Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty TNHH nhà nước một thành viên quản lý đường bộ và xây dựng công trình thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 134 trang )

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong nền kinh tế thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là cơ sở
cho sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp, là vấn đề chiến lược đòi hỏi các
doanh nghiệp phải thực hiện. Sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao là điều kiện
quyết định để thực hiện tốt quá trình tái sản xuất ở mức độ cao hơn, tạo nguồn thu
để đóng góp cho Ngân sách nhà nước ngày càng đầy đủ hơn. Do vậy, trong quá
trình đổi mới nền kinh tế ở nước ta, vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh ln giữ vị
trí quan trọng trong quá trình cấu trúc lại nền kinh tế quốc dân.
Các doanh nghiệp xây dựng giao thông thuộc nhóm ngành kinh tế-kỹ thuật
sản xuất vật chất giữ vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Mục tiêu có tính chất tổng hợp và bao trùm của các doanh nghiệp xây dựng giao
thông là phát triển với hiệu quả kinh doanh ngày càng cao thông qua việc sản xuất,
kinh doanh và cung ứng dịch vụ trong lĩnh vực giao thông và xây dựng phục vụ cho
các nhu cầu cơ bản về cơ sở hạ tầng của các cá nhân, các tổ chức và toàn xã hội với
chất lượng ngày càng cao.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp xây dựng giao thơng đã có những
đổi mới đáng kể cả về cơ cấu tổ chức và mạng lưới sản xuất kinh doanh, đã và đang
tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ có chất lượng phục vụ nhu cầu trong xã hội, phần
nào khẳng định được vai trò quan trọng trong giữ vững định hướng của nền kinh tế.
Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng giao thơng
nói chung, Cơng ty TNHH nhà nước một thành viên Quản lý đường bộ và xây dựng
cơng trình Thừa Thiên Huế nói riêng nhìn chung vẫn chưa đồng đều và cịn đạt ở
mức thấp. Vì vậy, việc nghiên cứu để tìm ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả kinh doanh của các doanh nghiệp giao thông và xây dựng trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế là vấn đề cần thiết và mang tính khách quan.
Xuất phát từ thực trạng trên, tơi đã chọn đề tài: "
Nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Quản lý đường
bợ và Xây dựng cơng trình Thừa Thiên Huế"để làm đề tài luận văn tốt nghiệp
cao học của mình.


1


2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1 Mục tiêu chung: Đánh giá thực trạng SXKD của Công ty và đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
2.2 Mục tiêu cụ thể
Thứ nhất, hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, đánh giá thực trạng hoạt động SXKD của Công ty.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD
của Công ty trong thời gian tới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những nội dung liên quan đến hiệu quả
SXKD của Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Quản lý đường bộ và Xây
dựng cơng trình Thừa Thiên Huế.
3.2 Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Phạm vi về nội dung: Tập trung nghiên cứu, giải quyết một số vấn đề về lý
luận và thực tiễn liên quan đến hiệu quả hoạt động SXKD của Công ty.
- Phạm vi về thời gian: Để đánh giá hiệu quả SXKD của Công ty, luận văn
tập trung vào giai đoạn từ năm 2006- 2008.
- Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi thị trường, địa
bàn hoạt động của Công ty ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
4. NHỮNG ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA LUẬN VĂN
4.1 Luận văn góp phần hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả
SXKD, đưa ra các chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động SXKD của doanh nghiệp.
4.2 Đưa ra những kết luận có tính khoa học trên cơ sở phân tích và đánh giá
thực trạng hiệu quả hoạt động SXKD của Công ty TNHH Nhà nước một thành viên

Quản lý đường bộ và Xây dựng cơng trình Thừa Thiên Huế.
4.3 Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
SXKD của Công ty trong thời gian tới.
2


5. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng luận về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Chương 2: Hiệu quả kinh doanh của Công ty TNHH NN 1 TV Quản lý
đường bộ và Xây dựng Thừa Thiên Huế.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty
TNHH NN 1 TV Quản lý đường bộ và Xây dựng cơng trình Thừa Thiên Huế.

3


CHƯƠNG I
TỔNG LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1 Bản chất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Để hiểu rõ bản chất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cần nghiên cứu
các quan điểm khác nhau về phạm trù hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Quan điểm thứ nhất cho rằng hiệu quả kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi
phí và tăng kết quả kinh tế. Quan niệm này có cách nhìn nhận đúng về mặt bản chất
của hiệu quả song chưa phải là một khái niệm hoàn chỉnh.
Theo quan điểm thứ hai, hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu xác định bằng việc
so sánh giữa kết quả với chi phí.[27] Quan điểm này đã phản ánh được mối quan hệ
bản chất của hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên sự so sánh này chưa đủ vì nó chỉ

