Tải bản đầy đủ (.pdf) (186 trang)

BÀI GIẢNG NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 186 trang )

Xã hội học nhập môn
(giáo trình có bổ sung và cập nhật)

Trần Hữu Quang

Sài Gòn
Tháng 2-2019


Mục lục
Trang
Mục lục.................................................................................................................... 1
Chương 1. Xã hội học là gì ? .................................................................................. 3
A. Đối tượng của xã hội học............................................................................... 4
B. Những nhà sáng lập........................................................................................ 6
C. Phương pháp xã hội học............................................................................... 14
D. Những kỹ thuật nghiên cứu.......................................................................... 20
E. Xã hội học và thực tiễn xã hội...................................................................... 22
Chương 2. Xã hội và cá nhân. Quá trình xã hội hóa ............................................. 25
A. Con người với tư cách là thành viên xã hội ................................................. 25
B. Quá trình xã hội hóa..................................................................................... 28
C. Một thí dụ : Nam giới và nữ giới trong xã hội ............................................. 33
D. Vài dòng kết luận ......................................................................................... 35
Chương 3. Nhóm cơ bản trong xã hội................................................................... 38
A. Khái niệm nhóm........................................................................................... 39
B. Chức năng của nhóm.................................................................................... 41
C. Những công trình nghiên cứu đầu tiên về nhóm.......................................... 43
D. Người thủ lãnh trong nhóm.......................................................................... 55
E. Truyền thông trong nhóm............................................................................. 59
F. Mạng lưới xã hội .......................................................................................... 61
G. Nhóm cơ bản và xã hội đại chúng................................................................ 68


Chương 4. Ý kiến, thái độ và định kiến ................................................................ 71
A. Định nghĩa ý kiến và thái độ ........................................................................ 72
B. Thang thái độ................................................................................................ 74
C. Thái độ, động cơ và niềm tin........................................................................ 77
D. Cơ chế tri giác có chọn lọc........................................................................... 78
E. Thái độ : có thể thay đổi............................................................................... 79
F. Định kiến ...................................................................................................... 80
G. Ý kiến tập thể và thái độ tập thể .................................................................. 83
Chương 5. Vị trí, vai trò và vị thế xã hội .............................................................. 88
A. Vị trí và vai trò............................................................................................. 88
B. Những kỳ vọng nơi vai trò, và sự cưỡng chế của xã hội.............................. 93
C. Hai lý thuyết về vai trò................................................................................. 97
D. Vị thế/địa vị xã hội....................................................................................... 99
Chương 6. Sự điều tiết xã hội : giá trị, chuẩn mực và nghi thức ........................ 102
A. Giá trị ......................................................................................................... 102
B. Chuẩn mực và quy tắc................................................................................ 104
C. Sự tuân thủ và sự lệch lạc .......................................................................... 109
D. Nghi thức và biểu tượng ............................................................................ 115
Chương 7. Định chế xã hội ................................................................................. 120
A. Khái niệm “định chế xã hội”...................................................................... 120
B. Quá trình định chế hóa ............................................................................... 124
C. Những đặc điểm của định chế.................................................................... 128
Chương 8. Chức năng, cấu trúc và con người tác nhân ...................................... 133
A. Lý thuyết chức năng luận........................................................................... 133

1


B. Phương pháp phân tích chức năng ............................................................. 137
C. Quan hệ nhân quả và phương pháp phân tích nhân quả............................. 140

D. Phương pháp phân tích cấu trúc................................................................. 142
E. Xây dựng mô hình và lý thuyết .................................................................. 144
F. Phương pháp giả lập ................................................................................... 147
G. Nhân tố con người và hành động của tác nhân .......................................... 149
Chương 9. Giai cấp xã hội và sự phân tầng xã hội ............................................. 156
A. Bất bình đẳng xã hội. Đẳng cấp và giai cấp xã hội.................................... 156
B. Lý thuyết mác-xít về giai cấp..................................................................... 159
C. Quan niệm của Max Weber........................................................................ 161
D. Sự phân tầng xã hội.................................................................................... 164
E. Sự di động xã hội........................................................................................ 166
F. Từ mô hình kim tự tháp tới mô hình con quay........................................... 169
Chương 10. Sự chuyển biến xã hội ..................................................................... 175
A. Xung đột..................................................................................................... 175
B. Canh tân ..................................................................................................... 177
C. Quảng bá .................................................................................................... 178
Tài liệu tham khảo............................................................................................... 182

2


Chương 1
Xã hội học là gì ?
Một cách tổng quát, có thể nói rằng xã hội học là bộ môn khoa học
nghiên cứu về các mối quan hệ xã hội. Xã hội học ra đời do yêu cầu của
bản thân sự vận động của xã hội, đặc biệt là trong những bối cảnh có nhiều
biến động hoặc xung đột xã hội.
Một cuộc đình công chẳng hạn, chỉ là một cuộc đình công ; nhưng
người nào suy nghĩ và khảo sát kỹ hơn thì có thể lý giải cuộc đình công ấy
bằng những nhận định như : tổ chức lao động tồi, lương thấp, công nhân
không gắn bó với nhà máy...; cũng như có thể tiến hành những phân tích về

các nhóm hoặc phe phái trong nhà máy, các loại thái độ của người lao động
và của giới chủ nhân, mức độ chuyên quyền độc đoán của giám đốc, tính
tích cực xã hội của công nhân v.v. Và đằng sau những sự kiện có vẻ nhất
thời ấy ở một nhà máy, người nghiên cứu còn có thể đi đến chỗ đặt vấn đề
và nhận định về cả một hệ thống sản xuất, hay thậm chí toàn bộ một hệ
thống xã hội.
Bất cứ một biến cố hay hiện tượng xã hội nào cũng đều là một kết
quả phức hợp của rất nhiều nhân tố, từ những nhân tố mang tính chất kinh
tế, cho đến những nhân tố mang tính chất chính trị, lịch sử và văn hóa.
Chính tính chất phức tạp của các hiện tượng xã hội và các quá trình xã hội
làm cho ngành xã hội học thường phải nghiên cứu liên ngành (và đôi khi
cũng khó phân định ranh giới) với nhiều bộ môn khoa học xã hội khác như
sử học, nhân học, dân tộc học, tâm lý học xã hội, kinh tế học, và ngôn ngữ
học. Do đó, cũng không có gì đáng ngạc nhiên nếu xã hội học đã từng có
thời bị đồng hóa vào triết học – với tư cách là ngành khoa học khái quát
nhất về con người và vũ trụ.
Thực ra, những suy nghĩ và biện giải về xã hội và về con người trong
xã hội đã xuất hiện từ lâu trong các thời cổ đại, từ những nhà hiền triết ở
Trung Hoa cho đến những nhà hiền triết ở Hy Lạp mấy thế kỷ trước Công
nguyên. Nhưng ngành xã hội học với tư cách là một khoa học thực sự độc
lập chỉ ra đời vào thế kỷ XIX. Thuật ngữ “xã hội học” (sociologie) đã được
Auguste Comte, một triết gia người Pháp, sử dụng lần đầu tiên vào năm
1838 – mặc dù ông hiểu xã hội học như một ngành “vật lý học xã hội”
(physique sociale). Từ sociologie (xã hội học) được ghép bởi từ socius (gốc
3


tiếng La Tinh), có nghĩa là người đồng hành, với từ logos (gốc tiếng Hy
Lạp), có nghĩa là môn học (về một lĩnh vực nào đó).
A. Đối tượng của xã hội học

