Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

TÁC ĐỘNG của DI cƣ nội địa tới đời SỐNG của NGƢỜI CAO TUỔI ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.02 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------------

TRẦN THỊ TRÚC

TÁC ĐỘNG CỦA DI CƢ NỘI ĐỊA TỚI ĐỜI SỐNG
CỦA NGƢỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM
CHU

N NG NH: KINH TẾ HỌC
M SỐ: 9310101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
N ƣờ

ƣớn

n

o

ọ :

PGS.TS. GIANG THANH LONG

H NỘI, 2018


i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi
phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Hà Nội, ngày
N

tháng

năm 2018

ên ứu s n

Trần T ị Trú


ii

LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới tập thể Ban Giám hiệu, các thầy,
các cô và các nhà khoa học của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đặc biệt là các
thầy, các cô của của Khoa Kinh tế học và Viện Sau Đại học đã tạo điều kiện thuận lợi
và hỗ trợ để tác giả hoàn thành luận án.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Giang Thanh Long
(Viện Chính sách Công và Quản lý, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân) đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình hoàn thành luận án.
Tác giả xin cảm ơn Ban Giám đốc và đồng nghiệp tại Học viện Chính sách và
Phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã tạo điều kiện và chia sẻ với tác giả trong quá
trình hoàn thành luận án.
Tác giả đặc biệt gửi lời tri ân tới toàn thể gia đình, người thân và bạn bè đã luôn

động viên khích lệ và tạo điều kiện thuận lợi để tác giả hoàn thành luận án.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày
N

tháng
ên ứu s n

Trần T ị Trú

năm 2018


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN..................................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG .......................................................................................................... v
DANH MỤC HÌNH ......................................................................................................... vii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN ..................................................... 5
1.1. Cơ sở lý t uyết về
ƣ và n ƣờ o tuổ .........................................................5
1.1.1. Các vấn đề cơ bản liên quan đến di cư .............................................................. 5
1.1.2. Các vấn đề cơ bản liên quan đến người cao tuổi ............................................14
1.2. Cá n ên ứu t ự n ệm về tá độn ủ
ƣ tớ đờ sốn n ƣờ
o

tuổ .............................................................................................................................. 15
1.2.1. Về khía cạnh kinh tế ........................................................................................16
1.2.2. Về khía cạnh sức khỏe ....................................................................................25
1.2.3. Về khía cạnh xã hội .........................................................................................32
1.3. Cá ả t uyết
1.4. K un p ân tí

o ọ ....................................................................................34
lý t uyêt ủ luận án ............................................................ 34

Kết luận ƣơn 1 ............................................................................................................ 36
CHƢƠNG 2 SỐ LIỆU V PHƢƠNG PHÁP NGHI N CỨU .................................. 38
2.1. Số l ệu ..................................................................................................................38
2.1.1. Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) .......................................38
2.1.2. Điều tra người cao tuổi Việt Nam (VNAS) năm 2011 ...................................39
2.2. P ƣơn p áp n ên ứu ..................................................................................40
2.2.1. Đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống kinh tế của NCT................40
2.2.2. Đánh giá tác động của di cư nội địa lên sức khỏe của NCT ........................... 46
2.2.3. Đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống xã hội của người cao tuổi
Việt Nam ...................................................................................................................49
Kết luận ƣơn 2 ............................................................................................................ 53
CHƢƠNG 3 THỰC TRẠNG DI CƢ NỘI ĐỊA, ĐẶC ĐIỂM V THỰC TRẠNG
ĐỜI SỐNG NGƢỜI CAO TUỔI CÓ CON DI CƢ NỘI ĐỊA ................................... 54
3.1. T ự trạn
ƣ nộ đị ở V ệt N m từ năm 1989 đến n y .......................... 54
3.1.1. Xu hướng di cư nội địa theo thời gian ............................................................ 54
3.1.2. Xu hướng di cư nội địa theo luồng di cư và loại hình di cư ........................... 55
3.1.3. Xu hướng di cư nội địa theo vùng và tỉnh.......................................................56
3.1.4. Đặc điểm của người di cư ...............................................................................61



iv

3.2. Đặ đ ểm ủ n ƣờ o tuổ V ệt N m............................................................ 65
3.2.1. Đặc điểm về nhân khẩu học của người cao tuổi Việt Nam ............................. 65
3.2.2. Đời sống vật chất và bảo trợ xã hội đối với người cao tuổi ............................ 66
3.2.3. Điều kiện nhà ở của người cao tuổi ................................................................ 68
3.2.4. Thực trạng sức khoẻ của người cao tuổi Việt Nam ........................................70
3.3. Thực trạng đời sống của người cao tuổi Việt Nam khi con cái di cư nội địa ....70
3.3.1. Khía cạnh kinh tế thông qua việc nhận tiền gửi ..............................................70
3.3.2. Tình hình sức khỏe của người cao tuổi khi con cái di cư nội địa ...................72
Kết luận C ƣơn 3 ........................................................................................................... 79
CHƢƠNG 4 KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ TỪ MÔ HÌNH NGHI N CỨU V MỘT SỐ
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ........................................................................ 81
4.1. Kết quả đán
á tá độn ủ
ƣ nộ đị lên đờ sốn NCT ....................81
4.1.1. Đời sống kinh tế .............................................................................................. 81
4.1.2. Kết quả đánh giá tác động của di cư nội địa lên sức khỏe của NCT ..............87
4.1.3. Kết quả đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống xã hội của NCT ....93
4.2. Một số p ân tí n oạ suy về tá độn ủ
ƣ nộ đị tớ đờ sốn NCT
đến năm 2017 .............................................................................................................96
4.3. G ả p áp n ằm ả t ện đờ sốn

o NCT V ệt N m, đặ b ệt là NCT ó

on
ƣ nộ đị ........................................................................................................97
4.3.1. Giải pháp nhằm nâng cao đời sống kinh tế và giảm nghèo ............................ 97

4.3.2. Giải pháp nhằm cải thiện sức khỏe .................................................................99
4.3.3. Giải pháp nhằm nâng cao đời sống xã hội ....................................................100
Kết luận ƣơn 4 .......................................................................................................... 102
KẾT LUẬN V ĐỊNH HƢỚNG NGHI N CỨU TIẾP THEO .............................. 105
1. Kết luận ................................................................................................................105
2. Địn ƣớn n ên ứu t ếp t eo ......................................................................106
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ Đ CÔNG BỐ................................ 107
DANH MỤC T I LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 108
PHỤ LỤC ........................................................................................................................ 116


v

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Giá trị tiền gửi theo loại hình di cư ............................................................ 39
Bảng 3.1. Dân số 5 tuổi trở lên chia theo loại hình di cư, 1989-2014 ........................54
Bảng 3.2. 10 tỉnh/ thành phố có tỷ suất nhập cư cao nhất ở Việt Nam qua các giai
đoạn ............................................................................................................57
Bảng 3.3: 10 tỉnh có tỷ suất xuất cư cao nhất qua các thời kỳ ở Việt Nam ................58
Bảng 3.4: 10 tỉnh có tỷ suất di cư thuần cao nhất qua các thời kỳ từ 2004-2014 ở
Việt Nam ....................................................................................................59
Bảng 3.5: Dân số từ 5 tuổi trở lên vào thời điểm 01/4/2009 và 01/4/2014 chia theo
nơi thực tế thường trú theo tỉnh/ thành phố. ...............................................60
Bảng 3.6: Tuổi trung bình và trung vị của người di cư theo giới tính và loại hình di
cư qua các giai đoạn từ 1999 to 2014 .........................................................61
Bảng 3.7: Cơ cấu giới tính của người di cư và không di cư qua ba cuộc khảo sát:
1999, 2009 và 2014. ...................................................................................62
Bảng 3.8: Tỷ lệ dân số từ 15-54 tuổi chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật và loại
hình di cư năm 2014. ..................................................................................63
Bảng 3.9: Tỷ lệ người di cư và không di cư sống trong các hộ gia đình có điều kiện

sống khác nhau ở hai cuộc khảo sát năm 2009 và năm 2014. ...................64
Bảng 3.10:
Bảng 3.11.
Bảng 3.12:
Bảng 3.13.
Bảng 3.14.
Bảng 3.15.
Bảng 3.16.

