Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TUÂN THỦ VỆ SINH BÀN TAY CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI CÁC KHOA LÂM SÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 34 trang )

SỞ Y TẾ QUẢNG NINH
TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN VÂN ĐỒN

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TUÂN THỦ VỆ SINH BÀN TAY CỦA
NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI CÁC KHOA LÂM SÀNG
BỆNH VIỆN ĐA KHOA VÂN ĐỒN NĂM 2016

Người thực hiện: CNMT Tô Thị Hải – Trưởng khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn
Người tham gia: CNĐD Bùi Thị Hường – Trưởng phòng Điều dưỡng

Vân Đồn, Tháng 11 năm 2016


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Chữ viết tắt
VSBT


NKBV
NVYT
VSTTQ
WHO
KTV
NHS
CDC
RTTQ
KSNK
VST

Đọc là
Vệ sinh bàn tay
Nhiễm khuẩn bệnh viện
Nhân viên y tế
Vệ sinh tay thường quy
Tổ chức y tế thế giới (World Health Organization)
Kỹ thuật viên
Nữ hộ sinh
Trung tâm phòng ngừa kiểm soát bệnh Hoa Kỳ
Rửa tay thường quy
Kiểm soát nhiễm khuẩn
Vệ sinh tay

2


ĐẶT VẤN ĐỀ
Bình thường trên da tay người cán bộ y tế thường có hai loại vi khuẩn: vi khuẩn
thường trú và vi khuẩn vãng lai. Các vi khuẩn thường trú có thể vào cơ thể qua các thủ

thuật xâm lấn. Các vi khuẩn vãng lai thường là các tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện
phổ biến và thường tồn tại trên da không quá 28 giờ chúng dễ dàng bị loại bỏ bằng vệ
sinh bàn tay với nước và xà phòng hay dung dịch rửa tay nhanh.
Tổ chức y tế thế giới khẳng định “Rửa tay là biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất
trong phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện”. Nhiều nghiên cứu về vệ sinh bàn tay trên thế
giới đã chứng minh rằng các biện pháp VSBT đã giảm 50% nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh
viện (NKBV) cũng như nguy cơ phơi nhiễm bệnh nghề nghiệp cho nhân viên y tế, với
hiệu quả dự phòng NKBV các biện pháp VSBT đã tích cực góp phần giảm chi phí trong
điều trị, giảm thời gian điều trị nội trú, giảm tỷ lệ tử vong…..Theo WHO: Rửa tay được
coi là liều vắcxin tự chế, rất đơn giản, dễ thực hiện, hiệu quả và chi phí cũng như có thể
cứu sống hàng triệu người.
Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định VSBT là biện pháp quan trọng nhất để dự
phòng sự lây truyền tác nhân gây bệnh trong các cơ sở y tế. Một nghiên cứu tại Thụy Sỹ
cho thấy: Khi tỷ lệ tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế tăng từ 48% lên 66% thì tỷ lệ
nhiễm khuẩn bệnh viện giảm từ 16,9% xuống còn 9,9% . Tại Việt Nam Bộ Y tế đã ban
hành thông tư số 18/2009/TT-BYT ngày 14 tháng 10 năm 2009 hướng dẫn tổ chức thực
hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại các cơ sở khám chữa bệnh, trong đó đã quy
định thầy thuốc, nhân viên y tế, sinh viên – học sinh và người bệnh, người nhà người
bệnh khi đến bệnh viện phải rửa tay theo quy định và hướng dẫn của cơ sở khám chữa
bệnh. Một số kết quả nghiên cứu về VSBT tại bệnh viện Bạch Mai của Nguyễn Việt
Hùng năm 2008, Bệnh viện Thanh Nhàn năm 2009; bệnh viện Nhi đồng 1 cho thấy tỷ lệ
tuân thủ VSBT của NVYT còn rất thấp do thiếu ý thức và thiếu phương tiện …
Với những kết quả nghiên cứu của các Bệnh viện lớn như trên cho thấy tỷ lệ tuân
thủ các thời điểm cần rửa tay của nhân viên y tế còn thấp.
Bệnh viện Đa khoa Vân Đồn là một bệnh viện hạng 3. Với quy mô 120 giường
bệnh bao gồm 16 khoa phòng và 130 nhân viên. Bệnh viện tiếp đón hơn 100 lượt người
bệnh đến khám và điều trị mỗi ngày, lại là cơ sở thực hiện nhiều hoạt động chuyên khoa
nên vấn đề phòng ngừa nhiễm khuẩn đang trở nên cấp thiết. Chính vì vậy việc rửa tay của
NVYT tại các khoa lâm sàng có vai trò hết sức quan trọng. Năm 2015 bệnh viện có
nghiên cứu đánh giá thực trạng về kiến thức, thái độ và các yếu tố liên quan đến tỷ lệ

tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế tuy nhiên đánh giá mang tính chất khảo sát thực tế
chưa thực hiện can thiệp các yếu tố liên quan để đánh giá lại. Vì vậy, chúng tôi tiến hành
đề tài nghiên cứu “Đánh giá kết quả tuân thủ vệ sinh bàn tay của nhân viên y tế tại các
khoa lâm sàng Bệnh viện Đa khoa Vân Đồn năm 2016”
3


MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Đánh giá kết quả về kiến thức vệ sinh tay thường quy của nhân viên y tế tại các
khoa lâm sàng của Bệnh viện Đa khoa huyện Vân Đồn trước và sau khi can thiệp.
2. Đánh giá kết quả về thực hành tuân thủ vệ sinh tay thường quy của nhân viên y
tế tại các khoa lâm sàng Bệnh viện Đa khoa huyện Vân Đồn trước và sau khi can thiệp.