Những vấn đề mà ngành xã hội học nghiên cứu không phải là những
vấn đề dành riêng cho xã hội học, trái lại, đấy cũng là những vấn đề mà
nhiều ngành khác cũng nghiên cứu. Chẳng hạn, vấn đề tự tử mà nhà xã hội
học Pháp Émile Durkheim nghiên cứu đầu tiên, cũng có thể là đối tượng
quan tâm của nhà tâm lý học. Hay vấn đề tội phạm, nhà xã hội học, nhà tâm
lý học xã hội và nhà luật học đều cùng coi là thuộc phạm vi nghiên cứu của
mình. Vậy thì đối tượng của xã hội học là gì ? Nói cách khác, đâu là đặc
trưng của cách tiếp cận xã hội học ? Trả lời cho những câu hỏi này không
phải là chuyện dễ, nếu ta biết rằng các tác giả đã đưa ra rất nhiều định nghĩa
khác nhau về xã hội học.
Những nhà xã hội học đầu tiên trong thế kỷ XIX như C. H. SaintSimon (1760-1825), Auguste Comte (1798-1857), và Herbert Spencer
(1820-1903) đã từng có một cái nhìn rất lạc quan về ngành xã hội học, khi
họ cho rằng có thể lấy quan điểm thực chứng (positivism) làm nền tảng
khoa học cho việc nghiên cứu về xã hội. Đối với họ, xã hội học có khả năng
khám phá ra những định luật phổ biến và khách quan của sự chuyển động
của xã hội, cũng giống y như những định luật đã được khám phá trong
ngành vật lý học của Newton hay trong ngành sinh học của Darwin. Do
xuất phát từ quan niệm mang nặng tính chất máy móc (cơ học) về xã hội,
nên tham vọng ấy đã không đứng vững.
Đến cuối thế kỷ XIX, các nhà xã hội học đã đặt ra những mục tiêu
hạn chế hơn cho ngành của mình. Đối với Max Weber (1864-1920), xã hội
học cần quan tâm đến ý nghĩa của hành động xã hội và tính chất duy nhất
của các sự kiện lịch sử, hơn là đi tìm những quy luật tổng quát giống như
trong khoa học tự nhiên. Ngược lại, Émile Durkheim (1858-1917) vẫn cho
rằng lãnh vực xã hội chịu sự chi phối của một số quy luật phổ quát, bằng
chứng là có một số định chế luân lý và luật lệ cũng như một số tín ngưỡng
tôn giáo đã từng tồn tại trong rất nhiều xã hội khác biệt nhau.
Trong lúc các công trình của Durkheim nỗ lực chứng minh rằng xã
hội học là một ngành khoa học độc lập và riêng biệt về các hiện tượng xã
hội, thì cũng đã có nhiều người khác phản bác. Họ cho rằng xã hội học

không phải là một bộ môn riêng biệt, mà chỉ là một ngành tổng hợp kết quả
4


nghiên cứu của các ngành kinh tế học, chính trị học và tâm lý học, bởi lẽ sự
kiện xã hội không phải là một sự kiện riêng biệt, mà là được cấu thành bởi
sự giao thoa giữa các lãnh vực kinh tế, chính trị, địa lý, lịch sử và tâm lý.
Có loại ý kiến khác cho rằng : xã hội học là một lối tiếp cận vốn đặt các sự
kiện và các cá nhân trong một bối cảnh xã hội rộng lớn hơn, và thực ra lối
tiếp cận này không chỉ dành riêng cho nhà xã hội học, mà cũng được vận
dụng bởi giới sử gia, kinh tế gia, nhà báo...
Theo một số tác giả, sự ra đời của ngành xã hội học chính là để trả
lời cho các vấn đề xã hội cụ thể đặt ra kể từ cuộc Cách mạng Pháp 1789,
cũng như những vấn đề phát sinh trong sự chuyển tiếp từ xã hội cổ truyền
sang xã hội công nghiệp nói chung ở châu Âu. Vì thế, nó thường quan tâm
phân tích những vấn đề như tình trạng nghèo khổ ở đô thị, sự bất ổn chính
trị, tỷ lệ chết (tử suất), tội phạm, ly dị, tự tử, v.v. Nhưng phần lớn mọi
người đều phải nhìn nhận là đối tượng của xã hội học đã chịu những ảnh
hưởng sâu xa của Saint-Simon, đặc biệt là của Karl Marx và Friedrich
Engels qua các công trình phân tích về cấu trúc xã hội, về các giai cấp và về
sự chuyển biến xã hội.
Đối tượng của môn kinh tế học là nghiên cứu về các quá trình sản
xuất, trao đổi, phân phối và tiêu thụ các sản phẩm vật chất. Đối tượng của
môn chính trị học là nghiên cứu về nhà nước, về quyền lực và những cách
phân phối và sử dụng quyền lực trong tổ chức xã hội.
Vậy đối tượng của môn xã hội học là gì ? Theo Raymond Aron, xã
hội học là bộ môn khoa học về “cái mang tính xã hội [le social] [...], hoặc
xét trên bình diện sơ đẳng của các mối quan hệ liên cá nhân, hoặc xét trên
bình diện vĩ mô của những tập hợp rộng lớn như các giai cấp, các quốc gia,
các nền văn minh, tức là [...] những xã hội tổng thể.”1

Nhưng chúng tôi cho rằng định nghĩa sau đây tỏ ra hợp lý và xác
đáng hơn : theo Alain Touraine, “xã hội học là môn khoa học về các mối
quan hệ xã hội”.2 Guy Bajoit giải thích thêm về định nghĩa này như sau : đó
là “một môn khoa học về các mối quan hệ xã hội, nghĩa là một môn khoa
học có đối tượng là hiểu và lý giải các ứng xử của con người – những điều
1

R. Aron, Les étapes de la pensée sociologique (1967), Paris, Gallimard, 1993, tr.
16 (chỗ nhấn mạnh là do R. Aron).
2
Đây là câu mà A. Touraine phát biểu vào năm 1971, dẫn lại bởi G. Bajoit, La
maison du sociologue. Pour une théorie sociologique générale, Louvain-laNeuve, Academia-L’Harmattan, 2015, tr. 11.

5


mà họ làm, nói, suy nghĩ hay cảm nhận – bằng cách phân tích những mối
quan hệ mà họ duy trì giữa họ với nhau.”1
Như vậy, có thể hiểu xã hội học là môn khoa học nghiên cứu về các
mối quan hệ xã hội, nhằm mục đích tìm ra những lô-gíc, những cơ chế
thường tàng ẩn trong sự vận động của các mối quan hệ xã hội. Trong lúc
tâm lý học quan tâm chủ yếu đến những hiện tượng tâm lý và ứng xử của cá
nhân, thì xã hội học chú ý chủ yếu đến những ứng xử tập thể hay cộng
đồng, đến cấu trúc xã hội và sự chuyển biến xã hội.
Môn xã hội học quan tâm nghiên cứu những lãnh vực hết sức đa
dạng trong đời sống xã hội. Nhưng vì không ai có thể một mình bao quát
được hết mọi lãnh vực, cho dù có kiến thức tổng quát và thâm sâu đến đâu
chăng nữa, cho nên các nhà xã hội học thường chỉ tập trung vào một hai
lãnh vực chuyên ngành nào đó mà thôi. Chính do vậy mà chúng ta thấy xuất
hiện những bộ môn chuyên ngành như xã hội học công nghiệp, xã hội học

tôn giáo, xã hội học nông thôn, xã hội học chính trị, xã hội học kinh tế, xã
hội học giáo dục, xã hội học truyền thông đại chúng, v.v.2
B. Những nhà sáng lập
Émile DURKHEIM (1858-1917). Nhà xã hội học Pháp. Được phần
lớn mọi người coi như “cha đẻ” của ngành xã hội học, Durkheim là người
đã xác định được đối tượng của môn xã hội học, và thiết lập môn này với tư
cách là một bộ môn khoa học độc lập trong môi trường đại học. Lúc đầu,
ông giảng tại Đại học Bordeaux, sau đó tại Đại học Sorbonne ở Paris.
Chính là trong bối cảnh của trào lưu thực chứng luận trong các
ngành khoa học ở châu Âu vào hậu bán thế kỷ XIX mà trong cuốn Các quy
tắc của phương pháp xã hội học (1895),3 Durkheim quan niệm rằng xã hội
học là bộ môn nghiên cứu về các “sự kiện xã hội” (faits sociaux) và giải
thích chúng theo phương pháp xã hội học.4 Durkheim muốn chứng minh
rằng xã hội học là một bộ môn khoa học thực sự khách quan, xứng đáng
1

G. Bajoit, sách đã dẫn, tr. 11.
Xem H. Mendras, Éléments de sociologie, Paris, Armand Colin, nouvelle édition
refondue, 2003, tr. 8.
3
Xem É. Durkheim, Các quy tắc của phương pháp xã hội học (1895), Đinh Hồng
Phúc dịch, Hà Nội, Nxb Tri thức, 2012.
4
Xem R. Aron, Les étapes de la pensée sociologique (1967), Paris, Gallimard,
1993, tr. 362-363.
2

