Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Ở CHÂU ÂU, TÁC ĐỘNG ĐẾN BA LAN VÀ HÀM Ý CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.4 KB, 17 trang )

CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Ở CHÂU ÂU, TÁC ĐỘNG ĐẾN BA
LAN VÀ HÀM Ý CHO VIỆT NAM
PGS.TS Nguyễn An Hà
Ths. Trần Đình Hưng
Viện Nghiên cứu Châu Âu
Tóm tắt: Kể từ khi xuất hiện trong một báo cáo của chính phủ Đức năm
2011, cụm từ “Cách mạng công nghiệp 4.0” đã trở nên phổ biến tại nhiều quốc
gia phát triển trên thế giới hơn bao giờ hết khi nó được kì vọng là sẽ đem lại một
sự thay đổi tồn diện, đột phá với sự kết hợp của các công nghệ lại với nhau, làm
mờ đi ranh giới giữa vật lí, kỹ thuật số và sinh học. Châu Âu vốn được xem là
chiếc nôi, khởi nguồn của các cuộc cách mạng Công nghiệp, đang lại một lần nữa
đứng trước một thời điểm đầy thách thức, mang đến một cơ hội đặc biệt, một thông
điệp hi vọng và lạc quan cho người dân EU. Theo tính tốn của cơng ty kiểm toán
PricewaterhouseCoopers (PWC), từ nay đến 2020, châu Âu sẽ đầu tư khoảng 140
tỷ euro/năm cho cách mạng công nghiệp 4.0; cùng với đó là sự ráo riết, tập trung
chuẩn bị nguồn nhân lực lãnh đạo cho các lĩnh vực, ngành nghề mới. Vậy, với
những lợi ích kinh tế được kì vọng sẽ mang lại, cùng một sự chuẩn bị chu đáo cho
một thời kì đổi mới, châu Âu liệu sẽ một lần nữa gặt hái được thành công trở thành
người tiên phong trong cuộc đua “Cách mạng công nghiệp 4.0” hay khơng? Bài
viết sẽ tập trung phân tích những sự chuẩn bị của châu Âu nói chung và Ba Lan
nói riêng (nước có nền kinh tế chuyển đổi được xem là gặt hái được nhiều thành
công nhất trong phát triển kinh tế của EU) trong cuộc đua này; từ đó đưa ra hàm ý
chính sách cho Việt Nam.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0; Cách mạng số;
1. Cách mạng công nghiệp 4.0
1.1. Cách mạng cơng nghiệp 4.0 là gì?
Thế giới đã trải qua ba cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, làm thay đổi hồn
tồn cuộc sống con người. Nhìn lại lịch sử từ những năm 1784, khi động cơ hơi
nước được phát minh và lần đầu tiên được giới thiệu đã tạo ra một tiếng vang lớn,
tác động trực tiếp đến các ngành nghề như giao thông vận tại, chế tạo cơ khí, dệt
may… Những chiếc ơ tơ, tàu thủy, tàu hỏa được sử dụng động cơ hơi nước làm


thay đổi bộ mặt đời sống con người, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát
triển nhân loại. Chưa đầy 100 năm sau, vào năm 1870, loài người lại chứng kiến


một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai khi phát minh ra động cơ điện,
giúp tăng năng suất làm việc gấp nhiều lần so với động cơ hơi nước, mang lại một
cuộc sống văn minh hơn. Một thế kỷ sau, vào năm 1969, con người đã tiến thêm
một bước tiến dài khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba xuất hiện với sự ra
đời của bóng bán dẫn, điện tử, tạo ra một thế giới kết nối, liên lạc với nhau. Các
thiết bị tinh vi hơn như máy tính, điện thoại, các vệ tinh kết nối thông tin, hệ thống
internet lần lượt ra đời. Và đây chính là thành quả mà thế giới hiện nay đang thụ
hưởng từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba [1]. Và những năm gần đây, kể
từ khi xuất hiện trong một báo cáo của chính phủ Đức năm 2011, cụm từ “Cách
mạng công nghiệp 4.0” đã trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia phát triển trên thế
giới hơn bao giờ hết khi nó được kì vọng là sẽ đem lại một sự thay đổi toàn diện,
đột phá với sự kết hợp của các công nghệ lại với nhau, làm mờ đi ranh giới giữa
vật lí, kỹ thuật số và sinh học.
Khái niệm cuộc CMCN lần thứ 4 hay Công nghiệp 4.0 đã được làm rõ tại
diễn đàn Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) lần thứ 46 ở Thụy Sĩ. Theo GS. Klaus
Schwab, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Industry 4.0 (tiếng Đức là Industrie
4.0) hay Cuộc CMCN lần thứ 4, là một thuật ngữ bao gồm một loạt các cơng nghệ
tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo. Cuộc CMCN lần thứ 4 được định
nghĩa là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong
chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối
vạn vật (IoT) và Internet của các dịch vụ (IoS). Bản chất của CMCN lần thứ 4 là
dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các cơng nghệ thơng minh để tối
ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những cơng nghệ đang và sẽ
có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, cơng nghệ vật liệu
mới, cơng nghệ tự động hóa, người máy [2].
Đánh giá về cuộc cách mạng công nghiệp này, ИльяШпуров - Phó Chủ tịch

Hội Cơng nghiệp và Doanh nhân Quốc tế, Bộ công thương Nga cho biết, cuộc cách
mạng cơng nghiệp hiện tại có thể được so sánh với thời kỳ Phục hưng trong nghệ
thuật – bởi chúng đều có điểm chung trước nhất liên quan đến vấn đề chủ nghĩa
nhân học. Nhu cầu tiêu dùng đang trở thành yếu tố then chốt trong tăng trưởng sản
xuất, theo đó, xã hội cho phép tất cả mọi công dân những cơ hội để phát huy tối đa
mức tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ nhằm đạt được sự tăng trưởng tiềm năng một
cách tối ưu nhất [3]. TS Nguyễn Thắng, Giám đốc Trung tâm phân tích và dự báo
(Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), trong báo cáo khoa học với chủ đề về


cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng nhấn mạnh, Cách mạng công nghiệp
lần thứ Tư đang vẽ lại bản đồ kinh tế thế giới, có thể làm dịch chuyển trung tâm
trọng lực kinh tế toàn cầu (từ Tây sang Đông, từ Bắc sang Nam) bị đổi hướng [4].
Điều này càng khẳng định quy mô và tầm ảnh hưởng của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của thế giới.
Đặc trưng của Công nghiệp 4.0 là các hệ thống sản xuất thực - ảo (CyberPhysical Systems - CPS) lần đầu tiên được TS. Jame Truchat, Giám đốc điều hành
của National Instruments, giới thiệu vào năm 2006. Trong đó, các “sản phẩm thơng
minh” gắn cảm biến báo cho máy móc biết chúng cần được xử lý như thế nào. Các
thiết bị nhúng thông minh làm việc với nhau qua mạng không dây hoặc thông qua
“hệ thống đám mây”. Việc áp dụng rộng rãi những tiến bộ của công nghệ thông tin
và truyền thông ICT, như IoT, điện tốn đám mây, cơng nghệ thực tế - ảo… vào
hoạt động sản xuất công nghiệp đã làm mờ đi ranh giới giữa thế giới thực và thế
giới ảo, được gọi là hệ thống sản xuất thực - ảo/điều khiển - vật lý CPPS (cyberphysical production system) [5]. Đây là nền tảng cho việc xây dựng các nhà máy
thông minh, nhà máy số ngày nay. CPPS là mạng lưới giao tiếp trực tuyến giữa các
máy móc với nhau, được tổ chức như mạng xã hội. Đơn giản chỉ cần cấp địa chỉ
mạng, chúng sẽ tạo liên kết IT với các thành phần cơ - điện tử, sau đó giao tiếp với
nhau thơng qua hạ tầng mạng. Có lẽ đây là thời điểm khởi đầu cho cuộc CMCN
lần thứ 4. Tất cả các mạng này là xu thế của Công nghiệp 4.0, dựa trên những phát
triển vượt trội của CNTT-TT và khoa học máy tính: IoT, IoS, Internet kết nối dữ
liệu (Internet of data), Internet kết nối người dân (Internet of people).

Những đột phá khoa học và công nghệ mới dường như là vô hạn, diễn ra
trên rất nhiều mặt khác nhau và ở nhiều nơi khác nhau. Tất cả những phát triển mới
và các cơng nghệ mới đều có đặc điểm chung: chúng tận dụng sức mạnh lan tỏa
của số hóa và CNTT [6]. Theo tổng kết của Michael RuBmann và cộng sự (2015),
sẽ có chín xu hướng cơng nghệ được xem là trụ cột của cách mạng công nghệ 4.0,
và đem lại những lợi ích to lớn cho các nhà sản xuất và cung cấp trang thiết bị [7].
(1) Phân tích dữ liệu lớn: cách mạng cơng nghệ lần thứ 4 sẽ tạo ra một lượng
lớn dữ liệu. Thu thập, phân tích và xử lý dữ liệu lớn sẽ tạo ra những tri thức mới,
hỗ trợ việc đưa ra quyết định và tạo lợi thế cạnh tranh.
(2) Khoa học robot cao cấp: Ngày nay, các robot đang được sử dụng nhiều
hơn ở tất cả các lĩnh vực từ nông nghiệp chính xác cho đến chăm sóc người bệnh.


Sự phát triển nhanh công nghệ robot làm cho sự hợp tác giữa người và máy móc
sớm trở thành hiện thực. Hơn nữa, do các tiến bộ công nghệ khác, robot đang trở
nên thích nghi và linh hoạt hơn, với thiết kế cấu trúc và chức năng của nó được lấy
cảm hứng từ các cấu trúc sinh học phức tạp (mở rộng của q trình mơ phỏng sinh
học, trong đó mơ hình và các chiến lược của tự nhiên được bắt chước lại). Siêu tự
động hóa cộng với trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ khiến việc tự động hóa phát triển mạnh
hơn, thậm chí với những kỹ năng trước đây chỉ có con người sở hữu. AI sẽ phát
huy thế mạnh tốt nhất trong việc xử lý dữ liệu lớn, có thể bao gồm việc xử lý ngơn
ngữ và hình ảnh, vốn vẫn là giới hạn của máy tính cho đến nay. Siêu tự động hóa
cực cao có thể cho phép sự tham gia của robot và các cỗ máy có trí thơng minh
nhân tạo phân tích kết quả, đưa ra các quyết định phức tạp và ứng dụng những kết
luận vào hoạt động sản xuất.
(3) Công nghệ in 3D: bao gồm việc tạo ra một đối tượng vật lý bằng cách in
theo các lớp từ một bản vẽ hay một mơ hình 3D có trước. Cơng nghệ này khác
hồn toàn so với chế tạo trừ, lấy đi các vật liệu thừa từ phôi ban đầu cho đến khi
thu được hình dạng mong muốn. Ngược lại, cơng nghệ in 3D bắt đầu với vật liệu
rời và sau đó tạo ra một sản phẩm ở dạng ba chiều từ mẫu kỹ thuật số. Những ứng

dụng của kĩ thuật in 3D thực sự kì vĩ. Thậm chí, người ta đã có thể “in” ra cả dụng
cụ trợ thính và nhiều bộ phận tinh vi của chiếc máy bay phản lực vũ trang dưới
những hình dạng khác nhau.
(4) Tích hợp hệ thống theo chiều ngang và chiều dọc: hầu hết các hệ thống
công nghệ thơng tin ngày nay khơng được tích hợp đầy đủ. Giữa các bên công ty,
nhà cung cấp và khách hàng chưa được kết nối một cách chặt chẽ. Tuy nhiên, với
cách mạng công nghiệp 4.0, sẽ cung cấp các giải pháp công nghệ thông tin mới,
nâng cao hiệu quả hoạt động, giúp tối ưu hóa các mơ hình kinh doanh, quản lý, vận
hành được hiệu quả hơn. CMCN lần thứ 4 sẽ tạo ra một mơ hình chuỗi cung ứng
mới gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu của khách hàng. Chuỗi cung ứng mới này sẽ
tạo ra một cơ sở dữ liệu duy nhất, làm cho chuỗi cung ứng thông minh hơn, minh
bạch hơn và hiệu quả hơn ở mọi giai đoạn, từ khi phát sinh nhu cầu cho đến khi
giao hàng.
(5) Mạng lưới vạn vật kết nối (IoT): mơ tả đơn giản nhất, có thể coi IoT là
mối quan hệ giữa vạn vật (các sản phẩm, dịch vụ, địa điểm) và con người thông
qua các công nghệ kết nối và các nền tảng khác nhau. Ngày nay, có hàng tỷ thiết bị
trên tồn thế giới như điện thoại thơng minh, máy tính bảng và máy tính được kết