4


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Cơ sở khoa học của rửa tay:
Trong suốt thế kỷ thứ XIX, ở Châu Âu và Mỹ, 25% bà mẹ sinh con tại bệnh viện
đã tử vong do sốt hậu sản. Năm 1843, bác sĩ Oliver Wendell Holmes (người Mỹ) yêu cầu
một bác sĩ khoa sản nơi ông làm việc nghỉ việc một tháng sau 2 ca bà mẹ tử vong mà ông
cho rằng liên quan đến vấn đề rửa tay của bác sĩ đó, ý kiến của ông đã bị nhiều bác sĩ
cùng thời phản đối.
Vào cuối những năm 1840, Bác sĩ Ignaz Semmelweis (1818-1865) công tác tại
bệnh viện đa khoa Viene (nước Áo) khám phá ra sự khác biệt về tử lệ tử vong của các bà
mẹ sau sinh con giữa hai khoa sản của bệnh viện. Năm 1846 ông nghiên cứu và thấy rằng
tại hai khoa sản của bệnh viện, cùng thực hành một kỹ thuật rửa tay. Khoa thứ nhất là
khoa thực hành của sinh viên y khoa, nơi mà chỉ có bác sĩ và sinh viên y khoa làm việc
có tỷ lệ tử vong do sốt hậu sản là 13,1%, tỷ lệ này cao gấp 5 lần so với khoa thứ hai là
khoa hướng dẫn thực hành cho nữ hộ sinh có tỷ lệ tử vong ở các bà mẹ sau sinh là 2,03%.

Ông quan sát và thấy rằng các bác sĩ và sinh viên y khoa thường không rửa tay sau khi
thăm khám mỗi bệnh nhân, thậm chí là sau khi mổ tử thi. Ông cho rằng nguyên nhân sốt
hậu sản là do bàn tay không rửa của các bác sĩ và sinh viên y khoa chứa tác nhân gây
bệnh. Ông đã đề xuất sử dụng dung dịch nước vôi trong (chứa chlorine) để rửa tay vào
thời điểm chuyển tiếp sau mổ tử thi sang thăm khám bệnh nhân. Tỷ lệ tử vong của các bà
mẹ sau đó đã giảm từ 12,24% xuống 2,38%. Tuy vậy, tại thời điểm đó nhiều người cho
rằng khuyến cáo rửa tay giữa những lần tiếp xúc với bệnh nhân của ông là quá nhiều và
không bác sĩ nào chấp nhận đôi bàn tay của họ chính là nguyên nhân gây tử vong hậu
sản. Một số người khác cho rằng kết quả nghiên cứu của ông là thiếu bằng chứng khoa
học. Năm 1849 ông bị xa thải khỏi bệnh viện Vienne rồi tới làm việc ở khoa sản phụ
bệnh viện Pests St. Rochus ở Hungari (1851-1857). Ngày nay ở Hungari, người ta lập lên
bảo tàng Semminweis, bệnh viện Semminweis. Tại Áo người ta thành lập bệnh viện
Semminweis và ông đã được ghi nhận là người mở đường cho học thuyết về vô trùng và
học thuyết về nhiễm khuẩn bệnh viện.
Năm 1879, tại một hội thảo khoa học ở Paris, bác sĩ Louis Pasteur đã lên tiếng:
“Nguyên nhân gây tử vong ở những bà mẹ bị nhiễm trùng hậu sản chính là các bác sĩ đã
sử dụng bàn tay khám các bà mẹ bị bệnh rồi khám các bà mẹ khỏe mạnh”. Sau đó ông đã
đưa ra lý thuyết về “Mầm bệnh” và phương pháp tiệt khuẩn Pasteur được sử dụng tới
ngày nay. Trong những năm đó khuyến cáo rủa tay đã gặp rất nhiều khó khăn bởi thiếu
phương tiện rửa tay, thiếu nước, sự gia tăng để kháng kháng sinh của vi khuẩn trong khi
đó NVYT rất thiếu kiến thức về vệ sinh bệnh viện. Điều đó đã giải thích cho sự phản ứng
của các bác sĩ trước khuyến cáo rửa tay giữa những lần tiếp xúc với bệnh nhân khác
nhau, họ cho rằng rửa tay như vậy là quá nhiều.
5


Trong những năm 1975 và 1985, CDC đã xuất bản hướng dẫn chính thức về thực
hành rửa tay trong các bệnh viện . NVYT được khuyến cáo rửa tay bằng xà phòng trung
tính giữa các lần tiếp xúc với người bệnh và rửa bằng xà phòng khử khuẩn trước và sau
khi thực hiện các thủ thuật xâm lấn hoặc khi chăm sóc người bệnh ở các khu vực có nguy