6



sánh vai với các ngành khoa học thực nghiệm khác. Ông cho rằng thực tại
xã hội có quy luật vận động riêng của nó, chứ không thể giản lược nó hay
giải thích nó bằng những hành vi và động cơ của cá nhân, và rằng các cá
nhân đều được uốn nắn và chịu ảnh hưởng bởi môi trường xã hội của mình.
Durkheim định nghĩa sự kiện xã hội như sau : “Sự kiện xã hội là bất
cứ phương cách hành động nào [...] có khả năng tác động lên cá nhân một
sự cưỡng chế ngoại tại ; hoặc nữa, là bất cứ phương cách hành động nào
mang tính phổ biến trong phạm vi của một xã hội nào đó, đồng thời lại có
một tồn tại riêng, độc lập với các biểu hiện cá thể của nó.”1
Như vậy, theo Durkheim, sự kiện xã hội là sự kiện mang tính chất
khách quan và tính chất cưỡng chế. Nó khách quan là vì nó “tồn tại ở bên
ngoài các ý thức cá nhân”.2 Và nó mang tính chất cưỡng chế (contrainte); ở
đây, từ “cưỡng chế” không được Durkheim hiểu theo nghĩa thông thường
của từ này là cưỡng bách hay áp đặt, mà là một sự cưỡng chế tinh tế mà
người bình thường không ý thức và không dễ nhận ra được. Ông đưa ra
nhiều thí dụ để minh họa cho ý tưởng về sự “cưỡng chế” này của xã hội,
chẳng hạn thời trang y phục : trong một xã hội nhất định, mỗi người buộc
phải ăn mặc theo một kiểu nào đó bởi vì mọi người đều ăn mặc như vậy.3
Một thí dụ khác : “Tôi không bị buộc phải nói tiếng Pháp với những người
đồng bào [của tôi], cũng không bị buộc phải sử dụng những đồng tiền hợp
pháp ; nhưng tôi không thể nào làm khác đi được. Nếu tôi thử tránh tính tất
yếu ấy, toan tính của tôi sẽ thất bại một cách thảm hại.”4
Phương pháp mà Durkheim nhấn mạnh là quan sát, và coi các sự
kiện xã hội như những “sự vật” (choses)5 – nghĩa là cần làm sao hết sức
tránh khỏi các định kiến có sẵn về đối tượng, và thực sự khảo sát các sự
kiện xã hội đúng như chúng xảy ra. Quan điểm xã hội học, theo Durkheim,
là làm sao nhìn ra trong vô số các sự kiện tản mạn một tổng thể xã hội. Ông
nhấn mạnh rằng một sự kiện xã hội này chỉ có thể được giải thích bằng một
sự kiện xã hội khác. Ông viết : “Nguyên nhân quyết định của một sự kiện
xã hội phải được tìm trong các sự kiện xã hội trước đó, chứ không phải


1

É. Durkheim, Các quy tắc của phương pháp xã hội học, Đinh Hồng Phúc
dịch, Hà Nội, Nxb Tri thức, 2012, tr. 106.
2
É. Durkheim, sách đã dẫn, tr. 89.
3
É. Durkheim, sách đã dẫn, tr. 90.
4
É. Durkheim, sách đã dẫn, tr. 90.
5
É. Durkheim, sách đã dẫn, tr. 107.

7


trong các trạng thái ý thức cá nhân”,1 bởi lẽ đối với các sự kiện xã hội,
“không có lý do nào để người ta đi tìm ở bên ngoài chúng những lý do tồn
tại của chúng.”2
Raymond Aron cho rằng điểm mấu chốt trong tư tưởng xã hội học
của Durkheim là như sau : xã hội là một thực tại khác về bản chất so với
các thực tại cá nhân ; bất cứ một sự kiện xã hội nào cũng đều có nguyên
nhân là một sự kiện xã hội khác, chứ không bao giờ xuất phát từ nguyên
nhân tâm lý cá nhân.3
Vấn đề quán xuyến toàn bộ sự nghiệp nghiên cứu của Durkheim là
đi tìm những nguồn gốc của trật tự xã hội và của sự rối loạn xã hội. Trong
công trình nghiên cứu về Tự tử (1897), Durkheim nhận định : những quyết
định tự tử, tưởng chừng như là những quyết định hoàn toàn mang tính chất
cá nhân, thực ra đều có thể được giải thích là chịu ảnh hưởng bởi những

hình thái liên đới xã hội khác nhau trong các nhóm xã hội khác nhau.
Durkheim quan niệm rằng các chuẩn mực xã hội điều tiết hành vi của cá
nhân thông qua những giá trị mà cá nhân đã nội tâm hóa, và đó chính là cơ
sở của trật tự xã hội và sự ổn định xã hội. Còn sự “phi chuẩn mực”
(anomie), theo Durkheim, là tình trạng thiếu vắng hoặc tan rã của các chuẩn
mực xã hội ; sự “phi chuẩn mực” chính là khái niệm mà Durkheim ưu tiên
sử dụng để giải thích hiện tượng tự tử trong các xã hội hiện đại.4
Ông ta phân biệt bốn loại tự tử trên cơ sở phân tích các con số thống
kê về tự tử xảy ra nơi các cộng đồng xã hội khác nhau : tự tử ích kỷ (suicide
égoiste), tự tử vị tha (suicide altruiste), tự tử định mệnh (suicide fataliste),
và tự tử “phi chuẩn mực” (suicide anomique). Loại tự tử vị tha là hiện
tượng xảy ra khi người ta “hy sinh” vì lợi ích của tập thể, của cộng đồng
của mình – nghĩa là khi người ta gắn bó sâu xa với mục tiêu và lẽ sống của
tập thể, của cộng đồng. Còn loại tự tử định mệnh, chẳng hạn nơi các nô lệ,
là hậu quả của tình trạng áp chế quá sức chịu đựng của con người. Nhưng
đáng chú ý là người ta thường gặp loại tự tử ích kỷ và loại tự tử “phi chuẩn
mực” trong các xã hội hiện đại : loại tự tử ích kỷ xảy ra xuất phát từ tình
trạng cô đơn hay bị cô lập ; còn loại tự tử “phi chuẩn mực” xảy ra khi cá
nhân sống trong tình trạng xã hội không còn luật lệ, quy tắc, hoặc là trong
1

É. Durkheim, sách đã dẫn, tr. 257.
É. Durkheim, Lời tựa cho lần xuất bản thứ nhất, sách đã dẫn, tr. 54.
3
Xem R. Aron, sách đã dẫn, tr. 371.
4
Xem R. Aron, sách đã dẫn, tr. 330.
2

8



tình trạng một xã hội có những luật lệ, quy tắc xung khắc nhau. Cả hai loại
tự tử này thường thấy khi xã hội cổ truyền tan vỡ để chuyển sang một trật tự
xã hội mới, hoặc là khi xảy ra khủng hoảng kinh tế. Durkheim cho rằng
hiện tượng tự tử là một hiện tượng “bình thường” vì nó xảy ra với một tỷ lệ
nhất định nào đó trong bất cứ xã hội nào ; tuy nhiên, khi ở một xã hội hay
một nhóm xã hội nào đó xuất hiện một tỷ lệ tự tử cao hơn một cách “bất
thường” thì đây chính là dấu hiệu của một sự rối loạn xã hội, của một tình
trạng “phi chuẩn mực”.1
Karl MARX (1818-1883). Nhà triết học, kinh tế học, xã hội học, và
nhà hoạt động chính trị, người Đức. Được coi như là một trong những nhà
sáng lập ra ngành xã hội học. Những công trình của Marx mà người ta cho
là có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội học là : Hệ tư tưởng Đức (1845,
cùng tác giả với Friedrich Engels) ; Sự khốn cùng của triết học (1847) ;
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848, cùng tác giả với F. Engels) ; Ngày
18 Sương mù của Louis Bonaparte (1852) ; Tư bản (1867, 1885, 1894) ; và
hai bản thảo xuất bản sau khi ông qua đời là Bản thảo kinh tế và chính trị
1844 (1964), và Grundrisse (1973).
Nhiều công trình của Marx đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
của tư tưởng xã hội học. Những khái niệm quan trọng về mặt xã hội của
Marx mà người ta thường bàn luận đến là : (1) khái niệm tha hóa (hay vong
thân), mà trước hết là sự tha hóa trong lao động ; (2) quan hệ giữa đời sống
kinh tế và các định chế xã hội khác, quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội ; (3) cơ sở của sự phân hóa xã hội ra thành các giai
cấp chính là các mối quan hệ sản xuất, những quan hệ sản xuất này hàm
chứa những xung đột đối kháng ; (4) mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai
cấp là “động lực của lịch sử”,2 nhưng sự thay đổi của lịch sử không diễn ra
một cách tự phát, tự động, mà là thông qua hành động tích cực của con
người.

Vào khoảng giữa thế kỷ XIX, nếu Auguste Comte phân tích về xã
1

Xem R. Aron, sách đã dẫn, tr. 339-340. Có thể xem thêm những luận điểm chính
của Durkheim trong bài “Lời giới thiệu” của Trần Hữu Quang, in trong É.
Durkheim, Các quy tắc của phương pháp xã hội học, Đinh Hồng Phúc dịch, Hà
Nội, Nxb Tri thức, 2012, tr. 17-47.
2
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848), Karl Marx và Friedrich Engels
viết như sau : “Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu
tranh giai cấp” (C. Mác, Ph. Ăng-ghen, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản [1848],
trong C. Mác, Ph. Ăng-ghen, Tuyển tập, tập I, Hà Nội, Nxb Sự thật, 1980, tr.
540).