Đặc điểm xã hội, nhân khẩu học và sắp xếp cuộc sống của NCT. ............65
Tỷ lệ người cao tuổi sống trong hộ gia đình nghèo (đơn vị tính: %) .........67
Tỷ lệ (%) người cao tuổi được khảo sát theo tình trạng công việc ............67
Điều kiện nhà ở của các hộ có người cao tuổi (đơn vị tính: %) .................68
Phần trăm các hộ gia đình nhận được tiền gửi tính theo nguồn gốc tiền gửi...71
Phần trăm của giá trị tiền gửi tính theo nguồn gốc tiền gửi .......................71
Tình hình sức khỏe của người cao tuổi có con di cư nội địa và không có
con di cư nội địa .........................................................................................73
Bảng 3.17. Việc tham gia các tổ chức xã hội của người cao tuổi.................................75
Bảng 3.18. Việc nâng cao nhận thức xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng của NCT ........................................................................................... 77
Bảng 4.1. Mô tả thống kê các biến được sử dụng trong mô hình ............................... 81
Bảng 4.2. Kết quả ước lượng mô hình hồi qui 2SLS .................................................83
Bảng 4.3. Kết quả kiểm định Khi bình phương đối với sự bằng nhau về tỷ lệ nhóm
hộ có người cao tuổi có con di cư nội địa nhận được tiền gửi từ di cư nội
địa sống trong nhà tạm so với các nhóm hộ khác ......................................84


vi

Bảng 4.4. Kết quả kiểm định Khi bình phương đối với sự bằng nhau về tỷ lệ nhóm

hộ có người cao tuổi có con di cư nội địa nhận được tiền gửi từ di cư nội
địa không có nhà vệ sinh so với các nhóm hộ khác. ..................................85
Bảng 4.5.

Kết quả tính hệ số Gini trên thu nhập bình quân đầu người một tháng của hộ gia
đình NCT có con di cư nội địa trước và sau khi nhận tiền gửi từ di cư nội địa. ......85
Bảng 4.6. Sự dịch chuyển mức sống của các nhóm hộ gia đình trước và sau khi nhận
tiền gửi (%) .................................................................................................86
Bảng 4.7. Mô tả thống kê các biến trong mô hình ......................................................87
Bảng 4.8. Kết quả ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến biến con cái di cư nội địa ..88
Bảng 4.9. Kết quả đánh giá tác động của con cái di cư lên sức khoẻ thể chất và tinh
thần của NCT ............................................................................................. 91
Bảng 4.10. Mô tả thống kê các biến được sử dụng trong mô hình ............................... 93
Bảng 4.11. Kết quả đánh giá tác động của di cư nội địa lên các khía cạnh của đời
sống xã hội của người cao tuổi ...................................................................94


vii

DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1.
Hình 3.1.

Khung phân tích của luận án ......................................................................35
Tỷ lệ người di cư trong 5 năm chia theo luồng di cư và loại hình di cư,

Hình 3.2.

1999- 2014. .................................................................................................55
Thể hiện giá trị trung bình của tiền gửi theo loại hình di cư. .....................72



1

MỞ ĐẦU
1. Lý o lự

ọn đề tà

Với những thành công vượt bậc trong việc thực hiện chính sách kế hoạch hóa
gia đình trong nhiều thập kỷ qua, dân số Việt Nam đang tiến dần về giai đoạn cuối của
“quá độ dân số” mà ở đó tỷ suất sinh giảm nhanh và tuổi thọ ngày càng được cải thiện
(Giang và Pfau, 2010). So với các quốc gia phát triển thì Việt Nam sẽ đối mặt với tốc
độ già hóa nhanh hơn gấp hai lần trong bốn thập kỷ tới đây. Cụ thể, tỷ lệ người cao
tuổi (NCT) từ 65 tuổi trở lên ở Việt Nam sẽ tăng gấp đôi (từ 7% lên 14%) trong thời
gian chưa tới 20 năm, trong khi các nước phát triển (như Thụy Điển, Pháp, Mỹ…) phải
mất từ 75 đến 100 năm (Barbieri, 2006). Báo cáo của Quỹ Dân số Liên hợp quốc
(UNFPA, 2011) cho thấy, Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn “bắt đầu già” từ
năm 2011 khi tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên chạm ngưỡng 7%.
Cùng lúc đó, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh cũng đã làm cho việc
sắp xếp cuộc sống của người cao tuổi (sau đây được viết tắt là NCT) thay đổi nhanh
chóng, đặc biệt là NCT ở khu vực nông thôn – nơi có tới gần 70% dân số cao tuổi đang
sinh sống (UNFPA, 2011). Trước đây, mẫu gia đình truyền thống, đặc biệt là các gia đình
ở khu vực nông thôn, là gia đình có nhiều thế hệ cùng sinh sống và chia sẻ nguồn lực. Tuy
nhiên, sự thay đổi từ mẫu gia đình truyền thống sang mẫu gia đình hạt nhân (đặc biệt là
gia đình chỉ có hai vợ chồng cao tuổi sống với nhau hoặc chỉ có ông bà sống với cháu,
chắt) lại ngày càng rõ rệt. Một trong những yếu tố làm thay đổi cuộc sống NCT, đặc biệt
là NCT ở khu vực nông thôn, là việc di cư của những người con trong độ tuổi lao động
nhằm mục đích chính là tìm kiếm các cơ hội phát triển kinh tế. Ở Việt Nam, tốc độ di cư,
đặc biệt là di cư nội địa, diễn ra nhanh chóng kể từ giữa những năm 1990 đến nay. Theo

Tổng cục Thống kê (2012), trong giai đoạn 1999-2009, tỷ lệ di cư liên vùng đã tăng gần
1,5 lần (từ 19 người/1000 dân vào năm 1999 tăng lên 30 người/1000 dân vào năm 2009)
và con số này ngày càng tăng trong những năm gần đây. Theo Tổng cục Thống kê (2016),
trong số hơn 83 triệu dân từ 5 tuổi trở lên tại thời điểm 01/4/ 2014, trong vòng 5 năm
trước thời điểm điều tra thì có 1,7% (tương ứng với 1,4 triệu người) di cư trong huyện;
2% (tương ứng với 1,6 triệu người) di cư giữa các huyện; và 3,1% (tương ứng với 2,6
triệu người) di cư giữa các tỉnh.
Vấn đề di cư để kiếm sống của con cái có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của những
người ở lại quê nhà, đặc biệt là cha, mẹ cao tuổi của họ. Nhìn chung, người lao động di cư
sẽ có đóng góp tích cực về mặt kinh tế cho gia đình thông qua tiền và hiện vật mà họ gửi về
cho người thân và qua đó cũng góp phần đảm bảo thu nhập cũng như có điều kiện nâng cao


2
sức khỏe cho cha, mẹ già và những người trong gia đình ở lại quê nhà (ví dụ, xem nghiên
cứu của Cameron và Cobb-Clark (2005) về người cao tuổi ở Indonesia; Giles và Mu (2006)
về người cao tuổi ở khu vực nông thôn Trung Quốc; Chandore (2009) về đời sống của
người cao tuổi ở Cambodia). Tuy vậy, việc con cái - lực lượng lao động chính trong gia
đình - đi xa đã để lại không ít các tác động bất lợi cho cha, mẹ già ở quê của họ như sự lo
lắng cho cuộc sống bấp bênh của con cái họ nơi đô thị, cảm giác cô đơn tuổi già khi con cái
đi xa, phải gánh vác thêm công việc gia đình và xã hội thay con, hay không có người giúp
đỡ công việc đồng áng... (ví dụ, xem nghiên cứu của Gautam (1999) về mối quan hệ giữa
người di cư với người cao tuổi ở Nepal; HelpAge International Moldova (2010) về tác động
của di cư đến người cao tuổi ở Moldova; Antman (2011) nghiên cứu về tác động của con
cái di cư ra sang Mỹ đến đời sống của người cao tuổi ở Mexico).
Cho đến nay, ở Việt Nam cũng đã có một số các nghiên cứu nhằm đánh giá tác
động của việc con cái di cư, nhưng các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc đánh
giá vai trò của tiền gửi về từ con cái đi làm xa đối với cuộc sống của cha, mẹ cao tuổi
của họ. Ví dụ, nghiên cứu của Barbieri (2006) cho thấy rằng việc con cái di cư đi làm
ăn xa được kỳ vọng là có những ảnh hưởng tích cực đáng kể và đa chiều lên cuộc sống

