt họ đậu và khô dầu của chúng, bột cá và một số phụ phẩm
nơng nghiệp. Từ kết quả phân tích này tác giả cũng đã đề nghị phương pháp
tính giá trị sinh học của protein trong các loại thức ăn khác nhau.
Bên cạnh việc xác định thành phần hố học thơng thường và thành
phần axít amin, Nguyễn Nghi và Bùi Thị Gợi (1984) cũng đã tiến hành phân
tích xác định thành phần khoáng đa lượng và vi lượng của một số loại thức
ăn gia súc ở nước ta. Các tác giả đã tiến hành phân tích 131 mẫu thức ăn gia
súc bao gồm thức ăn thơ xanh, rau bèo, cỏ hịa thảo và bộ đậu, thức ăn củ
quả, ngũ cốc, hạt họ đậu và khô dầu của chúng, bột cá và cám gạo. Các chất
khống được phân tích xác định bao gồm canxi, phốt pho, kali, sắt, đồng,
kẽm và man gan. Kết quả cho thấy hàm lượng các nguyên tố canxi, phốt


pho, sắt, đồng, kẽm và man gan trong rong, bèo, rau xanh tương đối phong
phú và đáp ứng đủ nhu cầu của gia súc. Trong khi đó, hầu hết các loại thức

ăn tinh và củ quả phổ biến ở nước ta đều giàu sắt, nhưng thường thiếu các
nguyên tố canxi, phốt pho, đồng, kẽm, man gan. Đây là vấn đề cần chú ý khi
phối hợp khẩu phần cần bổ sung các chất khoáng cho phù hợp đảm bảo nhu
cầu của gia súc. Vũ Văn Độ (1990) cũng đã tiến hành nghiên cứu thành phần
và hàm lượng một số khoáng vi lượng trong đất và thức ăn gia súc trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh 1987-1989.
2.2 Giai đoạn sau năm 1992 (1992-2002)
Tiếp nối các kết quả phân tích trong giai đoạn trước, việc xác định
thành phần hoá học của thức ăn gia súc trong giai đoạn này đã tập hợp số
liệu phân tích của nhiều mẫu hơn, chủng loại phong phú hơn và hệ thống
hố thành các nhóm thức ăn với giai đoạn tuổi, giống khác nhau cũng như
các vùng sinh thái khác nhau trên cả nước. Đặc biệt trong giai đoạn này tập
trung phân tích xác định thành phần axít amin với số lượng và chủng loại
mẫu phong phú hơn và đã phân tích xác định thành phần của tất cả các axít
amin và được kiểm chứng với các phịng thí nghiệm ở nước ngồi. Đồng
thời từ số liệu phân tích thành phần hố học thơng thường, các cơng trình
nghiên cứu trong giai đoạn này cũng đã đưa ra một số phương pháp ước tính


giá trị năng lượng tiêu hoá, trao đổi của các loại thức ăn, ước tính thành phần
axít amin từ protein thơ.
Nghiên cứu xác định thành phần hố học của các nguyên liệu thức ăn,
Viện Chăn nuôi 1995 đã cho xuất bản cuốn thành phần hoá học và giá trị
dinh dưỡng của các loại thức ăn gia súc, gia cầm ở Việt Nam. Cuốn sách là
tập hợp thành phần hoá học phân tích được của hơn 4248 mẫu nguyên liệu
thức ăn, chủ yếu tập trung ở khu vực phía Bắc. Đây là tập hợp của các kết
quả được xuất bản từ các năm 1962, 1983 và 1992 và có bổ sung thêm 398
mẫu mới. Cuốn sách bao gồm thành phần hoá học gần đúng của các loại
thức ăn cho lợn, gà và gia súc nhai lại. Bên cạnh đó sách cịn trình bày thành
phần axít amin của các loại ngun liệu thức ăn cho gia súc, gia cầm, giá trị

năng lượng tiêu hoá, trao đổi cho lợn và gia cầm được tính theo các phương
trình tương quan hồi quy dựa vào tỷ lệ tiêu hoá của các nguyên liệu tham
khảo từ tài liệu nước ngồi.
Ở phía Nam, năm 1996 Đinh Huỳnh đã tập hợp các kết quả phân tích
thành phần hố học của hơn 400 mẫu các loại nguyên liệu thức ăn gia súc
chủ yếu ở khu vực phía Nam và chủ yếu cho gia súc nhai lại. Nguyễn Nghi
và ctv (1995) cũng đã có cơng trình nghiên cứu xác định thành phần hoá học
và giá trị dinh dưỡng của 250 mẫu của 52 loại thức ăn dùng cho chăn nuôi