nối internet. Số lượng thiết bị được dự kiến sẽ tăng đáng kể trong vài năm tới, ước
tính vài tỷ đến hơn một nghìn tỷ thiết bị. Điều này sẽ thay đổi hoàn toàn cách thức
mà chúng ta quản lý chuỗi cung ứng bằng cách cho phép chúng ta giám sát và tối
ưu hóa tài sản và các hoạt động đến một mức rất chi tiết. Trong quá trình này, IoT
sẽ tác động làm biến đổi tất cả các ngành công nghiệp, từ sản xuất đến cơ sở hạ
tầng đến chăm sóc sức khỏe. Theo các chuyên gia, IoT có thể tạo ra một cuộc cách
mạng công nghiệp mới, khiến cả nền kinh tế thế giới và đời sống nhân loại phải
chuyển mình theo.
(6) An ninh mạng: cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư đã đẩy cao mức độ
chia sẻ thơng tin, từ đó tạo ra một nhu cầu rất lớn về quản lý an ninh mạng.
(7) Điện toán đám mây: các doanh nghiệp hiện nay đã và đang sử dụng các

phần mềm, ứng dụng dựa trên điện toán đám mây, nhưng với cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0, các hoạt động liên quan đến sản xuất sẽ đòi hỏi cần nhiều hơn sự chia
sẻ dữ liệu giữa các trang web, các công ty. Đồng thời, hiệu suất của công nghệ điện
toán đám mây sẽ được nâng cao và thời gian phản hồi đạt chỉ khoảng vài phần
nghìn giây, giúp nâng cao hiệu quả cho các hệ thống sản xuất.
(8) Mô phỏng: cơng nghệ mơ phỏng mang lại nhiều lợi ích to lớn và trong
tương lai sẽ được sử dụng rộng rãi hơn trong các hoạt động của nhà máy, giúp tiết
kiệm thời gian, kinh phí, nguyên vật liệu, tránh được những trường hợp rủi ro,
nguy hiểm trong điều kiện thực…
(9) Công nghệ tăng cường thực tế: giúp mọi thứ đều có thể được nhìn thấy
một cách dễ dàng; chẳng hạn như lựa chọn các bộ phận trong kho và gửi hướng
dẫn sửa chữa qua thiết bị di động. Mặc dù vậy, các hệ thống này hiện đang ở giai
đoạn sơ khai, tuy nhiên trong tương lai, các công ty sẽ sử dụng rộng rãi hơn công
nghệ này, giúp cung cấp cho người dùng thông tin thời gian thực để cải tiến quá
trình ra quyết định và các quy trình làm việc.
1.2. Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
Cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 đang xóa nhịa khoảng cách giữa thế giới
thực với thế giới ảo thông qua các công nghệ tiên tiến, sự đổi mới, sáng tạo không
ngừng. Cuộc cách mạng này tác động đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, từ
công nghiệp, nông nghiệp, ngân hàng, giao thông vận tải, dệt may cho đến doanh
nghiệp và các địa phương và chính bản thân con người. Cụ thể: cuộc cách mạng
lần thứ 4 có tiềm năng nâng cao mức thu nhập toàn cầu và cải thiện chất lượng


cuộc sống cho người dân trên toàn thế giới. Trong đó người tiêu dùng dường như
được hưởng lợi nhiều nhất từ cuộc cách mạng công nghệ này. Cuộc cách mạng sẽ
tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới với chi phí khơng đáng kể phục vụ người tiêu
dùng.
Trong lĩnh vực giao thông: thế hệ xe không người lái phát triển đảm bảo tính
an tồn cao cho người sử dụng, tránh được các tình trạng vi phạm giao thơng như

vượt đèn đỏ, phóng nhanh hay tình trạng say rượu bia của người lái. Chi phí giao
thơng vận tải và thơng tin liên lạc sẽ giảm xuống, hậu cần và các chuỗi cung ứng
toàn cầu sẽ trở nên hiệu quả hơn, và các chi phí thương mại sẽ giảm. Tất cả những
điều đó sẽ giúp mở rộng thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế [8]. Trong lĩnh
vực y tế: Việc quản lý bệnh án điện tử được thực hiện một cách hiệu quả nhờ khả
năng lưu trữ và tổng hợp dữ liệu khổng lồ cùng tốc độ xử lý mạnh mẽ. Điều này
cho phép con người tra thông tin về tình hình sức khỏe của mình và giúp các bác sĩ
chỉ cần nhập dữ liệu người bệnh để được phân tích, so sánh với kho dữ liệu khổng
lồ có sẵn và đưa ra gợi ý hướng điều trị chính xác [9].
Lĩnh vực giáo dục cũng được hưởng lợi nhiều từ cuộc cách mạng. Công
nghệ thực tế ảo sẽ thay đổi cách dạy và học. Giáo dục 4.0 giúp hoạt động dạy và
học diễn ra mọi lúc và mọi nơi, giúp người học có thể cá nhân hóa, hồn tồn
quyết định việc học tập theo nhu cầu của bản thân. Sinh viên có thể đeo kính VR
và có cảm giác như đang ngồi trong lớp nghe bài giảng, hay nhập vai để chứng
kiến những trận đánh giả lập, ngắm nhìn di tích, mang lại cảm xúc và sự ghi nhớ
sâu sắc, giúp bài học thấm thía hơn [10]. Bên cạnh đó, cách mạng khoa học và
cơng nghệ đưa lồi người sang nền văn minh trí tuệ. Cơng nghệ là một trong những
lý do chính giải thích tại sao nhu cầu lao động có tay nghề cao đã tăng trong khi
nhu cầu đối với người lao động ít được đào tạo và kỹ năng thấp đã giảm. Hơn 30%
dân số thế giới hiện nay sử dụng các nền tảng truyền thông xã hội để kết nối, học
hỏi và chia sẻ thông tin [11]. Trong một thế giới lý tưởng, những tương tác này sẽ
cung cấp cơ hội cho sự hiểu biết và liên kết liên văn hóa.
Cuối cùng, cơng nghệ hiện nay giúp gia tăng tính dân chủ, minh bạch trong
tồn xã hội, công nghệ mới này ngày càng tạo điều kiện cho người dân tham gia
với Chính phủ các ý kiến của mình. Ngược lại, Chính phủ thơng qua cơng nghệ
mới để tăng cường tiếp cận với công chúng, cải tiến hệ thống quản lý xã hội,
hướng tới chính phủ điện tử, số hóa.