của cha, mẹ già ở nông thôn ở Việt Nam - nơi mà các khoản an sinh xã hội cho NCT
còn ít và trách nhiệm chăm sóc NCT phần lớn vẫn là từ người thân trong gia đình và
cộng đồng. Phân tích của Giang và Pfau (2008) cho thấy việc nhận tiền gửi từ con cái
và các chương trình an sinh xã hội đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong giảm
nghèo cho NCT, đặc biệt là những người ở khu vực nông thôn. Tiếp đó, Giang và Pfau
(2010) kết luận thêm rằng việc sống cùng con cái hay nhận tiền gửi về từ con cái di cư
(kể cả di cư nội địa và di cư quốc tế) đang ngày càng giúp NCT giảm nghèo và cải
thiện cuộc sống. Nguyễn Việt Cường (2008) chứng minh rằng việc nhận tiền gửi cả từ
di cư ra nước ngoài và trong nước đều làm tăng thu nhập và chi tiêu, đặc biệt là chi
tiêu cho hàng hóa phi lương thực của người nhận tiền gửi (trong đó có NCT). Lê và
Nguyễn (2011) cho rằng, việc di cư của con cái có khả năng cải thiện tốt hơn thu nhập
và điều kiện sống của cha, mẹ và những người thân còn lại ở quê nhà thông qua những
khoản tiền và hàng hóa gửi về, nhưng nghiên cứu này không phân tích rõ là cha, mẹ họ
được hưởng bao nhiêu từ tiền do con cái họ gửi về và ảnh hưởng của người di cư lên
sức khỏe và đời sống tinh thần của cha, mẹ già ở quê như thế nào. Nhìn chung, những
nghiên cứu này mới chỉ tập trung chủ yếu vào tác động của tiền gửi tới giảm nghèo và
bình đẳng chứ chưa đánh giá một cách toàn diện về cả khía cạnh kinh tế, sức khỏe và
xã hội của tác động của di cư tới đời sống của các đối tượng trong gia đình, trong đó
có NCT với tư cách là một trong những nhóm dân số dễ bị tổn thương.


3
Có thể nói, những nghiên cứu hiện có về Việt Nam chưa làm rõ được tác động
của việc con cái di cư, đặc biệt là di cư trong nước lên đời sống của cha, mẹ cao tuổi ở
quê một cách toàn diện về cuộc sống vật chất và tinh thần. Trong bối cảnh dân số già
hóa nhanh, đời sống NCT có nhiều thay đổi với nhiều rủi ro về kinh tế, xã hội và sức
khỏe, cũng như xu hướng di cư nội địa ngày càng mạnh và tác động lớn, tác giả lựa
chọn đề tài “Tác động của di cư nội địa tới đời sống của người cao tuổi ở Việt Nam”
nhằm cung cấp những bằng chứng khoa học cho việc hoạch định chính sách liên quan
tới người lao động di cư, đặc biệt là di cư nội địa và NCT ở Việt Nam.

Luận án sẽ sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm đánh giá tác
động của việc di cư nội địa của con cái lên đời sống của người cao tuổi ở quê nhà lên
cả ba khía cạnh: (1) ảnh hưởng về khía cạnh kinh tế của NCT (cụ thể là giảm nghèo và
vấn đề bình đẳng về phân chia thu nhập, điều kiện nhà ở); (2) ảnh hưởng về mặt sức
khỏe của NCT (bao gồm có sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần) và (3) ảnh hưởng
tới đời sống xã hội của NCT (cụ thể là tham gia các hoạt động cộng đồng, tổ chức
chính trị - xã hội tại địa phương hay tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng). Từ
kết quả nghiên cứu, luận án sẽ cung cấp các cơ sở khoa học nhằm đưa ra các giải pháp
liên quan đến người lao động di cư và an sinh xã hội cho NCT khi con cái vắng nhà.

2. Mụ t êu n

ên ứu

2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của luận án này là phân tích xem việc con cái di cư trong nước
sẽ tác động như thế nào đến đời sống của cha mẹ cao tuổi ở quê nhà theo các khía cạnh
kinh tế, tình trạng sức khỏe và đời sống xã hội.

2.2. Mục tiêu cụ thể
Để thực hiện được mục tiêu chung, luận án sẽ:
- Tổng hợp lý thuyết về di cư, người cao tuổi, vai trò của tiền gửi của người di
cư đối với người nhận tiền gửi, các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của việc con
cái di cư lên thu nhập, sức khỏe và đời sống xã hội của cha, mẹ cao tuổi ở quê nhà.
- Phân tích thực trạng di cư nội địa, đặc điểm của NCT Việt Nam và thực trạng
ảnh hưởng của con cái di cư nội địa đến đời sống kinh tế, sức khỏe và đời sống xã hội
của NCT.
- Vận dụng phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm phân tích tác động của
con cái di cư nội địa lên đời sống của NCT ở quê nhà về các khía cạnh kinh tế, sức



4
khỏe và xã hội để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao đời sống cho người
cao tuổi, đặc biệt là NCT ở khu vực nông thôn Việt Nam.
3. Đố tƣợn , p ạm vi và âu ỏ n

ên ứu.

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án này đánh giá tác động của lao động di cư nội địa lên cuộc sống của
NCT ở quê nhà ở các khía cạnh kinh tế, sức khỏe và xã hội.

3.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tác động của lao động di cư nội địa ở Việt Nam đến đời sống NCT
Việt Nam ở ba khía cạnh kinh tế, sức khỏe và xã hội trong các năm 2011 và 2012.
4. P ƣơn p áp n

ên ứu

Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu nêu trên, luận án sẽ sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau đây.
Phương pháp nghiên cứu tại bàn (rà soát tài liệu, dữ liệu hiện có): Là
phương pháp tổng hợp, phân tích và đánh giá một cách có hệ thống các nghiên cứu lý
thuyết cũng như các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa người di cư và
những thành viên gia đình còn lại ở quê nhà, đặc biệt là NCT. Sau khi thực hiện phần
nghiên cứu tổng quan, tác giả sẽ tìm ra khoảng trống nghiên cứu và từ đó xây dựng
khung lý thuyết nhằm đánh giá tác động của di cư nội địa lên đời sống NCT Việt Nam
trên cả ba khía cạnh: kinh tế, sức khỏe và xã hội.
Phương pháp phân tích thống kê: Dựa trên các số liệu thống kê thứ cấp, luận
án sẽ phân tích đặc điểm của người di cư và thực trạng di cư nội địa ở Việt Nam, cũng

như phân tích đặc điểm nhân khẩu học và đời sống của NCT Việt Nam khi con cái di
cư nội địa.
Phương pháp mô hình hóa: Luận án sẽ xây dựng mô hình kinh tế lượng nhằm
xác định các yếu tố liên quan tới việc con cái di cư nội địa và các yếu tố đặc điểm của
NCT có con di cư nội địa (như tuổi tác, giới tính, trình độ học vấn, địa bàn sinh sống,
tình trạng hôn nhân) có thể tác động lên cuộc sống của NCT ở cả ba khía cạnh cần
được nghiên cứu. Dựa trên các số liệu thống kê thứ cấp, tác giả sẽ phân tích tác động
của con cái di cư lên đời sống NCT ở cả ba khía cạnh kinh tế, sức khỏe và xã hội. Để
đảm bảo được sự thống nhất về thông tin theo thời gian, luận án sử dụng hai bộ số liệu,
gồm có: Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) năm 2012 và Điều tra
Người cao tuổi Việt Nam (VNAS) năm 2011.


5

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN
Trong Chương này, luận án sẽ trình bày cơ sở lý thuyết về di cư, người cao tuổi
và tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của di cư đến đời sống của
người cao tuổi.