bị sữa khu vực thành phố Hồ Chí Minh (gồm cỏ trồng, cỏ tự nhiên, phụ
phẩm nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, cây thức ăn xanh, cỏ ủ). Đinh
Văn Cải và ctv (2001) cũng đã phân tích gần 300 mẫu thức ăn cho trâu bò.
Từ kết quả của dự án hợp tác với ACIAR về giống và thức ăn cho lợn
và đề tài độc lập cấp nhà nước về thức ăn cho lợn, gà tiến hành trong 7 năm,
từ năm 1996 đến 2002, Lã Văn Kính và các cộng tác viên ở Viện Khoa học
Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam đã tập hợp các số liệu phân tích của hơn
850 mẫu nguyên liệu thức ăn các loại (được thu thập chủ yếu ở khu vực phía
Nam) vào cuốn sách thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của các loại
thức ăn cho lợn gà. Trong cuốn sách này cũng đã tập hợp được số liệu về
thành phần axít amin của hơn 450 mẫu nguyên liệu thức ăn gia súc của Việt
Nam nhưng được phân tích bởi cơng ty Ajinomoto, Thái lan; Viện Nghiên
cứu động vật, Queensland, Úc; và phòng phân tích thức ăn gia súc của Viện
Khoa học Kỹ thuật Nơng nghiệp miền Nam. Các phương trình tương quan
ước tính giá trị axít amin dựa vào hàm lượng protein thô của nguyên liệu
cũng đã được công bố ở đây. Ngồi ra trong cuốn sách này cịn đưa ra các
phương trình tương quan ước tính giá trị năng lượng tiêu hoá, trao đổi của
các loại nguyên liệu thức ăn cho lợn, gà. Các phương trình tương quan với
hệ số hiệu chỉnh của nó có thể tính tốn giá trị năng lượng tiêu hố, trao đổi
với độ chính xác tương đối cao khi so với giá trị ở các bảng thành phần hoá



học khác trong và ngoài nước. Dựa vào các phương trình tương quan này
giúp cho các cơ sở sản xuất có thể ước tính một cách nhanh chóng và tương
đối chính xác giá trị năng lượng trong thức ăn.
Tóm lại: Trong vòng 20 năm trở lại đây, các nghiên cứu về xác định
thành phần hố học thức ăn khơng ngừng phát triển. Các thơng số sau đã
được phân tích:



Thành phần hoá học gần đúng của hầu hết các loại thức

ăn (khoảng 6500 mẫu) với các chỉ tiêu ẩm độ, protein thơ, xơ thơ,
ADF, NDF, béo thơ, khống tổng số, NaCl, Ca, P tổng số, đường, tinh
bột, năng lượng thô, năng lượng trao đổi, giá trị năng lượng trao đổi
của các nguyên liệu.



Thành phần axít amin trong các loại thức ăn chủ yếu cho

lợn, gà (khoảng 600 mẫu) và các phương trình tương quan ước tính
thành phần axít amin.



Thành phần khống vi lượng trong một số thức ăn

khoảng 300 mẫu như Fe, Cu, Mn, Zn, Co, I nhưng số liệu chưa nhiều,

chưa đại diện, đây là điều cần thiết tiến hành nghiên cứu xác định
trong thời gian tới.




Vơ cùng ít số liệu phân tích thành phần các vitamin, độc

tố, chất kháng dinh dưỡng trong thức ăn…
Hầu hết các số liệu trên đây đã và đang được sử dụng rộng rãi trong
thực tế sản xuất và được các cơ sở sản xuất thức ăn và người chăn nuôi tin
cậy.
3. Tình hình nghiên cứu về tiêu hố, hấp thu và lợi dụng các chất
dinh dưỡng trên các đối tượng gia súc gia cầm khác nhau và các loại
thức ăn khác nhau
Nghiên cứu tỷ lệ tiêu hoá của các loại nguyên liệu làm thức ăn trên
các đối tượng gia súc gia cầm khác nhau là một công việc hết sức quan trọng
để đánh giá khả năng sử dụng thực tế bởi con vật. Các loại thức ăn có thể có
cùng thành phần dinh dưỡng như nhau nhưng có tỷ lệ tiêu hố khác nhau thì
giá trị dinh dưỡng của nó đối với con vật sẽ khác nhau. Hơn nữa, với cùng
một loại nguyên liệu thức ăn nhưng tỷ lệ tiêu hoá cũng khác nhau ở các loại
động vật khác nhau, ví dụ tỷ lệ tiêu hố cám gạo ở gà khác ở lợn, khác ở trâu
bò. Các nghiên cứu về tỷ lệ tiêu hoá thức ăn trên thế giới đã được tiến hành
từ rất sớm và họ đã ra được cơ sở dữ liệu về tỷ lệ tiêu hoá của thức ăn. Ở
Việt nam, nghiên cứu về xác định tỷ lệ tiêu hoá, hấp thu thức ăn cho các đối
tượng gia súc gia cầm ở nước ta cũng được bắt đầu từ những năm 70 bởi