2. Châu Âu và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0


2.1. Châu Âu đã chuẩn bị gì trong cuộc đua Cách mạng cơng nghiệp 4.0?
Năm 2014, trong báo cáo “Vì sự phục hưng của nền công nghiệp châu Âu”
(For a European Industrial Renaissance),Ủy ban châu Âu tuyên bố rằng các công
nghệ số (bao gồm điện toán đám mây, dữ liệu lớn, các ứng dụng internet công
nghiệp mới, các nhà máy thông minh, robot và in ấn 3D) có vai trị thiết yếu trong
nâng cao năng suất của châu Âu thông qua việc xác định lại mơ hình kinh doanh và
tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới. Cũng trong báo cáo về chính sách cơng nghiệp
(Industrial policy Communication) năm 2012, Ủy ban châu Âu đã xác định 6 vấn
đề ưu tiên trong lĩnh vực cơng nghiệp, ba trong số đó liên quan trực tiếp đến
ngành công nghiệp 4.0, cụ thể là công nghệ chế tạo tiên tiến (advanced
manufacturing); công nghệ then chốt (ví dụ: pin, vật liệu thơng minh và quy trình
sản xuất tạo hiệu suất cao); và mạng lưới thông minh và cơ sở hạ tầng kỹ thuật số.
Báo cáo này cũng đặt mục tiêu tăng tỷ lệ sản xuất trong tổng giá trị gia tăng ở EU
lên 20% vào năm 2020 [12]. Bên cạnh đó, EU tổ chức diễn đàn Chính sách Chiến
lược về khởi nghiệp cơng nghệ số (Strategic Policy Forum on Digital
Entrepreneurship), tập trung thảo luận về sự chuyển đổi kỹ thuật số của ngành
công nghiệp và của các doanh nghiệp Châu Âu. Tại diễn đàn này, đã có nhiều ý
kiến đề xuất thực hiện các mục tiêu quốc gia, thành lập các trung tâm ưu tú, tăng
cường tiêu chuẩn, cung cấp tài chính và thúc đẩy phát triển kỹ năng kỹ thuật số
[13].
Cũng trong báo cáo “Vì sự phục hưng của nền cơng nghiệp châu Âu” (For a
European Industrial Renaissance) năm 2014, Ủy ban châu Âu (European
Commission – EC) đã đưa ra các ưu tiên đối với chính sách cơng nghiệp châu Âu
và kêu gọi các nước châu Âu nhận thức được tầm quan trọng của ngành công
nghiệp trong việc tăng trưởng và tạo ra việc làm . EC cũng tuyên bố việc áp dụng
công nghệ kỹ thuật số (điện toán đám mây, dữ liệu lớn, các ứng dụng internet, các
nhà máy thông minh, robot và in ấn 3D) là vô cùng cần thiết để tăng năng suất lao
động của châu Âu thông qua việc xác định lại mơ hình kinh doanh, tạo ra các sản
phẩm và dịch vụ mới.

Tháng 05/2015, Ủy ban châu Âu đã công bố bản kế hoạch chi tiết để thành
lập một “Thị trường kỹ thuật số chung” [14]. Mục tiêu của thị trường này là dỡ bỏ
các bức rào cản và biến 28 thị trường quốc gia thành một thị trường duy nhất, tạo


ra một khu vực tự do di chuyển hàng hóa, con người, dịch vụ và vốn được đảm
bảo, giúp người dân và doanh nghiệp tiếp cận hàng hóa và truy cập dịch vụ trực
tuyến một cách liền mạch và không phân biệt quốc tịch. “Thị trường kĩ thuật số
chung” có thể đóng góp 415 tỷ euro cho nền kinh tế châu Âu, thúc đẩy tăng trưởng
việc làm, cạnh tranh, thúc đẩy đẩu tư và đổi mới.
Ngoài ra, EU thúc đẩy thực hiện chương trình eSkills để giảm sự thiếu hụt
lao động có kỹ năng về cơng nghệ thơng tin và truyền thông (Information &
Communicatioin Technologies – ICT), đặc biệt là tạo ra một quan hệ đối tác nhiều
bên gọi là Liên minh toàn diện về việc làm trong ngành kỹ thuật số để việc đào tạo
ICT trở nên hấp dẫn hơn và phù hợp hơn với nhu cầu của ngành. Hội đồng châu
Âu đã đưa ra kêu gọi đổi mới hơn trong ngành kĩ thuật số và điều khiển dữ liệu
trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, cũng như sử dụng các nguồn tài trợ từ
Quỹ kiến trúc và đầu tư châu Âu (ESIF) để hỗ trợ giáo dục CNTT và đào tạo nghề
[13]. Bên cạnh đó, Ủy ban châu Âu còn đưa ra sáng kiến “Dòng chảy dữ liệu miễn
phí" (Free flow of data initiative) . Sáng kiến này hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề
quyền sở hữu dữ liệu và khả năng tương tác trong các hoạt động Business To
Business (mơ hình kinh doanh thương mại điện tử trong đó giao dịch xảy ra trực
tiếp giữa các doanh nghiệp với nhau) và Machine-to-Machine (công nghệ cho phép
các thiết bị có thể trao đổi với các hệ thống thông qua mạng vô tuyến hoặc hữu
tuyến), cũng như khuyến khích các nước áp dụng các tiêu chuẩn về số hóa vào lĩnh
vực cơng nghiệp và phát triển chuyên môn và kỹ năng số.
Tài trợ cho các sáng kiến liên quan đến cuộc Cách mạng công nghệ 4.0:
Như là một phần của chương trình thúc đẩy nền kinh tế số, EU hỗ trợ một
chương trình hành động kéo dài từ năm 2008 tới năm 2014, tập trung vào việc sử
dụng ICT thơng minh và tích hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào các chuỗi giá

trị số, đặc biệt chú trọng đến thị trường toàn cầu. Trong giai đoạn 2014 - 2020,
chương trình nghiên cứu Hoziron của EU sẽ cung cấp gần 80 tỷ euro cho nghiên
cứu và đổi mới, bao gồm cả hỗ trợ phát triển các cơng nghệ chủ chốt. Chương
trình nghiên cứu Hoziron cũng sẽ tài trợ cho các dự án nguyên mẫu và trình diễn
(prototypes and demonstration projects) [15]. Một số dự án tiêu biểu như "Dự án
Nhà máy tương lai”: là một chương trình theo hình thức hợp tác cơng tư với ngân
sách dự kiến khoảng 1,5 tỷ euro; dự án “Công nghiệp chế biến bền vững thông
qua hiệu quả nguồn tài nguyên (Sustainable process industry through resource
efficiency - SPIRE) được cấp ngân sách 0,9 tỷ euro. Cùng với đó, sáng kiến