phản ánh sự đo lường hiệu quả kinh doanh (cách xác lập các chỉ tiêu) mà chưa gắn
liền với mục tiêu của quản lý.
Quan niệm thứ ba cho rằng hiệu quả kinh doanh là hiệu quả tài chính của
doanh nghiệp.[2] Quan niệm này đề cập đến mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà
doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được lợi ích kinh
tế đó. Quan niệm này đúng với những nhà đầu tư khi xét hiệu quả của các dự án đầu
tư nhưng không đúng với các doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh, bởi vì hiệu
quả tài chính chỉ liên quan đến việc thu chi có liên quan trực tiếp, các nhà đầu tư
trong chi phí khai thác hàng năm không xét tới yếu tố khấu hao tài sản vì giá trị của
nó đã được thể hiện ở chi phí đầu tư, cịn đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
chi phí khấu hao là một yếu tố chi phí.
Quan điểm thứ tư cho rằng, hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế
phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp để đạt được
kết quả cao trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí nhỏ nhất.
4


Theo quan điểm thứ năm, hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ
lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu xác định.[12] Quan điểm này đã chỉ ra
rằng, hiệu quả kinh doanh là đại lượng biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu
được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Quan điểm thứ sáu cho rằng hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế
biểu hiện sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, nó phản ánh trình độ khai thác các
nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. [15] Quan
điểm này gắn với cơ sở lý luận kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong đường lối
phát triển đồng thời theo chiều rộng và chiều sâu.
Như vậy, hiệu quả kinh doanh là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của
sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu
kinh tế doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Từ những quan điểm về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đã nêu trên,

có thể khẳng định: Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ
sử dụng các nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp trong quá trình tái sản xuất
nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh trình độ sử
dụng các yếu tố của quá trình sản xuất. Hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thể hiện
sự vận dụng khéo léo giữa lý luận và thực tế của các nhà quản trị doanh nghiệp
nhằm khai thác tối đa các yếu tố của quá trình sản xuất như máy móc thiết bị,
ngun vật liệu, nhân cơng để nâng cao lợi nhuận. Do vậy, hiệu quả kinh doanh là
một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các nguồn vật lực, tài
chính của doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất.
Hiệu quả kinh doanh có thể được xác định theo cơng thức sau:
H = K/C hoặc H= K-C
Trong đó, H là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
K là kết quả đầu ra hay tổng doanh thu.
C là tổng chi phí bỏ ra để đạt được kết quả K.

5


Như vậy, thực chất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là sự so sánh giữa
kết quả thu được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó trong từng thời kỳ nhất
định. Hoạt động SXKD của một doanh nghiệp được xem xét là có hiệu quả khi thoả
mãn các yêu cầu cơ bản sau:
a. Kết quả kinh doanh thu được phải là tối đa với chi phí bỏ ra tối thiểu (theo
nguyên tắc MAX kết quả, MIN chi phí).
b. Sản phẩm xã hội thu lại nhiều nhất nhằm đáp ứng được nhu cầu của thị
trường và yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân nhưng với chi phí xã hội bỏ
ra ít nhất.
c. Đảm bảo các yêu cầu về mặt xã hội (bên trong và bên ngồi doanh nghiệp)
và tác động tích cực đến mơi trường sinh thái.

Để hiểu rõ hơn bản chất của phạm trù hiệu quả hoạt động SXKD, cần phân
biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả của hoạt động SXKD.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ so sánh giữa
kết quả trực tiếp và gián tiếp mà các chủ thể kinh tế thu được với các chi phí trực
tiếp và gián tiếp mà chủ thể kinh tế phải bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Kết quả hoạt động SXKD có thể hiểu là những gì mà doanh nghiệp đạt được
sau một q trình hoạt động nhất định, nó có thể là những đại lượng có thể cân,
đong, đo đếm được như: số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, lợi nhuận, thị
phần... và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có
tính chất định tính như: uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm...
Như vậy, đạt kết quả cao bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp.
Xét về hình thức, hiệu quả kinh doanh ln là một phạm trù so sánh, thể hiện
mối tương quan giữa cái đã bỏ ra và cái thu được, còn kết quả kinh doanh chỉ là yếu
tố và là phương tiện để tính tốn và phân tích hiệu quả.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đòi hỏi việc khai thác và sử
dụng các nguồn lực một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Xét đến cùng thì bản chất
của hiệu quả kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm hao phí
lao động xã hội, đóng góp vào sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và của xã
hội nói chung.
6