Nguyễn Nghi, Đinh Huỳnh, Trần Cừ và ctv (1979), song đây là những thí
nghiệm tương đối đơn giản và mới chỉ chú ý tới các thành phần gần đúng

như protein thô, béo thô…
Trong vài năm trở lại đây, nghiên cứu tiêu hoá đã tiến bước xa hơn,
như xác định giá trị năng lượng tiêu hoá, trao đổi, xác định tỷ lệ tiêu hố
protein và axít amin của các ngun liệu thức ăn. Lê Văn Thọ (2001) đã xác
định tỷ lệ tiêu hoá biểu kiến ở hồi tràng của protein và axít amin trong các
sản phẩm đậu tương (đậu tương ép đùn, đậu tương rang, khô dầu đậu tương
Argentina và khô dầu đậu tương Ấn độ) bằng kỹ thuật đặt ống dò trường
diễn sau van hồi-manh tràng ở lợn. Lê Đức Ngoan và ctv (2002) xác định tỷ
lệ tiêu hoá hồi tràng của protein và axít amin của một số nguyên liệu thức ăn
protein (bột cá, khô dầu lạc, bột đậu tương, bột đầu tơm và bã đậu tương)
trên lợn Móng Cái. Lã Văn Kính và ctv (2002) nghiên cứu xác định năng
lượng tiêu hoá và tỷ lệ tiêu hoá hồi tràng của một số nguyên liệu thức ăn cho
lợn gồm thức ăn năng lượng: bắp, tấm, cám gạo, cám mỳ, sắn và thức ăn
protein: cá sấy 60% protein; đậu tương khơng vỏ Argentina; đậu tương có vỏ
Ấn độ; đậu tương có vỏ Malaixia; đậu tương khơng vỏ Mỹ.
Nghiên cứu xác định tỷ lệ tiêu hoá năng lượng và protein của một số
loại nguyên liệu thức ăn cho gà cũng đã bước đầu được tiến hành trong vài


năm qua. Hoàng Văn Tiến và ctv (1997) đã xác định giá trị năng lượng trao
đổi của 6 loại nguyên liệu thức ăn chính gồm: bắp vàng, gạo tẻ, lúa, khô dầu
đậu tương, bột cá Đà Nẵng, khô dầu lạc trên 20 gà thịt (10 trống và 10 mái)
lúc 7 tuần tuổi. Nguyễn Thị Mai và ctv (2001) xác định giá trị năng lượng
trao đổi của bắp, đậu tương, các loại khô dầu đậu tương (nội địa, Ấn Độ,
Argentina), các loại bột cá (cá sấy Kiên Giang, cá nguyên con, cá Peru, cá
Thuỵ Điển) trên gà trống trưởng thành 6 tháng tuổi. Lã Văn Kính và ctv
(2002) xác định giá trị năng lượng trao đổi và tỷ lệ tiêu hoá protein của một
số loại nguyên liệu thức ăn (thức ăn năng lựơng: bắp, tấm gạo, cám gạo và
sắn; thức ăn protein: bột cá lạt (cá tạp), bột cá sấy Kiên Giang, bột cá Peru,
đậu tương hạt đã xử lý nhiệt, khô dầu đậu tương cả vỏ và tách vỏ của

Argentina, khô dầu đậu tương Ấn Độ, khô dầu lạc, khô dầu mè, bột thịt và
gluten bắp) trên 40 gà trống tơ 12 tuần tuổi được cắt bỏ manh tràng.
Gần đây, trên gia súc nhai lại, để hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề tiêu
hoá dạ cỏ, các nhà nghiên cứu đi sâu vào lĩnh vực môi trường và phân giải
chất hữu cơ trong dạ cỏ. Đào Lan Nhi và ctv (1999) nghiên cứu ảnh hưởng
của khẩu phần đến tỷ lệ tiêu hoá, cân bằng nitơ trên trâu vỗ béo 18-24 tháng
tuổi. Thí nghiệm cân bằng nitơ trên 4 trâu đực tơ 24 tháng tuổi theo phương
pháp ô vuông latin với 4 khẩu phần có tỷ lệ thức ăn tinh khác nhau theo vật
chất khô là 0%, 30% (sắǹ, cám), 15% (cám, rỉ mật) và 30% (sắǹ, bột lá keo