khung lần thứ 7 “Sáng tạo ICT cho các doanh nghiệp chế tạo vừa và nhỏ (I4MS)”
đã được EU dành ngân sách 77 triệu euro để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ
và các doanh nghiệp sản xuất chế biến trung bình nắm vững cơng nghệ chuyển đổi
kỹ thuật số trong các lĩnh vực như điện toán đám mây, robot và mơ phỏng.Ngồi
ra, ít nhất 100 tỷ euro từ Quỹ Đầu tư và Xây dựng Châu Âu (ESIF) được dành cho
các quốc gia thành viên để khuyến khích các nước đầu tư vào đổi mới, thúc đẩy
các nước tập trung vào lợi thế của mình và tạo ra những thay đổi về giá trị của liên
minh Châu Âu.
2.2. Ba Lan và sự chuẩn bị cho cuộc Cách mạng 4.0
Được xem là một Quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi gặt hái được nhiều
thành công nhất kể từ những năm 1990 và thu hẹp khoảng cách phát triển với các
nước phát triển châu Âu, trong 20 năm qua, tỷ lệ tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
của Ba Lan đã tăng từ 36% lên 63% so với mức trung bình của các nước EU-15.
Từng bước một, Ba Lan đã dần hội nhập với thị trường rộng lớn châu Âu và gia
nhập EU năm 2004. Ba Lan cũng được công nhân là một nền kinh tế đang nổi lên
với sự tăng trưởng vững chắc trong dài hạn; là nước duy nhất ở châu Âu có nền
kinh tế khơng bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008.
Sản xuất cơng nghiệp đóng một vai trị quan trọng trong nền kinh tế Ba Lan. Gần
26% tổng giá trị gia tăng được tạo ra bởi ngành công nghiệp, cao hơn nhiều so với

mức trung bình của EU là 19% [16]. Ngành công nghiệp của Ba Lan bao gồm ba
ngành rộng: sản xuất, khai thác mỏ và năng lượng (dầu khí). Đây được xem là các
nhóm ngành sử dụng nhiều lao động, và cũng là lợi thế của Ba Lan khi so sánh với
các nước trong khu vực. Chi phí nhân công ở Ba Lan thấp nhất so với các nước
EU. Mặc dù vậy, Ba Lan lại là một nước có lực lượng lao động có trình độ học vấn
cao với 43% trong độ tuổi từ 25-34 có trình độ đại học, so với mức trung bình 38%
ở EU. Với những lợi thế về chi phí lao động thấp, sự tiếp cận tốt vào các thị trường
hấp dẫn Tây Âu và cải thiện nhanh cơ sở hạ tầng, Ba Lan đã trở thành một điểm
đến lý tưởng cho các trung tâm sản xuất, hậu cần và các trung tâm dịch vụ chung.
Sự tăng trưởng này cũng bắt nguồn từ các quỹ bền vững của EU, trong đó Ba Lan
là nước được nhận nhiều nhất với 67 tỷ EUR trong những năm 2007-2013 và được
phân bổ 77 tỷ EUR trong những năm 2014-2020 [16] [17] [18] [19].
Mặc dù vậy, đứng trước ngưỡng cửa của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0,
Ba Lan sẽ là một trong những nước dễ bị tổn thương (khi so sánh với các nước
EU) nếu khơng có những lộ trình và bước đi phù hợp để thích nghi với sự thay đổi


lớn. Lợi thế về chi phí lao động thấp ở Ba Lan sẽ khơng cịn nhiều, thậm chí bị đe
dọa khi những cơng việc trong nhóm ngành sản xuất chính có thể bị thay thế bởi rơ
bốt - với cường độ làm việc 24/24, khơng cần trả lương, đóng thuế hay bảo hiểm
[17]. Các ngành cơng nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu cao cũng có thể bị ảnh hưởng
khi mà nhu cầu của khách hàng cũng thay đổi, yêu cầu cao hơn để phù hợp với các
giải pháp công nghệ 4.0 (ví dụ ngành sản xuất điện tử), phá vỡ các chuỗi giá trị
hiện có. Ngồi ra, đối với các doanh nghiệp, đòi hỏi cần thiết phải thay đổi cách
thức hoạt động, quản lý, nâng cao chất lượng công nghệ, cải thiện kỹ năng và phát
triển nguồn nhân lực nếu như không muốn bị thụt lùi trong cuộc cạnh tranh toàn
cầu. Tuy nhiên, nếu biết tận dụng các lợi thế sẵn có, Ba Lan cũng có những lợi thế
nhất định trong cuộc đua cách mạng công nghiệp 4.0 khi với lực lượng lao động trẻ
và tri thức, Ba Lan hoàn tồn có thể chủ động và phát triển trong lĩnh vực công
nghệ thông tin (phần mềm, các giải pháp định hướng dữ liệu…), thúc đẩy nền kinh

tế ứng dụng vào lĩnh vực cơng nghiệp, góp phần tạo thêm nhiều việc làm mới [16]
[19].
Ba Lan cũng đã bắt đầu các công việc để chuẩn bị cho một chiến lược dài
hạn. Theo đó, Bộ trưởng Bộ khoa học Ba Lan đã cơng bố một chương trình chiến
lược với ngân sách 1 tỷ (zloty Ba Lan) nhằm ủng hộ các hoạt động đổi mới và sáng
tạo trong cuộc cách mạng 4.0, bao gồm: q trình số hóa, tự động hóa nâng cao
cũng như các biện pháp tổ chức quản lý và quá trình đổi mới công nghệ khác. Và
trong suốt một năm qua, Bộ Khoa học Ba Lan đã phối hợp cùng Trung tâm nghiên
cứu và Phát triển Quốc gia cấp kinh phí cho các đơn vị kinh tế - khoa học của Ba
Lan khoảng 10 tỷ (zloty Ba Lan), ký được 1492 hợp đồng với các đơn vị tham gia
vào chương trình. Ngồi ra, chính phủ Ba Lan với lộ trình giảm thuế cho các đơn
vị đầu tư vào nghiên cứu – phát triển với mức thuế 30% cho các doanh nghiệp lớn
và 50% cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ [20]. Cùng với đó, sự thành lập của
Trung tâm nền tảng CMCN 4.0 Ba Lan, khi đi vào hoạt động từ đầu năm 2018 sẽ
điều phối và kết nối tất cả các tổ chức công và tư nhân nhằm giúp các doanh
nghiệp nhanh chóng chuyển đổi mơ hình hoạt động thơng qua việc hỗ trợ thơng tin
và cơng nghệ. Ngồi ra, chính phủ cũng đang nỗ lực thiết lập một Viện công nghệ
Quốc gia (NIT) để kết hợp một cách tốt nhất các viện nghiên cứu Ba Lan, giúp
thực hiện các dự án phức tạp trong các lĩnh vực chiến lược như công nghệ sinh
học, vật liệu hiện đại và năng lượng. Bên cạnh đó, việc tích cực giới thiệu các công
nghệ mới đặc biệt vào các ngành công nghiệp mũi nhọn của Ba Lan như hàng