1.1. Cơ sở lý t uyết về

ƣ và n ƣờ

o tuổ

1.1.1. Các vấn đề cơ bản liên quan đến di cư
1.1.1.1. Khái niệm về di cư, người di cư
Di cư là một hiện tượng phổ biến diễn ra ở tất cả các quốc gia nên có nhiều nghiên

cứu cả quốc tế và trong nước về vấn đề này và đã đưa ra một số khái niệm như sau:
Khái niệm về di cư
Trong báo cáo Phát triển Con người (HDR) năm 2009, UNDP định nghĩa di cư
là hiện tượng người lao động sẽ di cư từ nơi có nền kinh tế phát triển thấp sang nơi có
nền kinh tế phát triển cao hơn. Trên thực tế, người lao động di cư không chỉ ra nước
ngoài mà con di cư trong nước.
Tuy nhiên, theo Tổng Cục Thống Kê Việt Nam và UNFPA (2016) nêu ra khái
niệm về di cư “là sự di chuyển của con người từ một đơn vị hành chính này đến một
đơn vị hành chính khác, đó là chuyển đến một xã khác, huyện khác, thành phố hoặc
một tỉnh khác trong một khoảng thời gian nhất định” (trang 8).
Khái niệm về người di cư
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam và UNFPA (2016) thì “Người di cư là
người di chuyển từ huyện/ quận này sang huyện/quận khác trong vòng 5 năm trước
thời điểm điều tra và thỏa mãn một trong ba điều kiện sau: (1) Đã cư trú ở nơi điều tra
từ 1 tháng trở lên; (2) Cư trú ở nơi điều tra mới dưới 1 tháng nhưng có ý định ở từ 1
tháng trở lên; (3) Cư trú ở nơi điều tra mới dưới 1 tháng nhưng trong vòng 1 năm qua
đã rời khỏi nơi thường trú đến ở một quận/huyện khác với thời gian tích lũy từ 1 tháng
trở lên để lao động kiếm tiền” (trang 1).

1.1.1.2. Các loại hình di cư
Theo UNDP (2009), những người di cư bao gồm di cư quốc tế diễn ra giữa
những người lao động từ các nước đang phát triển đến các nước phát triển, từ các nước
đang phát triển đến các nước đang phát triển, giữa các nước phát triển và di cư nội địa


6
diễn ra trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Tuy nhiên, trong phạm vi luận án, tác
giả chỉ quan tâm phân tích dòng di cư nội địa. Việc phân loại các loại hình di cư nội
địa ở Việt Nam được trình bày ở Tổng Cục Thống Kê Việt Nam và UNFPA (2016)
theo hai cách như sau:

(1)
Cách phân loại di cư theo cấp hành chính gồm có: (i) Di cư giữa các vùng: bao
gồm những người từ 5 tuổi trở lên hiện đang sống ở Việt Nam và cách 5 năm trước
thời điểm Tổng điều tra dân số và nhà ở sống ở vùng khác với vùng hiện đang cư trú;
(ii) Di cư giữa các tỉnh: bao gồm những người từ 5 tuổi trở lên hiện đang sống ở Việt
Nam và 5 năm trước thời điểm Tổng điều tra dân số và nhà ở sống ở tỉnh khác với tỉnh
hiện đang cư trú; (iii) Di cư giữa các huyện: bao gồm những người từ 5 tuổi trở lên và
cách 5 năm trước thời điểm Tổng điều tra dân số và nhà ở sống trong cùng tỉnh nhưng
khác quận/ huyện so với nơi thường trú hiện tại; (iv) Di cư trong huyện: bao gồm
những người từ 5 tuổi trở lên và cách 5 năm trước thời điểm Tổng điều tra dân số và
nhà ở sống trong cùng quận/ huyện nhưng khác xã/phường/thị trấn so với nơi thường
trú hiện tại;
(2)

Cách phân loại theo dòng di cư giữa nông thôn và thành thị: (i) Di cư từ khu

vực nông thôn đến nông thôn (NT-NT); (ii) Di cư từ khu vực nông thôn đến thành thị
(NT-TT); (iii) Di cư từ khu vực thành thị đến nông thôn (TT-NT); và (iv) Di cư từ
khu vực thành thị đến thành thị (TT-TT).

1.1.1.3. Nguyên nhân di cư
Di cư là một hiện tượng phổ biến ở các nước đang phát triển- nơi mà quá trình
công nghiệp hóa và đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng – nên đã có một số lý thuyết
nghiên cứu nguyên nhân của di cư mà trong đó tiêu biểu là lý thuyết hai khu vực kinh
tế của Lewis (1954) và lý thuyết về di cư của Todaro (1969). Cả hai lý thuyết này đều
nghiên cứu hiện tượng di cư từ các nhân tố „đẩy‟ (khu vực nông thôn với năng suất lao
động, thu nhập thấp và thiếu đất canh tác) và các nhân tố „hút‟ (khu vực thành thị với
thu nhập, cơ hội việc làm cao hơn).
Theo Lewis (1954), việc di cư của người lao động từ nông thôn lên thành thị
chủ yếu là vì sự chênh lệch về tiền lương thực tế giữa hai khu vực. Khu vực thứ nhất là

nông thôn với lao động nông nghiệp truyền thống có dư thừa nhiều lao động và năng
suất biên của lao động bằng không nên tiền lương trong khu vực nông nghiệp rất thấp
được xác định dựa trên sản phẩm lao động trung bình của khu vực nông nghiệp. Khu
vực thứ hai là khu vực công nghiệp đô thị hiện đại với năng suất lao động cao, được
hưởng lợi ích kinh tế nhờ qui mô có và nhiều việc làm nhưng lại thiếu người lao động.


7
Lewis đã giả thiết rằng cơ hội việc làm và lương ở khu vực thành thị cao hơn ở khu
vực nông thôn nên lao động ở khu vực nông thôn có xu hướng di cư ra khu vực công
nghiệp thành thị. Quá trình di cư sẽ tiếp tục cho đến khi không còn sự khác nhau về
thu nhập giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị nữa. Tuy nhiên, Todaro (1969)
lại cho rằng, ở các nước kém phát triển việc lao động di cư từ nông thôn lên thành thị
như trên mới chỉ là hiện tượng di cư một chiều và người lao động di cư từ nơi có công
việc ở khu vực nông thôn với năng suất lao động và thu nhập thấp sang khu vực thành
thị có công việc với năng suất lao động và thu nhập cao. Tuy vậy, trên thực tế, việc
một người di cư từ nông thôn với kỹ năng tay nghề thấp sẽ rất khó tìm được việc ở khu
vực thành thị đòi hỏi trình độ chuyên môn và kỹ năng tay nghề cao. Tác giả cho rằng ở
các nước kém phát triển thì lao động di cư sẽ tuân theo hai giai đoạn như sau: giai
đoạn thứ nhất là người lao động nông thôn với trình độ và kỹ năng tay nghề thấp ban
đầu sẽ tìm việc ở khu vực “truyền thống thành thị” và giai đoạn thứ hai sẽ tìm việc ở
khu vực hiện đại hơn. Vì vậy, người lao động sẽ quyết định di cư lên thành phố dựa
trên việc phân tích các cơ hội việc làm sẵn có trên hai thị trường lao động tướng ứng
và quyết định trên cơ sở tối đa hóa thu nhập kỳ vọng được xác định dựa trên chênh
lệch giữa thu nhập thực tế bình quân việc làm giữa nông thôn và thành thị cũng như
khả năng kiếm được việc làm trên thị trường lao động thành thị.
Ngoài ra, có một số nghiên cứu khác phát hiện nguyên nhân di cư như sau:
* Nguyên nhân di cư từ khía cạnh kinh tế:
Pfau và Giang (2010) tổng hợp các trường phái lý thuyết xác định nguyên nhân
di cư từ khía cạnh kinh tế như sau: (i) Lý thuyết kinh tế học Tân Cổ điển (The

Neoclassical Economic Theory) cho rằng nguyên nhân của việc di cư là do sự chênh
lệch về lương nên dòng người sẽ di cư thuần từ nơi có lương thấp sang nơi có lương
cao; (ii) Lý thuyết kinh tế học mới về di dân (the New Economics of Migration) đã áp
dụng lý thuyết trên khi nghiên cứu nguyên nhân di cư của các hộ gia đình và cho rằng
di cư là một trong những giải pháp nhằm đa dạng hóa nguồn thu nhập và giảm thiểu
rủi ro cho gia đình. Cụ thể, di cư được xem như một nguồn bảo hiểm đương đầu với
các cú sốc khi chúng chưa được bảo hiểm trên thực tế, vì vậy tiền gửi có vai trò quan
trọng đối với các gia đình khi đưa ra các quyết định di cư ngay cả khi không có sự
chênh lệch về thu nhập giữa nơi đi và nơi đến; (iii) Lý thuyết về thị trường lao động
kép (The Dual Labour-market Theory) cho rằng nguyên nhân của việc di cư là do nhu
cầu ngày càng tăng của các nước tiếp nhận di cư đối với người lao động nước ngoài;
và (iv) Lý thuyết về Các hệ thống thế giới (Theory of The World Systems) nêu rằng