Hiệu quả kinh doanh cần được hiểu một cách toàn diện trên cả hai mặt, đó là
mặt chất và mặt lượng.
- Về mặt chất: Hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực
trong một doanh nghiệp (trong một hệ thống). Hiệu quả kinh doanh phản ánh mối
quan hệ mật thiết giữa kết quả thực hiện những mục tiêu kinh tế với những yêu cầu
và mục tiêu chính trị, xã hội.
- Về mặt lượng: Hiệu quả kinh doanh biểu hiện ở mối tương quan giữa kết
quả đạt được và chi phí bỏ ra. Doanh nghiệp chỉ thu được hiệu quả kinh doanh khi

nào kết quả lớn hơn chi phí, chi phí này càng nhỏ thì hiệu quả càng cao và ngược
lại. Hiệu quả kinh doanh được đo lường bằng một hệ thống các chỉ tiêu nhất định.
1.1.2 Các quan điểm trong việc đánh giá hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp
Việc đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD phải được xem xét một cách tồn
diện, khơng chỉ đánh giá ở kết quả đạt được mà điều quan trọng là phải đánh giá
chất lượng của kết quả đạt được đó. Do vậy, khi đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD
cần phải quán triệt một số yêu cầu mang tính nguyên tắc sau:
Thứ nhất, đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD phải đánh giá cả về mặt định
tính và định lượng
Hiệu quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp phản ánh mức độ thực hiện các
mục tiêu của doanh nghiệp. Mục tiêu của doanh nghiệp rất đa dạng, có mục tiêu
lượng hố được, có mục tiêu khơng thể lượng hố được.
Về mặt định lượng, hiệu quả SXKD phải được xem xét trong mối tương
quan giữa cái được và cái mất. Đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD về mặt định
lượng thông qua các chỉ tiêu định lượng, nó được thể hiện bằng các con số cụ thể.
Đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD về mặt định tính cho chúng ta biết được tổng
quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp, và được sử dụng trong các trường hợp
không thể đo lường bằng các con số cụ thể hoặc khó định lượng được. Vì vậy, việc

7


đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp phải xem xét đến cả hai mặt:
mặt định tính và mặt định lượng.
Thứ hai, đánh giá hiệu quả SXKD phải xem xét cả lợi ích trước mắt và lợi
ích lâu dài
Khi xem xét đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp cần chú ý
đến tất cả các mặt, các khâu, các yếu tố của quá trình SXKD; phải xem xét ở góc độ
về phạm vi khơng gian và thời gian. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hiện tại phải

phù hợp với chiến lược phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Để tồn tại, các doanh nghiệp không chỉ tập trung vào lợi ích trước mắt mà
cần phải chú ý đến lợi ích lâu dài, có như vậy doanh nghiệp mới phát triển bền
vững. Hiệu quả hoạt động SXKD trong một giai đoạn dù lớn đến đâu cũng không
được đánh giá cao nếu nó làm ảnh hưởng đến hiệu quả chung của doanh nghiệp xét
trong dài hạn. Do đó, việc xem xét hiệu quả lâu dài là hết sức quan trọng, đặc biệt là
đối với các doanh nghiệp mới thâm nhập thị trường, họ cần phải bỏ qua lợi ích
trước mắt để tập trung vào việc chiếm lĩnh thị trường, tạo lập uy tín với khách hàng,
các chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi trong giai đoạn này là rất lớn. Vì thế, lợi
nhuận thu được là rất thấp thậm chí doanh nghiệp có thể bị thua lỗ. Tuy nhiên, về
lâu dài khi đã chiếm lĩnh được thị trường doanh nghiệp sẽ tăng doanh thu giảm bớt
các chi phí quảng cáo, tiếp thị và lợi nhuận thu được cũng sẽ tăng lên. Vì vậy, khi
xem xét hiệu quả SXKD chúng ta khơng chỉ chú ý đến lợi ích trước mắt mà cần chú
ý đến lợi ích lâu dài, có như vậy doanh nghiệp mới phát triển bền vững và thật sự
mang lại hiệu quả.
Thứ ba, đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD phải xem xét cả lợi ích của
doanh nghiệp, lợi ích của xã hội và của người lao động
Hoạt động SXKD của mỗi doanh nghiệp đều có tác động đến sự phát triển
chung của ngành, của khu vực và cả nền KTQD bởi doanh nghiệp là một tế bào
của nền kinh tế. Tác động này có thể diễn ra theo hướng tích cực góp phần thúc
đẩy sự phát triển cho ngành, vùng kinh tế và cả nền kinh tế. Nhưng cũng có thể
tác động theo hướng tiêu cực, tức là có thể doanh nghiệp đạt hiệu quả hoạt động