khơng, quốc phịng, ơ tơ (những ngành đã tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng
sản xuất) giúp đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật và đuổi kịp xu hướng của cuộc cách
mạng mới. Khái niệm ngành công nghiệp 4.0 cũng lan rộng đến các đơn vị hậu cần
và lưu trữ [16] [21] [22].
3. Hàm ý cho Việt Nam
Ba Lan và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng, đều là các nền kinh tế
chuyển đổi, có tỷ lệ nơng nghiệp khá cao trong cơ cấu kinh tế, có trình độ phát

triển thấp so với các nước trong khu vực, đang chịu nhiều áp lực từ hội nhập khu
vực cũng như đứng trước những cơ hội và thách thức của CMCN 4.0, những đối
sách của Ba Lan vì vậy có thể là những gợi mở cho Việt Nam
3.1. Những cơ hội và thách thức từ CMCN 4.0 đối với Việt Nam
Đối với Việt Nam, cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư đang
tác động mạnh, tồn diện trên các khía cạnh chủ yếu của nền kinh tế về cấu trúc,
trình độ phát triển, tốc độ tăng trưởng, mơ hình kinh doanh, thị trường lao động.
Theo TS Nguyễn Thắng - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam nhận định,
trong trung hạn, một số ngành nghề ở Việt Nam có thể bị tác động tiêu cực, như
nhóm ngành năng lượng, công nghiệp chế tạo, dệt may, điện tử… Tuy nhiên, ông
cũng cho rằng, nhiều lĩnh vực cũng sẽ được hưởng lợi từ cuộc cách mạng này nếu
đi đúng hướng và bắt được nhịp, như du lịch, thương mại nội địa, cơng nghệ thơng
tin, giáo dục, y tế, xây dựng, chính phủ điện tử. Vì vậy, chúng ta cần phải có kế
hoạch tái cơ cấu phù hợp [4].
Trong bài phát biểu tại hội thảo quốc tế tại Việt Nam hồi tháng 11/2016,
Chủ tịch Tập đồn FPT Trương Gia Bình cũng khẳng định, cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ 4 mang tên “Cách mạng số” hay Công nghiệp 4.0 đang diễn ra rất
nhanh và làm thay đổi toàn diện diện mạo, tư duy người chủ - người làm thuê,
cũng như cách thức làm việc trước đây của con người. Và theo khảo sát mới đây
của Mỹ về sự phát triển kinh tế số trong tương lai thì Việt Nam cũng được xếp vào
nhóm nước “đột phá” khi có cơ hội lớn để trở nên nổi bật về nền kinh tế số. Để tận
dụng cơ hội và vượt qua thách thức của cuộc CMCN lần thứ tư, Việt Nam cần thúc
đẩy chính sách sáng tạo trong cơng nghệ, khuyến khích khởi nghiệp; thay đổi toàn
diện giáo dục và đào tạo để Việt nam có một nguồn nhân lực có thể ứng dụng
nhanh nhất những thành tựu mà cuộc cách mạng số tạo ra nhằm tạo ra những đột
biến cho nền kinh tế [23].


Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội cho các nước, đặc biệt
là các nước đang phát triển để nâng cao năng suất và rút ngắn khoảng cách phát

triển. Tại buổi triển lãm “Vietnam Manufacturing Expo (VME) 2017” với nội dung
“Công nghiệp sản xuất Việt Nam - hành trình hướng tới ngành cơng nghiệp 4.0”,
giám đốc điều hành công ty ReedTradex (Thái Lan) đã nhận định việc áp dụng
thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ giúp doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp của Việt Nam giảm 3,6% chi phí hoạt động và tăng 4,1% hiệu
suất trong một năm và nguồn nhân lực của Việt Nam đã sẵn sàng để học hỏi và
bước vào kỷ nguyên công nghiệp 4.0 [24]. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
là xu hướng phát triển dựa trên nền tảng số hóa và kết nối, có quy mô tác động
mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, làm thay đổi phương thức và
lực lượng sản xuất trong tương lai và quá trình hội nhập quốc tế; đặc biệt khi Việt
Nam đang hoàn tất nhiều hiệp định thương mại tự do quy mô lớn như CPTPP, các
FTA với các nước châu Âu, Liên minh kinh tế Á – Âu…thì việc bắt kịp với xu
hướng phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ giúp nâng cao hiệu quả
của việc tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy vậy, ở Việt Nam, CMCN 4.0 vẫn còn nằm ở dạng khái niệm, và chính
phủ, các doanh nghiệp hay người lao động vẫn chưa định hình chính xác được sự
tồn tại của cuộc cách mạng này trong quá trình phát triển của đất nước. Và điều
kiện cần để một quốc gia sẵn sàng tiếp thu nguồn công nghệ mới từ cuộc cách
mạng này đó là chiến lược tổng thể của quốc gia đó. Tuy nhiên, khi chúng ta vẫn
chưa thực sự đi vào giai đoạn chín muồi của cuộc cách mạng lần thứ ba thì việc
chủ động thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với tình hình hiện nay là vơ
cùng khó khăn và cần nhiều thời gian để thích ứng. Ngồi ra, đối mặt với cuộc
cách mạng cơng nghiệp lần thứ 4 sẽ là vô vàn thách thức cho Việt Nam khi những
yếu tố mà chúng ta đang tự coi là ưu thế như lực lượng lao động thủ công trẻ, dồi
dào sẽ khơng cịn là thế mạnh nữa, thậm chí bị đe dọa nghiêm trọng. Theo ơng Lữ
Thành Long, Phó chủ tịch VINASA, trong tương lai, người dân có thể mất việc
làm, bởi những lĩnh vực mà trí tuệ nhân tạo có thể tác động tới các ngành nước ta
có lợi thế về lao động như dệt may, sản xuất thực phẩm chế biến,… Không chỉ việc
làm ở trong các ngành sản xuất bị ảnh hưởng mà các công việc cần trí tuệ của con

người như giáo dục, y tế, dịch vụ cũng đối mặt với nguy cơ bị thay thế. Việt Nam
có lợi thế lớn về nguồn nhân lực cho tăng trưởng, nhưng chất lượng chưa tương


