Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Thảo luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh và câu hỏi thi mới nhất 3.2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.43 KB, 26 trang )

HỌC VIỆN CÁN BỘ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG
& TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 04 năm 2018
CÂU HỎI THẢO LUẬN – ÔN TẬP
HỌC PHẦN: NHỮNG V/ĐỀ CƠ BẢN VỀ
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(Cập nhật Tháng 04 năm 2018)
Học viên phân tích và làm rõ các vấn đề trọng tâm sau đây:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Làm rõ các nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh? Ý nghĩa
của việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay ở nước ta? Liên hệ
bản thân?
Khái niệm: Theo văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần IX: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc;
về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn
dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về
chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng
viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh
thần to lớn của Đảng và dân tộc ta".
Phân tích 3 bản chất: Hệ thống; Toàn diện và sâu sắc; Cơ bản: Hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam” là nhiều quan điềm liên hệ chặt chẽ với nhau,
thề hiện rõ tính liên tục, nhất quán. “Toàn diện” là bao quát nhiều lĩnh vực. Đó là tư tưởng về chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội, quân sự, ngoại giao... Đại hội IX chỉ rõ, đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ


của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân; về phát triền kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân...
“Toàn diện nhưng sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”, nghĩa là không phải
tất cả mọi vấn đề đều gắn với tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh như là những tư tưởng chính
trị theo nghĩa rộng, gồm tư tưởng về mục tiêu cách mạng: độc lập dân tộc và CNXH; về mục đích cách
mạng: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về lực lượng cách mạng: toàn dân tộc
lấy công-nông làm gốc, đoàn kết quốc tế; về nền tảng lý luận: chủ nghĩa Mác-Lênin; về tổ chức cách mạng:
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận đoàn kết toàn dân; về phương pháp cách mạng: động viên toàn
dân, tổ chức toàn dân; ... Tóm lại, đó là “giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
9 nội dung cơ bản của tư tưởng HCM: Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người; Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại; Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; Tư tưởng về quyền
làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; Tư tưởng về quốc phòng toàn
dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng


cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư; Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; Tư tưởng về xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong đó tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người là bao trùm nhất.
Ý nghĩa và tầm quan trọng của tư tưởng HCM đối với sự nghiệp cách mạng VN, dân tộc VN: Tư
tưởng HCM soi sangs còn đường giải phóng và phát triển dân tộc, nó là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc
VN, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng HCM còn
phản ánh khát vọng của thời đại, tìm các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người và cổ vũ các dân tộc đấu
tranh vì mục tiêu cao cả.
Nguồn gốc tư tưởng HCM:
a. Cơ sở khách quan

a.1 Bối cảnh lịch sử
* Thời đại: Cuối thế kỷ 19- đầu thế kỷ 20  phương thức SX TBCN (TBCN có 2 giai đoạn: tự do
cạnh tranh và chủ nghĩa đế quốc- bản chất bóc lột, xâm chiếm thuộc địa). TBCN vừa bóc lột dân thuộc địa,
vừa đàn áp dân vô sản chính quốc  TT HCM tiến hành đồng thời 2 giai đoạn (giải phóng thuộc địa, giải
phóng giai cấp vô sản). Năm 1917, CM Nga thành công  cổ vũ các nước thuộc địa. Dân tộc châu Á đa
phần là thuộc địa  dễ đồng cảm
* Trong nước: 1858, Pháp xâm lược Việt Nam, núp dưới chiêu bài “khai hóa văn minh”, đem “tự
do, bình đẳng, bác ái” tới cho dân An Nam, nhưng thực tế là đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện.
Trước năm 1858, VN là 1 nước PK độc lập, nhưng nghèo và lạc hậu, giai cấp chủ yếu là nông dân – địa
chủ. Sau năm 1858, VN thành thuộc địa nửa PK, kết cấu giai tầng thay đổi, có thêm sự xuất hiện của nhiều
giai cấp: công nhân, tư sản, tiểu tư sản. Khi Pháp vào VN, nhân dân VN đứng lên chống Pháp. Cha ông ta
rất anh dũng chiến đấu nhưng kết cục đều thất bại. Mọi phong trào đều chìm trong biển máu. Sự thất bại
này có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có 1 nguyên nhân quan trọng là do sự bất lực của ý thức hệ PK
+ Ý thức hệ PK: Nho giáo
+ Nho giáo phân chia đẳng cấp XH, đề cao quân tử- gc thống trị, miệt thị tiểu nhân
+ Những người lãnh đạo ptrao ít nhiều ảnh hưởng ý thức hệ PK này  ko tin vào sức mạnh của đại
đa số những người bị trị => phong trào lẻ tẻ, tự phát, quy mô nhỏ.
- Cuối thế kỷ 19- đầu thế kỷ 20, con đường cứu nước lâm vào bế tắc.
 Bối cảnh đỏ đặt ra 1 đòi hỏi tất yếu: Muốn cứu nước, buộc phải đi theo 1 con đường mới, chứ
không phải đi lên vết xe đổ của bậc cha anh. Do đó, Ng Tất Thành sang p.tây là tất nhiên. (ngày 5-6-1911)
a.2: Quê hương và gia đình
*Gia đình: Thân phụ: Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929): mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống với anh họ; 1 con
người thông minh, hiếu học; 1 nhà nho cấp tiến, yêu nước, thương dân. NSS thân dân, thương dân, trọng
dân, không như các nhà nho khác miệt thị dân. Thân mẫu: Hoàng Thị Loan (1868- 1901): được dạy dỗ từ
bé, có tư tưởng cấp tiến.
*Quê hương: Vùng đất Nghệ An cằn cỗi, đói nghèo  sức bật mạnh mẽ của 1 con người. Nơi đây
thấm máu của biết bao sĩ phu, con người yêu nước. Vùng đất đói nghèo, cùng cực, lại chịu áp bức, bóc lột
của TD  Quê hương và gia đình đã nuôi dưỡng tư tưởng yêu nước và chí hướng CM của HCM.
a.3: Tiền đề lí luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành bắt nguồn từ 3 nguồn gốc:

Thứ nhất, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Truyền thống văn hóa dân tộc là 1 trong những cơ sở lý luận quan trọng dẫn tới sự hình thành tư tưởng
HCM. Hồ Chí Minh là người con ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam nên tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết bắt
nguồn từ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đó là truyền thống yêu nước, cần cù lao động, anh dũng,
sáng tạo trong dựng nước và giữ nước, đoàn kết, nhân ái của dân tộc Việt Nam... những truyền thống tốt
đẹp đó đã hun đúc qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam thì Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt tiến trình lịch sử dân tộc, giữ vị
trí hàng đầu. Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, niềm tự
hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt Nam. Bác Hồ kính yêu đã viết:
“dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.


Năm 1858, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập đã bị thực dân Pháp xâm lược và đã trở thành
một nước thuộc địa nữa phong kiến. Dưới ánh thống trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam không có tự
do. Lớp lớp sĩ phu và đồng bào yêu nước đã liên tục đúng lên chiến đấu giành lại độc lập theo nhiều phong
trào và khuynh hướng khác nhau với tinh thần “đúc gan sắt để dời non lấp bể, xối máu nóng rửa vết nhơ nô
lệ”. Song những kinh nghiệm lịch sử chống ngoại xâm đã không phát huy được tác dụng trước một kẻ thù
mạnh. Các phong trào kháng chiến đều bị dìm trong biển máu, bởi không có một đường lối cứu nước đúng
đắn. Cả dân tộc đắm chìm trong đêm dài nô lệ, lầm than “tình hình đen tối như không có đường ra”. Sứ
mệnh lịch sử đặt ra cho cả dân tộc, mỗi người yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ là phải tìm con đường cứu
nước, cứu dân thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc dục Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.
Yêu nước là động lực chi phối mọi suy nghỉ, hành động trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian
lao, cực khổ của Hồ Chí Minh. Với một hoài bảo và lòng yêu nước nồng nàn cháy bỏng làm hành trang. Hồ
Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước, người tự đặt cho mình cái tên Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Yêu
Nước) để luôn nhắc nhở cổ vũ bản thân và cổ vũ quốc dân đồng bào. Chủ nghĩa yêu nước truyền đã đưa
người đến với Chủ nhĩa Mác- Lê Nin một cách tự nhiên. Bác viết: “lúc đầu chính chủ nghĩa yêu nước, chứ
chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê Nin, tin theo Quốc tế thứ III”.

Thứ hai, là tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại: Phương Đông và phương Tây: Phương Đông có
Nho giáo, Lão giáo, học thuyết của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc); Phật giáo, thuyết bất bạo động của Găng
- đi (Ấn Độ). Phương Tây: Học thuyết dân chủ tư sản với nhiều mô hình xã hội tư bản chủ nghĩa; Những
giá trị tốt đẹp của những cuộc cách mạng tư sản ở Pháp, Mỹ… Hồ Chí Minh tiếp thu các tinh hoa văn hóa
nhân loại nhưng không sùng ngoại, vọng ngoại và biết biến các giá trị cao đẹp đó thành tài sản trí tuệ - tri
thức cho bản thân và dân tộc: Trân trọng, ngưỡng mộ; phân biệt rõ chính trị và văn hóa; Không có những
định kiến về sự khác biệt giữa văn hóa Đông – Tây).
Người đã đi nhiều nơi trên thế giới, thâu hái, gạn lọc nhiều tư tưởng. Nho giáo có hạn chế là tư
tưởng đẳng cấp, coi thường phụ nữ, khinh lao động chân tay, tuy nhiên có tích cực là triết lí hành động, tư
tưởng nhập thế hành đạo giúp đời, lí tưởng về 1 xã hội bình trị, triết lí nhân sinh tu thân dưỡng tính, đề cao
văn hóa, lễ giáo... HCM có nhận xét: “Ưu điểm cơ bản nhất của học thuyết Khổng Tử chính là vấn đề tu
dưỡng đạo đức cá nhân”  Học thuyết Khổng Tử nặng về đạo đức còn gọi là học thuyết ĐỨC TRỊ (đạo
đức cải trị xã hội). HCM sinh ra trong 1 gia đình Nho giáo yêu nước, nên Người chịu ảnh hưởng rất sâu
đậm của học thuyết Nho giáo. Tuy nhiên, khi tiếp thu Nho giáo, HCM không tiếp thu nguyên si mà có sự
chọn lựa, bổ sung và phát triển. Trong các tác phẩm bài viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc
đến khái niệm phạm trù, mệnh đề của Nho giáo. Nho giáo thấm vào tư tưởng, tình cảm của người không
phải là những giáo điều trong “tam cương”, “ngủ thường”, đạo “tu thân” ... của các nhà hiền triết phương
Đông được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Song trong khi vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo,
người cũng đồng thời phê phán, loại bỏ những yếu tố tiêu cực của học thuyết đó. Nếu như chữ “trung”,
‘hiếu” trong Nho giáo là trung với vua, hiếu với cha mẹ, thì được Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới
là trung với nước, hiếu với dân. Trung với nước, hiếu với dân là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng
nước và giữ nước.
Về Phật giáo, Tích cực: tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái… nếp sống có đạo đức, trong sạch, tinh thần
bình đẳng, chống phân biệt đẳng cấp, đề cao lao động, chống lười biếng, ko xa đời, gắn bó với nhân dân...
Bác là người trân trọng, nâng niu tất cả mọi thứ, nhưng trên tất cả vẫn là con người  tư tưởng nhân bản,
ảnh hưởng bởi tư tưởng yêu thương của Phật giáo.
Trong 30 năm sống và hoạt động cách mạng ở nước ngoài, HCM sống chủ yếu ở phương tây nên
người chịu ảnh hưởng rất sâu đậm bởi văn hóa, Cách mạng phương Tây; đặc biệt là tư tưởng TỰ DO,
BÌNH ĐẲNG, BÁC ÁI. Do vậy tinh hoa văn hóa nhân loại là 1 trong những nguồn gốc lý luận quan trọng
dẫn đến sự hình thành tư tưởng HCM. Trước khi đến với Chủ nghĩa Mác –Lê nin, Hồ Chí Minh đã quan