9


hội hiện đại dưới góc độ mà ông gọi là “xã hội công nghiệp”, thì Karl Marx
lại đề cập tới cũng xã hội ấy nhưng dưới góc độ “xã hội tư bản chủ nghĩa”.1
Với nhãn quan của chủ nghĩa duy vật lịch sử, Marx được coi là một nhà lý
thuyết xuất sắc về chủ nghĩa tư bản, qua các lý thuyết về giá trị lao động, về
tích lũy tư bản… và khả năng tiêu vong của chủ nghĩa tư bản xuất phát từ
những mâu thuẫn đối kháng nội tại của xã hội tư bản chủ nghĩa.
Về vai trò tư tưởng của giai cấp thống trị trong một xã hội, Karl
Marx và Friedrich Engels nhấn mạnh như sau trong cuốn Hệ tư tưởng Đức
(1845-1846) : “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là
những tư tưởng thống trị, nói một cách khác, giai cấp nào là lực lượng vật
chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã
hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối
luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần.”2

Trong “Lời tựa” của cuốn Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị
(1859), K. Marx đã tóm tắt toàn bộ quan niệm duy vật lịch sử của mình
trong một đoạn ngắn sau đây : “[T]rong sự sản xuất xã hội ra đời sống của
mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc
vào ý muốn của họ – tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù
hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật
chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cấu trúc kinh tế
của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên một kiến trúc
thượng tầng pháp lý và chính trị, và tương ứng với cơ sở thực tại đó thì có
những hình thái ý thức xã hội nhất định. Phương thức sản xuất đời sống vật
chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói
chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ ; trái
lại, chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ. Tới một giai
đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội
sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay [...] mâu thuẫn với
những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn
phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất,
những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất.
Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội. Cơ sở kinh tế thay
đổi thì tất cả cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh

1
2

Xem R. Aron, sách đã dẫn, tr. 147.
Karl Marx, Friedrich Engels, Hệ tư tưởng Đức (1845-1846), trong C. Mác, Ph.
Ăng-ghen, Tuyển tập, tập I, Hà Nội, Nxb Sự thật, 1980, tr. 314-315 (những chỗ
nhấn mạnh là do K. Marx và F. Engels).

10



chóng.”1
Max WEBER (1864-1920). Nhà xã hội học, và cũng là nhà triết học,
luật học, kinh tế học và sử học, người Đức. Được nhiều người coi như nhà
sáng lập của nền xã hội học hiện đại.
Đối với Weber, xã hội học phải là một bộ môn “xã hội học thấu
hiểu” (verstehende Soziologie) về các “hành động xã hội”. Ông cho rằng chỉ
khi nào thấu hiểu được các hành động xã hội của các cá nhân, thấu hiểu
được ý nghĩa mà các cá nhân gán cho hành động của họ, thì chúng ta mới
có thể giải thích được một cách thấu đáo các sự kiện xã hội hay các hiện
tượng tập thể. Theo Weber, hành động xã hội là hành động hướng đến ứng
xử của người khác. Thí dụ vị giáo sư khi giảng bài thì nói tương đối chậm
rãi để sinh viên có thể hiểu và ghi chép được ; còn nếu ông ta nói một mình
và nói rất nhanh, bất chấp có ai nghe được hay không, thì đó không phải là
hành động xã hội, vì hành động này không hướng đến một cử tọa nào đó.2
Trong cuốn Kinh tế và xã hội (1921), Weber định nghĩa xã hội học là
“một môn khoa học nhằm thấu hiểu bằng cách lý giải hành động xã hội và
nhờ đó giải thích một cách nhân quả sự diễn tiến và các tác động của nó.”3
Định nghĩa này bao gồm ba vế quan trọng trong lối tiếp cận của Weber :
thấu hiểu (verstehen), tức là nắm bắt được các ý nghĩa của hành động xã
hội ; lý giải (deuten), tức là sắp xếp các ý nghĩa ấy (của chủ thể hành động)
thành những khái niệm ; và giải thích (erklären), tức là làm sáng tỏ tính
chất đều đặn, lặp đi lặp lại của các ứng xử của con người.4
Nếu theo Émile Durkheim, nhà xã hội học cần tập trung chú ý tới
các “sự kiện xã hội” khách quan ở bên ngoài, chứ không cần quan tâm tới
những động cơ hay ý định chủ quan của các cá nhân, thì theo Max Weber,
các sự kiện xã hội khác với các sự kiện vật lý, bởi lẽ chúng luôn luôn được
kiến tạo “từ bên trong” bởi những tác nhân xã hội (tức mang ý nghĩa chủ
1


K. Marx, Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị (1857), trong C. Mác, Ph.
Ăng-ghen, Tuyển tập, tập II, Hà Nội, Nxb Sự thật, 1981, tr. 637-638 (những chỗ
in nghiêng là do chúng tôi – T.H.Q.).
2
Xem R. Aron, sách đã dẫn, tr. 551.
3
M. Weber, The Theory of Social and Economic Organization (1947), A. M.
Henderson và T. Parsons dịch (từ cuốn Wirtschaft und Gesellschaft [Kinh tế và
xã hội, 1921] của Max Weber), New York, The Free Press, 1964, tr. 88 (những
chỗ in nghiêng là do chúng tôi – T.H.Q.).
4
Xem R. Aron, sách đã dẫn, tr. 550.

11


quan), và do vậy, nhà nghiên cứu cần hiểu được “ý nghĩa nội sinh” (sens
endogène) của các hành động xã hội.1 Weber viết : “… trong việc lý giải
hành động về mặt chủ quan trong công trình nghiên cứu xã hội học, những
tập thể ấy2 phải được coi như chỉ là những hệ quả và những hình thái tổ
chức của những hành động đặc thù của những con người cá thể, bởi lẽ
chính những con người cá thể này mới là những tác nhân trong một quá
trình hành động [mà chúng ta] có thể hiểu được xét về mặt chủ quan.”3 Do
đó, theo Weber, các nhà khoa học xã hội trước hết cần tiến hành việc quy
giản những hiện tượng tập thể (nhìn bên ngoài tưởng chừng như là một thực
tại độc lập) vào những hành động của những con người cá thể. Ông viết
tiếp : “… đối với ngành xã hội học, không hề có chuyện một nhân cách tập
thể nào ‘hành động’. Khi một công trình xã hội học đề cập tới một ‘nhà
nước’, một ‘dân tộc’, một ‘công ty’, một ‘gia đình’, hay một ‘lực lượng

quân đội’, hay những tập thể tương tự, thì điều mà người ta muốn nói đến
là, trái lại, chỉ là một hình thức diễn tiến nào đó của những hành động xã
hội đã xảy ra hay có thể xảy ra của những con người cá thể.”4 Đây chính là
đặc trưng của “phương pháp luận [quy về] cá nhân” (methodological
individualism) của Weber, tức là một lối tiếp cận được dùng để giải thích
các quá trình xã hội bằng cách xuất phát từ các cá nhân, đối lập với khuynh
hướng “phương pháp tổng thể luận” (holism).5
Nếu Karl Marx quan tâm phân tích những mâu thuẫn nội tại của xã
hội tư bản chủ nghĩa xét về mặt kinh tế học chính trị, thì Max Weber chú ý
phân tích quá trình lý tính hóa (hay duy lý hóa) toàn bộ đời sống xã hội
trong quá trình chuyển từ xã hội cổ truyền sang xã hội tư bản chủ nghĩa ở
châu Âu.
Trong công trình nổi tiếng Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của
chủ nghĩa tư bản (1904-1905),6 ông ta muốn hàm ý rằng nếu chỉ dựa trên sự
1

Xem P. Pharo, “Problèmes empiriques de la sociologie compréhensive”, Revue
française de sociologie, XXVI, Janvier-Mars 1985, tr. 121.
2
Tức là những “tập thể xã hội” như các nhà nước, các hiệp hội, các công ty hay
các quỹ xã hội mà Weber vừa nói tới ở câu trước.
3
M. Weber, sách đã dẫn, tr. 101.
4
M. Weber, sách đã dẫn, tr. 102.
5
Xem R. Boudon, và F. Bourricaud, Dictionnaire critique de la sociologie, Paris,
PUF, 2e édition, 1986, tr. 307-308.
6
Xem M. Weber, Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản (19041905), Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng và Trần Hữu Quang

dịch, Hà Nội, Nxb Tri thức, 2008.