8
hoạt động đầu tư nước ngoài dẫn đến lao động di cư nhằm xóa bỏ nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu ở các nước đang phát triển.
* Nguyên nhân của di cư cả từ hai khía cạnh “nhân tố hút” và “nhân tố đẩy”:
UNDP (2009) nêu nguyên nhân của việc người lao động di cư cả quốc tế và
trong nước cả từ khía cạnh „nhân tố hút‟ là nhằm tìm kiếm thu nhập cao hơn, có điều
kiện tiếp cận giáo dục và y tế tốt hơn và có triển vọng hơn cho tương lai con cái họ; và
cả từ khía cạnh „nhân tố đẩy‟ vì di cư là chiến lược sống còn của các hộ gia đình nhằm
tìm cách đa dạng hóa và cải thiện sinh kế của họ.
Khi nghiên cứu cho quá trình đô thị hóa ở Trung Quốc, Zhang và cộng sự
(2003) đã chỉ ra rằng, nguyên nhân chính của lao động di cư từ nông thôn ra thành
thị là sự chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Chênh lệch thu nhập
ngày càng tăng do tăng trưởng kinh tế đã làm cho lao động di cư từ nông thôn ra
thành thị ngày càng tăng. Bằng việc phân tích chuỗi số liệu chéo, các tác giả đã
chứng minh rằng quá trình di cư trong tỉnh và ngoài tỉnh đều có nguyên nhân từ
chênh lệch thu nhập. Ngoài ra, dân số khu vực thành thị cũng có ảnh hưởng đáng kể

lên di cư trong nội tỉnh đó.
Fan và cộng sự (2008) chứng minh rằng ở các nước đang phát triển sẽ xảy ra
hiện tượng lực lượng lao động có trình độ ở khu vực nông thôn sẽ di cư ra thành phố
do mức lương của khu vực thành phố dành cho người có trình độ cao sẽ cao hơn lương
của khu vực nông thôn dành cho họ. Việc di cư của lao động có trình độ ra khu vực
thành phố sẽ làm cho lương của lao động thiếu tay nghề ở khu vực nông thôn thấp hơn
tương đối và điều này cũng khuyến khích những lao động này di cư ra thành phố ngày
càng tăng nhằm tìm kiếm việc làm với thu nhập cao hơn ở khu vực thành phố. Quá
trình di cư của lao động thiếu kỹ năng ở khu vực nông thôn sẽ dừng khi mức lương ở
hai khu vực dành cho họ bằng nhau.
Ngoài ra, một số nghiên cứu khác còn chứng minh rằng ngoài chênh lệch về thu
nhập giữa hai khu vực thì cơ hội tìm kiếm việc làm, cầu về lao động ở khu vực công
nghiệp cao, điều kiện tốt hơn để tiếp cận các dịch vụ văn hóa, y tế ở nơi thành thị cũng
là những yếu tố hấp dẫn người lao động di cư từ khu vực nông thôn lên thành thị ở các
nước đang phát triển (Fields, 1975; Renard, 1984; Williamson, 1988).
* Nguyên nhân của di cư chỉ từ các “nhân tố đẩy”:
Gallina (2007) nghiên cứu hiện tượng di cư phổ biến ở Ecuador và cho thấy
rằng do đời sống của người di cư cũng như gia đình họ quá khó khăn, thu nhập thấp và
thiếu việc làm ở khu vực nông thôn nên người di cư mong muốn lên thành phố và


9
những vùng động lực kinh tế nhằm tìm kiếm việc làm với thu nhập cao hơn để có điều
kiện cải thiện cuộc sống bản thân và gia đình ở quê nhà. Mặt khác, người di cư cũng
có đóng góp rất lớn cho nền kinh tế như tiền gửi của họ là một khoản thu ngân sách
lớn giúp chính phủ thanh toán nợ, góp phần hỗ trợ nhằm phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ thông qua các dự án phát triển tại địa phương.
Lucas và Stark (2011) căn cứ trên quan điểm của kinh tế học di dân mới nhằm
giải thích một trong những nguyên nhân của người lao động di cư là muốn giúp đỡ và
góp phần chăm sóc người thân ở lại đặc biệt là đối với các gia đình đa thế hệ thông

qua tiền gửi, ngoài ra người di cư còn gửi tiền về nhà vì tính vụ lợi, quan tâm đến khả
năng được hưởng tài sản thừa kế sau này và gây dựng tài sản như nhà cửa, đất đai để
họ trở về trong tương lai. Nhìn chung, việc gửi tiền về là một phần trong “hợp đồng tự
nguyện” được thiết lập giữa người di cư và những người ở lại trong gia đình mà ở đó
những người tham gia “hợp đồng” đều đạt được hiệu quả Pareto và họ coi tiền gửi như
một trong những cách để giảm thiểu rủi ro tài chính và việc di cư là một dự án đầu tư
cho tương lai được đặt ra trong chiến lược di cư.
Lucas and Stark (1988) và Antman (2012) cho rằng một trong những nguyên
nhân để người lao động di cư là nhằm gửi tiền về với mục đích thanh toán cho người
thân về những khoản tiền mà người thân trong gia đình, đặc biệt là cha, mẹ của họ đã
đầu tư trong ngắn hạn và dài hạn cho họ để họ được học tập, trưởng thành và di cư.
Tuy nhiên, nghiên cứu của Rapoport và Docquier (2005) còn đưa thêm những lý do
mang bản chất kinh tế hơn là người gửi tiền nhằm “trả công” cho việc người nhận tiền
về việc chăm sóc người thân, trông coi tài sản của người gửi, hoặc trả ơn cho người
nhận vì đã nuôi dưỡng, giáo dục cũng như chi phí đã bỏ ra để người gửi được di cư,
hay vì mục đích được hưởng tài sản thừa kế sau này. Nghiên cứu còn cho biết thêm
rằng tiền gửi về cũng là một nguồn thu nhập nhằm giúp các gia đình ở những vùng hay
có thiên tai giảm thiểu các rủi ro do thiên tai hay hiểm họa gây ra.
* Nguyên nhân của di cư từ các “nhân tố hút”:
Harris và Todaro (1970) nghiên cứu và xây dựng mô hình giải thích nguyên
nhân của quá trình di cư ở các nước kém phát triển, đặc biệt là các nước ở khu vực
Châu Phi nhiệt đới. Ở đây, các tác giả nghiên cứu trong bối cảnh tương đối khác với
các nghiên cứu của Lewis (1954) và Todaro (1969), đó là người lao động di cư từ khu
vực nông thôn với sản phẩm biên trong khu vực nông nghiệp luôn dương và khu vực
nông thôn không có dư thừa lao động ra khu vực thành thị với tỷ lệ thất nghiệp nhất
định nhưng có lực hút của cuộc sống nơi đô thị. Vì vậy, để xây dựng mô hình hai khu
vực của di cư nông thôn-thành thị, các tác giả đưa ra một số giả định rằng: thứ nhất,