dậu) cho tỷ lệ lợi dụng nitơ lần lượt là 27,35, 35,11, 37,63 và 40,33%. Đoàn
Đức Vũ và ctv (1999) nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn và khẩu phần đến
mơi trường dạ cỏ và khả năng tiêu hố của bò sữa, sử dụng 4 bò mổ lỗ dò dạ
cỏ bố trí theo ơ vng latin. Thí nghiệm 1 gồm 4 khẩu phần cho tỷ lệ tiêu
hố vật chất khơ và xơ thô sau 48 giờ lần lượt là 49,55 và 36,31% (khẩu
phần 1: rơm không ủ); 54,62 và 40,21% (khẩu phần 2: rơm ủ urea); 57,62 và
46,15% (khẩu phần 3: bánh dinh dưỡng) và 57,09 và 45,89% (khẩu phần 4:
rơm ủ urea+bánh dinh dưỡng). Thí nghiệm 2 gồm 4 khẩu phần có tỷ lệ
tinh/thơ khác nhau cho tỷ lệ tiêu hố vật chất khơ và xơ thơ sau 48 giờ lần
lượt là 52,75 và 40,85% (tỷ lệ tinh/thô: 77/23); 51,91 và 40,34% (tỷ lệ
tinh/thô: 60/40); 60,46 và 49,23% (tỷ lệ tinh/thô: 40/60) và 67,82 và 58,77%
(tỷ lệ tinh/thô: 25/75). Nguyễn Thị Mùi và ctv (1999) nghiên cứu đánh giá
khả năng tiêu hoá các chất dinh dưỡng chủ yếu của dê đối với 6 loại thức ăn
xanh (cỏ ghi nê, mía cây, cỏ lơng para, ngọn lá Trichantera gigantea, ngọn lá
mít và ngọn lá cây đậu (Flemingia macrophylla) bằng phương pháp in vivo.
Kết quả thí nghiệm cho thấy rằng hệ số tiêu hố vật chất khơ và protein đều
cao ở các loại thức ăn thí nghiệm. Hệ số tiêu hố vật chất khô dao động từ
50,6% ở đậu Flemingia đến 75,6% ở chè Trichantera, trong khi hệ số tiêu
hoá protein dao động từ 45,2% ở ngọn lá mít đến 70,2% ở cỏ lơng para.

Riêng hệ số tiêu hố protein của mía cây là –58,7% bởi vì gia súc phải huy


động một lượng nitơ nội sinh để đảm bảo mức duy trì cơ thể khi hàm lượng
protein thơ ở mía cây quá thấp. Nguyễn Bá Mùi và ctv (2001) nghiên cứu tỷ
lệ tiêu hoá dạ cỏ các chất dinh dưỡng của phụ phẩm dựa trên dê mổ lỗ dò dạ
cỏ. Các tác giả đã tiến hành thí nghiệm xác định tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh
dưỡng theo phương pháp túi nylon dạ cỏ đối với 3 công thức ủ: 75% chồi
ngọn dứa+ 25% vỏ và bã dứa ép+ 0,5% muối (CT1); 100% chồi ngọn và lá
dứa+ 0,5% muối (CT2) và 100% vỏ và bã dứa ép+ 0,5% muối (CT3). Kết
quả thí nghiệm cho thấy CT3 có tỷ lệ tiêu hố các chất dinh dưỡng cao nhất
và CT2 có tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh dưỡng thấp nhất (hàm lượng nitơ
protein trong dịch dạ cỏ ở CT3 là 51,27 mg% và ở CT2 là 49,94 mg%). Kết
quả thí nghiệm cũng cho thấy rằng CT3 có hàm lượng axít béo bay hơi tổng
số là cao nhất (10,37mEq/100 ml so với 8,99 mEq/100 ml ở khẩu phần đối
chứng là cỏ tự nhiên).

Tóm lại: Các nghiên cứu xác định tỷ lệ tiêu hoá của các loại nguyên
liệu thức ăn cho cả heo, gà, trâu bò trên đây cũng mới chỉ mới là bước đầu,
kết quả khá hạn chế và mang tính chất tham khảo. Các giá trị tỷ lệ tiêu hoá
sử dụng trong thực tiễn chủ yếu mượn của nước ngoài. Do tỷ lệ tiêu hoá phụ
thuộc rất nhiều yếu tố như nguồn gốc, đặc điểm lý hố của đất, khí hậu thời


tiết, giống, phương thức canh tác, phương pháp chế biến, bảo quản thức ăn
cũng như đặc tính giống gia súc… nên tỷ lệ tiêu hoá thức ăn Việt nam sẽ
khác thức ăn ở nước ngoài, Trong thời gian tới cần thiết đẩy mạnh nghiên
cứu xác định tỷ lệ tiêu hoá một cách toàn diện của các loại nguyên liệu thức
ăn trên các đối tượng gia súc gia cầm khác nhau để xây dựng cơ sở dữ liệu
về tỷ lệ tiêu hố của Việt nam.