xứng với tốc độ tăng về quy mô, về mức độ hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Lao động có kỹ năng là tiền đề quan trọng cho sự phát triển bền vững, thu nhập
cao và đáp ứng được yêu cầu của các ngành trong việc sử dụng công nghệ hiện đại
và hoạt động quản lý trong CMCN 4.0 [25]. Tuy nhiên, có thể thấy, lao động của
nước ta phần lớn là lao động khơng có trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT) cao
và chủ yếu ở khu vực nông thôn. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2012,
lao động phổ thơng khơng có chun mơn kỹ thuật chiếm 83,28% tổng số lao
động; lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm tỷ lệ 4,84%; lao động có trình độ
trung cấp chun nghiệp là 3,61% và lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở
lên chiếm 8,26% [26]. Đến năm 2016, con số này chỉ giảm khoảng 3% tương ứng
với số lao động không có CMKT chiếm đến 78,6% lực lượng lao động, trong đó có
đến hơn 37 triệu lao động ở nơng thơn và hơn 17,5 triệu lao động ở thành thị. Cả
nước chỉ có khoảng 10,9 triệu người có việc làm, tương ứng với 20,6%, đã được
đào tạo. Có sự chênh lệch đáng kể về tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo
giữa thành thị và nông thôn, mức chênh lệch này là 24,4% (thành thị là 37,2% và
nông thôn là 12,8%) [27]. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn
2005-2015, mặc dù lao động làm việc trong lĩnh vực nơng nghiệp có giảm, nhưng
vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất. Cụ thể, nông nghiệp giảm từ 55,09% năm 2005,
xuống 45,19% năm 2015; lần lượt công nghiệp tăng từ 17,59 lên 21,78%; dịch vụ
tăng từ 27,32% lên 33,03% [28]. Điều này sẽ gây khó khăn cho nước ta trong quá
trình bước vào cuộc CMCN 4.0.
3.2. Gợi ý chính sách cho Việt Nam
Đứng trước ngưỡng cửa của cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0, Việt Nam cần
phải có những chính sách và cơ chế phù hợp tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài.
Các chuyên gia của OECD cũng khuyến nghị các nước đang phát triển như Việt
Nam cần đầu tư cho khoa học và công nghệ, tạo môi trường kinh doanh năng động

để thúc đẩy lan tỏa công nghệ, cải cách thị trường lao động, hệ thống giáo dục đào tạo. Một số chuyên gia OECD nhấn mạnh các chính sách về đào tạo, nâng cao
kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực để thích ứng với biến đổi nhanh của công
nghệ và sự phát triển của CMCN mới [29].
Trên cơ sở phân tích những thuận lợi và thách thức của Việt Nam trước
ngưỡng cửa của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư như trên, tham khảo chiến
lược, chính sách của các nước Châu Âu, đặc biệt là Ba Lan có thể rút ra một số
khuyến nghị đối với Việt Nam như sau:


Một là, Chính phủ tạo hành lang pháp lý, sửa đổi các quy định của pháp luật
và chính sách cơng nghiệp mới trước cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tính
đến các yếu tố như cải thiện điều kiện khung,thực thi các quy tắc cạnh tranh, mở
cửa thương mại, kỹ năng chuyên môn. Hỗ trợ các liên kết, các hoạt động đổi mới
dựa trên các hình thức khác nhau giữa các doanh nghiệp, trường đại học, cá nhân;
tăng cường hỗ trợ kinh doanh trong các lĩnh vực công nghệ mới; thu hút các cơng
ty đa quốc gia nước ngồi và tăng cường vai trị của các cơng ty trong nước trong
các chuỗi giá trị tồn cầu. Bên cạnh đó, nâng cao hiệu quả quản lý an ninh mạng,
hệ thống quản lý sở hữu trí tuệ khi các cơng nghệ mới sẽ làm mờ ranh giới giữa
các quốc gia, châu lục, đẩy cao tối đa mức độ chia sẻ thông tin khắp mọi nơi. Tạo
mơi trường thơng thống cho doanh nghiệp sáng tạo và coi doanh nghiệp là trung
tâm của sự phát triển.
Hai là, tăng cường đầu tư và phân bố hợp lý nguồn vốn đầu tư cho phát triển
khoa học công nghệ kết hợp thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng chiến
lược phát triển ngành tự động hóa và cơng nghệ cao, chú trọng hợp tác giữa khoa
học công nghệ và sản xuất, kinh doanh, triển khai ứng dụng các công nghệ mới đặc
biệt trong khu vực doanh nghiệp tư nhân. Tăng cường các nghiên cứu khoa học
công nghệ cao, đầu tư nghiên cứu, tiếp cận nhanh với xu hướng khoa học công
nghệ trong các lĩnh vực như vật liệu mới, năng lượng mới, kỹ thuật số, cơng nghệ
thơng tin, tự động hóa và trí tuệ nhận tạo, công nghệ sinh học. Chúng ta đã xác
định khoa học công nghệ là động lực quan trọng nhất trong chiến lược phát triển

của Đại hội lần thứ XII, tuy nhiên việc đầu tư cho động lực này còn rất hạn chế.
Ba là, phát triển khoa học công nghệ, động lực quan trọng nhất phải gắn kết
với các động lực quan trọng khác trong nền kinh tế thị trường hiện đại là hội nhập
quốc tế và doanh nghiệp tư nhân một cách hài hịa, hữu cơ, tạo ra một mơi trường
kinh doanh, hội nhập hướng tới số hóa, gia tăng hàm lượng khoa học công nghệ,
giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh. Muốn vậy cần phải có một hệ thống giải
pháp cụ thể, đồng bộ, phủ hợp với “lực lượng sản xuất” mới, gắn kết thị trường
khoa học cơng nghệ với thị trường hàng hóa, dịch vụ, gắn kết giáo dục đào tạo với
nhu cầu của kinh tế thị trường, xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia nhằm đưa các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trị trung tâm
trong phát triển kinh tế số, biến khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo thực sự trở
thành động lực và mục tiêu của phát triển.