tâm nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng nhân văn, dân chủ tư sản của cách mạng Pháp, Mỹ cả văn hoá Phục
hưng, Thế kỷ ánh sáng và của các cuộc cách mạng tư sản phương Tây, Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung
Sơn (Trung Quốc) “về dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Nguồn văn hoá phương Tây
ảnh hưởng tới Hồ Chí Minh trước hết phải kể đến tư tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái” mà giai cấp tư sản đã
nêu cao để tập hợp lực lượng lật đổ chế độ phong kiến. Cũng như khi đến với những giá trị văn hoá phương
Đông, Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị tư tưởng văn hoá phương Tây với tinh thần chọn lọc phê phán,
người đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng và văn hoá ấy lên một trình độ mới phù hợp với yêu
cầu mới của dân tộc và thời đại. Nhà nghiên cứu Hê Len Tuốc Mê Rơ đã có lý khi viết: “Hồ Chí Minh là


hình ảnh hoàn chỉnh của sự kết hợp: Đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Các
Mác, thiên tài cách mạng của V. I. Lê Nin và tình cảm của người chủ gia tộc, tất cả đều hoà hợp trong một
dáng dấp rất tự nhiên”.
Thứ ba, Tư tưởng Hồ chí Minh có nguồn gốc từ Chủ nghĩa Mác- Lê Nin (Hồ Chí Minh tự giác, tự
nguyện đến với chủ nghĩa Mác – Lênin với một hành trang tri thức đồ sộ của dân tộc, của nhân loại để tiếp
thu đỉnh cao tri thức của thời đại với Hành trình 10 năm tích lũy tri thức trước khi đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin (1911 – 1920). Chủ động đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và kiểm nghiệm tính đúng đắn thông qua
thực tiễn. Hồ Chí Minh trung thành nhưng thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung và phát triển chủ
nghĩa Mác – Lênin: Tuyệt đối trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin; Nắm
vững bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác – Lênin để nhận thức và giải quyết thực tiễn của cách
mạng Việt Nam; Từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam đúc kết thành lý luận bổ sung cho chủ nghĩa Mác –
Lênin, nhất là về cách mạng vô sản ở các nước lạc hậu, phụ thuộc, thuộc địa của chủ nghĩa thực dân)
Từ khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 5 tháng 6 năm 1911 đến năm 1917, Hồ Chí
Minh đã đến nhiều nước thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó Hồ Chí Minh
đã bổ sung cho mình những nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các từ “tự do”, “bình đẳng”, “bác
ái”. Cuối năm 1920, Hồ Chí Minh bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III, Quốc tế cộng sản do Lê Nin
sáng lập, trở thành một trong những người sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Tháng 7 năm 1920, Hồ Chí Minh
đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê Nin”. Luận
cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở, tìm hiểu bấy lâu nay, giúp người
thấy rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc. Người nói: “Muốn cứu nước giải phóng

dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Người đã tìm thấy ở Chủ nghĩa Mác
- Lê Nin “cái cần thiết” và “con đường giải phóng chúng ta” là bước quyết định nhảy vọt về chất trong quá
trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận cương của Lê Nin đã giúp Hồ chí Minh nhận thức sâu sắc
hơn về bản chất cách mạng khoa học của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin và phương pháp biện chứng mác xít, tâm
đắc sâu sắc câu nói của Lê Nin “không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng…chỉ
đảng nào có được một lý luận tiên tiến hướng dẫn thì mời có thể làm tròn vai trò của chiến sỹ tiền phong”.
Trong các nguồn gốc trên thì Chủ nghĩa Mác- Lê Nin là quyết định về sự thay đổi về mặt nhận thức
(thay đổi về chất) trong tư tưởng HCM. Chủ nghĩa Mác - Lê Nin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới
quan và phương pháp luận duy vật biện chứng khoa học và cách mạng để tổng kết lịch sử và kinh nghiệm
thực tiễn, tích luỹ kiến thức tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Chính Chủ nghĩa Mác -Lê Nin đã giúp
người vựợt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước đương thời, khắc phục cuộc khủng hoảng về
đường lối giải phóng dân tộc, vạch ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn bằng con đường
cách mạng vô sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô cùng to lớn và sâu sắc không chỉ góp phần to lớn và
quyết định vào thắng lợi của dân tộc ta trong những năm qua mà còn có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta. Vì vậy, chúng ta phải luôn luôn đấu tranh để bảo vệ, vận dụng
sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là trong sự nghiệp đổi mới, phấn đấu vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công băng và văn minh.
4. Nhân tố chủ quan
a. Động cơ, động lực vì nước vì dân trong sáng của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh luôn thấm nhuần phương châm vì nước, vì dân để tư duy và hành động nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng nhân dân. Hồ Chí Minh coi sáng tạo là một yếu tố để phục vụ cách mạng chứ
không phải để lưu danh thiên cổ, để trở thành vĩ nhân.
b. Công phu lao động, học tập, sáng tạo, khổ luyện trong suốt cuộc đời của Hồ Chí Minh
Tấm gương tự học suốt đời, trọn đời để có tri thức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Lấy lao
động, sáng tạo làm niềm vui, lẽ sống và hạnh phúc vì được giúp dân, giúp nước. Biết thay đổi các hình
thức, trạng thái lao động để biến lao động nặng nhọc trở thành công việc nhẹ nhàng, hữu ích, bền bỉ trong
suốt cuộc đời.
c. Trí tuệ thiên tài, tư duy sắc bén và phương pháp làm việc khoa học của Hồ Chí Minh
Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo ra và khái quát

trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan. Ngay từ khi còn trẻ. Hồ Chí Minh đã có hoài bảo lớn, có bản
lĩnh kiên định, giàu tình cảm nhân ái và sớm có chí cứu nước, giải phóng đồng bào mình. Vào đầu thế kỷ
XX đã có nhiều người Việt Nam sang Pháp và đã có những người tham gia Đảng xã hội Pháp. Thế nhưng
trong số những người Việt Nam yêu nước ở Pháp vào năm 1920, duy nhất có Hồ Chí Minh trở thành người


cộng sản và cũng là một công dân thuộc địa tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Tư chất thông minh, tư
duy độc lập, sáng tạo, tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới là những đức tính dễ thấy ở người thanh
niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn luyện phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng
của người. Nhờ vậy giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết quan điểm khác nhau,
giữa biết bao tình huống phức tạp. Hồ chí Minh đã tìm hiểu phân tích, tổng hợp khái quát tình hình thành
những luận điểm đúng đắn và sáng tạo hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. HCM có tư duy nhạy bén,
sắc sảo; có cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách độc đáo, hiệu quả; Năng lực tiên tri đặc sắc chứng tỏ
tầm nhìn xa, trông rộng được xây dựng trên một nền tảng tri thức rộng lớn, vững chắc, sâu sắc của Hồ Chí
Minh; Trọng công việc, quý thời gian, giờ nào việc đó một cách khoa học, chính xác và đem lại hiệu quả
cao trong lao động của Hồ Chí Minh.
Nguồn gốc chủ quan quyết định: Vật chất quyết định ý thức, không có cá nhân HCM thì sẽ không
có tư tưởng HCM.
Ý nghĩa việc học tập tư tưởng HCM: Chỉ thị 05 của Bộ chính trị
Liên hệ bản thân:
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội? Quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam? Trách nhiệm của anh (chị) đối với việc giữ vững độc lập dân tộc và
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh có cội
nguồn sâu xa từ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam; tiếp thu lý luận của các nhà kinh
điển chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là lý luận cách mạng không ngừng của c.Mác và V.I. Lênin
a) Cơ sở lý luận và thực tiễn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh có cội
nguồn sâu xa từ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam; tiếp thu lý luận của các nhà kinh
điển chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là lý luận cách mạng không ngừng của c.Mác và V.I. Lênin; thực tiễn

đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam và thắng lợi của cách mạng Tháng 10 Nga năm
1917.
b) Quan niệm về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
- Về độc lập dân tộc:
Thứ nhất, độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc.
Năm 1930, Người xác định mục tiêu của Đảng là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Người chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941)
và chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”[1]. Đến khi thời cơ khởi nghĩa
(8/1945) đã đến, Người nói “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường sơn này cũng phải giành cho được độc
lập”. Ngày 2/9/1945, Người khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã
thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Những tư tưởng đó đã tạo nên chân lý có giá trị lớn nhất
cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!".
Thứ hai là, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, với bình đẳng dân tộc.
Ở Việt Nam, độc lập dân tộc gắn liền với sự toàn vẹn quốc gia, Bắc - Trung - Nam liền một dải,
không thể chia cắt.
Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Người đã trích dẫn lại Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm
1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng'’. “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do ”và Người gọi đó là lẽ phải không ai
chối cãi được.
Thứ ba, theo Hồ Chí Minh, nền độc lập dân tộc phải trong hoà bình, tự do.
Ngày 15 tháng 2 năm 1967, trả lời Tổng thống Mỹ Giônxơn, Người đã nêu rõ. "Nhân dân Việt Num
chúng tôi rất thiết tha với độc lập, tự do và hoà bình Nhưng thiết tha độc lập tự do trong hoà bình, khát
vọng chính đáng đó của Hồ Chí Minh và của nhân dân Việt Nam không được đáp lại. Người nói, cho dù
chiến tranh kéo dài 10 năm, 20 năm hay lâu hơn nữa, nhân dân Việt Nam quyết giành cho được độc lập, tự
do và thống nhất Tổ quốc.
Thứ tư là, độc lập phải đảm bảo cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho mọi người dân.
Hồ Chí Minh viết: Chúng ta đấu tranh giành được độc lập rồi mà dân vẫn đói, vẫn rét thì độc lập, tự
do đó chẳng có ý nghĩa gì, dân chỉ biết giá trị của độc lập khi được ăn no, mặc ấm. Vì vậy, đấu tranh cho