4. Tình hình nghiên cứu xác định nhu cầu dinh dưỡng cho gia súc,
gia cầm
Nghiên cứu xác định nhu cầu dinh dưỡng cho các đối tượng gia súc,
gia cầm là một việc làm đòi hỏi phải được thực hiện thường xuyên, liên tục.
Lý do là con giống được cải thiện ngày càng cao sản hơn về năng suất và
chất lượng đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng phải được cải thiện theo. Đồng thời,
theo sự phát triển của dinh dưỡng học, trước tiên, ngừơi ta thoả mãn nhu cầu
các chất đa lượng trước, sau đó đi sâu nghiên cứu xác định nhu cầu của các
chất vi lượng riêng lẻ và mối tương tác giữa chúng trong khẩu phần ăn cho
gia súc, gia cầm. Trong đó đặc biệt là nghiên cứu xác định nhu cầu năng
lượng, protein và axít amin và mối liên hệ giữa chúng trong khẩu phần ăn
cho gia súc, gia cầm. Xác định chính xác nhu cầu các chất dinh dưỡng của


con vật và thành phần dinh dưỡng của các loại nguyên liệu thức ăn sẽ cho
phép thu hẹp khoảng cách an toàn trong phối hợp khẩu phần để hạ giá thành
thức ăn và từ đó hạ giá thành sản phẩm chăn ni.

4.1 Tình hình nghiên cứu xác định nhu cầu dinh dưỡng cho lợn

Trong 20 năm qua có rất nhiều nghiên cứu khác nhau về xác nhu cầu
dinh dưỡng và phương thức nuôi dưỡng của nhiều tác giả khác nhau trên
lợn. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào xác định nhu cầu năng lượng,
protein, axít amin và mối liên hệ giữa chúng trong khẩu phần, nghiên cứu
mức ăn và chế độ nuôi dưỡng trên các đối tượng heo khác nhau. Theo sự
phát triển của ngành dinh dưỡng và thức ăn gia súc trong 20 năm qua, ban
đầu các nghiên cứu chỉ quan tâm giải quyết đơn lẻ từng yếu tố hoặc nhu cầu
năng lượng hoặc nhu cầu protein thô. Tiếp theo là nghiên cứu về nhu cầu
của cả năng lượng và protein thô cho lợn.


4.1.1 Nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng cho lợn con


Vấn đề cai sữa sớm lợn con đã và đang được các nhà nghiên cứu và
sản xuất quan tâm cả trên thế giới cũng như trong nước. Cai sữa sớm lợn con
giúp cho thời gian động dục trở lại của lợn mẹ sớm hơn, tăng hệ số lứa đẻ,
giảm hao mòn lợn mẹ. Để thực hiện cai sữa sớm lợn con vấn đề đầu tiên là
phải nghiên cứu khẩu phần thức ăn thích hợp cho lợn con tập ăn và sau cai
sữa. Vì thức ăn tự nhiên cho lợn con là sữa mẹ có giá trị dinh dưỡng cao, dễ
tiêu hoá, cho nên để cai sữa sớm cho lợn con, khẩu phần ăn cho lợn con tập
ăn và sau cai sữa cần phải đảm bảo đủ nhu cầu dinh dưỡng cần thiết và có
chất lượng cao, dễ tiêu cung cấp cho nhu cầu của cơ thể. Tuy nhiên, các
nghiên cứu về thức ăn cho lợn con mới thực sự được quan tâm nhiều trong
thời gian gần đây, ở giai đoạn trước năm 1992 vấn đề này cũng đã được đề
cập đến, nhưng sự quan tâm còn chưa nhiều.

- Giai đoạn trước năm 1992 (1982-1992)
Trong giai đoạn này vấn đề nghiên cứu thức ăn cho lợn con tập ăn và
sau cai sữa để cai sữa sớm lợn con ở nước ta chưa được chú trọng nhiều.
Thường các nghiên cứu về thức ăn tập trung nhiều vào đối tượng lợn mẹ mà
ít chú trọng đến việc nghiên cứu thức ăn cho lợn con để tăng hệ số lứa đẻ
của lợn nái bằng cách cai sữa sớm lợn con và giảm hao mòn cho lợn mẹ.


Một phần vì trình độ chăn ni lúc đó chưa cho phép cai sữa sớm cho lợn
con vì gặp nhiều rũi ro, cho nên vấn đề nghiên cứu thức ăn cho lợn con tập
ăn và sau cai sữa chưa được quan tâm nhiều. Tuy vậy, trong giai đoạn này
cũng đã có một số tiến bộ nhất định trong việc nghiên cứu thức ăn cho lợn
con tập ăn và sau cai sữa. Một số nghiên cứu bước đầu về dinh dưỡng cho