Bốn là, thực hiện các giải pháp hỗ trợ như tuyên truyền, tăng cường nhận
thức cho toàn xã hội, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp về xu hướng tất yếu của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên
cứu phát triển và chuyển giao công nghệ, đặc biệt các lĩnh vực và đầu tư, tài trợ
cho các tổ chức, cá nhân có sáng kiến khoa học cơng nghệ xuất sắc.
Chính phủ Việt Nam đang đẩy mạnh vai trò kiến tạo, đẩy mạnh cải cách thể
chế, tăng cường đầu tư tạo môi trường kinh doanh năng động để thúc đẩy lan tỏa
công nghệ, cải thiện thị trường lao động, hệ thống giáo dục – đào tạo nâng cao kỹ
năng và phát triển nguồn nhân lực thích ứng với biến đổi nhanh của cơng nghệ và
sự phát triển của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần phải có những nghiên cứu
sâu sắc để nhận thức đầy đủ, kịp thời điều chỉnh chiến lược và chính sách một cách
hiệu quả nhất./.
Trích dẫn:
[1] Khoa, M. (2017). Cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 là gì?. [online] BAOMOI.COM.
Available at: />[Accessed 16 Nov. 2017].
[2] Vista.gov.vn. (2017). Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. [online] Available at:

[Accessed 14 Nov. 2017].
[3] Илья Шпуров, ч. (2017). Индустрия 4.0. [online] Expert.ru. Available at:
[Accessed 14 Nov. 2017].
[4] Phạm Quang Duy (tổng hợp). (2017). Báo cáo khoa học “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ Tư: Một số đặc trưng, tác động và hàm ý chính sách đối với Việt Nam” - Viện Triết học,
Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. [online] Philosophy.vass.gov.vn. Available at:
[Accessed 14 Nov. 2017].
[5] Bùi Văn Danh (2017). Công nghiệp thế hệ 4.0: Nắm bắt hay “lỡ chuyến tàu”? - Tồn cảnh
kinh
tế
..::
logisticsvn.com
::...
[online]
Vlr.vn.
Available
at:
[Accessed 14 Nov. 2017].
[6] Cục thơng tin KH&CN Quốc gia (2017). Cách mạng công nghiệp 4.0 – Cơ hội và thách
thức. [online] Tạp chí điện tử Tài chính. Available at: [Accessed 14 Nov. 2017].
[7] Rüßmann, M., Lorenz, M., Gerbert, P., Waldner, M., Justus, J., Engel, P. and Harnisch, M.
(2015). Industry 4.0: The Future of Productivity and Growth in Manufacturing Industries.
[online]
www.bcgperspectives.com.
Available
at:
/>ry_40_future_productivity_growth_manufacturing_industries/ [Accessed 14 Nov. 2017].
[8] Ân, N. (2017). Cách mạng công nghiệp 4.0: Cơ hội và thách thức. [online] BAOMOI.COM.
Available
at:

[Accessed 16 Nov. 2017].


[9] Minh, N. (2017). Để bắt kịp làn sóng cách mạng cơng nghiệp 4.0. [online] Để bắt kịp làn
sóng
cách
mạng
cơng
nghiệp
4.0.
Available
at:
[Accessed 16 Nov. 2017].
[10] Thế Nam. (2017). Tương lai của Giáo dục đại học 4.0 tại Việt Nam. [online] Thế giới &
Việt Nam. Available at: [Accessed 16 Nov. 2017].
[11] Schwab, K. (2017). Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4: thách thức và cơ hội của nhân
loại. [online] Available at: [Accessed 16 Nov. 2017].
[12] European Commisions (2014). For a European Industrial Renaissance. [online] Brussels.
Available at: [Accessed 18 Sep.
2017].
[13] European Commisions (2014). Strategic Policy Forum on Digital Entrepreneurship
[online]
Brussels.
Available
at:
18 Sep. 2017].
[14] European Commission (2015). COMMUNICATION FROM THE COMMISSION TO THE
EUROPEAN PARLIAMENT, THE COUNCIL, THE EUROPEAN ECONOMIC AND SOCIAL
COMMITTEE AND THE COMMITTEE OF THE REGIONS A Digital Single Market Strategy
for

Europe.
[online]
Brussels.
Available
at: [Accessed 18 Sep. 2017].
[15] European Commission. (2014). HORIZON 2020 in brief: The EU Framework Programme
for
Research
&
Innovation.
[online]
Brussels.
Available
at:
[Accessed 18 Sep. 2017].
[16] Henzelmann, Torsten , Tomasz Narloch, and Konrad Gruda (2017). Roland Berger Focus
– Polish industry outlook. Report. Frankfurt: ROLAND BERGER GMBH, 2017.
[17] Czech, Jacek (2016). Industrial Revolution: Smart Factory. Report. Bangkok: Polish
Chamber of Digital Economy.
[18] SIEPEN, SVEN, OLIVER GRASSMANN, THOMAS RINN, and MAX BL ANCHET (2015).
THINK ACT. INDUSTRY 4.0 The role of Switzerland within a European manufacturing
revolution. Report. Zurich: ROL AND BERGER.
[19] European Union (2015). Industry 4.0 Digitalisation for productivity and growth. Report.
Brussels
[20] Nauka w Polsce. (2017). Gowin: rozpoczynają się prace nad nowym programem
strategicznym
Infostrateg.
[online]
Available
at:

[Accessed 16 Nov. 2017].
[21] U.S. Commercial Service Poland (2017). Poland - Advanced Manufacturing | export.gov.
[online] Available at: />[Accessed 16 Nov. 2017].
[22] Pielach, M. (2017). The Polish idea for a leap into Industry 4.0 | | Central European
Financial
Observer.
[online]
Financialobserver.eu.
Available
at:
[Accessed 16
Nov. 2017].
[23] dangcongsan.vn. (2016). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và vấn đề phát triển của Việt
Nam. [online] Available at: [Accessed 15 Nov. 2017].


[24] Công nghiệp sản xuất Việt Nam hướng tới ngành công nghiệp 4.0. (2017). Công nghiệp sản
xuất Việt Nam hướng tới ngành công nghiệp 4.0. [online] Available at:
[Accessed 15 Nov. 2017].
[25] Lữ Thành Long. (2017). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là gì - VnExpress. [online]
Available
at:
[Accessed 16 Nov. 2017].
[26] Hải Yến (tổng hợp). (2012). Điều tra lao động và việc làm Việt Nam năm 2012. [online]
Available
at:
/>47_INSTANCE_2wAt&p_p_lifecycle=0&p_p_state=exclusive&p_p_mode=view&_47_INSTAN
CE_2wAt_struts_action=%2FCMS_NEWS_LIST%2Fview_category&_47_INSTANCE_2wAt_Ar
ticleID=711330&_47_INSTANCE_2wAt_TypeID=NC-TD [Accessed 16 Nov. 2017].
[27] Tổng cục thống kê (2017). BẢN TIN CẬP NHẬT THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM.

[online]

Nội:
Tổng
cục
thống
kê.
Available
at:
[Accessed 16
Nov. 2017].
[28] Mạc Văn Tiến (2015). Cổng thông tin Tổng cục Dạy nghề | Cơ hội và thách thức đối với lao
động Việt Nam khi gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN. [online] Available at:
[Accessed 16 Nov.
2017].
[29] Cục thông tin KH&CN Quốc Gia (2017). Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. [online]
Available
at:
/>[Accessed 16 Nov. 2017].



×