cơ cao mắc NKBV. Khử khuẩn bằng cồn được áp dụng ở những nơi không có bồn rửa
tay.
Năm 1988 và 1995, hiệp hội chống nhiễm khuẩn Mỹ (APIC) xuất bản các hướng
dẫn về rửa tay và khử khuẩn bàn tay. Chỉ định về rửa tay trong các hướng dẫn này tương
tự như trong các hướng dẫn của CDC. Lần đầu tiên tại Mỹ, biện pháp khử khuẩn tay bằng
cồn được khuyến khích áp dụng tại tất cả các cơ sở y tế.
Năm 2002, CDC yêu cầu các bệnh viện trên toàn nước Mỹ khuyến khích NVYT
khử khuẩn tay bằng dung dịch sát khuẩn có chứa cồn trong mọi thao tác chăm sóc, điều
trị người bệnh.
Tại Việt Nam, nghành y tế đã quan tâm, chú trọng đến vấn đề rửa tay. Năm 2006,
Bộ Y tế bắt đầu thực hiện dự án tăng cường vệ sinh bệnh viện, trong đó rửa tay thường
quy với nước và xà phòng được coi là một trong các biện pháp chiến lược. Dự án đã phát
động “ Tuần lễ rửa tay” tại 21 bệnh viện với khoảng 7000 người tham gia dự án.
Năm 2009, tuân thủ rửa tay dược đưa vào nội dung Thông tư 18/2009/BYT-TT
hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại các cơ sở khám, chữa
bệnh.
2. Tầm quan trọng của rửa tay :
2.1. Bàn tay là vật trung gian truyền bệnh:
NVYT hàng ngày dùng bàn tay là công cụ để khám chữa bệnh và chăm sóc người
bệnh, do đó bàn tay của NVYT thường xuyên tiếp xúc với da, máu, dịch tiết sinh học,
dịch tiết của người bệnh. Các vi khuẩn gây bệnh từ bệnh nhân truyền qua tay của NVYT,
làm cho bàn tay của NVYT là nguồn chứa các vi khuẩn gây bệnh.
5 bước bàn tay phát tán mầm bệnh:
- Mầm bệnh định cư trên da người bệnh và bề mặt các đồ vật
- Mầm bệnh bám vào da tay của NVYT
- Mầm bệnh sống trên da tay
- Rửa tay ít dẫn đến da tay nhiễm khuẩn
- Da tay nhiễm khuẩn phát tán mầm bệnh sang người bệnh viện đồ vật.
Trong một nghiên cứu được thực hiện trên 77 bàn tay của NVYT tại bệnh viện Chợ
Rẫy – TP Hồ Chí Minh cho kết quả, trung bình có 267,378 vi khuẩn /cm 2 trong đó: Bàn

tay bác sĩ có chứa 275,110 vi khuẩn/ cm 2; bàn tay điều dưỡng chứa 126,875 vi khuẩn/
cm2 .
Các chủng vi khuẩn thường có trên bàn tay NVYT:
6


a) Vi khuẩn định cư: Ít có khả năng gây nhiễm khuẩn trừ khi chúng xâm nhập vào
cơ thể qua các thủ thuật xâm lấn như phẫu thuật, đặt catherter lòng mạch. Cần rửa tay
bằng hóa chất khử khuẩn như cồn hoặc chlorhexidine với thời gian đủ dài nhằm loại bỏ
các vi khuẩn này.
b) Vi khuẩn vãng lai: Loại vi khuẩn này xuất hiện ở bàn tay NVYT khi bàn tay bị
nhiễm bẩn từ bệnh nhân hoặc các đồ vật bẩn trong môi trường bệnh viện trong qua trình
chăm sóc và điều trị. Vi khuẩn vãng lai gồm mọi sinh vật có mặt trong môi trường bệnh
viện (vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng) và là thủ phạm chính gây lên NKBV, có thể loại bỏ
hầu hết các vi khuẩn này bằng biện pháp RTTQ với nước và xà phòng thường hoặc chà
xát tay bằng dung dịch rửa tay có chứa cồn.
2.2. Hiệu quả của rửa tay và mối liên quan với nhiễm khuẩn bệnh viện:
Rửa tay đúng cách sẽ làm loại bỏ hầu hết lớp vi sinh vật gây ra NKBV cho bệnh
nhân.
NKBV lây truyền qua một số con đường, trong đó lây truyền thông qua bàn tay
của NVYT là phổ biến nhất.
NKBV gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng không chỉ với bệnh nhân mà
còn với các NVYT. Sự tuân thủ rửa tay của NVYT (RTTQ với nước và xà phòng, rửa tay
với dung dịch sát khuẩn tay có chứa cồn) được coi là biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất
để phòng ngừa hiệu quả NKBV.
Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định RTTQ bằng dung dịch có chứa cồn là biện
pháp quan trọng nhất để dự phòng sự lây truyền tác nhân gây bệnh trong các cơ sở y tế.
Một nghiên cứu ở Thụy Sỹ từ năm 1994 đến năm 1997 trên 20.000 cơ hội rửa tay của
NVYT tại bệnh viện Geneva đã cho thấy: Khi tỷ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT tăng từ
48% (1994) lên 66% (1997) thì tỷ lệ NKBV giảm từ 16,9% (1994) xuống còn 6,9%

(1997) . Tại Việt Nam, can thiệp làm tăng sự tuân thủ rửa tay của NVYT cũng mang lại
hiệu quả tích cực trong việc làm giảm tỷ lệ NKBV từ 17,1% trước can thiệp xuống còn
4,8% sau can thiệp .
Đánh giá được tầm quan trọng của RTTQ trong việc phòng ngừa và giảm bớt tỷ lệ
NKBV, từ năm 1996 Bộ Y tế đã ban hành Quy trình RTTQ có minh họa bằng hình ảnh .
Năm 2007, dựa trên hướng dẫn mới nhất của của WHO về phương pháp RTTQ và sát
khuẩn tay bằng dung dịch sát khuẩn có chứa cồn, Bộ Y tế đã mời các chuyên gia y tế và
chuyên gia kiểm soát nhiễm khuẩn (KSNK) sửa đổi quy trình cho phù hợp với điều kiện
của Việt Nam và ban hành công văn số 7517/BYT- Đtr ngày 12 tháng 10 năm 2007 đề
nghị các Sở Y tế, các đơn vị tổ chức cho cán bộ, nhân viên bệnh viện học tập và thực hiện
theo hướng dẫn mới và theo Quy trình rửa tay bằng hình ảnh ở những vị trí thuận lợi để
NVYT thực hiện theo quy định. Năm 2009, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư 18/2009/TTBYT: Hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác KSNK tại các cơ sở khám chữa bệnh . Điều
7