10

quá trình di cư từ nông thôn ra thành thị sẽ còn tiếp diễn khi thu nhập thực tế kỳ vọng
biên ở khu vực thành thị lớn hơn sản phẩm biên của khu vực nông nghiệp và người lao
động di cư tiềm năng hành động nhằm tối đa hóa mức thỏa dụng kỳ vọng; thứ hai,
tổng lực lượng lao động ở khu vực thành thị sẽ bao gồm những người lao động hiện có
của khu vực thành thị không có liên quan đến khu vực nông thôn cộng với lượng lao
động sẵn sàng di cư từ khu vực nông thôn lên; thứ ba, quá trình lựa chọn việc làm
ngẫu nhiên định kỳ sẽ tồn tại khi số người tìm việc vượt quá số việc làm sẵn có và
mức lương khu vực thành thị kỳ vọng sẽ bằng lương tối thiểu cố định khu vực thành
thị (mức lương này sẽ cao hơn thu nhập ở khu vực nông thôn) nhân với tỷ lệ lao động
tìm được việc ở khu vực thành thị. Từ các giả thiết trên, các tác giả đã chứng minh
rằng sự chênh lệch về thu nhập kỳ vọng giữa khu vực nông thôn và thành thị là lực hút
làm cho lao động di cư từ nông thôn ra thành thị. Người lao động sẽ cân nhắc các lợi
ích và chi phí của việc di cư và việc di cư sẽ phụ thuộc vào chênh lệch thu nhập kỳ
vọng giữa khu vực nông thôn và thành thị chứ không phải là chênh lệch thu nhập thực
tế giữa hai khu vực này.
Nhìn chung, theo các lý thuyết về di cư trên đây thì việc người lao động di cư
đều xuất phát từ mục đích kinh tế và có thể từ cả các “nhân tố hút” (đó là cơ hội có
việc làm, mức lương và cơ hội phát triển bản thân ở khu vực có nền kinh tế phát triển)
và các “nhân tố đẩy” (đó là khu vực có năng suất lao động thấp, thiếu cơ hội phát triển
và thu nhập thấp, không có việc làm).
* Một số nghiên cứu về di cư từ nông thôn ra thành thị ở Việt Nam với nguyên
nhân từ “nhân tố hút” và/hoặc “nhân tố đẩy” như sau:
Đặng Nguyên Anh (1997) phân tích rằng di cư từ nông thôn ra thành thị ở Việt
Nam đều có nguyên nhân từ cả hai phía, đó là từ “nhân tố đẩy” (khu vực nông thôn với
nghề nông, thu nhập thấp và cuộc sống nghèo nàn) và “nhân tố hút” (khu vực thành thị
có cơ hội việc làm với mức thu nhập cao hơn và cuộc sống tốt đẹp hơn).
Jean-Marie Cour (2001) phân tích rằng di dân và di chuyển lao động đều có
nguyên nhân liên quan đến các yếu tố “đẩy” ở nơi xuất cư và các yếu tố “hút” ở nơi
nhập cư. Tác giả nêu hai nhóm nguyên nhân chính của quá trình di cư là nhóm nguyên
nhân kinh tế và nhóm nguyên nhân xã hội. Trong đó, nhóm nguyên nhân kinh tế bao

gồm: thứ nhất là sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế giữa các vùng,
giữa khu vực nông thôn và thành thị tạo nên sự chênh lệch lớn về thu nhập; thứ hai là
do khu vực nông thôn đông dân, thiếu tư liệu sản xuất, thiếu đất nông nghiệp canh tác
tạo nên hiện tượng dư thừa lao động. Nhóm nguyên nhân xã hội bao gồm: thứ nhất là
vì mục đích đoàn tụ gia đình, học tập; thứ hai là do sự khác biệt về trình độ phát triển


11
cơ sở hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, trình độ dân trí, các điều kiện học tập, chăm sóc
sức khỏe, hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật…. giữa nơi đi và nơi đến; thứ ba là do một bộ
phận dân cư trẻ tuổi muốn rời quê hương đi tới miền đất mới nhằm tìm kiếm cơ hội
phát triển bản thân về kinh tế và văn hóa.
Zhang và cộng sự (2001) đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính nhằm
phân tích xu hướng di cư chủ yếu của người Việt Nam qua các thời kỳ. Các tác giả đã
chứng minh rằng, trong giai đoạn từ khi Nhà nước thực hiện chính sách “Đổi mới” thì
dòng di cư từ nông thôn lên thành thị xuất phát từ cả phía nông thôn “nhân tố đẩy” do
cuộc sống người lao động và những người trong gia đình nghèo khổ, thiếu đất canh tác
và các nguồn lực để sản xuất, người lao động thiếu việc làm và dân số khu vực nông
thôn đông và cả từ phía thành thị “nhân tố hút” như cơ hội tìm việc làm ở thị trường
lao động phi chính thức khu vực thành phố, sự chênh lệch về thu nhập và mức sống
giữa thành thị và nông thôn.
Brauw và Harigaya (2007) đã áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với
hai bộ dữ liệu Điều tra mức sống Việt Nam (VLSS) năm 1993 và năm 1998 và kết luận
rằng người lao động di cư từ nông thôn lên thành thị nhằm tăng thêm thu nhập và cải
thiện cuộc sống bản thân cũng như gia đình. Nghiên cứu còn cho biết thêm là các gia
đình có người di cư theo mùa vụ thường có thu nhập thấp hơn các gia đình khác.
Sang (2007) đã áp dụng các mô hình Box-Cox và loga tuyến tính nhằm phân
tích các nguyên nhân của việc di cư ở Việt Nam trong hai giai đoạn 1984-1989 và
1994-1999 và chứng minh rằng tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở khu vực thành thị thấp và
cơ hội việc làm ở các ngành phi nhà nước là những lực kéo chính để thu hút lao động

từ khu vực nông thôn lên thành thị.
Phan and Coxhead (2010), với hai bộ số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở
năm 1989 và năm 1999, đã áp dụng mô hình gia tốc và mô hình logistic nhằm phân
tích nguyên nhân người lao động di của giữa các tỉnh và cho thấy rằng người lao động
di cư từ tỉnh có thu nhập thấp sang tỉnh có thu nhập cao, từ nơi đất canh tác ít sang nơi
có đất canh tác nhiều và những tỉnh có nhiều ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu
sẽ thu hút nhiều lao động di cư từ nông thôn nhất.
Khi nghiên cứu dòng di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp,
Nguyễn Đình Long và cộng sự (2013) đã phân tích nguyên nhân thúc đẩy dòng di cư
tự do này là xuất phát từ ba nhóm nguyên nhân chính như sau: thứ nhất, do sự gia tăng
dân số và sức ép về lao động việc làm ở khu vực nông thôn ngày càng gia tăng; thứ
hai, do đất dùng để sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp làm cho tư liệu sản xuất của khu


12
vực nông thôn ngày càng khan hiếm làm cho lao động nông thôn bị dư thừa và đó
chính là nguyên nhân chính làm cho người lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và
các khu đô thị nhằm tìm kiếm việc làm và thu nhập cao hơn; thứ ba, do chênh lệch về
thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị ngày càng tăng làm cho một bộ phận lao
động ở khu vực nông thôn rời quê hương ra thành phố nhằm tìm kiếm cơ hội việc làm
mang lại thu nhập cao.
Khi phân tích và nhận định “phi truyền thống” về luồng di cư nông thôn – thành
thị nhằm khuyến nghị những chính sách đối với vấn đề di dân, Nguyễn Đình Cử và
cộng sự (2014) đã phân tích nguyên nhân dẫn đến luồng di cư nông thôn ra các đô thị
lớn là do sự phát triển đô thị không đồng đều đã làm cho các cơ sở kinh tế - xã hội
trọng tâm thu hút người di cư tập trung ở các thành phố lớn và vì thế mà các thành phố
lớn đã thu hút một luồng di cư rất lớn từ nông thôn lên thành thị để tìm kiếm cơ hội
việc làm và học tập.
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam và UNFPA (2015) nguyên nhân chính của
di cư là vì mục đích kinh tế. Người lao động quyết định di cư chủ yếu vì “lực hút” ở

nơi đến với nhiều cơ hội việc làm có thu nhập hấp dẫn và “lực đẩy” ở nơi đi do thiếu
việc làm và thu nhập thấp ở quê nhà.
Các phát hiện trên cũng được chứng minh rõ hơn ở nghiên cứu của Tổng cục
Thống kê Việt Nam và UNFPA (2016). Nghiên cứu cho thấy, với bối cảnh toàn cầu
hóa, Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới đã làm xuất hiện các
ngành công nghiệp mới và sinh ra việc làm cho hàng triệu người mỗi năm. Vì vậy, di
cư là kết quả tất yếu của việc tập trung các vùng kinh tế, sự chênh lệch về điều kiện
kinh tế giữa các vùng miền. Quá trình di cư xảy ra luôn có nguyên nhân từ sự khác biệt
về đặc trưng giữa hai vùng là vùng đến và vùng đi. Nguyên nhân từ vùng đi hay “nhân
tố đẩy” bao gồm do điều kiện sống khó khăn, thiếu việc làm, thiếu đất canh tác và
nguyên nhân từ vùng đến hay “nhân tố hút” bao gồm điều kiện, yếu tố thuận lợi về tự
nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa hay sự hấp dẫn về cơ hội việc làm với thu
nhập và mức sống cao hơn. Nghiên cứu cho biết thêm rằng di cư vừa là nguyên nhân
và vừa là hệ quả của quá trình phát triển. Nghiên cứu còn phân tích sâu nguyên nhân
của di cư trong nước của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1989 đến nay như sau: (i)
thập kỉ 1989-1999, xu hướng gia tăng di cư chủ yếu là do chính sách của chính phủ
Việt Nam nhằm khuyến khích di dân đến những vùng kinh tế mới, do sự chuyển đổi
cơ chế kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường cùng với sự phát triển các
loại hình giao thông vận tải; (ii) thập kỉ từ 1999-2009 có dân số di cư tăng mạnh là do
ở giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế


13
từ nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp chi phối sang nền kinh tế công nghiệp và dịch
vụ chi phối. Ở giai đoạn này các khu công nghiệp và các khu chế xuất phát triển mạnh
mẽ đã thu hút lượng lớn lao động di cư; (iii) giai đoạn 2009-2014 là thời kỳ nền kinh
tế phát triển chậm, các khu công nghiệp không còn thu hút nhiều lao động di cư như
thời kì trước là do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008. Mặt khác,
khoảng cách kinh tế giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền được rút ngắn
do chính sách phát triển nông thôn của Việt Nam đã làm giảm số lượng di cư trong

giai đoạn này. Đặc biệt trong giai đoạn này, có sự tăng lên của dòng di cư từ thành thị
đến thành thị và hiện tượng di cư đảo của một bộ phận người lao động không tìm được
việc làm ở khu vực thành thị về quê để phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, Lưu Bích Ngọc (2016) đã có những phân tích tổng hợp hơn về
nguyên nhân di cư nội địa của Việt Nam từ năm 1994 đến nay. Theo tác giả, động lực
chính để người lao động di cư đều xuất phát từ cả nơi “hút” – là nơi có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, có sức hút vốn đầu tư, có tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa
nhanh hoặc có tiềm năng đất đai rộng, hay nơi “đẩy” – là những nơi “thuần nông”. Cụ
thể, nghiên cứu đã phân tích nguyên nhân di cư ở từng giai đoạn khác nhau như sau: (i)
giai đoạn 1994-1999, những vùng thu hút dân nhập cư là những tỉnh thuần nông ở Tây
Nguyên có đất đai rộng lớn và màu mỡ, tuy nhiên lực đẩy xuất cư giai đoạn này được
phân chia đồng đều ở các tỉnh thuần nông ở khắp cả nước bao gồm miền Bắc, miền
Trung và Đồng bằng Sông Cửu Long; (ii) giai đoạn 2004-2009, những nơi thu hút dân
nhập cư mạnh nhất là những tỉnh có tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh như
Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Đà Nẵng, Hà Nội, Cần Thơ hay
những tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên như Đắc Nông, Lâm Đồng, những vùng thuần
nông có tiềm năng đất đai rộng, mật độ dân số thưa và có nhiều tiềm năng cho canh tác
vẫn thu hút dân nhập cư nhưng yếu hơn như vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Bắc
Trung Bộ và Đồng bằng sông Hồng; (iii) giai đoạn 2009-2014, các tỉnh tiếp tục đứng
đầu về thu hút dân nhập cư vẫn là các tỉnh có tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa cao
nhất hoặc những tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, tuy nhiên sức hút chỉ còn một nửa so
với 5 năm trước đó. Trong số các thành phố lớn trực thuộc Trung ương thì chỉ còn
Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng là nằm trong tốp 10 tỉnh/ thành phố thu hút nhập
cư đông nhất, trong khi Hà Nội và Cần Thơ không còn nằm trong danh sách này và bị
thay thế bởi Nghệ An và Bắc Ninh. Trong giai đoạn này, lực đẩy xuất cư lớn nhất chỉ
còn các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ.
Nhìn chung, nguyên nhân di cư, đặc biệt là di cư nội địa kể từ năm 1986 đến
nay ở Việt Nam, đều xuất phát cả từ các “nhân tố hút” (đó là khu vực thành phố với



14
nhiều cơ hội việc làm, thu nhập cao hơn, có đời sống cao hơn) và từ phía các “nhân tố
đẩy” (đó là khu vực nông thôn thiếu việc làm, thiếu đất canh tác, thiếu công cụ lao
động và mức sống thấp).

1.1.2. Các vấn đề cơ bản liên quan đến người cao tuổi
1.1.2.1. Khái niệm liên quan đến người cao tuổi
* Khái niệm về “Người cao tuổi” (NCT):
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về độ tuổi của một người được xem là
“người cao tuổi”. Theo khái niệm do Liên Hợp Quốc đưa ra thì NCT là những người
từ 60 tuổi trở lên (UNFPA và HelpAge International, 2012). Nghiên cứu cũng cho biết
thêm rằng ở các nước phát triển thì NCT là những người từ 65 tuổi trở lên.
Dù có nhiều định nghĩa khác nhau về người cao tuổi, nhưng Luận án này sử
dụng định nghĩa về NCT theo Điều 2, Luật Người cao tuổi năm 2009 như sau: “Người
cao tuổi là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên”.
* Khái niệm về “già hóa” dân số; dân số “già”; dân số “rất già” và dân số “siêu già”:
Theo UNFPA (2011), “già hóa” dân số diễn ra khi tỷ lệ dân số ở tuổi từ 60 trở
lên chiếm 10% trong tổng dân số; khi tỷ lệ dân số này chiếm 20% trong tổng dân số thì
dân số được coi là “già”. Theo nghiên cứu này, dân số “rất già” diễn ra khi tỷ lệ người
từ 60 tuổi trở lên chiếm 30% trong tổng dân số và khi tỷ lệ này chiếm từ 35% trở lên
trong tổng dân số thì dân số được coi là “siêu già”.

1.1.2.2. Đặc điểm và việc sắp xếp cuộc sống của người cao tuổi
Nhìn chung, theo UNFPA và HelpAge International (2012) và Uỷ ban về Các
vấn đề xã hội của Quốc Hội (2015), thì NCT có những đặc điểm như sau:
* Các đặc điểm về nhân khẩu học
Thứ nhất, qui mô NCT trên thế giới ngày càng lớn, tốc độ gia tăng dân số cao
tuổi ngày càng mạnh, đặc biệt là tỷ lệ dân số già nhất (từ 80 tuổi trở lên) tăng nhanh
hơn các nhóm dân số già khác và tăng nhanh nhất ở các nước đang phát triển ở Châu
Á, Châu Mỹ La tinh và vùng Caribe. Thứ hai, trên toàn cầu, phụ nữ thường sống lâu

hơn nam giới nên tỷ lệ phụ nữ cao tuổi thường cao hơn tỷ lệ nam giới cao tuổi (và dẫn
tới tình trạng “nữ hóa dân số cao tuổi”).


15
* Các đặc điểm về sức khoẻ của người cao tuổi
NCT thường đối mặt với việc suy giảm chức năng hoạt động của các cơ quan
trong cơ thể nên dễ có nguy cơ bị mắc các bệnh, đặc biệt là bệnh mạn tính. Việc điều
trị và phục hồi sức khoẻ của NCT cũng lâu dài và tốn kém hơn các nhóm tuổi khác.
Tuy nhiên, mặc dù nữ giới cao tuổi sống lâu hơn nam giới cao tuổi nhưng sức khoẻ
của họ lại kém hơn nam giới cao tuổi.
* Các đặc điểm về sắp xếp cuộc sống, kinh tế và xã hội của người cao tuổi
Thứ nhất, việc sắp xếp cuộc sống của NCT đang thay đổi nhanh chóng. Cụ thể,
qui mô hộ gia đình giảm và sự chia sẻ nguồn lực giữa các thế hệ cũng đang thay đổi.
Những gia đình nhiều thế hệ hiện nay chỉ còn ở các nước đang phát triển nhưng đó lại
là những gia đình khuyết thế hệ (chỉ có trẻ em và người cao tuổi). Đặc biệt là ở các
khu vực nông thôn, những gia đình khuyết thế hệ là hệ quả của quá trình công nghiệp
hoá và đô thị hoá khi người trong độ tuổi lao động đã di cư đến những khu đô thị để
kiếm sống. Trên thế giới, việc NCT sống độc lập chỉ có một mình hay sống chỉ với vợ/
chồng mình đang chiếm tỷ lệ cao (hơn 70%) ở các quốc gia phát triển, trong khi ở các
quốc gia đang phát triển thì việc NCT sống độc lập chiếm một tỷ lệ rất thấp (chỉ
khoảng 27%);
Thứ hai, ở Châu Á, các thành viên trong gia đình vẫn là người chăm sóc chính
cho NCT khi cần được chăm sóc. Tuy nhiên, nam giới cao tuổi có đời sống khác với
nữ giới cao tuổi ở các khía cạnh như: khi con cái di cư, nữ giới cao tuổi thường được
nhận nhiều các hỗ trợ tài chính và quan tâm tình cảm từ con cái di cư hơn nam giới cao
tuổi và họ cũng thường hay chăm sóc cháu chắt hay người thân bị ốm hơn nam giới
cao tuổi.
Ngoài ra, phụ nữ cao tuổi thường hay bị tổn thương và yếu thế hơn nam giới
cao tuổi vì bị phân biệt giới tính và tuổi tác, họ ít có cơ hội để được tiếp cận với giáo

dục, chăm sóc y tế, khả năng thu nhập của họ cũng thấp hơn và bị hạn chế quyền sở
hữu đất. Phụ nữ cao tuổi có tỷ lệ goá cao hơn nam giới nên dễ bị cô đơn và nghèo hơn
nam giới.