8


SXKD song để đạt được hiệu quả đó nó đã tác động tiêu cực đến các doanh
nghiệp khác, đến ngành, vùng kinh tế thậm chí đến cả tồn bộ nền kinh tế.
Sự ổn định kinh tế vĩ mô của một quốc gia là nhân tố quan trọng tạo điều
kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp. Giữa lợi ích quốc gia và

lợi ích của doanh nghiệp có sự ràng buộc lẫn nhau, địi hỏi việc nâng cao hiệu quả
hoạt động SXKD phải được xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của quốc gia đó.
Khi đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp chúng ta
không chỉ xem xét trong phạm vi của doanh nghiệp mà phải xem xét hiệu quả
trong phạm vi của ngành, khu vực và của cả nền kinh tế.
Việc đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD cũng được xem xét trong mối liên
hệ với lợi ích người lao động, việc nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD phải gắn
liền với việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và trình độ tay nghề của người
lao động. Điều đó tạo nên động lực mạnh mẽ để người lao động phát huy khả năng
sáng tạo của mình. Một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả
hoạt động SXKD cần chú ý đến việc phân phối kết quả lao động, đảm bảo hài hồ
lợi ích giữa người lao động - doanh nghiệp - xã hội.
Thứ tư, Đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về hiện vật và giá trị.
Kết quả biểu hiện thông qua các chỉ tiêu hiện vật mới chỉ phản ánh được một
mặt những gì mà doanh nghiệp thu được từ hoạt động SXKD đó. Do đó, khi xem
xét đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp phải căn cứ vào kết quả
cuối cùng đạt được trên cả hai mặt hiện vật và giá trị. Chỉ có như vậy thì mới có đủ
cơ sở và việc đánh giá mới đảm bảo tính đúng đắn và tính tồn diện.
1.1.3 Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu kinh doanh của doanh nghiệp trong
cơ chế thị trường
Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp phải ln gắn mình với thị
trường, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay đặt các doanh nghiệp trong sự cạnh

9


tranh lẫn nhau. Do đó, để tồn tại được trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay
các doanh nghiệp phải hoạt động một cách có hiệu quả hơn.

Các nguồn lực sản xuất ngày càng được con người sử dụng nhiều hơn vào
các hoạt động sản xuất ra sản phẩm, hàng hố phục vụ cho nhu cầu khác nhau của
mình. Nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, phong phú và khơng có giới hạn,
ngược lại nguồn lực sản xuất của xã hội ngày càng giảm đi và tạo ra sự khan hiếm.
Đứng trước tình hình này, doanh nghiệp phải lựa chọn và trả lời chính xác ba câu
hỏi: Sản xuất cái gì?, Sản xuất như thế nào?, Và sản xuất cho ai? vì thị trường chỉ
chấp nhận những doanh nghiệp nào sản xuất đúng sản phẩm (dịch vụ) với số lượng,
giá cả và chất lượng phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Nếu doanh nghiệp không
trả lời đúng ba vấn đề trên thì việc sử dụng các nguồn lực sản xuất xã hội để sản
xuất ra sản phẩm sẽ không tiêu thụ được trên thị trường, tức là kinh doanh khơng có
hiệu quả, lãng phí nguồn lực xã hội và sẽ khơng có khả năng tồn tại..
Với những lý do nêu trên, việc nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD trong
mỗi doanh nghiệp như là một tất yếu khách quan, vì lợi ích của doanh nghiệp cũng
như vì lợi ích của tồn xã hội.
1.2 ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH XÂY DỰNG GIAO THÔNG ẢNH HƯỞNG
ĐẾN HOẠT ĐỘNG SXKD CỦA DOANH NGHIỆP
Các doanh nghiệp xây dựng giao thông là một dạng doanh nghiệp mà chức
năng chính của nó là sản xuất sản phẩm xây lắp, xây dựng các công trình giao thơng
phục vụ giao lưu kinh tế trong xã hội.
Sản phẩm xây dựng giao thơng là các cơng trình giao thơng đã xây dựng
hồn chỉnh, là kết tinh của các thành quả khoa học -công nghệ và tổ chức sản xuất
của toàn xã hội ở một thời kỳ nhất định. Nó là một sản phẩm có tính chất liên
ngành, trong đó những lực lượng tham gia chế tạo sản phẩm chủ yếu gồm: các Chủ
đầu tư, các doanh nghiệp nhận thầu xây lắp, các doanh nghiệp tư vấn thiết kế, các
doanh nghiệp sản xuất các yếu tố đầu vào cho cơng trình, các tổ chức dịch vụ ngân
hàng và tài chính, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan.
1.2.1 Đặc điểm xây dựng giao thông
10