1 của Thông tư quy định: “Thầy thuốc, nhân viên y tế ,học sinh,sinh viên thực tập tại các
cơ sở khám chữa bệnh phải tuân thủ rửa tay dung chỉ định và đúng kỹ thuật theo hướng
dẫn của Bộ Y tế. Người bệnh và người nhà người bệnh, khách đến thăm phải rửa tay theo
quy định và hướng dẫn của cơ sở khám, chữa bệnh”.
3. Các nghiên cứu về kiến thức, thái độ và tỷ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT
3.1. Các nghiên cứu trên thế giới:
Nghiên cứu nổi tiếng của Pitte và cộng sự tại Thụy Sỹ cho thấy 48% điều dưỡng
tuân thủ RTTQ và sau 3 năm có chương trình can thiệp thấy tỷ lệ tuân thủ RTTQ tăng lên
tới 66%. Một nghiên cứu khác nhằm thu thập các thông tin về RTTQ để từ đó đưa ra các
biện pháp KSNK. Trong số các sinh viên điều dưỡng Thổ Nhĩ Kỳ được hỏi theo bộ câu
hỏi, có 80,2% sinh viên trả lời có RTTQ sau mỗi lần làm thủ thuật cho bệnh nhân, thời
gian trung bình một lần RTTQ từ 1 phút trở lên chiếm 71,9%. Kết luận từ nghiên cứu cho
thấy tất cả các sinh viên đều được học về cách rửa tay nhưng thực sự sinh viên vẫn chưa
quan tâm tới rửa tay và chưa thực hành được kiến thức đã học.
Tuân thủ rửa tay phòng tránh được NKBV, tuy nhiên tỷ lệ tuân thủ rửa tay của

NVYT còn rất thấp. Tại Hoa Kỳ một số nghiên cứu về tỷ lệ này được thực hiện trong
khoảng từ năm 1991 đến năm 2000 cho thấy tỷ lệ tuân thủ chỉ đạt 20,9% đến 40% .
Năm 2002, tại Italia, Nonile và cộng sự đã tiến hành đánh giá kiến thức, thái độ và
thực hành rửa tay của NVYT tại các khoa hồi sức tích cực tại 24 bệnh viện vùng
Campania và Calabria. Kết quả cho thấy 53,2% NVYT có kiến thức đúng, tỷ lệ có thái độ
tích cực về rửa tay là 96,8%, thái độ tích cực của nhóm NVYT có trình độ học vấn cao và
nhóm nữ, lớn tuổi cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các nhóm khác. Trong nghiên cứu
này tỷ lệ TTRT của NVYT tại thời điểm trước khi chăm sóc người bệnh đạt 60% và sau
chăm sóc đạt 72,5% .
Nghiên cứu của Khaled M và cộng sự thực hiện năm 2008 tại bệnh viện Đại học
Ain Shams (Cairo, Ai Cập) cho thấy điều dưỡng có kiến thức rửa tay tốt hơn bác sĩ nhưng
các bác sĩ lại là những người tuân thủ tốt hơn (37,5%) tuy nhiên tỷ lệ rửa tay đúng của họ
chỉ là 11,6% .
3.2. Nghiên cứu tại Việt Nam:
Khoảng 10 năm trở lại đây việc vệ sinh bàn tay mà ở đây là vấn đề rủa tay của
NVYT được chú trọng hơn tại Việt Nam, do đó đã có nhiều nghiên cứu lên quan tới vấn
đề này.
Theo một điều tra về tình hình thực hiện các biện pháp dự phòng cơ bản tại Bệnh
Viện Bạch Mai và một số Bệnh viện khu vực phía Bắc được công bố ngày 17/ 3/ 2007.
Tại Bệnh Viện Bạch Mai: Chỉ 26% NVYT thực hiện RTTQ trước khi thăm khám bệnh
nhân và 4,2% RTTQ trước khi chuyển từ thao tác bẩn sang thao tác sạch trên cùng một
bệnh nhân .
8


Nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng và cộng sự thực hiện tại một số bệnh viện khu
vực phía Bắc vào năm 2005 cho thấy tỷ lệ NVYT nhận thức về rửa tay chưa tốt ở mọi đối
tượng, mọi lứa tuổi. Trong nghiên cứu này tỷ lệ NVYT có nhận thức tốt về rửa tay chỉ đạt
41,2% .
Nghiên cứu can thiệp của Nguyễn Việt Hùng, Trương Anh Thư và cộng sự thực