dân tộc được độc lập, thân dân được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học lành là
hoài bão, là lý tưởng, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh.
- Về chủ nghĩa xã hội:
Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có quá trình phát triển lâu dài, những nội dung cụ
thể xác định chủ yếu như sau: Chủ nghĩa xã hội là một phong trào lịch sử mang tính chính trị - xã hội; chủ
nghĩa xã hội như là một lý tưởng tốt đẹp mà loài người sẽ đạt tới; là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân; là
một trong hai giai đoạn và là giai đoạn đầu của hình thái cộng sản chủ nghĩa; là một chế độ xã hội đối lập
hoàn toàn với chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh đã đưa ra một số định nghĩa về chủ nghĩa xã hội như sau:
Thứ nhất, xem chủ nghĩa xã hội như là một chế độ hoàn chỉnh: Làm cho nhân dân lao động thoát
nạn bần cùng, mọi người đều có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Mục tiêu là giải
phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội được xem xét từ một mặt nào đó như kinh tế, chính trị, văn hoá... Nhiệm
vụ quan trọng nhất là phát triển sản xuất.
Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta; “lấy nhà máy, e lửa, ngân hàng làm của chung. Ai làm
nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì Không ăn, tất nhiên trừ những người già cả, đau yếu
và trẻ em...”.
Thứ ba, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: không có người bóc lột người, ai cũng phải lao động, có
quyền lao động; thực hiện công bằng, bình đẳng... “là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”,
“là đoàn kết, vui khoẻ”...
Thứ tư, xác định động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải gắn với phát triển khoa học - kỹ thuật
“nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân”, do quần chúng nhân dân tự xây dựng nên
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tóm lại, Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ nghĩa xã hội trên các phương diện là một chế độ chính trị do
nhân dân lao động là chủ và làm chủ; là một chế độ có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển
của khoa học - kỹ thuật; không còn chế độ người bóc lột người; phát triển cao về văn hoá và đạo đức; có
quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước.
c) Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề đi tới chủ nghĩa xã hội. Khát vọng độc lập đã hun
đúc thành chủ nghĩa dân tộc chân chính, to lớn của dân tộc Việt Nam mà Hồ Chí Minh xem đó là động lực
lớn của đất nước. Sức mạnh của yếu tố dân tộc, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ là sức mạnh tự có
mà còn phụ thuộc một cách quyết định vào việc kết hợp với chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu hướng tới, cơ sở đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc. Theo Hồ Chí
Minh, sau khi giành được độc lập, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội
chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mới ngày
càng ấm no, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo cho độc lập dân
tộc được vững chắc, được thực thi trên thực tế. Đó là một nền độc lập thật sự, lâu dài. Nếu độc lập dân tộc
mà dân vẫn đói, vẫn rét thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và
xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam.
Quan điểm của Đảng: Thể hiện trong mục tiêu tổng quát trong văn kiện đại hội XII.
+ Thực tế vấn đề xây dựng CNXH hiện nay: Báo cáo chính trị tổng hợp 30 năm đổi mới (thành tự
về KTXH VH. Hạn chế: KT theo chiều rộng, thiếu sâu, không bền vững – bảo vệ mt, an sinh xã hội, vấn đề
thủy điện…
+ Nền độc lập dân tộc hiện nay ntn? Khó khăn, thách thức (Phân chia biên giới, hải đảo)
+ Trách nhiệm bản thân để xây dựng CNXH
+ Liên hệ bản thân: Chấp hành đường lối chủ trương; Kiên định lập trường; Tuyên truyền vận động.
Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), Đảng đã khẳng định đường lối giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam.
Trong suốt gần 90 năm qua, Đảng và nhân dân ta luôn kiên trì và thực hiện mục tiêu này. Nhờ vậy mà cách
mạng nước ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại.
Trung thành với mục tiêu và con đường mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lựa chọn, Đảng ta chủ động vận
dụng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể với những nhiệm vụ và phương pháp cụ thể. Cương lĩnh chính trị
tháng 10/1930 của Đảng nêu rõ: “Tiến hành cách mạng dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo,


tiến lên CNXH, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”. Chính cương Đảng Lao động Việt Nam được thông
qua tại Đại hội II của Đảng tháng 02/1951 cũng nêu: “Cách mạng Việt Nam hiện nay là cuộc cách mạng

dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới CNXH”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
(năm 1991) kết luận: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Đó là bài học xuyên suốt cách mạng
nước ta”(3). Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) một lần nữa khẳng định: “Đi lên CNXH là khát
vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Qua các kỳ Đại hội Đảng, bài học lớn, được đặt ở vị trí hàng đầu là bài học phải kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại
hội XII của Đảng đã phân tích bối cảnh, tình hình trong nước và quốc tế, từ đó chỉ rõ: “Tình hình thế giới
và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu
mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm, nỗ lực
phấn đấu mạnh mẽ hơn”(4). Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới”(2). Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng còn khẳng định: Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp và phát huy sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI đã chứng minh sự lựa
chọn của Đảng và nhân dân ta là hoàn toàn chính xác. Sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH của
Đảng và nhân dân ta là một tất yếu khách quan. Xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của
cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện
cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; xét về
mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam hôm nay và mai
sau. Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại. Độc lập dân tộc đòi
hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính
trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc phải do
quốc gia - dân tộc đó giải quyết, không có sự can thiệp từ bên ngoài.
Trong giai đoạn hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc của nhân dân các nước vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra rất phức tạp. Chủ nghĩa xã hội đứng trước nhiều khó
khăn, thử thách. Nhận thức sâu sắc những nguyên nhân và bài học sau các sự kiện chính trị xảy ra ở Liên

Xô và các nước Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên quyết khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII cũng đã nhận định rõ những biểu hiện suy thoái về tư
tưởng chính trị, trong đó chỉ rõ: Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo
những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái. Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và
học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường
lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.... Từ đó đề ra mục tiêu và giải pháp nhằm
thực hiện tốt công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn.
Nghị quyết nêu rõ, "Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò,
tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh"; Tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đẩy mạnh công
tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh nghiệm hay; khuyến khích phát
triển tư duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng".
Như vậy, độc lập dân tộc và CNXH, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh
hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son. Độc lập dân tộc gắn với CNXH là
sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới, là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua,
hôm nay và mai sau. Hệ giá trị độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu, lý tưởng phù hợp xu thế thời đại, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất của Nhà nước? Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay? Liên hệ bản thân?
Tư tưởng HCM về nhà nước bao gồm nhiều quan điểm, trong đó có ba quan điểm nổi bật đó là Nhà
nước của dân; Nhà nước do dân; và Nhà nước vì dân.
Quan điểm về Nhà nước của dân trong tư tưởng HCM thể hiện qua ba luận điểm sau. Thứ nhất, đó
là nhà nước của cả dân tộc, tiêu biểu cho khối đại đoàn kế toàn dân, tập hợp đội ngũ cán bộ, công chức có
đủ phẩm chất chính trị, đạo đức và tài năng tham gia vào công cuộc xây dựng nhà nước. Xây dựng một nhà
nước do nhân dân lao động làm chủ là tư tưởng nhất quán trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí

Minh. Nhà nước Việt Nam kiểu mới thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc trong đó công, nông là gốc và trí
thức ngày càng có vị trí quan trọng đặc biệt khi đất nước bước vào thời kỳ xây dựng. Tất cả mọi người dân
Việt Nam, không phân biệt gái trai, giàu nghèo, nòi giống, dân tộc, tôn giáo... đều là người chủ của Nhà
nước, có trách nhiệm xây dựng Nhà nước. Điều này được ghi trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa năm 1946 và sau đó tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp 1959. Điều thứ nhất Hiến
pháp 1946 ghi: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bình trong nước là của toàn
thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, tôn giáo’.
Luận điểm thứ hai đó là nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, dân là chủ; dân là người có
địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, dân tộc. Ngay từ những ngày
đầu mới thành lập, Hồ Chí Minh khẳng định: Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam. “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Nhà nước của dân tức là quyền hạn
trong tay dân và dân ủy quyền cho các đại biểu của mình kể cả chức vụ Chủ tịch nước. Điều 4 Hiến pháp
1959 ghi: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử
dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân”. “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra”! (Điều 20). Đây
là điều thuộc về quyền dân chủ đại diện. “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan
hệ đến vận mệnh quốc gia”2 (Điều 21). Nhân dân có quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thể hiện quyền tối cao của nhân dân. Khi nói về
chức vụ Chủ tịch nước khi mình đang đảm nhiệm. Hồ Chí Minh cho rằng “Bây giờ phải gánh chức Chủ
tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc
dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui”.
Luận điểm thứ ba về nhà nước của dân đó là CBCC là đầy tớ của nhân dân. HCM gọi người cầm
quyền, cán bộ công chức là những người đầy tớ, công bộc của dân. Đây là một trách nhiệm rất vẻ vang,
nhưng rất khó khăn và nặng nề. Muốn vậy thì người cầm quyền phải gần dân, sát dân, hiểu dân, thương
dân, tin dân và biết sử dụng sức mạnh nhân dân. Tác phong của người cầm quyền phải là óc nghĩ, mắt thấy,
tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Như vậy nhà nước của dân là xác định vị thế của dân - dân là chủ và
nghĩa vụ của dân - dân làm chủ. Người cũng nhiều lần nhắc nhở: Ở nước ta, từ HCM trở xuống là đầy tớ
của nhân dân; dân đặt đâu thì làm ở đó; Người là Chủ tịch nước cũng là nhận sự trao quyền, ủy thác của
nhân dân. Cán bộ là do dân bầu ra là để làm việc cho dân chứ không phải để cậy thế với dân, vác mặt làm
quan cách mạng, đè đầu cưỡi cổ dân. Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã

nêu bật sự khác nhau căn bản về chất giữa Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với các loại hình nhà
nước trước đó: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều
là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong
thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân,
ta phải hết sức tránh”.
Quan điểm thứ hai đó là nhà nước do dân. Quan điểm này cũng có ba luận điểm. Thứ nhất đây là
nhà nước do chính nhân dân tổ chức nên. Theo HCM thì Nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan nhà
nước từ TW đến địa phương thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bỏ phiếu kín
bầu các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan quyền lực nhà nước… Đồng thời nhân dân đóng góp sức
người, sức của, trí tuệ để xây dựng nhà nước. Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: “Dễ mười lần không dân
cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. "Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng
không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”. “Nước lấy dân làm gốc. Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu
thắng lợi trên nền nhân dân”. Nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử và thực hiện chế độ bãi miễn đối với đại
biểu; cơ quan nhà nước hoặc chính phủ nếu họ đi ngược lại với lợi ích của nhân dân.