Những đặc điểm của sản phẩm xây dựng có ảnh hưởng rất lớn đến phương
thức tổ chức sản xuất và quản lý kinh tế trong xây dựng, làm cho các cơng trình này
có nhiều điểm khác biệt so với các ngành khác. Sản phẩm xây dựng với tư cách là
các cơng trình xây dựng thường có các đặc điểm sau:
- Sản phẩm xây dựng giao thơng có tính đơn chiếc theo đơn đặt hàng. Khác
với sản phẩm của ngành công nghiệp và các ngành khác được sản xuất hàng loạt
trong các điều kiện ổn định, trong nhà xưởng, về chủng loại, kích thước mẫu mã, kỹ
thuật và cơng nghệ được tiêu chuẩn hố. Sản phẩm xây dựng giao thơng được sản
xuất theo đơn đặt hàng đơn chiếc thơng qua hình thức ký kết hợp đồng sau khi
thắng thầu, sản phẩm được sản xuất ra ở những địa điểm, điều kiện khác nhau, chi
phí cũng thường khác nhau đối với cùng một loại hình sản phẩm. Khả năng trùng
lắp về mọi phương diện: kỹ thuật, cơng nghệ, chi phí, mơi trường, ... rất ít, ngay cả
trong xu hướng cơng nghiệp hố ngành xây dựng thì ảnh hưởng của tính đơn chiếc
cũng chưa được loại trừ.
- Sản phẩm xây dựng giao thông được sản xuất ra tại nơi tiêu thụ nó. Sản
phẩm xây dựng giao thơng có tính chất cố định vì các cơng trình xây dựng giao
thơng được thi cơng tại một địa điểm, nơi sản xuất gắn liền với nơi tiêu thụ và thực
hiện giá trị sử dụng (tiêu dùng) của sản phẩm. Địa điểm tiêu thụ sản phẩm sẽ do
người chủ sở hữu quyết định. Vì vậy nếu xác định được nơi tiêu thụ sản phẩm thì
đồng thời cũng đã xác định được nơi sản xuất. Có nghĩa là sản phẩm này không cần
qua kênh phân phối nào cả.
- Sản phẩm xây dựng giao thông chịu ảnh hưởng của điều kiện địa lý, tự
nhiên, kinh tế - xã hội của nơi tiêu thụ. Sản phẩm xây dựng giao thông bao giờ
cũng gắn liền với một địa điểm, một địa phương nhất định, vì vậy phải phù hợp với
đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương đó. Những điều kiện đó bao gồm: địa lý,
khí hậu, thời tiết, mơi trường, tập quán phong tục của địa phương,... Đặc điểm đó
chi phối tới việc thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh có liên quan như:
khảo sát, thiết kế, lựa chọn phương án thi cơng, kết cấu cơng trình, điều kiện mặt
bằng thi công,...


11


- Thời gian sử dụng dài, trình độ kỹ thuật và mỹ thuật cao. Khác với sản
phẩm thông thường, yêu cầu về chất lượng sản phẩm, thời gian sử dụng của sản
phẩm xây dựng giao thông thường rất lớn. Ở nhiều nước phát triển, thời gian sử
dụng của sản phẩm xây dựng giao thơng thường rất dài có thể lên tới hàng trăm
năm. Vì vậy, nhu cầu xây dựng thường khơng chỉ là sản phẩm được hồn thành và
đưa vào sử dụng mà sản phẩm đó cịn có tác dụng tô thêm vẻ đẹp của đất nước và
cũng là một trong những cơ sở quan trọng để đánh giá trình độ phát triển của đất
nước. Do đó yêu cầu về kỹ, mỹ thuật của các cơng trình giao thơng cần phải quan
tâm và có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính cổ truyền của dân tộc với tính hiện
đại, khơng những phải đẹp trước mắt mà còn phải phù hợp với quan cảnh xung
quanh ở những năm tương lai.
- Chi phí sản xuất lớn và khác biệt theo từng cơng trình. Giá trị của sản phẩm
xây dựng giao thơng thường lớn hơn rất nhiều so với những sản phẩm hàng hố
thơng thường. Chi phí đầu tư cho cơng trình thường rãi ra trong một thời kỳ dài.
Trong phương thức đấu thầu, người nhận thầu nhiều khi phải có một lượng vốn đủ
lớn để đưa ra hoạt động trong thời gian đợi vốn của Chủ đầu tư, trong thời gian chờ
quyết tốn và thanh lý hợp đồng.
- Tính chất đơn chiếc và chịu ảnh hưởng của nơi xây dựng. Sản phẩm xây
dựng giao thơng có thể giống nhau về hình thức song về kết cấu, quy phạm thì
khơng giống nhau hồn toàn nếu xây dựng ở những địa điểm khác nhau, làm cho
chi phí sản xuất từng sản phẩm xây dựng giao thơng cũng khác nhau. Ngay cùng
một sản phẩm có kết cấu kiến trúc cơng trình giống nhauthì cũng có sự khác nhau
về chi phí sản xuất, đó là hao phí về lao động sống và lao động quá khứ.
1.2.2 Đặc điểm về kinh tế kĩ thuật của sản xuất xây dựng giao thông
Do sản phẩm xây dựng giao thông có những đặc điểm riêng biệt nên sản xuất
xây dựng giao thơng cũng có những đặc điểm riêng của nó. Những đặc điểm ấy có
thể khái quát như sau:

- Sản xuất xây dựng chỉ được tiến hành khi có đơn đặt hàng (hợp đồng xây
dựng). Sản phẩm xây dựng giao thơng khơng thể sản xuất nếu chưa có người đặt

12


hàng. Sau khi sản phẩm hồn thành thì khơng cần thiết phải tìm thị trường để bán
sản phẩm. Sản xuất xây dựng chỉ tiến hành khi đã được Chủ đầu tư chấp nhận và ký
hợp đồng giao thầu. Điều đó có ý nghĩa là: Chỉ khi nào có hợp đồng trong tay thì
chủ thầu mới tiến hành thi cơng xây dựng. Trong q trình thi cơng cơng trình được
thực hiện với sự tham gia giám định kỹ thuật của người mua.
- Q trình sản xuất ln di động, hệ số biến động lớn. Do sản phẩm gắn liền
với nơi tiêu thụ nên địa điểm sản xuất không ổn định, thậm chí trải dài theo tuyến
dẫn đến việc phải di chuyển lực lượng lao động và các phương tiện vật chất từ cơng
trình này đến cơng trình khác và nhiều khi trong cùng một cơng trình sự di chuyển
cũng diễn ra liên tục. Các phương án tổ chức thi công xây dựng cơng trình ở các địa
điểm khác nhau ln phải thay đổi theo điều kiện cụ thể của nơi xây dựng và theo
giai đoạn xây dựng. Đặc điểm này làm khó khăn cho cơng tác tổ chức sản xuất, việc
bố trí của cơng trình tạm phục vụ thi cơng, việc phối hợp các phương tiện xe máy
thiết bị nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Đặc điểm này đòi hỏi phải ln chú ý tăng
cường tính cơ động trong doanh nghiệp về mặt trang thiết bị tài sản cố định, lựa
chọn loại hình tổ chức quản lý và chỉ đạo thực hiện kế hoạch tác nghiệp, lựa chọn
địa điểm kho trung chuyển vật tư hợp lý khi thi công nhiều cơng trình.
- Thời gian xây dựng cơng trình kéo dài. Đặc điểm này dẫn đến tình trạng ứ
đọng vốn sản xuất trong các khối lượng thi công dở dang của các doang nghiệp,
đồng thời phải gánh chịu nhiều rủi ro về vấn đề trượt giá vật tư, nhiên liệu nếu
doanh nghiệp khơng đủ mạnh về tài chính để đặt mua trước các loại vật tư chủ yếu
(sắt thép, xi măng, nhựa đường, cát, đá,...). Công tác tổ chức quản lý sản xuất của
doanh nghiệp phải chặt chẽ, hợp lý, phải ln tìm cách lựa chọn trình tự thi cơng
hợp lý cho từng cơng trình và phối hợp thi cơng nhiều cơng trình để đảm bảo có

khối lượng cơng tác gối đầu hợp lý. Việc phân công giai đoạn thi công từng cơng
trình nhằm sẽ giúp các doanh nghiệp xây dựng giao thông tạo ra khả năng sử dụng
và điều phối hợp lý năng lực sản xuất, thanh toán từng phần khối lượng công tác
xây lắp thực hiện và bàn giao đưa vào sử dụng theo đúng tiến độ.

13


- Sản xuất tiến hành ngoài trời nên chịu ảnh hưởng điều kiện thiên nhiên đến
các hoạt động của công nhân và q trình thực hiện cơng tác xây lắp. Đặc điểm
này làm cho các doanh nghiệp xây dựng giao thơng khơng thể lường hết được các
khó khăn sinh ra bởi điều kiện thời tiết, khí hậu, mơi trường tự nhiên. Từ đó đưa
đến hiệu quả lao động giảm xuống, một số giai đoạn của quá trình sản xuất bị gián
đoạn, ảnh hưởng đến tiến độ thi cơng cơng trình và giá thành công tác xây lắp.
- Kỹ thuật thi công phức tạp, trang bị kỹ thuật tốn kém. Doanh nghiệp xây
dựng giao thông phải bỏ ra một số vốn lớn để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị thi
công, hoặc là đi thuê của đơn vị khác phục vụ q trình SXKD. Điều này địi hỏi
doanh nghiệp phải có sự tính tốn cụ thể và so sánh lựa chọn phương án để vừa đảm
bảo đủ máy móc thiết bị thi công vừa đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Như vậy tính chất sản xuất vật chất độc lập của xây dựng giao thông đã được
thể hiện rõ nét, tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân cũng đã được
khẳng định.
1.2.3 Hoạt động của doanh nghiệp xây dựng giao thông trong cơ chế thị trường
1.2.3.1 Hoạt động thị trường của doanh nghiệp xây dựng giao thông (XDGT)
Thị trường được hiểu là nơi diễn ra quá trình chuyển giao quyền sở hữu sản
phẩm nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu mong muốn của cả hai bên: Người tiêu
dùng (người mua) và người cung ứng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ (người bán)
trên thị trường theo các thông lệ hiện hành.
Thị trường xây dựng là nơi gặp gỡ giữa sự chào hàng về khả năng và kết quả
xây dựng cơng trình của các Doanh nghiệp xây dựng (người bán sản phẩm xây