12


phân tích kinh tế hay kỹ thuật thì chưa thể giải thích được sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản ở châu Âu vào những thế kỷ XVII-XIX, bởi lẽ, theo ông,
các tư tưởng tôn giáo đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình
này, đặc biệt là nền đạo đức khắc kỷ của giáo phái Tin Lành Calvin. Khác
với truyền thống Công giáo, cuộc cải cách Tin Lành đã nhấn mạnh tới tính
tự chủ và độc lập của từng cá nhân : cá nhân nếu được cứu rỗi thì chủ yếu là
do nỗ lực của chính mình, chứ không phải nhờ Giáo hội hay nhờ vào các
nghi lễ. Theo giáo lý Tin Lành, do niềm tin vào tính chất tiền định của một
đời sau được cứu rỗi hoặc bị đọa đầy, nên hầu như ai cũng bị ám ảnh và lo
âu về cái tương lai đời sau ấy. Chính vì thế mà mọi tín đồ đều được khuyên
bảo là cần hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình ở đời này, cần có lối sống
khắc kỷ (tự mình kiềm chế các dục vọng), làm việc cật lực, và phục vụ cho
cộng đồng – chính những hành động này sẽ đảm bảo cho sự cứu rỗi.
Như vậy, theo Weber, nền đạo đức Tin Lành đã tạo ra môi trường
tinh thần cần thiết và thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở
châu Âu, bao gồm : chủ nghĩa cá nhân ; động cơ làm việc thành công ; thái
độ lên án sự xa hoa phung phí cũng như của cải thừa kế ; sự nhìn nhận vai
trò chính đáng của các nhà kinh doanh ; thái độ gắn bó với xã hội. Hiểu
theo nghĩa đó thì chính nền đạo đức Tin Lành cũng là một trong những
luồng tư tưởng dẫn tới tính duy lý của xã hội tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên,
Weber cũng cho rằng : nếu nền đạo đức Tin Lành đóng vai trò quan trọng
trong giai đoạn phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản, thì vai trò ấy không
nhất thiết còn tồn tại khi chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập xong.
Theo Raymond Aron, không ít người ngộ nhận rằng Max Weber đã
tìm cách bác bỏ chủ nghĩa duy vật lịch sử của Karl Marx khi ông ta giải

thích những nhân tố kinh tế bằng những nhân tố tôn giáo. Aron cho rằng
hoàn toàn không phải như vậy. Trong công trình nêu trên, Weber chỉ muốn
chứng minh rằng người ta chỉ có thể hiểu được các ứng xử của con người
trong các xã hội khác nhau nếu đặt chúng trong khuôn khổ nhân sinh quan
hay thế giới quan của họ, rằng những quan niệm tôn giáo thực sự là một
nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đối với các lối ứng xử kinh tế, và do đó, là
một trong những nguyên nhân của những chuyển biến kinh tế của các xã
hội.1 Weber không hề có một quan điểm cực đoan và đơn-nguyên nhân
(monokausal) về mối liên hệ nhân quả khi giải thích thực tại xã hội, và ông
cũng chưa bao giờ nghĩ một cách giản đơn rằng chủ nghĩa tư bản chỉ là “sản

1

Xem R. Aron, sách đã dẫn, tr. 530.

13


phẩm” của nền đạo đức Tin lành.1
Theo R. Aron, Weber quan niệm các mối liên hệ nhân quả trong
ngành xã hội học chỉ mang tính chất “cục bộ” và “có khả năng xảy ra”
(relations partielles et probables). Nói cách khác, một bộ phận này của
thực tại xã hội có thể là, hay không là, nguyên nhân của một bộ phận khác
của thực tại xã hội – chứ không bao giờ là nguyên nhân của toàn bộ thực tại
xã hội. Và những mối liên hệ nhân quả này luôn luôn mang tính chất xác
suất, nghĩa là có thể xảy ra hay không xảy ra – chứ không bao giờ mang
tính quyết định tất yếu. Và chính tính chất bất định này trong thực tại xã hội
là điều mà các nhà nghiên cứu khoa học xã hội phải quan tâm, để có thể đi
đến chỗ giải thích được rằng tại sao một hiện tượng xã hội lại xảy ra ở nơi
này, trong xã hội này, chứ không xảy ra ở nơi khác, trong các xã hội khác.2

C. Phương pháp xã hội học
Có thể nói xã hội học là một ngành khoa học thực nghiệm (hay thực
chứng), theo nghĩa là đây không phải là một ngành khoa học quy phạm, như
đạo đức học hay luật học chẳng hạn. Xã hội học không chỉ ra rằng phải làm
gì, cũng không phê phán cái gì tốt hay cái gì xấu căn cứ trên một hệ thống
giá trị nào đó. Ngược lại, xã hội học xuất phát từ những sự kiện xã hội,
những ứng xử thực tế của con người, tìm cách mô tả và giải thích chúng
một cách khách quan. Dưới con mắt nhà xã hội học, một hành vi “đáng lên
án” nào đó, chẳng hạn hành vi phạm pháp, cũng chỉ là một đối tượng
nghiên cứu như bất cứ hành vi bình thường nào khác trong xã hội. Trong xã
hội học, việc xây dựng một khung lý thuyết để giải thích thực tại hoàn toàn
không có nghĩa là nhằm đi đến một phán đoán giá trị về thực tại ấy.3 Còn
việc phán đoán, việc đề ra giải pháp hoặc chọn lựa giải pháp nhằm tác động
vào thực tại, thì đấy là công việc của nhà lãnh đạo thực tiễn hoặc nhà chính
trị.
Durkheim quan niệm rằng : xã hội học, với tư cách là một khoa học
thực nghiệm (science positive), cần coi các sự kiện xã hội như những “sự
vật” – nghĩa là nhà xã hội học phải có con mắt giống như con mắt của các
1

Xem M. Weber, sách đã dẫn, tr. 159-160.
Xem R. Aron, sách đã dẫn, tr. 517-519. Có thể xem thêm bài “Lời giới thiệu”
của Trần Hữu Quang và Bùi Văn Nam Sơn, trong Max Weber, Nền đạo đức Tin
lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản, sách đã dẫn, tr. 11-46.
3
Xem H. Mendras, Éléments de sociologie, Paris, Armand Colin, nouvelle édition
refondue, 2003, tr. 11.
2

14



nhà khoa học tự nhiên khi họ quan sát các hiện tượng vật lý, hóa học hay
sinh học. Durkheim khẳng định rằng xã hội có những cơ chế và quy luật
khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của cá nhân, vì thế chỉ
có thể giải thích một sự kiện xã hội này bằng những sự kiện xã hội khác mà
thôi, chứ không thể quy về những nguyên nhân tâm lý cá nhân như động cơ
hay khát vọng. Và các sự kiện xã hội chỉ trở thành đối tượng nghiên cứu
một khi chúng được đưa vào phân tích trong khuôn khổ xã hội học.
Nói cách khác, người ta không thể khảo sát thực tại xã hội nếu không
xuất phát từ một khung lý thuyết tối thiểu ban đầu. Người làm xã hội học,
cũng giống như trong các ngành khoa học khác, xác định đối tượng nghiên
cứu của mình dựa trên một số ý tưởng hay giả thuyết, dù đấy là những ý
tưởng hay giả thuyết ban đầu của bản thân nhà nghiên cứu, hay là những
giả thuyết xuất phát từ các công trình điều tra xã hội học khác.
Tuy nhiên, xã hội học là một ngành khoa học không chỉ mang tính
chất thực nghiệm (hay thực chứng), mà còn mang tính chất tích lũy (une
science cumulative). Ngày nay, các nhà xã hội học không còn mang những
tham vọng “tiên tri” quá lớn lao như các nhà tư tưởng vào thế kỷ XIX nữa,
mặc dù họ vẫn luôn kính trọng những người “khổng lồ” của thời đại ấy. Các
nhà xã hội học hiện đại thường tỏ ra khiêm tốn hơn.1 Nói như nhà xã hội
học Mỹ Robert K. Merton (1910-2003), thông thường họ chỉ tự giới hạn
vào việc tìm hiểu một nhóm sự kiện xã hội nào đó mang tính nhất quán, rồi
từ đó xây dựng một lý thuyết hạn hẹp, ở tầm trung mô mà thôi.2 Lý thuyết
này sau đó có thể được trừu tượng hóa ở một cấp độ cao hơn, rồi được
chuyển sang một lãnh vực khác để giải thích một nhóm sự kiện khác. Hoặc
lý thuyết trung mô này cũng có thể được kết hợp với một lý thuyết trung mô
khác, vốn được xây dựng trên một nhóm sự kiện khác, để cuối cùng hình
thành nên một lý thuyết tương đối bao quát một chút. Đó chính là ý nghĩa
của tính chất tích lũy của ngành xã hội học.3

Nhà xã hội học không phải là người lúc nào cũng muốn xóa sạch bàn
cờ để làm lại từ đầu ; ông ta không có tham vọng đặt lại toàn bộ một vấn đề
để bắt đầu từ con số không. Để tìm hiểu những sự kiện xã hội nào đó và đi
đến được những lập luận phân tích và lý giải những sự kiện ấy, nhà xã hội
học luôn luôn phải bắt đầu bằng cách xem xét các kết luận của những người
1

Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 11.
Dẫn lại theo H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 11.
3
Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 11.
2

15


đi trước vốn đã từng nghiên cứu về cũng những sự kiện tương tự, và dựa
trên các kết luận đã có ấy, ông ta tìm cách tiến xa hơn bằng những công cụ
phân tích mới hơn, tinh vi hơn.1
Ngày nay, ai muốn nghiên cứu về hiện tượng tự tử chẳng hạn, đều
không thể không tham khảo lại những cuộc điều tra đã tiến hành trước đây,
đặc biệt là công trình xã hội học đầu tiên của É. Durkheim về vấn đề này.2
Qua đó, xem lại coi người ta đã thu thập những dữ kiện nào, và cuộc điều
tra đang dự định có thể tìm ra những dữ kiện gì mới ; xem xét lý thuyết mà
Durkheim từng đưa ra để giải thích về hiện tượng tự tử có còn thích hợp để
lý giải được thực tế ngày nay hay không ; nếu không, thì nhà nghiên cứu
phải bổ sung hoặc xây dựng lại thế nào cho một khung lý thuyết mới...
“Lý thuyết” là một công cụ trí tuệ giúp ta hiểu một thực tại nào đó,
giải thích một số sự kiện nhất định nào đó. Hiểu theo nghĩa như vậy, khái
niệm “lý thuyết” (theory) hoàn toàn khác biệt với khái niệm “học thuyết”

(doctrine). Một học thuyết là một hệ thống các tín điều và niềm tin, thường
mang tầm vóc tổng quát, toàn diện. Ngược lại, một lý thuyết thường bao
hàm một phạm vi hạn hẹp hơn, nhằm giải thích một hiện tượng xã hội nào
đó, và cũng thường bổ ích và thiết thực hơn là một học thuyết quá tổng
quát. Chẳng hạn, khi đề ra lý thuyết giải thích về hiện tượng tự tử,
Durkheim đã chế tạo ra khái niệm “anomie” (a = không, nomos = luật lệ ;
tạm dịch là tình trạng phi chuẩn mực). Ngày nay, khái niệm này đã trở
thành một trong những khái niệm căn bản trong xã hội học hiện đại và được
dùng rộng rãi để phân tích nhiều cơ chế vận động của xã hội không có liên
quan gì đến hiện tượng tự tử.3
Một trong những phương pháp thường được sử dụng trong xã hội
học là phương pháp so sánh. Người ta thường dùng phương pháp này khi
phân tích những nhân tố thuộc về định chế hoặc thuộc về cấp xã hội vĩ mô
trong những xã hội khác biệt nhau, hay khi phân tích những hiện tượng cụ
thể nào đó trong các xã hội hay các nhóm khác nhau. Phương pháp này khá
hấp dẫn vì nó có nhiều triển vọng đem lại kết quả. Tuy nhiên kèm theo nó
cũng có nhiều cạm bẫy, vì vấn đề được đặt ra là : liệu những đơn vị được so
sánh (các xã hội, các định chế, các tôn giáo, các nhóm, v.v.) và những chỉ
tiêu được chọn để so sánh, có phải là những cái có thể so sánh được hay
1

Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 11.
Công trình Le suicide (Tự tử) của Émile Durkheim được xuất bản vào năm 1897.
3
Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 11-12.
2

16



không. Dù vậy, đối với nhà xã hội học, do không thể sử dụng biện pháp thí
nghiệm như trong khoa học tự nhiên hay khoa học kỹ thuật, nên phương
pháp so sánh vẫn thường là một công cụ hữu ích.1
Một phương pháp khác là : xây dựng những mẫu hình (model), hay
những “điển hình ý thể” (tạm dịch từ thuật ngữ ideal type).2 Đây cũng là
phương pháp được các nhà xã hội học chú trọng kể từ khi Max Weber sử
dụng cụm từ này. Weber đã ứng dụng phương pháp xây dựng “điển hình ý
thể” này trong công trình nổi tiếng Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của
chủ nghĩa tư bản (1904-1905). Căn cứ trên giáo huấn đạo đức của giáo phái
Tin lành theo Calvin, Weber đã xây dựng một mô hình ứng xử “điển hình ý
thể” của người theo giáo phái này, và ông nhận xét là mô hình này trùng
khớp hay tương hợp với mô hình ứng xử “điển hình ý thể” của nhà kinh
doanh tư bản chủ nghĩa. Điều này dẫn Weber đi đến chỗ kết luận rằng nền
đạo đức Tin lành đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển
ban đầu của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu.
Một điển hình ý thể, theo Weber, không phải là một mẫu điển hình
bao gồm những đặc điểm chung nhất hoặc thường gặp nhất trong thực tại,
cũng không phải là một mẫu hình lý tưởng mà người ta cần đạt tới.3 Việc
xây dựng các điển hình ý thể chính là nỗ lực của mọi ngành khoa học nhằm
làm cho đối tượng nghiên cứu trở nên khả niệm4 bằng cách tìm ra tính duy
lý nội tại (rationalité interne) của đối tượng nghiên cứu, tức là cái nội dung
mang tính chất cốt lõi nhất của nó. Và xã hội học, theo Weber, chính là nỗ
lực trình bầy lại những cuộc sống con người vốn vô cùng lộn xộn, rối ren và
khó hiểu, nhằm làm cho chúng trở nên khả niệm, tức là có thể hiểu được và
lý giải được.5
Trong cuốn Kinh tế và xã hội (1921), Max Weber cho rằng các điển
hình ý thể chỉ là những “công cụ phương pháp luận” để hiểu được và lý giải
1

Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 12.

“Điển hình ý thể” (ideal type) là một mẫu điển hình nằm trong đầu con người,
tức xét trên bình diện ý thể hay bình diện tư tưởng (ideal), chứ không nằm trong
thực tại, tức không tồn tại trên bình diện vật thể (material).
3
Xem J. Scott, G. Marshall (Eds.), A Dictionary of Sociology, 3rd edition revised,
New York, Oxford University Press, 2009, tr. 329-330.
4
Khả niệm (intelligible) là tính chất có thể suy luận được, có thể hiểu được bằng
lý tính.
5
Xem R. Aron, Les étapes de la pensée sociologique (1967), Paris, Gallimard,
1993, tr. 519-520.
2

17


được các hiện tượng xã hội. Ông viết : “Việc xây dựng một nội dung thuần
túy duy lý của hành động [...] giúp cho nhà xã hội học có được một điển
hình [tức điển hình ý thể] [...]. Bằng cách so sánh với điển hình này, chúng
ta có thể hiểu được những cách thức mà trong đó hành động thực tế bị ảnh
hưởng bởi những nhân tố phi duy lý thuộc đủ mọi kiểu [...], và những
trường hợp mà chúng [tức những nhân tố phi duy lý] gây ra hiện tượng đi
trệch khỏi lối ứng xử vốn được kỳ vọng trên cơ sở giả thuyết là hành động
mang tính thuần túy duy lý.”1
Một vấn đề phương pháp luận nữa cũng khá căn bản, đó là : xã hội
học có thể tìm ra những quy luật (hay định luật, laws) như các ngành khoa
học tự nhiên đã làm hay không ? Trong thế kỷ XIX, trong trào lưu phấn
chấn trước các khám phá và phát minh trong các lãnh vực khoa học và kỹ
thuật và trong niềm tự tin về đà tiến bộ của nhân loại, nhiều nhà xã hội học

cho rằng thực sự có những quy luật xã hội. Nhưng kể từ hậu bán thế kỷ XX
cho tới nay, sau nhiều thất bại trong các giải thích và dự đoán, phần lớn các
nhà xã hội học đều thận trọng hơn, cân nhắc hơn về điểm này. Tuy không
hoàn toàn phủ nhận khả năng có thể có những quy luật xã hội, nhưng người
ta vẫn không dám đi đến kết luận vội vã, mà thường chỉ ghi nhận những
hiện tượng lặp đi lặp lại (regularities): nếu trong thực tế, qua kinh nghiệm
bản thân, người ta luôn luôn bắt gặp hiện tượng A đi kèm với hiện tượng B,
thì điều này chưa hẳn có nghĩa là A là nguyên nhân của B, mà cũng chưa
chắc là A luôn luôn đi liền với B. Hiện tượng A có thể là một trong những
điều kiện thuận lợi cho việc xuất hiện B, hoặc cũng có thể cả A lẫn B đều là
kết quả chung của một nhân tố nào khác còn tiềm ẩn... Tuy vậy, việc nghiên
cứu những hiện tượng lặp đi lặp lại này cho phép ta thực hiện trong chừng
mực nào đấy những dự báo, chẳng hạn theo kiểu : nếu ngày mai ta thấy
hiện tượng A, thì có nhiều khả năng là sẽ xảy ra hiện tượng B. Đây chính là
sự khác biệt căn bản giữa sự dự báo và sự tiên tri.2
Một thí dụ. Ở phương Tây, sự phát triển nhanh chóng của xã hội
công nghiệp đòi hỏi người lao động phải di chuyển, thay đổi chỗ làm nhiều
hơn, được đào tạo chuyên sâu hơn và nhanh hơn... Do đó, kết quả là mô
hình gia đình nhiều thế hệ theo kiểu truyền thống, trong đó cặp vợ chồng trẻ
vẫn sống chung với cha mẹ, và người con có cùng địa vị xã hội như người
cha, không thể phù hợp với một nền công nghiệp đang tăng trưởng. Mặt
khác, thanh niên bây giờ không chọn vợ chọn chồng theo kiểu “môn đăng
1

M. Weber, The Theory of Social and Economic Organization (1947), A. M.
Henderson và T. Parsons dịch, New York, The Free Press, 1964, tr. 92.
2
Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 12-13.