Thứ hai, nhà nước do dân có nghĩa là nhân dân có quyền tham gia vào các công việc quản lý nhà
nước. Dân có quyền xây dựng nhà nước, góp ý kiến phê bình Chính phủ để Chính phủ phục vụ dân tốt hơn,
tham gia quản lý nhà nước như bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.
Thứ ba, nhà nước do dân phải thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình, lắng nghe ý dân,
làm công tác quản lý nhà nước sao cho tốt hơn. Nhà nước cần phải thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra’, để người dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước một cách thực sự. Như HCM đã từng
nói “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn chút công danh, phú quý nào. Bây giờ gánh chức Chủ tịch là vì đồng
bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt
trận. Bao giờ đồng bao cho tôi lui thì tôi rất vui lòng lui…”.
Quan điểm thứ ba đó là nhà nước vì dân. Quan điểm nhà nước vì dân của HCM cũng được thể hiện
thông qua ba luận điểm. Thứ nhất, đó là nhà nước phải làm lợi cho dân, làm lợi về dân chủ, dân trí và dân
sinh. Tất cả các hoạt động của nhà nước đều phải vì mục tiêu tối thượng đó là phục vụ lợi ích cho nhân
dân. HCM cho rằng một nhà nước mà lợi ích vì dân thì việc gì lợi cho dân - dù nhỏ mấy - cũng phải hết sức
làm; việc gì hại cho dân - dù nhỏ mấy- cũng phải hết sức tránh. Phải làm cho dân có ăn, làm cho dân có

mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Nhà nước vì dân thì mọi chính sách, chủ trương
của Nhà nước đều phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Luận điểm thứ hai đó là các CBCC và bộ máy nhà nước phải đặt lợi ích của dân lên hàng đầu. Nhà
nước vì dân thì từ Chủ tịch nước đến Bộ trưởng, Thứ trưởng và cán bộ công chức đều là đầy tớ trung thành
của nhân dân tức là phục vụ nhân dân một cách tốt nhất. Nhà nước cũng phải biết kết hợp, điều chỉnh các
loại lợi ích khác nhau giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn được mọi người dân
ủng hộ, xây dựng.
Luận điểm thứ ba về nhà nước vì dân đó là bộ máy nhà nước phải thực sự liên khiết, trong sạch,
tránh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi…Phải chống mọi tiêu cực trong bộ máy nhà nước như
tham ô, lãng phí, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, vô cảm, đùn đẩy trách nhiệm trước khó khăn của
dân.
Sự vận dụng của Đảng
Những năm gần đây, nhất là Đại hội XI, XII của Đảng với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã thẳng
thắn chỉ ra thực tế dân chủ chưa được phát huy đầy đủ, còn mang nặng hình thức. Có nơi dân chủ chỉ để
trang trí, trình diễn. Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển, quản lý đất nước. Cải cách
hành chính còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành chính còn phức tạp, phiền hà,
đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội, môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch,
hiệu quả cho sự phát triển. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chậm đổi mới; hiệu quả, hiệu
lực ở nhiều nơi chưa cao. Trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy định rõ ràng. Việc
triển khai một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan sai, bỏ
lọt tội phạm. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra; tham nhũng, lãng phí
vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc
trong xã hội. Cách làm việc quan liêu đang dẫn tới một thực tế của nền hành chính như báo chí đã nói tới
nhiều: “hành dân là chính”. Vì vậy, để có một nhà nước pháp quyền thật sự trong sạch, vững mạnh, hiệu
quả, thật sự của dân, do dân, vì dân, hoạt động theo Hiến pháp, pháp luật và ý nguyện của dân, cần phải
phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thật sự tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; cải cách bộ máy hành chính, xây
dựng một nền hành chính dân chủ.
Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo

đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân
tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến
lợi ích, cuộc sống của nhân dân”. Chỉ có thực hiện dân chủ thực sự cho dân, nâng cao địa vị, quyền hành và
năng lực làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước dân, trọng dân, học dân, hiểu dân, hỏi dân, bàn bạc
và giải thích cho dân thì Chính phủ mới được dân tin, dân phục, dân yêu. Nếu không thế mà cứ hành động
theo kiểu làm bằng được, bất chấp lòng dân, ý dân thì dân oán. Mà “dân oán, dù tạm thời may có chút
thành công, nhưng về mặt chính trị là thất bại”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Nước lấy dân làm gốc”.
Theo đó, Chính phủ phải: “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”. Chính phủ phải thật sự là công


bộc của dân, dựa vào trí tuệ và lực lượng của dân, giữ chặt mối liên hệ với dân và luôn luôn lắng nghe ý
kiến của dân, đó là nền tảng lực lượng của Chính phủ. “Cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân
chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, chúng ta
cần chú ý giải quyết các vấn đề sau:
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch: Trong điều kiện hiện
nay, trước xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, chúng ta phải phát huy cao độ nội lực của dân tộc. Trong đó,
cần phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân trong mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và
xã hội. Điều đó được thể hiện như sau: Thứ nhất, cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, xây
dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, đủ khả năng
hiện thực hóa đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trong cuộc sống. Thứ
hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, gắn việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng với cải cách
bộ máy hành chính. Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa do nhân dân lao động làm chủ thì
mới có điều kiện đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Muốn phát huy quyền làm chủ của nhân
dân cần phải: Thứ nhất, xây dựng và đảm bảo một cơ chế làm chủ, nghĩa là tạo ra các điều kiện cần thiết để

nhân dân là lực lượng chủ yếu vận hành mọi hoạt động trong xã hội. Điều đó đòi hỏi phải xây dựng một
Hiến pháp thích hợp với sự phát triển của chế độ dân chủ, phải có pháp luật thật sự dân chủ, phải có bộ
máy chính quyền tinh gọn, nhạy bén với những con người có trình độ, có phẩm chất đạo đức tốt. Thứ hai,
nhân dân lao động phải là những người làm chủ xã hội. Cần tuyên truyền, giáo dục để nâng cao trình độ và
ý thức làm chủ của nhân dân. Mỗi người dân Việt Nam cần thấm nhuần lời dạy của Bác: “Mọi người Việt
Nam phải biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để tham gia vào công việc
xây dựng nước nhà”. Bên cạnh đó còn phải kiên quyết và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu,
tham nhũng trong bộ máy nhà nước, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn còn
nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng và tiếp sức cho quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong tiến
trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền
vững của đất nước trong thời kỳ mới. Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay chỉ có thể thực hiện thành công trên cơ sở nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ
nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước chuyên chính vô sản, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Đồng thời, chúng ta cần phải quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sự vận dụng của địa phương/cơ quan/bản thân

4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc? Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng và củng cố khối đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta hiện nay? Liên hệ bản thân?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được hình thành
trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa
nhân loại, đặc biệt là đã vận dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình và
điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm, nguyên tắc,
phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức cách mạng và tiến bộ, nhằm phát huy đến mức cao nhất sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội. Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng có 4 nội dung chủ yếu,
gồm: vị trí, vai trò của đại đoàn kết trong sự nghiệp cách mạng; cơ sở, căn cứ của đại đoàn kết dân tộc;
Phương pháp đoàn kết; và nguyên tắc tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc.
Về vị trí và tầm quan trọng của đoàn kết dân tộc theo quan điểm HCM thì có 3 luận điểm. Thứ
nhất, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng. HCM rất coi trọng đại
đoàn kết, Người dành rất nhiều bài viết xoay quanh vấn đề về đoàn kết, có nhiều cụm từ viết về đoàn kết


(tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc” nhắc tới 16 lằn từ đoàn kết, bài phát biểu tại Đại hội thống nhất mặt trận
Việt Minh liên việt -1951 nhắc tới 17 lần cụm từ đoàn kết, diễn văn kỉ niệm 12 năm Quốc Khánh Bác nhắc
tới 12 lần). Trong từng thời kì của cách mạng, có thể phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp
lưc lượng cho phù hợp với từng đổi tượng, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải là vấn đề sống còn của cách
mạng. Hô Chí Minh đã nêu: “Đại đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi, đoàn kết là then chốt của
thành công”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”, “Đoàn kết là
điểm mẹ điểm này mà thực hiện tốt đẻ ra con cháu đều tốt”. HCM đi đén kết luận: muốn được giải phóng,
các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lây mình bằng đáu tranh cách mạng, bằng
cách mạng vô sản.
Thứ hai, đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng, là mục tiêu, làm
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được quán triệt trong mọi đưòng lối,
chính sách của Đảng là lực lượng lãnh đạo duỵ nhất của cách mạng VN. Trong buổi ra mắt của Đảng Lao
Động Việt Nam năm 1951, HCM nêu ra mục đích của Đảng Lao Động VN gồm 8 chữ: “đoàn kết dân tộc,
phụng sự tổ quốc”. Trước cách mạng Tháng 8 và trong kháng chiến nhiệm vụ của tuyên huấn là làm sao
cho đồng bào hiểu được mấy điều: một là đoàn kết, hai là cách mạng đòi độc lập. Sau kháng chiên Bác lại
nêu nhiệm vụ của tuyên huấn là để dân hiểu: một là đoàn kết, hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội, ba là đấu
tranh thống nhất nước nhà. Như vậy, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực lượng cách
mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hang đầu của cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc là một chính sách chứ
không thể là một thù đoạn chính trị. Người chỉ rõ: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một
thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để
xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết
với họ”. Đảng phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát

quần chúng thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch. HCM quan niệm yêu nước thì phải thương
dân, không thương dân thì không có tinh thần yêu nước.
Tại sao Đế quốc Pháp có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại lại phải thua một
Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là vì đồng bào Việt Nam đã đoàn kết. Chính
sức mạnh của lực lượng toàn dân đoàn kết làm nên thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám. Như Chủ tịch Hồ
Chí Minh phân tích: “Vì sao có cuộc thắng lợi đó? Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất
là vì lực lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi
dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại
hơn hết. Không ai thắng được lực lượng đó”. Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Sử dạy cho
ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào
dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Và Người khuyên dân ta rằng: “Dân ta xin nhớ chữ
đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”. Đây chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự do.
Thứ ba, xây dựng khối đại đoàn kết là khoa học và nghệ thuật xử lý các mối quan hệ (chủ yếu là sự
đồng thuận về lợi ích) nhằm tạo ra sức mạnh cho lực lượng cách mạng toàn dân.
Về cơ sở, căn cứ của đại đoàn kết: Cơ sở của đoàn kết là phải vì lợi ích chung, phải cùng nhìn về
một hướng. Đối với đoàn kết trong nước thì phải phấn đấu vì một nước VN hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh. Đối với đoàn kết quốc tế thì phải phấn đấu vì những mục tiêu chung của nhân loại,
của thời đại là hòa bình, hợp tác hữu nghị, bình đẳng, bác ái, tiến bộ xã hội.
Tư tưởng HCM về phương pháp đại đoàn kết có 2 luận điểm. Thứ nhất lực lượng của khối đại đoàn
kết dân tộc là toàn dân trong đó lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức làm nền tảng. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, không phân biệt dân tộc,
tín ngưỡng... phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nói
rõ: “ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước
nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết của
dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh
công nông, trí thức. Người cho rằng: liên minh công nông- lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn
kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không e
ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc. Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc phải
biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặt

trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc: Trên nền tảng liên minh công nông
dưới sự lãnh đạo của Đảng; Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất


lợi ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng; Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ,
đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các
tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” – Lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế
cái riêng, cái khác biệt. Người nhấn mạnh: “Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có
vững, nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi. Trong chính sách đoàn kết phải chống hai khuynh
hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc”.
Nguyên tắc đại đoàn kết: Theo quan điểm HCM, đại đoàn kết dựa trên những nguyên tắc cơ bản
sau:
Thứ nhất, đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi
ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người. Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân
tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ
đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên
tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó
trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình.
Thứ hai, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân: Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư
tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được Người kế thừa và nâng lên một bước trên cơ sở quan điểm của
chủ nghĩa mác-Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Tin
vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững chắc vào sức mạnh to lớn và năng
lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai trò của lực lượng nhân dân. Người viết: “Có lực lượng
dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân
chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những
đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”.
Thứ ba, đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng rãi, lâu dài, bền
vững: Theo Hồ Chí Minh, có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng. Muốn đoàn kết thì trước hết
phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân chúng, ngoài thì liên minh với các dân tộc bị
áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Như vậy, để đoàn kết và lãnh đạo cách mạng, điều kiện tiên quyết là

phải có một Đảng cách mạng với tính cách là Bộ tham mưu, là hạt nhân để tập hợp quần chúng trong nước
và tổ chức, giữ mối liên hệ với bè bạn ở ngoài nước. Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền
vững của các lực lượng xã hội có định hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt mang tính
nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực
lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực và trên thế giới.
Đi vào quần chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần chúng vào cuộc đấu tranh tự giải phóng mình là
mục tiêu nhất quán của Hồ Chí Minh.
Thứ tư, đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê bình, phê bình vì sự
thống nhất bền vững: Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng
còn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con đường đối thoại, bàn bạc để đi đến sự nhất trí;
bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những tiêu cực cần phải khắc phục. Người nêu rõ: Đoàn kết phải
gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đoàn
kết xuôi chiều, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục những mặt chưa
tốt, củng cố đoàn kết: “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí.
Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt của nhau, phê bình những cái
sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.
Thứ năm, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước chân chính
phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân: Ngay khi thành người cộng sản, Hồ
Chí Minh đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có thể giành
được thắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Trong quá trình
cách mạng, tư tưởng cuả Người về vấn đề đoàn kết với cách mạng thế giới càng được làm sáng tỏ hơn và
đầy đủ hơn. Cách mạng Việt Nam phải gắn với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, với các nước xã
hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng tiến bộ đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và hoà bình thế giới. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công 3 tầng Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết
Việt-Miên-Lào và Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đây là sự phát triển rực rỡ và là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết.


Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công,

đại thành công. Đoàn kết trong Đảng là cơ sở để đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở để
thực hiện đại đoàn kết quốc tế. Tư tưởng Đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thực hiện thành
công là một nhân tố quyết định cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn và đưa
cách mạng Việt Nam lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thấm nhuần, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc tại Đại hội
XII của Đảng
Thực trạng
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã thu được những thành tựu cơ bản. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ được
ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện.
Vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và lực của đất nước ta mạnh lên
rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ
ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững.
Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay những khó khăn lớn trên
con đường phát triển của đất nước. Ví như nạn tham nhũng, tệ quan liêu cũng như sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang cản trở việc thực hiện
có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và làm giảm niềm tin
trong nhân dân. Các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”,
chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Mặt khác, các thế
lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lợi dụng các vấn đề “nhân quyền”, “dân tộc”,
“tôn giáo” hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” đang đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân
tộc ở chiều sâu. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
Vận dụng
Đại hội XII của Đảng khẳng định: đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để phát huy sức mạnh đại đoàn

kết dân tộc, Đại hội XII đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên
nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát
huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy
mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với
lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan
dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa
nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc.
Với sự khẳng định này, Đảng Cộng sản Việt Nam càng làm sáng rõ hơn quan điểm “cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ phong trào
đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và hợp
tác. Đảng Cộng sản Việt Nam nhận rõ sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, lãnh đạo quần chúng,
chuyển những nhu cầu, đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện
thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết dân tộc; tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc
lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
Đại đoàn kết dân tộc chỉ có thể thực hiện được khi giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành
viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều
được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Để thực hiện nhiệm vụ trên, Đại hội XII đưa ra những
phương hướng, nhiệm vụ cụ thể nhằm xây dựng, phát triển các giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí
thức cũng như đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ;
nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; có cơ chế, chính sách tạo điều kiện,
đồng thời động viên cựu chiến binh tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và


chế độ; quan tâm chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện để người cao tuổi hưởng thụ văn hóa, tiếp cận thông tin,
sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc…
Đoàn kết dân tộc không chỉ có chính sách phù hợp đối với các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xã
hội mà cần có những chính sách để phát huy sự bình đẳng giữa các dân tộc, dân cư ở các vùng, miền trên
cả nước. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể nước ta, Đại hội XII chỉ rõ: “Tiếp

tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài
hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển…”.
Đối với tôn giáo, để các tôn giáo đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại
hội XII chủ trương: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá
trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt
theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật;
chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với các hành vi lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái pháp luật.
Đối với kiều bào Việt Nam sinh sống ở nước ngoài, Đảng chỉ rõ: Nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính
sách để hỗ trợ giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng
cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các
quyền, lợi ích chính đáng; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; có cơ
chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Có thể nói, với những quan điểm trên, Đại hội XII của Đảng thể hiện sự thấm nhuần, vận dụng sáng
tạo, cụ thể hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước trong giai đoạn hiện nay. Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc có tính đến tất
cả các lực lượng, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Đó là chiến lược đại
đoàn kết toàn dân tộc, nếu được triển khai thực hiện có hiệu quả, sẽ là động lực, là nguồn lực và là cơ sở
quan trọng cho sự phát triển của dân tộc ta trong thời gian tới. Điều này càng chứng tỏ hơn nữa sức sống
trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và quan điểm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc nói riêng
của Người đối với sự nghiệp cách mạng nước ta
Mấy giải pháp tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
Trước hết, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để các cấp, ngành, lực lượng nhận thức sâu sắc về sự cần
thiết phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và tiếp tục thể chế hóa các quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu đối với việc tăng cường, củng cố, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; kết hợp hài hòa lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội.
Bốn là, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối

đại đoàn kết toàn dân tộc.
Năm là, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân tộc.
Liên hệ bản thân
Đoàn kết là bài học hàng đầu và có tính chiến lược, quyết định mọi thành công. Biết đoàn kết thì
vượt qua khó khăn, thử thách, không đoàn kết, chia rẽ là thất bại. Đoàn kết phải có nguyên tắc, vì mục tiêu
và lợi ích chung. Không đoàn kết một chiều, đoàn kết hình thức, nhất thời. Đoàn kết trong tổ chức, thông
qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn kết cá nhân và đoàn kết tổ chức không tách rời nhau. Đoàn kết phải
có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ chức, từng thời kỳ. Đoàn kết trong chính sách tập hợp
các tầng lớp nhân dân. Đoàn kết đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai.
Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện pháp phát huy sức mạnh của đảng, của
toàn dân tộc. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải thực sự đoàn kết trong Đảng. Thực hiện đồng
bộ đoàn kết trong Đảng – Đoàn kết toàn dân – Đoàn kết quốc tế. Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính
sách của đảng và nhà nước trên cơ sở bảo vệ và tôn trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia,
dân tộc, quốc tế.
Tóm lại, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực
lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở
lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của tổ
quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi


đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện
nay. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên
trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
5. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ- công tác cán bộ? Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam? Liên hệ bản thân?
Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia thành lập ĐCS Pháp năm 1920; là người sáng lập
ĐCS Việt Nam đầu năm 1930; là cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh là lãnh tụ
của ĐCS Việt Nam, suốt cả cuộc đời chăm lo lãnh đạo, rèn luyện Đảng, đồng thời là một chiến sĩ kiên

cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ để
có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Cán bộ hiểu theo tư tưởng HCM là:
Vị trí:
Về vị trí của cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là giây chuyền của bộ máy Đảng, Nhà nước,
đoàn thể nhân dân, “là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng
hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để
đặt chính sách cho đúng”. Như vậy, cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng lãnh
đạo. Trong mối quan hệ với nhân dân thì cán bộ là những công bộc, là người phục vụ là đầy tớ của nhân
dân.
Vai trò:
Về vai trò của cán bộ: Thứ nhất, Hồ Chí Minh khẳng định rằng cán bộ là cái gốc của mọi công việc;
muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay kém. Với ý nghĩa như vậy, chúng ta có thể hiểu
rằng, cán bộ là lực lượng tinh tuý nhất của xã hội, có vị trí vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có
vai trò cực kỳ quan trọng của hệ thống chính trị nước ta. Thứ hai “cán bộ là tiền vốn của Đoàn thể. Có vốn
mới là ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức có lãi. Không có cán bộ
tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”.
Yêu cầu:
Yêu cầu đối với cán bộ: Đạo đức; năng lực; và rèn luyện phong cách
Có 5 yêu cầu đối với đạo đức của người cán bộ. Những yêu cầu về đạo đức theo tư tưởng của HCM
là không có gì mới so với truyền thống lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc, tuy nhiên HCM đã mượn khái
niệm cũ để đưa vào nội hàm mới, mang tính thời đại.
Thứ nhất là trung với nước, hiếu với dân. Theo cách hiểu xưa cũ thì trung đây là trung quân, ái
quốc. Nghĩa là nhất mực trung thành với vua nghĩa là yêu nước. Hiếu nghĩa là hiếu với ông bà, cha mẹ, anh
em, họ hàng…Tuy nhiên HCM đã đưa khái niệm này lên tầm cao mới, trung được hiểu là trung thành với
sự nghiệp cách mạng của Đảng, nghiêm chỉnh chấp hành các đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước. Hiếu theo HCM phải là tôn trọng nhân dân, yêu thương dân, kính trọng, tin tưởng nhân dân.
Phạm trù về trung và hiếu của HCM rộng hơn.

Thứ hai là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Cần theo HCM không chỉ là chịu khó, kiên trì,
nhẫn nại mà còn phải là làm việc có kế hoạch, tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng, mọi việc đều phải tính
đến các phương án có thể xảy ra, phải luôn chăm chỉ, cố gắng phát triển suốt đời. Kiệm là phải thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí. Cần và kiệm phải song hành cùng nhau. Tuy nhiên tiết kiệm không có nghĩa là
bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm,
việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng. Liêm là
trong sạch, không tham lam. Chữ liêm phải đi với kiệm, có kiệm mới có liêm. Người cán bộ liêm là không
tham tiền của, địa vị, danh tiếng, ăn ngon, sống yên, không được cậy quyền thế mà tư lợi, làm điều bất lợi
cho người khác. Chính nghĩa là là thẳng thắng, đứng đắn. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Cần, kiệm,
liêm, chính là bốn đức tính cần có của con người, như bốn mùa của đất trời, bốn phương của đất. Nó là
thước đo chất người của mỗi người, vì “thiếu một đức thì không thành người”. Nó còn là thước đo trình độ
văn minh, tiến bộ của một dân tộc “một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất,
mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Chí công vô tư là khi làm bất cứ việc gì đừng nghĩ
đến mình trước, khi hưởng thụ thỉ mình nên đi sau, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; là lòng mình chi
biết vì Đảng, vì Tố quốc, vì đồng bào. Thực hành chí công vô tư gắn liền với chống và quét sạch chủ nghĩa


cá nhân. Chú nghĩa cá nhân là “chỉ lo mình béo mặc thiên hạ gầy”; là việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng
của mình trước hết; là chỉbiết “mọi người vì mình” mà không lo “mình vì mọi người”. Chủ nghĩa cá nhân
còn là mối nguy hại cho Đảng và cà dân tộc: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là
vĩ đại, có sức hắp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi,
nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Thứ ba là thương yêu con người, sống có tình có nghĩa: Hô Chi Minh luôn đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân, biến thành hành động cụ thể, tức là tình thương yêu con người dành cho con
người đang sống thực trên đời này, bị áp bức, đòi nghèo, bệnh tật. Cán bộ phải là những người làm việc
chính, chứ không phải tà. Tình thương yêu con người của Hồ Chỉ Minh là một biểu hiện sáng ngời của việc
thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo Người, hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau cho có
tình có nghía. Đó là một tình thương yêu không chỉ trong phạm vi dân tộc mà cả phạm vi nhân loại.
Thứ tư là tinh thần quốc tế trong sáng: Tinh thản quốc tế là một phẩm chất đạo đức bắt nguồn từ
bần chất của giai cấp công nhân và chế độ xà hội chủ nghĩa. Hồ Chi Minh luôn tôn trọng, quan tâm đen các