hiện năm 2005 cho thấy. Trước can thiệp tỷ lệ tuân thủ rửa tay (TTRT) của NVYT chỉ đạt
6,3%. Sau 4 tháng tổ chức chiến dịch vận động NVYT tăng cường rửa tay, tỷ lệ TTRT đã
tăng lên 65,7% .
Nghiên cứu của Hoàng Thị Xuân Hương trước và sau can thiệp về vệ sinh bệnh
viện tại Bệnh viện Đống Đa, Hà Nội năm 2010 được thực hiện trên đối tượng bác sĩ và
điều dưỡng cho thấy kiến thức sau can thiệp đạt yêu cầu của NVYT về rửa tay tăng lên
12,7% (p< 0,001).
Đặng Thị Vân Trang năm 2010 đã khảo sát tỷ lệ TTRT theo 5 thời điểm tại bệnh
viện Chợ Rẫy. Kết quả cho thấy tỷ lệ TTRT của NVYT trung bình là 25,7%, tỷ lệ TTRT
của điều dưỡng (67,5%) cao hơn so với bác sĩ (24,6%), kỹ thuật viên (3,1%), nhân viên
khác (4,8%). Tỷ lệ TTRT lần lượt là 17,0% trước khi tiếp xúc bệnh nhân, 31,8% trước
thao tác vô khuẩn, 56,75 sau tiếp xúc dịch, 29,2% sau tiếp xúc bệnh nhân và 12,3% sau
khi chạm vào môi trường xung quanh bệnh nhân.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Anh (2012) về kiến thức và tỷ lệ tuân thủ
RTTQ của điều dưỡng Bệnh viện Xanh Pon Hà Nội cho thấy 70,1% điều dưỡng có kiến
thức tốt về thực hành rửa tay . Điều dưỡng khoa Ngoại có kiến thức tốt hơn khoa Nội
(63,6% so với 36,4%), tỷ lệ tuân thủ các cơ hội rửa tay là 58%, tỷ lệ tuân thủ buổi sáng
cao hơn buổi chiều (60,7% so với 50,3%) .

9


CHƯƠNG II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.Đối tượng nghiên cứu:
- Điều dưỡng, nữ hộ sinh, kỹ thuật viên đang làm việc tại các khoa lâm sàng.
Các khoa lâm sàng gồm: khoa Khám bệnh, khoa Sản, khoa Ngoại, khoa Nội, Khoa
Nhi, khoa Phẫu thuật gây mê hồi sức, khoa Đông y – phục hồi chức năng, khoa Truyền
nhiễm.
2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu:
- Thời gian: từ tháng 01/4 /2016 đến 30/9/ 2016

- Địa điểm: tại các khoa lâm sàng – Trung tâm y tế huyện Vân Đồn
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu mô tả căt ngang, quan sát mô tả trực tiếp việc thực hành rửa tay, điền
vảo mẫu phiếu điều tra chuẩn.
4. Cỡ mẫu nghiên cứu:
- Toàn bộ điều dưỡng , nữ hộ sinh và kỹ thuật viên tại các khoa lâm sàng
5. Phương tiện, xử lý và phân tích số liệu:
5.1. Phương tiện:
- Phương tiện: Việc tuân thủ VSTTQ được đánh giá bằng phương pháp quan sát
không tham gia và điền vào bảng kiểm theo mẫu của WHO các cơ hội VST của NVYT
( sử dụng bộ bảng kiểm khảo sát các thời điểm cần rửa tay và tuân thủ thực hành quy
trình rửa tay).
- Đo lường kiến thức và thái độ về VSTTQ của NVYT được thực hiện bằng
phương pháp phát vấn với bộ câu hỏi có cấu trúc được thiết kế sẵn.
- Quan sát kín đáo thực tế về việc thực hiện vệ sinh tay của điều dưỡng, nữ hộ
sinh, kỹ thuật viên tại các khoa lâm sàng.
5.2. Xử lý và phân tích số liệu:
Sau mỗi ngày điều tra, nghiên cứu viên chính kiểm tra và làm sạch các
phiếu trả lời của NVYT, ghép cặp phiếu phát vấn và bảng kiểm quan sát. Mọi thông tin
được nhập liệu và phân tích bằng phần mềm SPSS 12.0.
Xác định tỷ lệ tuân thủ rửa tay:
Tỷ lệ tuân thủ rửa tay (%)=

Tỷ lệ sai sót trong quy trình rửa tay (%) =

Số cơ hội có rửa tay x 100
Số cơ hội cần phải rửa
Số người rửa tay sai quy trình x 100
Số người có rửa tay


Mẫu phiếu nghiên cứu ( phụ lục 1, 2, 3, 4, 5 ).
10


CHƯƠNG III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
1. Đo lường kiến thức về VSTTQ của NVYT được thực hiện bằng phương pháp
phát vấn với bộ câu hỏi có cấu trúc được thiết kế sẵn.
1.1. Kiến thức về tác dụng của RTTQ
1.2. Kiến thức về việc sắp xếp quy trình 6 bước RTTQ
1.3. Kiến thức về Thời gian thích hợp cho một lần RTTQ với nước và xà phòng và
dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn/ cồn
2. Đánh giá tỷ lệ tuân thủ các thời điểm cần rửa tay của nhân viên y tế.
2.1. Vệ sinh tay thường quy:
- Vệ sinh tay thường quy là làm sạch bàn tay bằng nước với xà phòng bánh hoặc
dung dịch rửa tay và chà sát tay với dung dịch có chứa cồn.
2.2. Các chỉ định về vệ sinh tay:
- 5 thời điểm vệ sinh tay khi chăm sóc người bệnh theo khuyến cáo của Tổ chức Y
tế thế giới:
1. Trước khi tiếp xúc với người bệnh.
2. Trước khi làm thủ thuật vô trùng.
3. Sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể.
4. Sau khi tiếp xúc với người bệnh.
5. Sau khi đụng chạm vào những vùng xung quanh người bệnh.
Ngoài ra, các hoạt động sau đây cũng cần vệ sinh tay:
- Khi chuyển chăm sóc từ nơi nhiễm sang nơi sạch trên cùng người bệnh.
- Sau khi tháo găng.
2.3 Những lưu ý trong thực hành vệ sinh tay:
- Không để móng tay dài, mang móng tay giả, trang sức trên tay khi chăm sóc
người bệnh.
- Tránh chạm vào bề mặt các vật dụng, trang thiết bị khi không cần thiết để phòng