dựng) và nhu cầu xây dựng của các chủ đầu tư cơng trình (người mua sản phẩm xây
dựng) nhằm đi đến ký kết hợp đồng xây dựng giữa người mua và người bán.
Sự gặp nhau giữa người mua (chủ đầu tư) và người bán (nhà thầu) đối với
các sản phẩm xây dựng cơng trình đã hình thành thị trường xây dựng. Với vai trị là
người mua, chủ đầu tư bao giờ cũng muốn hàng hoá hoặc dịch vụ mà mình mua
phải thảo mãn lợi ích lớn nhất (chất lượng cao, thời gian xây dựng ngắn, chi phí tài
chính ít nhất v.v..). Điều này được biểu hiện nhất quán trong quá trình phức tạp của

14


sự hình thành và mua bán sản phẩm xây dựng. Quá trình này diễn ra từ giai đoạn
chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và đến khi kết thúc xây dựng, đưa dự án vào khai
thác sử dụng.
Khác với thị trường hàng hố tiêu dùng bình thường, trên thị trường xây
dựng, người mua sản phẩm xây dựng (chủ đầu tư) khơng thể chọn lựa sản phẩm có
sẵn để mua. Để có được sản phẩm xây dựng, để thoả mãn nhu cầu xây dựng, chủ
đầu tư trước hết mua sự chào hàng về khả năng xây dựng, mua sự tin cậy hứa hẹn
về sản phẩm công nghệ, kỹ thuật xây dựng, trình độ quản lý của bên bán (các doanh
nghiệp xây dựng). Như ta đã biết, sản phẩm xây dựng là một loại hàng hoá đặc biệt,
được sản xuất theo đơn đặt hàng (hợp đồng xây dựng), có tính chất đơn chiếc và có
giá cao, gắn liền với địa điểm sử dụng không thể sản xuất ra trước để bán và người
mua cần phải có sự hiểu biết nhất định về sản phẩm mình mua trước khi nhà sản
xuất làm ra nó.
Các doanh nghiệp xây dựng (người bán) bao giờ cũng muốn sản phẩm của
mình bán được với mức giá mong muốn (giá càng cao càng tốt hoặc giá đảm bảo
cho doanh nghiệp có lãi). Trong lĩnh vực xây dựng, việc thống nhất giá cả cho một
sản phẩm (một công trình xây dựng trọn vẹn) chỉ có tính chất tương đối. Tối đa hoá
lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào. Việc thực hiện tiết
kiệm, giảm các chi phí trực tiếp trong doanh nghiệp xây dựng chỉ có giới hạn nhất

định. Sự khác biệt giữa các doanh nghiệp xây dựng về sự tiết kiệm, hạ thấp định
mức kinh tế- kỹ thuật sẽ có ý nghĩa khơng lớn. Vì vậy các doanh nghiệp xây dựng
phải cân đối giữa lợi nhuận chung toàn doanh nghiệp với lợi nhuận từng cơng trình
(từng sản phẩm cụ thể) để đặt giá bán sản phẩm hợp lý chứ không nên chào thầu với
bất kỳ giá nào.
Trong thị trường xây dựng, để có thể nhận thầu nhiều cơng trình (có khả
năng sinh lợi) với các chủ đầu tư, nhà thầu thường phải cạnh tranh với nhau rất gay
gắt thơng qua hình thức đấu thầu. Đặc điểm này của thị trường xây dựng đã tạo ra
điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư cơng trình trong việc lựa chọn doanh nghiệp xây
dựng có nhiều ưu điểm nhất. Cùng với đặc điểm này, doanh nghiệp xây dựng phải