dân tộc. Người đặt sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam trong quỹ dạo của cách mạng thế giới; coi
thắng lợi của nhân dân Việt Nam cũng là thắng lợi chung của nhân dân tiến bộ thế giới, thắng lợi của bạn
cũng là thắng lợi của mình. Người không chi giáo dục tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung mà còn là
hiện thân cùa tinh thần quốc tế, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chỉnh và chủ nghĩa quốc tí vô sản. Hồ
Chí Minh lên án và đấu tranh chống chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng, phân biệt chủng tộc; đoàn kết với các
lực lượng cách mạng và tiến bộ khắp thế giới. Người gắn mục tiêu đấu tranh của nhân dân Việt Nam với
mục tiêu chung của nhân loại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Những nguyên tắc xây dụng đạo đức của cán bộ:
Phái tu dưỡng đạo đức suốt đời: Hồ Chí Minh chi rõ: “Đạo đức cách mạng không phái trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và cũng cố. Cũng như ngọc cảng mài
cáng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Không vượt qua được chính mình, không chiến thắng được giặc
trong lòng thi không thể có đạo đức cách mạng. Hồ Chi Minh viết: “Tư tưởng cộng sản vói tư tưởng cá
nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phái chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm
sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có dược. Còn tư tưởng cá nhân thì
cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”.
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về dạo đức: Nêu gương đạo đức, nói thì phải làm. Đạo làm
gương là một nét đẹp của văn hóa phương Dông. Theo quan điếm Hổ Chi Minh, lý luận phải gắn với thực
tiễn nhưng điều quan trọng nhất về mặt đạo đức là lấy hiệu quả làm thước đo. Người chi rõ: trước mặt quần
chúng, không phái ta cữ vẽ lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách đạo đức. Cán bộ phải “đảng viên đi trước, làng nước theo sau". Trong mọi biểu
hiện làm gương thì người đứng đầu, cán bộ chủ chốt giữ một vai trò rất quan trọng, phải làm mực thước
cho người ta bắt chước.
Xây đi đôi với chống: Xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, chống những biểu hiện xấu
xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới, muốn "diệt cỏ dại phải trồng nhiều hoa", "Chống tham ô, lãng
phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư
tưởng và chính trị". Muốn chống tham ô, lãng phí, quan liêu thì phải dân chủ, phê bình và tự phê bình, làm
cho mọi người biết tự phê bình mình và dám phê bình người. Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết "chống"
tham ô, lãng phí, quan liêu. Người nói: "Nếu chính mình tham ô bảo người ta liêm khiết có được không?
Không được. Mình trước hết phải siêng năng, trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch được. Phải thấy
kẻ địch trong mình ta nó mạnh lắm. Nó vô hình, vô ảnh, không dàn ra thành trận, luôn luôn lấn lút trong

mình ta. Nó khó thấy, khó biết, nên khó tránh. Nhưng đã biết thì kiên quyết làm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
chú trọng đến việc xử lý các hành vi tham ô, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký bản án tử hình đại tá Trần Dụ
Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu vì đã tham ô tài sản.
Trong cuộc đầu tranh cách mạng, chúng ta thường xuyên phải chống lại ba kẻ địch: bọn đế quốc là
kẻ địch rất nguy hiểm; thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá
nhân. Vi vậy, quan trọng nhất là đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình. Chống và xây đi liền với nhau.
Lấy gương người tốt, việc tốt hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng
Đàng, xây dựng các tồ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Trong mối quan hộ giữa
chống và xây, cần nhận thức chống cũng nhằm xây, đi liền vối xây nhưng xây là nhiệm vụ chủ yếu và lâu
dài.
Yêu cầu cùa Hồ Chi Minh về năng lực của người cán bộ


Trên nền tàng đạo đức là gốc, người cán bộ phái có năng lực lỉnh đạo và tổ chức thực hiện đường
lối, chù trương, chính sách cùa Đảng và Chính phủ. Thực chất đỏ là năng lực tổ chức và động viên quần
chúng thực hiện chính sách của Đảng và Chính phủ. Năng lực lãnh đạo cũa người cán bộ, xét đến cùng, là
năng lực phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích vật chất và tinh thần tốt nhất cho nhân dân. Muốn như vậy thi
người cán bộ phải có năng lực học dân chúng, hỏi dân chúng, hiểu dân chúng. Bời vì “Không học hỏi dân
thì không lãnh dạo dược dâ”. Theo Hồ Chi Minh, "dân chúng biết giải quyết nhiều vấn dề một cách giản
đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thề to lớn, nghĩ mãi không ra”.
Trên nền tảng phẩm chất đạo đức, trí tuệ, trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực của cán
bộ thể hiện ở bản lĩnh và phương pháp, phong cách lãnh đạo dược biểu hiền cụ thể ở thực hành. Năng lực
lãnh đạo thể hiện ở lãnh đạo đúng, đó là:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh
nghiệm của dân chúng. Vi dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được.
Toàn bộ di sản Hồ Chi Minh cho thấy điều cán cốt về năng lực của người cán bộ không nằm ở lý
luận mà nằm ở thực tiễn; phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Việc gì cũng phải học hỏi và
bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng. Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo

luận và tìm cách giải quyết. “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghi sửa chữa.
Dựa vào ý kiến của dân chúng mới sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”. Chúng ta tuyệt đối không nên theo
đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh
đạo quần chúng.
Như vậy đạo đức và năng lực của cán bộ ở tư tưởng HCM có mối quan hệ biện chứng với nhau,
một người cán bộ tốt phải cần có đạo đức và năng lực, trong đó đạo đức là nền tảng.
Quan điểm Hồ Chí Minh về phong cách của cân bộ
Người cán bộ tu dưỡng, rèn luyện theo phong cách HCM
Rèn luyện phong cách tư duy: Có tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo. Độc lập là không lệ thuộc,
không phụ thuộc, không bắt chước, không theo đuôi. Tự chủ là làm chủ suy nghĩ của mình, làm chủ bản
thân và công việc của mình, tự mình thấy trách nhiệm trước nhân dân. Sáng tạo là sẵn sàng từ bỏ những cái
cũ xấu xa, lạc hậu, lỗi thời; tìm tòi cái mới phù hợp với quy luật khách quan, trả lời dược những câu hỏi
của thực tiễn đặt ra. “Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gi cũ mà xấu,
thì phái bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý, cái gì củ mà tốt, thì
phải phát triển thêm... ".
Tư duy phải xuất phát từ thực tế, phừ hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể. Phải mở rộng tư duy,
nghiên cứu mọi tư tưởng, học thuyết. Một dường lối, chính sách đúng chỉ có thể có được khi xuất phát từ
thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan, đáp ứng được khát vọng của lòng dân và phù hợp với xu thế của
thời đại.
Rèn luyện phong cảch diễn đạt: Diễn đạt thể hiện ở nói và viết. Hiện nay, cán bộ, đang viên cần
phải học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh về cách diễn đạt trên những khía cạnh chủ yếu sau:
Phải xác định rỗ chủ đề, đối tượng, mục đích cùa việc nói vả viết, từ đó tim ra cách nói, cách viết
phù hợp với đối tượng, rõ chủ đề và đạt mục đich đề ra.
Viết và nói phải chân thực, không nên nói ẩu, không dược bịa ra.
Viết, nói ngắn gọn không có nghía là cụt, mà phải có đầu, có đuôi, có nội dung, thiết thực, thắm
thìa, chắc chắn.
Diễn dạt phải trong sáng, giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm. Tuyên truyền quần chúng là phải học
cách nói cúa quần chúng theo tinh thần câu tục ngữ “học ăn, học nói, học gói, học mở".
Rèn luyện phong cách làm việc: Tác phong quần chúng. Cán bộ, Đảng viên tu dường rèn luyện theo
phong cách quần chúng của HCM: Thứ nhất, phải đặt lợi ích cùa quần chúng nhân dân lên trên hết. Thứ

hai, liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Thứ ba, việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ.
Thứ tư, có khuyết điểm thì thật thả tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình.
Thứ năm, sẵn sàng học hỏi nhân dân. Thứ sáu, chống bệnh quan liêu.
Tác phong tập thể - dân chủ: Thứ nhất, phát huy sức mạnh trí tuệ của tập thể. Thứ hai, mở rộng dân
chủ trong sinh hoạt Đảng. Thứ ba, nhận trách nhiệm cá nhân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và tuyệt
đối tuân thủ nguyên tắc lập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.


Tác phong khoa học: Làm việc cần phải đi sâu, đi sát, điều tra nghiên cứu, nắm người, nắm việc,
nắm tình hình cụ thể. Phải nắm thông tin và xử lý thông tin một cách khoa học. Phải khách quan, tỉnh táo,
có cách kiểm tra và thường xuyên chú ý rút kinh nghiệm.
Rèn luyện phong cách ứng xử: Mỗi cán bộ, đảng viên phải chú ý ứng xử với các đối tượng khác
nhau, trước hết và quan trọng nhất là với các tầng lớp nhân dân. Noi theo tấm gương Hồ Chí Minh, mỗi cán
bộ, Đảng viên phải tu dưỡng, rèn luyện phong cách trong sinh hoạt lừ cái ăn, cái mặc đến sử dụng trang
thiết bị vật dụng cho sinh hoạt hàng ngày trong đi lại, ở phòng làm việc, ở đây đòi hòi một sự trọn vẹn và
toàn vẹn đến tận cuối đời.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề cán bộ là một vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp. Nói đến vấn đề cán bộ
bao gồm cả cán bộ và công tác cần bộ. Khi bàn về cán bộ Người khẳng định cán bộ là chủ thể, còn khi bàn
về công lác cán bộ Người nhận định cân bộ lúc này là khách thể, tức là những người chiu đựng cải kết qua
của những người lam công tác cán bộ. Cách mạng có phát triển hay không phụ thuộc rất lớn vào công tác
cản bộ. Trong thực tế nhiều khi cán bộ rèn luyện tốt, đủ đức, đủ tải, tận tụy, hết lòng, hết sức phục vụ Đảng,
phục vụ nhân dân nhưng công tác cản bộ không tốt sẽ không phát huy được năng lực của cán bộ. Kết quả
Đảng mất nhân tài, mất cán bộ.
Hiểu và đánh giá đúng cán bộ
Đây là khâu quan trọng hàng đầu, quyết định sự thành bại của công tác cán bộ theo quan điểm
HCM. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, muốn biết cán bộ trước hết phải biết mình, mà biết mình không phải
là dễ “Đã không tự biết mình thì khó mà biết người, vì vậy muốn biết đúng sự phải trái ở người ta, thì trước
phải biếtt đúng sự phải trái của mình. Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ người
cán bộ tốt hay xấu’’.