lây nhiễm tay từ môi trường hoặc lây nhiễm cho môi trường do tay bẩn trong chăm sóc
người bệnh.
- Thực hiện vệ sinh tay với nước và xà phòng khi tay nhìn thấy vấy bẩn bằng mắt
thường hoặc sau khi tiếp xúc với máu và dịch tiết.
- Vệ sinh tay bằng dung dịch có chứa cồn khi tay không thấy bẩn bằng mắt
thường.
- Phải đảm bảo tay luôn khô hoàn toàn trước khi bắt đầu hoạt động chăm sóc
người bệnh.
- Phải vệ sinh tay ngay nếu đụng chạm tay vào bề mặt môi trường xung quanh
phòng ô nhiễm vật dụng và môi trường xung quanh do tay bẩn.
3. Xác định các yếu tố liên quan đến tuân thủ VST của NVYT
11


3.1 Tập huấn kiến thức RTTQ
-Tập huấn rửa tay hàng năm là rất có ích, giúp cập nhật kiến thức cho NVYT, giúp
NVYT hiểu được tầm quan trọng và nâng cao ý thức tuân thủ rửa tay thường quy nhiều
hơn.
3.2 Phương tiện thiết yếu cần trang bị cho mỗi vị trí rửa tay:
* Các buồng khám, buồng thủ thuật, buồng bệnh phải trang bị:
- Bồn rửa tay sạch có vòi nước có cần gạt;
- Nước sạch;
- Xà phòng bánh hoặc dung dịch rửa tay và giá đựng;
- Khăn lau tay sạch
* Các vị trí cần trang bị dung dịch vệ sinh tay có chứa cồn:
- Giường người bệnh nặng, người bệnh cấp cứu.
- Trên các xe tiêm, thay băng
- Bàn khám bệnh, xét nghiệm
- Cửa ra vào mỗi buồng bệnh.
Ngoài ra cần phải tăng cường kiểm tra giám sát, áp dụng hình thức khen thưởng

cũng góp phần tăng tỷ lệ tuân thủ VST thường quy.
2. Đánh giá tỷ lệ tuân thủ quy trình rửa tay của nhân viên y tế.
- Ngày 12/10/2007, Vụ điều trị Bộ Y tế đã ban hành công văn số 7517/BYT- ĐTr
hướng dẫn về quy trình rửa tay thường quy.
- Quy trình rửa tay thường quy gồm 6 bước:
Bước 1: Làm ướt hai lòng bàn tay bằng nước. Lấy xà phòng và chà 2 lòng bàn tay
vào nhau.
Bước 2: Chà lòng bàn tay này lên mu và kẽ ngoài các ngón tay của bàn tay kia và
ngược lại.
Bước 3: Chà 2 lòng bàn tay vào nhau, miết mạnh các kẽ trong ngón tay.
Bước 4: Chà mặt ngoài các ngón tay của bàn tay này vào lòng bàn tay kia.
Bước 5: Dùng bàn tay này xoay ngón cái của bàn tay kia và ngược lại.
Bước 6: Xoay các đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại. Rửa tay
sạch dưới vòi nước chảy đến cổ tay và làm khô tay.
Chú ý: Mỗi bước “ chà” 5 lần. Thời gian rửa tay tối thiểu 30 giây.
- Quy trình rửa tay bằng dung dịch rửa tay có chứa cồn, gồm 6 bước:
Bước 1: Lấy khoảng 3ml dung dịch có chứa cồn cho vào lòng bàn tay và chà 2
lòng bàn tay vào nhau cho cồn dàn đều.
Bước 2: Chà lòng bàn tay này lên mu và kẽ ngoài các ngón tay của bàn tay kia và
ngược lại.
12


Bước 3: Chà 2 lòng bàn tay vào nhau, miết mạnh các kẽ trong ngón tay.
Bước 4: Chà mặt ngoài các ngón tay của bàn tay này vào lòng bàn tay kia.
Bước 5: Dùng bàn tay này xoay ngón cái của bàn tay kia và ngược lại.
Bước 6: Xoay các đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại.
Chú ý: Khi hoàn thành bước 6 mà tay vẫn chưa khô thì thực hành lại từ bước 2
cho đến khi tay khô.


13


PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1.Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu:
Bảng 4.1. Thông tin về tuổi, giới của đối tượng nghiên cứu:
Thông tin

Tuổi

Giới

Số lượng
(n = 48)

Tỷ lệ
(%)

≤ 29

19

40%

30 - 39

21

44%


40 – 49

2

4%

≥ 50

6

12%

Nam

6

12%

Nữ

42

88%

Biều đồ số liệu tỷ lệ nam, nữ tham gia VST thường quy tại các khoa lâm sàng
Nhận xét: Qua biểu đồ ta thấy tại các khoa lâm sàng số lượng điều dưỡng, KTV,
NHS nữ giới chiếm 88% , nam giới chiếm 12%.

14



Biểu đồ số liệu độ tuổi tham gia rửa tay thường quy tại các khoa lâm sàng
Nhận xét: qua biều đổ ta thấy, tại các khoa lâm sàng độ tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất
là trong khoảng 30 – 39 tuổi chiếm 44%, thấp nhất là trong khoảng 40 – 49 tuổi chiếm
4%.
Bảng 4.2. Thông tin về chức danh của đối tượng nghiên cứu
Chức danh
Điều dưỡng
KTV
Nữ hộ sinh
Tổng cộng

Số lượng
37
2
9
48

Tỷ lệ
77%
4.2%
18.8%
100%

Biểu đồ số liệu chức danh của nhóm nghiên cứu
15


Nhận xét: Nhóm điều dưỡng chiếm tỷ lệ cao nhất 77%, thứ hai là nhóm nữ hộ
sinh chiếm 18.8%, thấp nhất là nhóm KTV chiếm 4.2%.