18



hộ đối” hay “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” nữa ; họ chọn theo những tiêu
chuẩn cá nhân của mình, mà về mặt cá nhân thì hiển nhiên là khía cạnh tình
cảm trở thành động cơ chủ yếu dẫn đến hôn nhân. Nếu thanh niên lấy nhau
vì tình yêu, và nếu họ chọn một nghề nghiệp mà họ đã được học ở trường,
thì các cặp vợ chồng trẻ sẽ không có lý do gì để phải ở chung với cha mẹ
như thời xưa nữa. Họ ra ở riêng, tìm việc làm, thăng tiến dần... Như vậy,
nhìn chung lại, ta thấy có lẽ có một mối liên hệ hàm số giữa hai hiện tượng
thoạt nhìn tưởng chừng như chẳng dính dáng gì với nhau : “tiếng sét ái
tình” và sự phát triển kinh tế của xã hội công nghiệp.
Nhưng mối liên hệ ấy không nhất thiết là liên hệ nhân quả, và lại
càng không chắc là quy luật, nếu ta nhìn vào các xã hội Á Đông như Nhật
Bản chẳng hạn. Hơn nữa, khó mà khẳng định được cái nào là nguyên nhân,
cái nào là hậu quả, khi mà các hiện tượng xã hội thường xuất hiện đan xen
với nhau, tác động lẫn nhau một cách vô cùng chằng chịt. Tính nhân quả
trong xã hội hầu như luôn luôn diễn ra dưới dạng vòng tròn, tức là các hiện
tượng thường tác động lẫn nhau, chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau.1
Xét về mặt phương pháp luận, nhìn chung, người ta thấy có hai lối
tiếp cận đối lập nhau trong ngành xã hội học, đó là lối tiếp cận tổng thể luận
(holism), và lối tiếp cận phương pháp luận [quy về] cá nhân
(methodological individualism). Một cách đại thể, có thể nói lối tiếp cận
tổng thể luận cho rằng toàn bộ sự vận hành của xã hội đều xuất phát từ xã
hội, vốn có những cấu trúc và những định chế của nó, áp đặt lên trên mọi cá
nhân thành viên. Lý thuyết mác-xít và khoa kinh tế học cổ điển đều nằm
trong lối tiếp cận này, và ngay nền xã hội học ở Pháp cũng chủ yếu đi theo
khuynh hướng này trong những thập niên 1950 và 1960. Nhưng kể từ cuộc
khủng hoảng kinh tế diễn ra từ năm 1975 trở đi, giới khoa học xã hội ở
Pháp bắt đầu đặt lại vấn đề về lối tiếp cận này, nhất là khi mà nhà xã hội
học Alain Touraine (1925-) đưa ra ý tưởng về “sự trở lại của tác nhân” (le

retour de l’acteur). Lúc này, người ta bắt đầu chú ý hon tới những chiến
lược cá nhân cũng như sự tích hợp của những chiến lược cá nhân, đến mức
mà dần dà lối tiếp cận phương pháp luận [quy về] cá nhân của nhà xã hội
học Raymond Boudon (1934-2013) trở nên thống soái trong nền xã hội học
Pháp, cùng với trào lưu của trường phái Chicago và trào lưu phương pháp
luận thường nhân (ethnomethodology). Tuy nhiên, giữa hai lối tiếp cận đối
lập nhau nêu trên, người ta chứng kiến ngày càng có nhiều công trình xã hội
học (tôn giáo, tổ chức, nông thôn, chính trị...) tìm cách vượt qua sự đối lập
1

Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 13.

19


này, và trong chừng mực nào đó, phối hợp cả hai lối tiếp cận ấy.1
D. Những kỹ thuật nghiên cứu
Vấn đề đầu tiên của một đề tài nghiên cứu xã hội học là làm sao
chuyển từ những khái niệm trừu tượng (trong khung lý thuyết của đề tài)
thành những sự vật và những sự kiện cụ thể trong đời sống hàng ngày, để từ
đó ta có thể khảo sát và đo lường được chúng trong những cuộc khảo sát
thực nghiệm. Nói cách khác, đây là vấn đề thao tác hóa các khái niệm, tức
là biến những khái niệm trừu tượng thành những chỉ báo cụ thể, có thể được
định lượng hóa. Nếu chúng ta muốn vận dụng khái niệm “phi chuẩn mực”
(anomie) của Durkheim chẳng hạn vào công trình nghiên cứu của mình, thì
ta cần phải thao tác hóa khái niệm trừu tượng này thành những chỉ báo cụ
thể, có thể khảo sát và đo lường được, nhằm đi đến chỗ lượng giá được mức
độ phi chuẩn mực của một xã hội hay một nhóm xã hội nào đó. Những chỉ
báo này cho phép ta đo lường được những thành tố khác nhau của tình trạng
phi chuẩn mực. Mặt khác, ta còn phải xác định được những biến số nào tác

động tới tình trạng phi chuẩn mực, và khảo sát mối liên hệ tương quan giữa
những biến số này, v.v. Đấy đều là những khía cạnh thiết yếu đòi hỏi nhà xã
hội học phải hết sức thận trọng và tinh tế trong việc thao tác hóa các khái
niệm lý thuyết trong một công trình nghiên cứu.2
Trong nhiều trường hợp, khi đứng trước một vấn đề nghiên cứu mới,
nhà xã hội học chưa xây dựng được ngay những giả thuyết hay khung lý
thuyết thích hợp, thậm chí cũng chưa hình dung được đối tượng nghiên cứu
ra sao. Trong những trường hợp này, rõ ràng việc đầu tiên phải làm là mô tả
(description). Cũng tương tự như trong bất cứ ngành khoa học nào khác,
việc mô tả phải hết sức chi tiết, cụ thể, càng chính xác càng tốt. Nhưng do
lúc ban đầu thường chưa thể biết rõ những gì cần thu thập và những gì
không cần, nên người nghiên cứu dễ sa đà vào việc mô tả vô số sự kiện
không có ý nghĩa, đồng thời lại dễ bỏ quên những điểm then chốt. Dĩ nhiên,
độ dày của kinh nghiệm nghiên cứu cũng như tầm hiểu biết vấn đề sẽ giúp
cho công việc mô tả đỡ vất vả hơn mà lại sắc sảo hơn.3
Đối với nhà xã hội học, cũng như đối với các nhà khoa học xã hội
khác, vấn đề căn bản là vấn đề khoảng cách giữa người quan sát và đối
1

Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 16-17.
Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 13-14.
3
Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 14.
2

20


tượng được quan sát. Nhà thiên văn học có kính viễn vọng để nhìn ngắm
các ngôi sao trên trời, nhà sinh học có kính hiển vi để đi vào thế giới các tế