lợn con, mặc dù nó chưa được hệ thống hố, mà chỉ giải quyết một vài vấn
đề riêng lẻ cấp thiết trước mắt. Nghiên cứu trên lợn con, Trịnh Hữu Phước
và ctv (1981) đã nghiên cứu về sự chuyển hoá năng lượng ở lợn con thông
qua sự tiêu thụ ô xy. Do trong thời kỳ này khẩu phần ăn cho lợn mẹ và lợn
con thiếu hụt dinh dưỡng và mất cân đối trầm trọng, nên các tác giả chỉ chú
ý giải quyết bổ sung một vài yếu tố giới hạn chính để tăng năng suất vật
ni. Hồng Văn Tiến và ctv (1983) đã nghiên cứu bổ sung kẽm cho lợn con
suy dinh dưỡng vì trong thời kỳ này có đến 20-30% lợn con suy dinh dưỡng,
trong đó lợn con biểu hiện thiếu kẽm khá cao. Kết quả sau 45 ngày thí
nghiệm, lợn được bổ sung bột kẽm cho tăng trọng cao hơn, tiêu thụ thức ăn
nhiều hơn so với đối chứng và cơ thể được hồi phục nhanh chóng. Sau đó
cũng chính tác giả đã tiến hành nghiên cứu bổ sung các nguyên tố vi lượng
cho lợn con từ sơ sinh đến cai sữa. Các nghiên cứu nhu cầu các chất dinh
dưỡng chính là năng lượng protein và axít amin chưa được quan tâm.


- Giai đoạn sau năm 1992 (1992-2002)
Các nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng cho lợn con tập ăn và sau cai
sữa để cai sữa sớm lợn con mới được quan tâm thực hiện trong những năm
gần đây, khi mà yêu cầu của sản xuất về tăng hệ số lứa đẻ của lợn nái, tăng
khả năng sử dụng của lợn nái ngày càng cấp thiết. Nguyễn Đăng Bật và ctv
(1995) đã nghiên cứu thức ăn để cai sữa sớm lợn con ở 35 ngày tuổi với
3250 kcal ME/kg; 20,5% protein thơ và 1,4% lysine. Lã Văn Kính và ctv
(1999) đã tiến hành xác định nhu cầu năng năng lượng và axít amin cho lợn
con sau cai sữa. Thí nghiệm được tiến hành trên 696 lợn lai thương phẩm 3
máu ngoại sau cai sữa (28 ngày tuổi). Kết quả thí nghiệm cho thấy khẩu
phần thích hợp cho lợn con sau cai sữa chứa 15-16 MJ DE/kg và 1,0-1,1 g
lysine/MJ DE, 0,57-0,63 g methionine+ cystine/MJ DE, 0,63-0,7 g
threonine/MJ DE và 0,18-0,2 g tryptophan/MJ DE. Trần Quốc Việt và ctv
(1999) nghiên cứu xác định mức năng lượng, axít amin và tỷ lệ axít

amin/năng lượng thích hợp cho lợn con sau cai sữa. Thí nghiệm được tiến
hành trên 216 lợn con sau cai sữa (ở 35 ngày tuổi, trọng lượng 8-9 kg) và đã
xác định được mức năng lượng thích hợp trong khẩu phần cho lợn con sau
cai sữa chứa 20% protein thô và 1,25% lysine là 3250-3350 kcal/kg và tỷ lệ
lysine/ năng lượng thích hợp là 0,9-1,0 g/MJ DE. Lã Văn Kính và ctv (2002)
đã tiến hành 3 thí nghiệm trên 560 lợn con sau cai sữa để xác định nhu cầu


dinh dưỡng cho lợn con sau cai sữa theo giai đoạn (28-42 ngày và 42-56
ngày tuổi). Kết quả thí nghiệm cho thấy khẩu phần tốt nhất cho lợn con sau
cai sữa với mức năng lượng 3450 kcal ME/kg; 22% protein thô; 1,5% lysine;
0,84% methionine + cystine; 0,92% threonine; 0,26% tryptophan cho giai
đoạn 28-42 ngày tuổi và 3300 kcal ME/kg; 20% protein thô; 1,35% lysine;
0,74% methionine + cystine; 0,82% threonine; 0,24% tryptophan cho giai
đoạn 42-56 ngày tuổi.
Nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng cho lợn con tập ăn, Lã Văn Kính
và ctv (2002) đã tiến hành thí nghiệm trên 360 lợn con theo mẹ (36 ổ) được
bố trí gồm 2 yếu tố (3x3) với 3 mức năng lượng (3200; 3300 và 3400
kcal/kg) và 3 mức axít amin (4,5; 5,0 và 5,5 mg lysine/kcal ME), các axít
amin cịn lại: methionine + cystine và threonine được tính theo tỷ lệ phần
trăm của lysine. Kết quả thí nghiệm cho thấy rằng khẩu phần tốt nhất cho
lợn con giai đoạn theo mẹ có mật độ dinh dưỡng 3300 Kcal ME/kg thức ăn,
22,5% protein thô và 5,00 mg lysine; 1,35mg methionine; 2,85mg
methionine+ cystine; 3,00mg threonine/kcal ME hay 1,65% lysine; 0,44%
methionine; 0,94% methionine +cystine và 0,99% threonine.