Bác lưu ý một số điểm khi đánh giá cán bộ. Thứ nhất là phải khách quan, khoa học, không chấp
nhất, “trong thế giới, cái gì cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng biến hóa. Vì vậy cách xem xét cán bộ,
quyết không nên chấp nhất, vi nó cung phái biến hóa”. Quá khứ, hiện tại và tương lai không phải lúc nào
cũng giống nhau. Đánh giá cán bộ không được cảm tính, chủ quan, tự cao tự đại, ưa người nịnh mình, do
lòng yêu ghét của mình đối với người được đánh giá, đem một khuôn khổ nhất định mà áp vào những
người khác nhau. Phải đặt mình vào vị trí của cán bộ.
Thứ hai phải đánh giá đúng tính chất, phải đánh giá cả quá trính, mang tính lịch sử chứ không phải
tại một thời điểm nhất định. Việc làm này sẽ ta tránh được sự lầm lẫn giữa cán bộ tốt và cán bộ xấu, tránh
được loại người cơ hội, bằng cách này cách khác, chui vào hàng ngũ của Đảng. Tuy nhiên không được
chấp nhất, không lấy quá khứ áp cho hiện tại, suy diễn cho tương lại.
Thứ ba là phải đánh giá toàn diện: Giúp ta phân biệt được cán bộ làm được việc và cán bộ tốt. “Ai
hay khoe công việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh
lệnh, hay công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người nhu thế tuy là làm được việc cũng
không phải cán bộ tốt. Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che
giấu khuyết điểm của mình, không ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh
lệnh của Đảng, vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người như the, dù công tác
kém một chút cũng là cán bộ tốt".
Thứ tư là việc xem xét, đinh giá cán bộ phải làm thường xuyên. Việc này để giúp phát hiện sớm
những khiếm khuyết của cán bộ để kịp thời sửa chữa. Tại Đại hội XII nêu rõ: Công tác cán bộ có 8 khâu,
trong đó khâu đánh giá cán bộ là khâu yếu nhất, nặng chủ quan, hình thức.
Khéo dùng cán bộ
Đây là yêu cầu đặt đúng người đúng việc, “dụng nhân như dụng mộc”. Người thợ khéo thi gỗ to,
nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được.
HCM chỉ ra những căn bệnh lúc dùng cán bộ: 1) Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu
bạn, cho họ là chín chắn hơn người ngoài; 2) Ham dùng những kẽ khéo nịnh hót mình, ghét người chính
trực; 3) Ham dùng những người tính tình họp vói mình, mà tránh những người tính tình không hợp với
mình.
Quan diêm cùa Hồ Chi Minh về dùng cán bộ đúng là: Phải có độ lượng vĩ đại, không cố thành kính
với cán bộ;
Phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gũi những người mình không ưa; Phải có tính chịu

khó dạy bảo để nâng đỡ những cán bộ kém; Phải sáng suốt để khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán
bộ tốt; Phải có thái độ vui vẻ, thân mật đế cán bộ gần gùi mình.


Mục đích khéo dùng cán bộ là để cán bộ làm được việc, để thực hành tốt chinh sách của Đảng và
Chính phú. Muốn vậy phải làm tốt những việc sau đây: Khiến cho cán bộ có gan nói, có gan đề ra ý kiến.
Nếu cán bộ không nói năng, không đề ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện
tượng rất xấu; Khiến cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc “..đào tạo một mớ cán bộ phụ trách, có
gan làm việc, ham làm việc. Có thế Đảng mới thành công…”; Không nên tự tôn, tự đại, mà phải nghe, phải
hỏi ý kiến cua cấp dưới. Nếu ý kiến của cấp dưới đúng, ta phải nghe theo. Nếu không đúng, ta dùng thái độ
thân thiết giải thích cho họ hiểu, không nên phừng mang, trợn mắt, quở trách, giễu cợt họ; Khéo dùng cán
bộ còn liên quan đến việc “phải có gan cất nhắc cán bộ". Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: cất nhắc cán bộ không
nên làm như “giã gạo”. Một cán bộ bị nhấc lên nhắc xuống ba lần là hỏng cả đời. Người lãnh đạo cần phải
tôn trọng lòng tự tin, tự trọng của các đồng chí mình.
Huấn luyện cán bộ
Theo Hồ Chí Minh, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. HỒ Chí Minh phê bình khuyết
điểm trong công tác huấn luyện cán bộ còn “hữu danh vô thực, làm chi cốt nhiều mà không thiết thực chu
đáo”.
Để thiết thực chu đáo trong công việc huấn luyện. Phải trả lời được những câu hỏi sau: Huấn luyện
ai? Ai huấn luyện? Huấn luyện gì? Huấn luyện thế nào; Tài liệu huấn luyện. Phải tránh hai việc là mở lớp
quá đông và mở trường lung tung.
Thứ hai, phải nâng cao và hướng dần việc tự học. Hồ Chí Minh chỉ rõ: học tập ở trường của đoàn
thể phải biết tự động học tập. Phải hiểu “Học để làm gì: (a) Học để tu dưỡng tư tưởng; (b) Học để tu dưỡng
đạo đức cách mạng; (c) Học để tin tưởng; (d) Học để hành. Học ở đâu? Học ở trường, học ở sách vở, học
lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn.
Vận dụng tư tường Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ trong công cuộc đổi mới của
Đảng
Ngày 19/5/2018, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ (Nghị quyết số 26-NQ/TW).

I- Tình hình và nguyên nhân
1. Tình hình
Sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán
bộ các cấp có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên, từng bước
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; cơ cấu độ tuổi, giới tính,
dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn; nguồn cán bộ quy hoạch khá dồi dào, cơ
bản bảo đảm sự chuyển tiếp giữa các thế hệ. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh
chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn
luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Công tác cán bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi vào nền nếp và đạt
được những kết quả quan trọng. Đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị và sửa đổi, bổ sung nhiều
quy định, quy chế để tổ chức thực hiện. Các quy trình công tác cán bộ ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công
khai, minh bạch, khoa học và dân chủ hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức mới được
quan tâm, từng bước gắn với chức danh, với quy hoạch và sử dụng cán bộ.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể vẫn còn một số hạn chế ở đội ngũ cán bộ như: đông nhưng chưa mạnh;
tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Tỉ lệ cán bộ trẻ,
cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý
giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng
đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp,
làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc
trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ
phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Một số cán bộ lãnh
đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa
ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi
ích nhóm.
Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi
dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà



nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình trạng chạy chức, chạy
quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu,
chạy tội..., trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.
Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, việc thực hiện một số nội dung còn hình thức. Đánh giá
cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít
trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông
giữa các cấp, các ngành, các địa phương; còn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm "động" và
"mở".
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn,
chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh. Luân chuyển cán bộ và thực hiện chủ trương bố trí một số chức
danh không là người địa phương, trong đó có bí thư cấp ủy các cấp còn bất cập, chưa đạt yêu cầu.
Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy
trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong
đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, "cánh hẩu" xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao, chưa
đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực.
Chủ trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách phù hợp; kết quả thu
hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu. Chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành có
mặt còn thiếu thống nhất, chưa đồng bộ; chính sách tiền lương, nhà ở và việc xem xét thi đua, khen thưởng
chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc.
Phân cấp quản lý cán bộ chưa theo kịp tình hình, còn tập trung nhiều ở cấp trên. Một số chủ trương
thí điểm chỉ đạo chưa quyết liệt, tổ chức thực hiện thiếu nhất quán, đồng bộ và chưa kịp thời đánh giá, rút
kinh nghiệm. Việc kiểm tra, giám sát thiếu chủ động, chưa thường xuyên, còn nặng về kiểm tra, xử lý vi
phạm, thiếu giải pháp hiệu quả để phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn bị động, chưa theo kịp tình hình, tổ chức bộ máy thiếu ổn định.
Đầu tư xây dựng đội ngũ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; tổ chức bộ
máy cơ quan tham mưu còn nhiều đầu mối, chức năng, nhiệm vụ chưa thật sự hợp lý; phẩm chất, năng lực
và uy tín của không ít cán bộ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu.
Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố then chốt, quyết
định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập
trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với
tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và
Nhà nước.
2. Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém
Nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cán
bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, về cán bộ và công tác cán bộ chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc, toàn diện.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa được coi trọng đúng mức.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nội dung nêu trong các nghị quyết, kết luận
của Trung ương về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ còn thiếu quyết liệt, chưa thường xuyên,
nghiêm túc; chậm thể chế hóa, cụ thể hóa; ít kiểm tra đôn đốc và chưa có chế tài xử lý nghiêm.
Một số nội dung trong công tác cán bộ chậm được đổi mới. Chưa có tiêu chí, cơ chế hiệu quả để
đánh giá đúng cán bộ, tạo động lực, bảo vệ cán bộ và thu hút, trọng dụng nhân tài; chính sách cán bộ còn
bất cập, chưa phát huy tốt tiềm năng của cán bộ. Công tác quản lý cán bộ có nơi, có lúc bị buông lỏng;
chưa có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người yếu kém, uy tín thấp, không đủ sức khỏe.
Phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm, với tăng cường kiểm tra,
giám sát và chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Chưa có biện pháp hữu hiệu để kịp
thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền và những tiêu cực trong công tác cán bộ. Thiếu
chặt chẽ, hiệu quả trong phối hợp kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm. Công tác bảo vệ chính trị
nội bộ chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức.
Chưa phát huy đầy đủ vai trò giám sát của cơ quan dân cử; giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; thiếu cơ chế phù hợp để cán bộ, đảng viên gắn bó mật thiết với
nhân dân; chưa phát huy có hiệu quả vai trò, trách nhiệm của các cơ quan truyền thông, báo chí.


Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ còn chồng chéo, chậm được đổi
mới. Chưa quan tâm đúng mức xây dựng đội ngũ làm công tác cán bộ; năng lực, phẩm chất, uy tín của một
số cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Còn coi nhẹ công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
khoa học, xây dựng và phát triển lý luận về cán bộ và công tác cán bộ.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ MỤC TIÊU

1. Quan điểm
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu "then chốt" của
công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận
trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền
vững.
Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán
bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây
dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ,
dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm,
đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.
Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp
với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới;
thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhất là nhân
lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp
và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu
chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ
bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là gốc; giữa tính
phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và
tập thể.
Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ
chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán
bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và
cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của Đảng là ở
sự gắn bó máu thịt với nhân dân; phải thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán
bộ.
2. Mục tiêu

2.1. Mục tiêu tổng quát: Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất,
năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức
lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
- Đến năm 2020: (1) Thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết thành các quy định của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; (2) Hoàn thiện cơ
chế kiểm soát quyền lực; kiên quyết xóa bỏ tệ chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy
thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên; (3) Đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí
thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; (4) Hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm và
rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả.
- Đến năm 2025:(1) Tiếp tục hoàn thiện, chuẩn hóa, đồng bộ các quy định, quy chế, quy trình về
công tác cán bộ; (2) Cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp
huyện; đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác; (3) Xây dựng được đội ngũ cán bộ
các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định.