Bảng 4.3. Thông tin về trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu:

Sau đại học
Đại học

Số lượng
(n= 48)
0
14

Tỷ lệ
(%)
0%
29%

Cao đẳng

7

15%

Trung cấp

27

56%

Thông tin

Trình độ

học vấn

Biểu đồ số liệu về trình độ học vấn của ĐD, KTV, NHS tại các khoa lâm sàng
Nhận xét: Qua biều đồ ta thấy, trình độ trung cấp chiếm tỷ lệ cao nhất 56%, sau
đại học chiếm 0%, đại học chiếm 29%, cao đẳng chiếm 15%.
Bảng 4.4. Thông tin về thâm niên công tác của đối tượng nghiên cứu

Dưới 5 năm

Số lượng
(n = 48)
14

Tỷ lệ
(%)
29%

5 – 10 năm

26

54%

11 – 15 năm

0

16 – 20 năm

0


21 – 25 năm

0

Trên 25 năm

8

Thông tin

Thâm niên công
tác (số năm làm
việc tại bệnh
viện)

17%

16


Biểu đồ số liệu thâm niên công tác của điều dưỡng, KTV, NHS tại các khoa lâm sàng
Nhận xét: Qua biểu đồ ta thấy, thâm niên công tác từ 5 đến 10 năm của điều dưỡng,
KTV, NHS chiếm tỷ lệ cao nhất 54%, đứng thứ 2 là dưới 5 năm chiếm 29%, trên 25 năm
chiếm 17%, thâm niên công tác trong khoảng từ 11 – 25 năm chiếm 0%.
Nhận xét:
4.2. Kiến thức về rửa tay thường quy của đối tượng nghiên cứu:
Từ ngày 05/04/2016 đến 08/04/2016 Khoa kiểm soát đã tổ chức tập huấn cho toàn
thể cán bộ nhân viên bệnh viện về các quy định vệ sinh tay. Sau khi can thiệp yếu tố tập
huấn tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y tế đã tăng như sau

Bảng 4.5. Kiến thức về tác dụng của RTTQ
Tác dụng của RTTQ
1. Rửa tay thường quy trong
chăm sóc bệnh nhân nhằm để
tránh lây nhiễm giữa NVYT với
bệnh nhân
2. NVYT tuân thủ đúng quy
trình rửa tay sẽ làm giảm nguy
cơ nhiễm khuẩn ở người bệnh và
chính bản thân mình
3. Rửa tay đúng quy trình là

Đúng
Trước
Sau
100%

100%

100%

100%

88%

91,6%

Kết quả
Không biết
Trước

Sau

4,2%

Sai
Trước Sau

12

4,2%
17


phương pháp đơn giản, hiệu quả
ít tốn kém để phòng ngừa NKBV
4. RTTQ loại bỏ hầu hết các vi
khuẩn thường trú trên da
5. NVYT cần rửa tay trước và
sau khi tiếp xúc với mỗi bệnh
nhân

79%

85.4%

82,4%

100%

9%


8.3%

12%

6.3%

17,6%

Biểu đồ hình cột so sánh kết quả “Đúng” về kiến thức RTTQ
Nhận xét: Qua biểu đồ ta thấy kiến thức về RTTQ của nhân viên y tế sau khi can
thiệp tập huấn và giám sát đã tăng lên đáng kể đặc biệt hiểu biết về tác dụng thứ (5) đã
tăng từ 82,4% lên 100%.
Bảng 3.6. Kiến thức về việc sắp xếp quy trình 6 bước RTTQ
Quy trình rửa tay

Đúng
Không đúng

Số lượng (n=48)
Trước
Sau
27
33
21
15

Tỷ lệ (%)
Trước
Sau

56%
69%
44%
31%

18


Nhận xét: Qua biểu đồ ta thấy kiến thức về việc sắp xếp quy trình 06 bước RTTQ đúng
tăng từ 56% lên 69%. Sắp xếp sai giảm từ 44% xuống 31%. Nhân viên y tế thường hay bị
nhầm giữa bước 2 và bước 3
Bảng 4.7. Kiến thức về Thời gian thích hợp cho một lần RTTQ với nước và xà
phòng và dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn/ cồn
Thời gian

Rửa tay với1. 5 – 15 giây
nước và xà2. 30 – 35 giây
phòng 3. 35 – 45 giây

4.
Rửa tay với5.
dung dịch 6.
chứa 7.
8.

Không biết
5 – 15 giây
30 – 35 giây
35 – 45 giây
Không biết


Số lượng
(n = 48)
Trước
Sau
1
13
8
34
40
7
36
5

3
43
2

Tỷ lệ
(%)
Trước
2%
27.%
71%

Sau
17%
83%

14.6%

75%
10.4%

6.3%
89,6%
4,1%

Biểu đổ so sánh kết quả rửa tay với nước và xà phòng

19


Biểu đồ so sánh kết quả rửa tay với dung dịch chứa cồn
Nhận xét: Qua biểu đồ ta thấy kiến thức về Thời gian thích hợp cho một lần RTTQ
với nước và xà phòng tăng từ 71% lên 83%. Với dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn/ cồn
tăng từ 75% lên 89,6%
4.3. Tuân thủ RTTQ của NVYT:
Bảng 4.8. Tỷ lệ tuân thủ RTTQ của NVYT theo 5 thời điểm của WHO
Tỷ lệ tuân
thủ
Cơ hội rửa tay
1. Trước khi tiếp xúc trực tiếp
với người bệnh
2. Trước khi làm thủ thuật vô
khuẩn
3. Sau khi tiếp xúc với bệnh
nhân
4. Sau khi tiếp xúc với máu
và dịch thể
5. Sau khi tiếp xúc với đồ

dùng, bề mặt vùng xung
quanh bệnh nhân
Tổng

Số cơ hội
(240

48
48
48
48
48

240
(100%)