bào, còn nhà xã hội học thì lại vẫn dùng những giác quan thông thường của
mình và trí tuệ của mình để khảo sát đối tượng. Do nhà xã hội học cũng là
một thành viên của xã hội mình đang sống, cũng mang trong mình những
tâm thức và tình cảm của xã hội ấy, cũng sử dụng cùng những ngôn từ và
thuật ngữ thông thường của xã hội ấy, nên khi nghiên cứu, ông ta/bà ta rất
dễ rơi vào những lối suy nghĩ rập khuôn hay những cái nhìn thành kiến của
xã hội mà mình đang sống. Chính vì thế, điều cực kỳ quan trọng đối với
một nhà xã hội học là trang bị cho mình hệ thống các kiến thức và các khái
niệm khoa học, cũng như xây dựng những công cụ nghiên cứu chuyên biệt
(như bản câu hỏi, bản hướng dẫn phỏng vấn, bản quan sát...) để “nhìn” đối
tượng (khảo sát và thu thập dữ kiện) một cách khách quan nhất có thể được
– nhằm vượt ra khỏi cái chủ quan có thể có của người nghiên cứu.1
Mô tả, trước hết có nghĩa là đo đếm. Công việc đo lường hiện tượng
và đếm các sự kiện có thể cho phép chúng ta giữ một khoảng cách nhất định
với đối tượng nghiên cứu. Bởi lẽ các bảng biểu số liệu bản thân chúng có
những yêu cầu khách quan mà ta phải tuân theo. Tuy nhiên, điều quan trọng
hơn trong xã hội học là hiểu, mà để hiểu, thì rõ ràng là đếm thôi chưa đủ.
Nhà xã hội học tôn giáo chẳng hạn có thể đếm được số người đi nhà thờ,
nhưng con số này chưa có ý nghĩa bao nhiêu, vì điều mà người ta muốn biết
là số các tín đồ, tức là những người có lòng tin – mà việc đi nhà thờ chưa
phải là tiêu chuẩn cho phép đo lường lòng tin thực sự của các tín đồ.2
Như vậy, chúng ta thấy rõ là ngay việc mô tả ban đầu cũng đã đòi
hỏi một nỗ lực phân tích định tính về đối tượng nghiên cứu, cũng như một
nỗ lực thao tác hóa các khái niệm của đề tài nghiên cứu, nhằm làm sao vạch
ra được tương đối đầy đủ các chỉ tiêu cần thu thập.
Một kỹ thuật nghiên cứu khác cũng thường được dùng trong xã hội
học là chuyên khảo hay đặc tả (monograph). Đây là việc khảo sát chuyên
sâu về một tập hợp xã hội nào đó (một cộng đồng làng, một gia đình, một tổ
chức...) hoặc một hiện tượng (thí dụ tự tử), nhằm tìm hiểu tất cả mọi khía
cạnh, lãnh vực và cơ chế vận động của tập hợp xã hội ấy hoặc của hiện

tượng ấy.3
1

Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 14.
Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 14-15.
3
Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 15.
2

21


Sở dĩ ngành xã hội học tiến bộ được là nhờ vào hai công cụ chính
này : chuyên khảo và thống kê. Phương pháp chuyên khảo giúp ta khám phá
và hình dung ra hiện tượng cần nghiên cứu, và đặt hiện tượng này vào trong
mối liên quan với các hiện tượng khác hay các vấn đề khác. Còn phương
pháp thống kê thì giúp ta đo lường quy mô của hiện tượng và tầm vóc của
nó trong tổng thể xã hội hoặc cộng đồng mà ta đang nghiên cứu. Tuy nhiên,
kể cả những nước công nghiệp phát triển, các số liệu thống kê chính thức
đều được thu thập phần lớn nhằm phục vụ cho giới quản lý xã hội và giới
kinh tế học, chứ hiếm khi phục vụ cho nhu cầu của các nhà xã hội học. Vì
thế, nhà xã hội học thường phải tự mình đi thu thập số liệu : tự mình thiết
kế công cụ khảo sát (như bản câu hỏi, bản hướng dẫn phỏng vấn...), tự mình
chọn ra mẫu khảo sát và tự mình tiến hành những cuộc thăm dò... nhằm
phục vụ cho công trình nghiên cứu của mình.1
E. Xã hội học và thực tiễn xã hội
Như đã nói, tư duy xã hội học thường phát triển trong những thời kỳ
khủng hoảng hoặc có nhiều biến động xã hội. Cũng chính vì thế mà các nhà
hoạt động thực tiễn thường mong chờ nhà xã hội học đưa ra những giải
pháp cho những vấn đề cụ thể trước mắt. Chẳng hạn, người kỹ sư nông

nghiệp thắc mắc tại sao nông dân vẫn không chịu áp dụng giống lúa mới, dù
ông ta đã cố hết sức thuyết phục về các lợi ích của giống lúa mới như năng
suất cao, chịu được phèn, kháng được sâu rầy... Nhà sư phạm không hiểu vì
sao tình trạng bỏ bê học hành và hư hỏng trong thanh thiếu niên ngày một
gia tăng. Còn vị giám đốc nhà máy thì đặt vấn đề làm sao khuyến khích
công nhân làm việc hăng hái hơn, và làm cách nào chiêu dụ được nhiều
khách hàng hơn mua sản phẩm của nhà máy mình... Nói chung, những
người làm việc thực tiễn luôn luôn muốn nhà xã hội học đưa ra được cho họ
những “toa thuốc”.
Thực ra, nhà xã hội học không phải là một “thầy thuốc”, lại càng
không phải là nhà “tiên tri”. Dù công việc mô tả và phân tích của nhà xã hội
học có sâu sắc và xác đáng đến đâu đi nữa, thì điều đó vẫn không phải là cơ
sở để cho phép ông ta “báo trước” tương lai, hay tìm ra được biện pháp gì
hữu hiệu tác động vào tương lai.
Một thí dụ. Những cuộc thăm dò dư luận trước các cuộc bầu cử tổng
1

Xem H. Mendras, sách đã dẫn, tr. 15.

22


thống ở Mỹ chỉ cho người ta biết là : vào thời điểm điều tra T, có 30%
(chẳng hạn) người dân Mỹ đồng ý bầu cho ông Trump, 40% cho bà Clinton,
v.v. ; nhưng qua đó, vẫn không thể biết trước là đến ngày bầu cử T ’, sẽ có
bao nhiêu phần trăm bầu cho người này hay người khác. Bởi lẽ từ thời điểm
T tới T ’ (một tuần, một tháng hoặc một năm), sẽ còn diễn ra nhiều biến cố
khác có thể làm đảo lộn tình hình ; hơn nữa, bản thân việc công bố kết quả
điều tra cũng đã có thể tác động tới sự chọn lựa của cử tri.
Mô tả không phải là dự báo ; tuy nhiên, trong chừng mực nhất định,

nhà xã hội học vẫn có thể căn cứ trên kết quả mô tả để nói rằng : sự kiện A
có nhiều khả năng xảy ra trong những điều kiện B, C, D... nhất định.
Cũng có nhiều trường hợp mà phương pháp xã hội học được sử dụng
để phục vụ trực tiếp cho thực tiễn, đặc biệt là trong việc điều tra về nhu cầu
và thị hiếu của khách hàng, hay về tác dụng của việc quảng cáo cho một sản
phẩm chẳng hạn. Trong thời kỳ Thế chiến thứ hai, trong không quân Mỹ,
người ta đã sử dụng kết quả của những cuộc trắc nghiệm xã hội học để cấu
tạo thành phần các đội bay, nhằm mục đích là làm sao cho mọi người trong
mỗi đội bay có thể “ăn giơ” được với nhau, nhưng đồng thời cũng phải làm
sao để những người này đừng quá thân thiện với nhau đến nỗi chỉ lo vui
chơi mà quên đi nhiệm vụ chiến đấu.
Để giải quyết một số vấn đề tác nghiệp cụ thể, ngành xã hội học có
thể đóng vai trò rất hữu hiệu, kết quả có thể thấy ngay trong thực tiễn.
Nhưng còn những vấn đề lớn và phức tạp hơn của xã hội (thí dụ sự chuyển
biến trong ứng xử của nông dân ; vấn đề ma túy...), thì cho đến nay vẫn
luôn luôn là thách đố đối với các nhà xã hội học. Ngay việc giải thích
những hiện tượng ấy cũng đã từng gây ra biết bao nhiêu cuộc tranh luận
giữa những nhà xã hội học nhiều khi có quan điểm hoàn toàn đối lập nhau.
Đó là chưa nói đến việc dự báo hoặc đề ra giải pháp cho tương lai của vấn
đề thì lại càng khó khăn hơn bội phần.
Với tư cách là công dân trong một xã hội, nhà xã hội học hẳn nhiên
cũng có thể có những chính kiến và lập trường riêng của mình, những thao
thức và hoài bão phục vụ lý tưởng của mình. Nhưng với tư cách là nhà khoa
học, thì do tính chất thường hết sức phức tạp của đối tượng nghiên cứu, nhà
xã hội học luôn phải tôn trọng tính khách quan trong nghiên cứu, và thận
trọng trong việc phân tích và nhận định. Mỗi hiện tượng xã hội vốn được
cấu tạo bởi vô số những mối quan hệ xã hội chằng chịt và phức tạp, nhiệm
vụ của nhà xã hội học, nói một cách nôm na, là làm sao gỡ ra, lần ra được
23



những đầu dây mối nhợ chính yếu : mô tả và lý giải một hiện tượng xã hội,
nhằm mục đích giúp cho người ta hiểu được thực chất của hiện tượng ấy.
Còn làm cách nào để phát huy hay hạn chế hiện tượng ấy, thì đấy không
còn là lãnh vực của xã hội học, mà là thuộc về phạm vi cân nhắc và quyết
định của nhà hoạt động thực tiễn hay nhà quản lý xã hội.

24


×