4.1.2 Nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng cho lợn nuôi thịt


Nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng và khẩu phần thức ăn cho lợn thịt

được thực hiện từ rất sớm và đây là đối tượng được quan tâm nghiên cứu
nhiều nhất trong giai đoạn nghiên cứu đầu tiên của nước ta từ sau ngày hịa
bình lập lại. Mặt dù nhu cầu dinh dưỡng cho lợn thịt được nghiên cứu sớm
nhất và có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, song do con
giống ngày càng được cải thiện với tỷ lệ nạc càng cao đòi hỏi nhu cầu dinh
dưỡng cũng tăng theo. Bên cạnh đó, do các axít amin tổng hợp được sản
xuất với qui mô công nghiệp trong những năm gần đây cho phép nghiên cứu
xác định nhu cầu khơng chỉ protein thơ mà cả axít amin cho lợn thịt.

- Giai đoạn trước năm 1992 (1982-1992)
Trong giai đoạn này, chăn nuôi chủ yếu là quảng canh, chưa được đầu
tư đúng mức về nhu cầu thức ăn, nhất là chăn nuôi ở nông hộ. Khẩu phần ăn
chủ yếu gồm phụ phế phẩm, rau xanh và có thể có một số thức ăn tinh nhưng
chưa được cân đối nhu cầu các chất dinh dưỡng chính. Do đó năng suất và
chất lượng thịt cịn rất thấp. Chính vì thế các nghiên cứu bước đầu về cân
đối khẩu phần thức ăn và bổ sung một số yếu tố giới hạn chính đem lại hiệu
quả rất có ý nghĩa so với đối chứng.


Các nghiên cứu về dinh dưỡng cho lợn thịt trong giai đoạn này chủ
yếu tập trung vào việc bổ sung các yếu tố giới hạn còn thiếu trong khẩu phần
hơn là cân đối nhu cầu các chất dinh dưỡng. Nghiên cứu khẩu phần thức ăn
tinh cho lợn, Nguyễn Đức Trân và ctv (1977) đã tiến hành thí nghiệm ni
heo bằng khẩu phần khơng có thức ăn xanh bằng việc bổ sung premix
khoáng vitamin. Do thức ăn trong giai đoạn này thiếu hụt nhiều vitamin và
khoáng vi lượng nên vấn đề bổ sung thức ăn xanh là cần thiết. Vũ Duy
Giảng và ctv (1980) đã tiến hành nghiên cứu giá trị dinh dưỡng của cỏ voi
trong chăn nuôi lợn thịt. Tô Cẩm Tú và Hồng Văn Tiến (1981) đã nghiên
cứu cơng thức điều khiển năng lượng duy trì để đạt hiệu quả chuyển hố cao
thức ăn cho chăn ni lợn thịt. Do khẩu phần trong giai đoạn này chưa cân

đối về dinh dưỡng, chỉ tận dụng các sản phẩm địa phương (tấm, cám, rau
xanh) nên năng suất chăn nuôi thấp. Nghiên cứu của Võ Ái Quấc và Lưu
Hữu Mãnh (1984) đã tiến hành nuôi dưỡng heo Ba xuyên theo khẩu phần
cân đối các chất dinh dưỡng cho kết quả cao hơn nhiều so với chăn nuôi tuỳ
tiện. Đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng của các thành phần dinh dưỡng chính đến
năng suất và chất lượng của lợn thịt, Hoàng Văn Tiến (1984) đã đưa ra một
số phương pháp tính nhu cầu protein và năng lượng cho các loại lợn. Do
thức ăn cho lợn trong giai đoạn này thường thiếu hụt các chất dinh dưỡng,
đặc biệt là khống vi lượng, Hồng Văn Tiến và ctv (1985) đã nghiên cứu


vai trò của một số nguyên tố vi lượng trong dinh dưỡng của lợn. Nguyễn
Nghi và ctv (1985) đã tiến hành nghiên cứu xác định một số công thức bổ
sung khoáng vi lượng cho lợn và gà. Kết quả với đối tượng lợn thịt, liều bổ
sung khoáng vi lượng vào thức ăn tinh là khoảng 1%. Đi sâu vào nghiên cứu
vai trị của yếu tố chính cấu thành cơ thể (protein và axít amin), Bùi Thị Gợi
(1990) đã nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ ăn có tỷ lệ protein khác nhau
đến tỷ lệ thịt nạc của lợn lai Landrace với heo ĐBI-81. Hoàng Văn Tiến và
Nguyễn Đăng Bật (1992) đã bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ
sung lysine vào khẩu phần ăn cho lợn ¾ máu ngoại. Trần Phú Lộc và ctv
(1992) đã nghiên cứu mức năng lượng thích hợp trong khẩu phần ni lợn
thịt giống Yorkshire có hoặc khơng cân đối lysine. Lã Văn Kính và ctv
(1992) đã nghiên cứu tỷ lệ lysine bổ sung trong khẩu phần ăn cho lợn ngoại
nuôi thịt. Đến lúc này việc đi sâu nghiên cứu nhu cầu của các chất dinh
dưỡng chính (năng lượng, protein và axít amin) được quan tâm và được
nghiên cứu nhiều ở giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu về tiêu hố và lợi dụng các chất dinh
dưỡng cũng đã bước đầu được quan tâm. Trần Cừ và ctv (1979) đã tiến hành
nghiên cứu ảnh hưởng của các khẩu phần và cách cho ăn khác nhau đến sự
tiêu hoá và sử dụng nitơ ở ruột của lợn. Các tác giả đã tiến hành thí nghiệm