- Đến năm 2030: (1) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có
số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng; (2) Cơ bản xây dựng được
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể là:
+ Đối với cán bộ cấp chiến lược: Thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và
uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40 - 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế (đối với quân
đội, công an có quy định riêng của Bộ Chính trị).
+ Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung ương: Từ
20 - 25% dưới 40 tuổi; từ 50 - 60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
+ Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương: Từ 15 - 20% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh
dưới 40 tuổi, từ 25 - 35% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; từ 20 - 25% cán bộ lãnh đạo chủ

chốt và ủy viên ban thường vụ cấp ủy cấp huyện dưới 40 tuổi. Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã: 100%
có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hóa về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công
tác.
+ Đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội, công an: Tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và
nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; có ý thức
tổ chức kỷ luật nghiêm, sức chiến đấu cao; có số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu xây dựng lực
lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; từ 20 - 30% đủ khả năng làm việc
trong môi trường quốc tế.
+ Đối với đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia: Đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Hình
thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành, các nhà khoa học ở những lĩnh vực trọng điểm, có thế mạnh, đạt trình
độ ngang tầm khu vực và thế giới. Số cán bộ khoa học đạt ít nhất 11 người trên 1 vạn dân.
+ Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước: Nâng cao tính Đảng và ý thức tuân thủ pháp luật;
sản xuất kinh doanh hiệu quả; từ 70 - 80% có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
+ Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỉ lệ nữ cấp ủy
viên các cấp đạt từ 20 - 25%; tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%. Ở những
địa bàn có đồng bào dân tộc thiểu số, phải có cán bộ lãnh đạo là người dân tộc thiểu số phù hợp với cơ cấu
dân cư.
III- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ,
đảng viên
Quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt và
thực hiện nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ. Kiên quyết đấu
tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc; mở rộng các hình thức tuyên truyền, nhân rộng
những điển hình tiên tiến, những cách làm sáng tạo, hiệu quả.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên và thế hệ trẻ, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn
hóa của dân tộc; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập,
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm túc chế độ học tập, bồi dưỡng lý
luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, nhất là cán bộ trẻ được đào tạo ở nước ngoài.

2. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ; thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, đôn
đốc việc thực hiện; ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những tiêu cực, tham nhũng trong công tác cán bộ.
Thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ theo hướng: Đồng
bộ, liên thông, nhất quán trong hệ thống chính trị và phù hợp với thực tế; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền;
ràng buộc trách nhiệm và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tạo môi trường, điều
kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm
vì lợi ích chung.
Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể,
bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá
cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ:


+ Thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức để các địa phương, cơ quan, đơn vị lựa
chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ; đồng thời, nghiên cứu phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù
và theo vùng, khu vực.
+ Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và học tập ngoại ngữ.
+ Gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh và đẩy mạnh thực hiện luân
chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị để rèn luyện qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa bàn
khác nhau.
+ Thực hiện việc bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương theo mục tiêu
đề ra; khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác, nhất là chức danh chủ tịch Ủy ban nhân dân, nếu
có điều kiện.
+ Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm,
trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh vực mũi nhọn phục vụ cho phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Chiến
lược quốc gia về thu hút và trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài
Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài.
Đổi mới công tác ứng cử, bầu cử, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ:
+ Hoàn thiện các quy định, quy chế để cấp ủy các cấp có cơ cấu hợp lý, tinh giản số lượng và nâng

cao chất lượng, không nhất thiết địa phương, cơ quan, đơn vị nào cũng phải có cấp uỷ viên.
+ Tiếp tục thực hiện chủ trương bầu trực tiếp bí thư tại đại hội đảng bộ các cấp ở những nơi có điều
kiện; thực hiện nghiêm việc lựa chọn, bầu cử có số dư; ứng viên trước khi bổ nhiệm phải trình bày chương
trình hành động và cam kết trách nhiệm thực hiện.
+ Nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới; trường hợp
đặc biệt do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Nhân sự không trúng cử cấp ủy cấp dưới thì không giới
thiệu để bầu cấp uỷ cấp trên.
+ Cấp ủy các cấp và người đứng đầu phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí, tạo điều
kiện, cơ hội phát triển cho cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Xây dựng chỉ tiêu cơ cấu
phù hợp, nếu chưa bảo đảm chỉ tiêu cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau; gắn việc thực hiện chỉ tiêu với
trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu.
+ Quy định trách nhiệm của lãnh đạo và cấp ủy viên các cấp trong việc tiến cử người có đức, có tài;
người đứng đầu có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, tiến cử người thay thế mình.
+ Có cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và
triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ.
+ Xây dựng quy định để việc nhận trách nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở thành nếp văn hóa ứng xử của
cán bộ; hoàn thiện các quy định về cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm để việc "có lên, có xuống", "có vào,
có ra" trở thành bình thường trong công tác cán bộ.
Thực hiện lộ trình cải cách tiền lương phù hợp với từng nhóm đối tượng theo vị trí việc làm, chức
danh, chức vụ, năng suất lao động, hiệu quả công tác và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực của
đất nước. Xây dựng chính sách nhà ở theo hướng: Nhà nước thống nhất ban hành cơ chế, chính sách; địa
phương quy hoạch đất ở, nhà ở; cán bộ, công chức, viên chức mua và thuê mua. Thực hiện nghiêm, đúng
đắn, chính xác chế độ thi đua, khen thưởng.
Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản
lý cán bộ; xử lý nghiêm những người có sai phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.
Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Nắm chắc lịch sử chính trị và tập trung vào vấn đề
chính trị hiện nay. Hoàn thiện quy định để xử lý, sử dụng những trường hợp có vấn đề về chính trị. Không
xem xét quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử khi chưa có kết luận về tiêu chuẩn chính trị.
Tiếp tục nghiên cứu, thực hiện thí điểm một số chủ trương:
+ Mở rộng việc thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng.

+ Người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ
nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp uỷ giới thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ theo một quy trình nhất
định, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình.
+ Giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp
trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ
mới


Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị phải nâng cao trách nhiệm, triển khai đồng bộ,
hiệu quả công tác cán bộ và tạo môi trường, điều kiện để xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ. Coi trọng
trang bị kiến thức về công tác cán bộ cho lãnh đạo các cấp. Tập trung nâng cao chất lượng bí thư cấp ủy,
người đứng đầu các cấp và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Hoàn thiện cơ chế, đẩy mạnh thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ
khoa học trẻ có triển vọng và đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận. Chủ động
nắm, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đối với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc ở trong nước
và nước ngoài.
Cơ cấu, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành theo vị trí việc làm, khung năng lực, bảo đảm
đúng người, đúng việc, giảm số lượng, nâng cao chất lượng, hợp lý về cơ cấu.
Xây dựng đồng bộ, toàn diện các đối tượng cán bộ ở các cấp. Chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị,
tính chuyên nghiệp, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức. Tăng cường kỷ luật, kỷ
cương, nâng cao sức chiến đấu của lực lượng vũ trang.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học; có chính sách ưu đãi để xây dựng, sử dụng đội ngũ
các nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực. Củng cố, nâng cao ý thức trách nhiệm và tính
Đảng đối với cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là người đứng đầu; xây dựng quy định về
tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ quản trị doanh nghiệp phù hợp với cơ chế thị trường và đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế.
Nghiên cứu thực hiện cơ chế, chính sách liên thông, bình đẳng, nhất quán trong hệ thống chính trị;
liên thông giữa cán bộ, công chức cấp xã với cán bộ, công chức nói chung, giữa nguồn nhân lực ở khu vực
công và khu vực tư; có cơ chế cạnh tranh vị trí việc làm để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,

viên chức và tiến tới bỏ chế độ "biên chế suốt đời".
Quản lý chặt chẽ, hiệu quả đội ngũ cán bộ các cấp theo hướng: Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu
quốc gia về cán bộ. Địa phương, cơ quan, đơn vị phải thực hiện nghiêm việc quản lý cán bộ theo quy định
của cấp có thẩm quyền. Cơ quan sử dụng cán bộ phải quản lý cán bộ chặt chẽ, hiệu quả. Người đứng đầu
chịu trách nhiệm chính về quản lý cán bộ theo phân cấp. Bản thân cán bộ thực hiện nghiêm các quy định,
quy chế, cam kết của mình; báo cáo, giải trình trung thực và chịu trách nhiệm khi có yêu cầu.
Hoàn thiện các quy định, quy chế để kiểm soát chặt chẽ, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời những
người năng lực hạn chế, uy tín thấp, không đủ sức khoẻ, có sai phạm, không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn
bổ nhiệm, đến tuổi nghỉ hưu. Không lấy việc bố trí chức vụ, phong hàm, phong, thăng quân hàm, nâng
ngạch để thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.
Quân đội, Công an có đề án riêng để xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tình
hình mới.
4. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ
Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược bảo đảm các tiêu chuẩn quy định và đáp ứng yêu cầu, theo
hướng:
Phát hiện, lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ tiêu biểu, xuất sắc đã được đào tạo, bồi
dưỡng, rèn luyện theo chức danh, nhất là những người đã được thử thách qua thực tiễn, có thành tích nổi
trội, có "sản phẩm" cụ thể, có triển vọng phát triển.
Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt; bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng; định kỳ cập nhật
kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng.
Xây dựng kế hoạch cụ thể để luân chuyển, điều động giữ vị trí cấp trưởng, phù hợp với chức danh
quy hoạch ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng yếu, nơi triển khai mô hình mới để thử thách, rèn luyện, nâng
cao bản lĩnh chính trị, nhân sinh quan cách mạng, năng lực lãnh đạo toàn diện của cán bộ.
Tổ chức các lớp dự nguồn cán bộ cao cấp để chuẩn bị tốt nguồn nhân sự cho các chức danh cấp
chiến lược.
Đánh giá chính xác nhân sự được quy hoạch, giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm vào các chức danh cấp
chiến lược. Kiên quyết không để lọt những người không xứng đáng, những người chạy chức, chạy quyền
vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
Định kỳ rà soát, bổ sung quy hoạch nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội cho các nhiệm kỳ.
Tập trung xây dựng Ban Chấp hành Trung ương theo hướng nâng cao chất lượng, có số lượng và cơ
cấu hợp lý, thực sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, trong sáng, gương mẫu về


mọi mặt. Chủ động chuẩn bị nhân sự, xây dựng "hình ảnh" các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà
nước, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Xây dựng tiêu chuẩn và có kế hoạch, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đối với Ủy
viên dự khuyết Trung ương Đảng theo hướng chỉ lựa chọn cán bộ trẻ, thật sự ưu tú và có cơ cấu hợp lý giữa
Trung ương với địa phương, giữa các ngành nghề, lĩnh vực trong hệ thống chính trị.
5. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền
Xây dựng, hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo nguyên tắc mọi
quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn, phải được ràng buộc bằng trách
nhiệm.
Thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự; cung cấp, trao đổi
thông tin và giải trình khi có yêu cầu. Xác minh, xử lý kịp thời, hiệu quả, hợp lý thông tin phản ảnh từ các
tổ chức, cá nhân và phương tiện thông tin đại chúng.
Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo chuyên đề, chuyên ngành;
của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên. Coi trọng cả cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai
phạm.
Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy
chức, chạy quyền. Hủy bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về công tác cán bộ, đồng thời xử lý nghiêm
những tổ chức, cá nhân sai phạm, không có "vùng cấm".
Mở rộng dân chủ, phát huy vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; vai trò giám sát,
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy vai trò của nhân dân trong
tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Tăng cường cơ chế chất vấn, giải trình trong công tác cán bộ.
Quy định chặt chẽ và thực hiện nghiêm quy trình công tác cán bộ. Xác định rõ trách nhiệm của tập
thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ.
Nhận thức sâu sắc về tác hại nghiêm trọng của tệ chạy chức, chạy quyền, coi đây là hành vi tham

nhũng trong công tác cán bộ. Nhận diện rõ, đấu tranh quyết liệt, hiệu quả với các đối tượng có biểu hiện,
hành vi chạy chức, chạy quyền. Coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng tự
trọng và danh dự của cán bộ để hình thành văn hoá không chạy chức, chạy quyền.


×