Số cơ hội được tuân
thủ

Số cơ hội không
tuân thủ

Trước

Sau

Trước

Sau


19
(39.58%)
41
(85.41%)
25
(52.08%)
46
(95.83%)

20
(41.67%)
46
(95.83%)
29
(60.41%)
48
(100%)

29
(60.42%)
7
(14.59%)
23
(47.92%)
2
(4.17%)

28
(58,33)
2

(4.17%)
19
(39.59%)

3
(6.25%)

9
(18.75%)

45
(93.75%)

39
(81.25%)

0

134
152
106
88
(55.83%) (63.33%) (44.17%) (36.67%)

20


Biểu đồ “Số cơ hội được tuân thủ” của NVYT theo 5 thời điểm của WHO

Biểu đồ “Số cơ hội không được tuân thủ” của NVYT theo 5 thời điểm của WHO

Nhận xét: Qua hai biểu đồ ta thấy tỷ lệ tuân thủ các thời điểm vệ sinh tay sau khi
can thiệp yếu tố liên quan tăng từ 55.63% lên 63,33%. Tỷ lệ không tuân thủ giảm từ
44,17% xuống còn 36,67%. Các tỷ lệ tăng giảm không đáng kể.
Bảng 4.9. Thực hành RTTQ của nhân viên y tế

Thực hành RTTQ
Thực hành Đạt
Thực hành Không đạt

Số lượng
(n = 48)
Trước
Sau
26
31
22
17

Tỷ lệ
(%)
Trước
54,16%
45,84%

Sau
64,58%
35,42%

21



Biểu đồ thực hành RTTQ của NVYT
Nhận xét: Qua biểu đồ ta thấy tỷ lệ tuân thủ quy trình vệ sinh tay của nhân viên y tế sau
khi can thiệp yếu tố liên quan tăng khoảng 10% . Tuy nhiên tỷ lệ này còn thấp so với một
Số bệnh viện trong tỉnh.
4.4. Một số yếu tố liên quan đến sự tuân thủ RTTQ của NVYT:
4.4.1. Mối liên quan giữa thực hành rửa tay thường quy của nhân viên y tế với
chức danh và thâm niên công tác:
Bảng 4.10. Mối liên quan giữa thực hành RTTQ với chức danh
Thực hành
Chức danh
Điều dưỡng, y sỹ
KTV
NHS
Tổng

Chưa đạt
Trước
Sau
Trước
Sau
19
23
18
14
(51,35%) (62,16%) (48,65%) (37,84%)
1
1
1
1

(50%)
(50%)
(50%)
(50%)
6
7
3
2
(66,67%) (77,78%) (33,37%) (22,22%)
26
31
22
17
(54,16%) (64,58%) (45,84%) (35,42%)

Tổng

Đạt

N

%

37

77%

2

4.2%


9

18.8%

48

100%

22


Biểu đồ thực hành RTTQ “Đạt” theo chức danh
Nhận xét:

Biểu đồ thực hành RTTQ “Không đạt” theo chức danh
Nhận xét: Trong nghiên cứu, tỷ lệ điều dưỡng viên chiếm tỷ lệ cao nhất (77%),
nhưng tỷ lệ điều dưỡng viên thực hành rửa tay theo đúng quy định thấp chiếm 62,16%,
KTV thực hành rửa tay theo đúng quy định chiếm 50%, cao nhất là NHS chiếm 77,78
%.
Bảng 4.11. Mối liên quan giữa thực hành RTTQ với thời gian công tác

Thâm niên công
tác
Dưới 5 năm
5 – 10 năm
11 – 15 năm

Thực hành
Đạt

Trước
7
(50%)
17
(65,38%)

Sau
9
(64,28%)
19
(73,07%)

Chưa đạt
Trước
Sau
7
5
(50%)
(35,72%)
9
7
(34,62%) (26,93%)

Tổng
N

%

14


29%

26

54%

0
23


16 – 20 năm

0

21 – 25 năm

0

Trên 25 năm
Tổng

2
3
6
5
(25%)
(37.5%)
(75%)
(62.5%)
26

31
22
17
(54,16%) (64,58%) (45,84%) (35,42%)

8

17%

48

100%

Biểu đồ “Đạt” về mối liên quan giữa thực hành RTTQ với thời gian công tác
Nhận xét:

Biểu đồ “Chưa đạt” về mối liên quan giữa thực hành RTTQ với thời gian công tác

24


Nhận xét: Thâm niên công tác có tác động rõ nhất đến việc tuân thủ rửa tay của
NVYT. Ngược lại với quan điểm chung là càng làm việc lâu năm, NVYT sẽ càng cẩn
thận hơn và tuân thủ rửa tay đúng thời điểm, thì qua 02 lần nghiên cứu này phát hiện tỷ lệ
tuân thủ rửa tay theo đúng quy định nhiều nhất ở nhóm ≤ 10 năm công tác . Thâm niên
công tác ≥ 25 năm tuẩn thủ rửa tay theo đúng quy định chiếm tỷ lệ thấp nhất..

25



×