trên 6 lợn lai ĐB x MC 5-6 tháng tuổi, trong đó có 4 con mỗ lổ dị tá tràng


và 2 con khơng mỗ lổ dị. Kết quả thí nghiệm cho thấy khi cho ăn khẩu phần
có cùng mức protein nhưng khác nhau về loại thức ăn thì hàm lượng các
dạng nitơ cũng khác nhau. Sự khác nhau về hàm lượng các dạng nitơ là yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng tiêu hoá, hấp thu và sử dụng nitơ ở
ống tiêu hoá. Mặc khác các tác giả cũng khám phá ra rằng cách cho ăn (đặc,
loãng) cũng đã ảnh hưởng đến hàm lượng các dạng nitơ, từ đó ảnh hưởng
đến sự tiêu hố và sử dụng nitơ của heo.

- Giai đoạn sau năm 1992 (1992-2002)
Trong giai đoạn này các nghiên cứu đi sâu vào xác định nhu cầu của
các dinh dưỡng chính (năng lượng, protein và axít amin) và mối tương quan
của chúng trong dinh dưỡng cho lợn thịt để đạt kết quả tối ưu về năng suất
và chất lượng thịt và đối tượng chủ yếu tập trung vào lợn giống ngoại và lợn
lai. Nghiên cứu về nhu cầu protein và axít amin cho lợn thịt giống ngoại,
Nguyễn Nghi và (1994) đã tiến hành thí nghiệm trên 48 lợn thịt giống ngoại
và cho thấy rằng với lợn thịt giống ngoại có nhu cầu về protein là 15% và
0,85% lysine cho lợn 20-55 kg và 14% protein và 0,78% lysine cho lợn 5685 kg. Trần Quốc Việt và ctv (1995) đã nghiên cứu xác định nhu cầu năng
lượng và protein cho lợn lai 7/8 máu ngoại nuôi thịt. Bùi Huy Như Phúc


(1996) nghiên cứu ảnh hưởng các mức năng lượng và protein trên lợn tăng
trưởng. Tác giả đã tiến hành thí nghiệm trên 100 lợn thịt giống ngoại được
thiết kế theo 2 yếu tố (5x2) gồm 5 mức năng lượng và 2 mức protein. Kết
quả thí nghiệm cho thấy rằng mức năng lượng thích hợp trong khẩu phần
cho lợn thịt là 2965-3112 kcal/kg và mức protein thích hợp là 14-16%. Về
nghiên cứu ảnh hưởng của các mức protein thô trong khẩu phần đến năng
suất và chất lượng thịt xẻ của heo nuôi thịt, Nguyễn Nghi và ctv (1995) đã

tiến hành 2 thí nghiệm trên 144 lợn thịt lai 3 máu ngoại. Kết quả cho thấy
khi cân đối axít amin trong khẩu phần của lợn thịt thì heo ăn khẩu phần 16%
protein thô ở giai đoạn 20-50 kg và 14% protein ở giai đoạn 50-90 kg khơng
có sai khác về tăng trọng và tiêu tốn thức ăn nhưng chi phí thức ăn thấp hơn
khi ăn khẩu phần 16-18% protein thô.
Đi sâu nghiên nhu cầu axít amin cho lợn thịt, Trần Quốc Việt và ctv
(1999) đã tiến hành 2 thí nghiệm trên 112 lợn thịt để xác định ảnh hưởng của
các mức năng lượng và lysine khác nhau trong khẩu phần ăn cho lợn ngoại
ni thịt. Kết quả thí nghiệm đã đưa ra được các cơng thức thức ăn cho lợn
thịt có hàm lượng năng lượng 3000-3000-2950 kcal/kg, protein thô 18-1513%, lysine 1,15-1,0-0,75%, methionine+ cystine 0,7-0,62-0,49%, threonine
0,75-0,67-0,52%, tryptophan 0,2-0,18-0,14% tương ứng với các giai đoạn
sinh trưởng 15-30, 30-60 và 60-100 kg. Nguyễn Ngọc Hùng và ctv (2001)


×