1.2. Cá n
o tuổ

ên ứu t ự n

ệm về tá độn



ƣ tớ đờ sốn n ƣờ

Việc người lao động di cư đã có ảnh hưởng không nhỏ lên đời sống của những
người trong gia đình còn lại ở quê nhà, đặc biệt là cha, mẹ già của những người di cư.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đã đánh giá tác động của lao động di cư lên đời sống


16
của những người còn lại ở quê nhà (trong đó có NCT) lên ba khía cạnh: kinh tế, sức
khỏe và xã hội.

1.2.1. Về khía cạnh kinh tế
Có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của di cư đối với đời sống kinh tế của
các thành viên trong các hộ gia đình, đặc biệt là của NCT. Một số nghiên cứu đánh giá
cao vai trò của tiền gửi từ con cái di cư lao động đến cuộc sống của NCT ở quê nhà và
một số khác lại coi tiền gửi chỉ có vai trò hỗ trợ và thậm chí không có ý nghĩa đối với
cuộc sống của NCT trong các gia đình có người di cư như sau:


1.2.1.1. Các nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của di cư đối với đời sống kinh
tế của người cao tuổi ở một số quốc gia
Các nhà nghiên cứu trên thế giới khi đánh giá tác động của tiền gửi đối với đời
sống kinh tế của người cao tuổi đã sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là
phương pháp nghiên cứu định lượng và phương pháp nghiên cứu định tính và cho ra
những kết quả khác nhau. Trong số đó, một số các nghiên cứu đánh giá cao vai trò của
tiền gửi từ con cái di cư lao động đến đời sống kinh tế của NCT ở quê nhà và một số
khác lại coi tiền gửi chỉ có vai trò hỗ trợ và thậm chí không có ý nghĩa đối với cuộc
sống của NCT trong các gia đình có người di cư. Với phương pháp nghiên cứu định
lượng: khi nghiên cứu cho một số quốc gia, các nhà nghiên cứu thường sử dụng số liệu
chuỗi thời gian; tuy nhiên, khi nghiên cứu cho từng quốc gia, các tác giả thường sử
dụng số liệu hỗn hợp (panel data) của một quốc gia, số liệu của một năm, ứng dụng kỹ
thuật phân tích OLS (bình phương nhỏ nhất), hồi qui tác động cố định (fixed-effect
regression), sử dụng biến công cụ (IV)… nhằm đánh giá tác động của người lao động
di cư lên đời sống kinh tế của những người còn lại trong gia đình ở quê nhà. Cụ thể:
* Các nghiên cứu đánh giá tác động của di cư lên khía cạnh hỗ trợ tài chính,
vấn đề năng suất lao động và thời gian lao động của người cao tuổi ở quê nhà
Lucas (1987) đã nghiên cứu tác động của di cư quốc tế từ năm quốc gia Nam
Châu Phi (gồm Boswana, Lesotho, Malawi, Mozambique và Nam Phi) với số liệu
chuỗi thời gian từ năm 1946 đến 1978. Tác giả đã sử dụng bốn mô hình: mô hình thứ
nhất nhằm xác định các yếu tố quyết định việc người lao động của các quốc gia di cư
đến các mỏ của Nam Phi từ phía cầu như cơ hội việc làm và thu nhập ở các mỏ; mô
hình thứ hai nhằm xác định việc sản xuất nông nghiệp ở quê nhà bị tác động bởi việc
giảm thu nhập và lao động trong ngắn hạn và trong dài hạn khi người di cư gửi tiền về
và có đầu tư vào sản xuất nông nghiệp; mô hình thứ ba nhằm xác định hiệu quả của
việc đầu tư vào chăn nuôi gia súc (loại hình sản xuất mang lại sự thịnh vượng cho


17

người dân ở khu vực Nam Châu Phi); và mô hình cuối cùng xem xét các yếu tố hình
thành thu nhập và mức thu nhập của người lao động ở thị trường nội địa các nước có
người lao động di cư. Tác giả đã sử dụng biến công cụ là tổng của mức lương của thợ
mỏ da trắng ở Nam Phi và giá của các loại khoáng sản thu được từ khai thác mỏ. Sau
khi đã cân nhắc tới đặc điểm của từng quốc gia về các khía cạnh như: đặc điểm thị
trường lao động, dân số và tình hình chính trị, tác giả đã chứng minh rằng nếu lương ở
các khu mỏ cao hơn lao động nông nghiệp ở quê nhà thì người lao động sẽ di cư đến
các khu mỏ, nhưng nếu sản xuất nông nghiệp tốt, thời tiết thuận lợi và năng suất cao
thì sẽ hạn chế người lao động di cư đến các khu mỏ làm việc. Nhìn chung, việc con cái
di cư sẽ làm giảm năng suất lao động trong khu vực nông nghiệp trong ngắn hạn vì số
người lao động trong gia đình giảm xuống, nhưng trong dài hạn sẽ giúp cha, mẹ già và
những người thân ở lại trong gia đình có điều kiện đầu tư nâng cao năng suất lao động
trồng trọt và tăng số lượng gia súc nuôi thông qua tiền gửi về của họ.
Khi nghiên cứu trường hợp Botswana, với số liệu từ cuộc Khảo sát Di cư Quốc
gia (NMS) năm 1978-1979 được thực hiện với 3.179 người di cư từ nông thôn ra thành
thị, Stark và Lucas (1988) thực hiện các phép hồi qui với biến phụ thuộc là logarit của
trung bình tiền gửi hàng tháng từ mỗi người di cư về cho gia đình và kết luận rằng tiền
gửi từ con cái di cư là nguồn tài chính hỗ trợ các gia đình nông thôn đương đầu với
những rủi ro trong canh tác nông nghiệp như hạn hán, mất mùa vì khi thời tiết hạn thì
tiền gửi từ con cái di cư về sẽ nhiều hơn. Nghiên cứu còn phát hiện thêm rằng những
người di cư có trình độ học vấn cao thường gửi nhiều tiền hơn vì họ có lương cao hơn.
Với các gia đình có đàn gia súc nuôi lớn, con trai di cư thường gửi nhiều tiền hơn con
gái di cư do một trong những nguyên nhân quan trọng là con trai thường có nhiều khả
năng được hưởng di sản thừa kế từ gia đình hơn.
Khi nghiên cứu tình hình lao động của người cao tuổi ở Indonesia, Cameron và
Cobb-Clark (2005) đã sử dụng số liệu về Điều tra đời sống gia đình ở Indonesia
(IFLS) năm 1993 để xây dựng mô hình định lượng mối quan hệ giữa việc tham gia lao
động của người cao tuổi với việc cùng chung sống và nhận sự hỗ trợ tài chính của con
cái nhằm kiểm định giả thiết là liệu việc sống cùng con cái hay nhận được sự hỗ trợ về
tài chính từ con cái sẽ hỗ trợ hay thay thế hoạt động kinh tế của NCT. Nghiên cứu đã

đưa ra kết luận rằng việc nhận tiền gửi từ con cái di cư có vai trò hỗ trợ đối với cuộc
sống của NCT, đặc biệt là sẽ làm giảm thời gian hoạt động kinh tế của phụ nữ cao tuổi.
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng cho thấy vai trò của tiền gửi từ con cái không có ý nghĩa
nhiều đối với cuộc sống của bố, mẹ già vì việc gửi tiền của con cái không dự báo trước


×