15


tiến hành hàng loạt các hoạt động makerting để giành được lợi thế cạnh tranh. Vì
vậy có thể nói, hoạt động tìm kiếm hợp đồng xây dựng là một trọng những hoạt
động chủ yếu của doanh nghiệp xây dựng trên thị trường, nếu hoạt động này đạt
được kết quả tốt, doanh nghiệp sẽ có nhiều hợp đồng thì các hoạt động khác của
doanh nghiệp (hoạt động sản xuất thi công, hoạt động tài chính...) mới có điều kiện
thực hiện. Hoạt động trong cơ chế thị trường có nhiều biến động, nhiều rủi ro và tự
do cạnh tranh, các doanh nghiệp xây dựng ngồi việc xây dựng và đánh bóng
thương hiệu của mình cần phải có chiến lược và chiến thuật đấu thầu, thực hiện tốt
chính sách giao tiếp đối với khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng nhằm
giúp cho doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi để dễ dàng ký kết hợp đồng nhận thầu
xây dựng (có khả năng sinh lời).
Nếu hoạt động tìm kiếm hợp đồng xây dựng được xem xét là hoạt động đầu
tiên trong quan hệ giữa doanh nghiệp xây dựng và chủ đầu tư thì hoạt động bàn
giao, thanh quyết tốn hợp đồng xây dựng và hoạt động bảo hành cơng trình với chủ
đầu tư được xem là hoạt động cuối cùng trong mối quan hệ này đối với một hợp
đồng hay một công trình cụ thể.

Hoạt động bàn giao cơng trình xây dựng hồn thành, thanh quyết tốn hợp
đồng và thực hiện bảo hành với chủ đầu tư cũng giữ vai trò quan trọng trong toàn bộ
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng giao thông cụ thể ở chỗ:
- Hoạt động này được thực hiện nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp quay nhanh
được đồng vốn hay nói cách khác sẽ giúp cho doanh nghiệp thu hồi được vốn nhanh
và ngược lại.
- Hoạt động này có quan hệ tác động tích cực hoặc tiêu cực tới hoạt động tìm
kiếm hợp đồng xây dựng của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp bàn giao cho chủ
đầu tư hoặc đơn vị hưởng thụ các cơng trình đảm bảo kỹ thuật, mỹ thuật và thời
gian xây dựng sẽ làm tăng uy tín của mình trên thị trường xây dựng, đánh bóng
được thương hiệu của doanh nghiệp mình trên thương trường. Ngược lại, nếu doanh
nghiệp cung cấp cho thị trường những sản phẩm không đảm bảo kỹ thuất, mỹ thuật và
khơng đúng tiến độ thì sẽ làm giảm uy tín và thương hiệu của mình trên thị trường.

16


- Cũng như các loại sản phẩm khác, dịch vụ hậu mãi (bảo hành, bảo trì sản
phẩm) khơng chỉ bồi đắp lòng tin của khách hàng mà còn chứng minh nhà thầu có
đủ năng lực sản xuất với chính sản phấm do mình làm ra. Trong q trình bảo hành
cơng trình, nhà thầu phải triển khai sửa chữa các hư hỏng ngay lập tức theo yêu cầu
của chủ đầu tư và đơn vị thụ hưởng. Kinh phí sửa chữa nhiều hay ít sẽ làm giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp, vì vậy doanh nghiệp xây dựng cần phải tổ chức thi cơng
cơng trình với chất lượng tốt nhất nhằm hạn chế tối đa công tác bảo hành.
1.2.3.2 Hoạt động sản xuất thi cơng xây dựng cơng trình
Hoạt động sản xuất thi cơng xây dựng cơng trình là một hoạt động chính của
doanh nghiệp xây dựng giao thơng có ảnh hưởng lớn tới mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Nó là hoạt động trực tiếp tạo nên kết quả của doanh nghiệp xây dựng. Chất
lượng của hoạt động này chẳng những ảnh hưởng tới việc hoàn thành các hợp đồng
xây dựng đã ký kết, tới uy tín và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Trên cơ sở các hợp đồng xây dựng đã ký kết, doanh nghiệp xây dựng tiến
hành các hoạt động thi công xây lắp trên các công trường đã được xác định.
Đặc điểm của sản phẩm xây dựng là gắn liền với địa điểm xây dựng do chủ
đầu tư cơng trình lựa chọn, mọi hoạt động thi cơng xây lắp đều phải tiến hành tại
cơng trình. Để có thể tiến hành hoạt động thi công xây lắp công trình, trước hết
doanh nghiệp xây dựng phải tiến hành các công việc chuẩn bị công trường (xây
dựng lán trại, kho bãi, tổ chức lực lượng lao động, bố trí máy móc thiết bị thi
cơng....), chuyển qn, chuyển máy đến cơng trường, tổ chức cung ứng vật tư...
Các hoạt động thi cơng xây lắp cơng trình sau đó được triển khai thực hiện
theo một trình tự cơng nghệ (thiết kế tổ chức thi công) nhằm phối hợp tốt nhất các
yếu tố sản xuất (lao động, vật tư, xe máy thiết bị) đảm bảo cho các q trình sản
xuất thi cơng diễn ra một cách thuận lợi nhất và tiết kiệm nhất. Để đảm bảo cho q
trình sản xuất thi cơng xây lắp có hiệu quả, việc tiến hành các cơng việc mang tính
tác nghiệp trên cơng trường của các doanh nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong cùng một thời gian doanh nghiệp xây dựng giao thông phải triển khai
nhiều hợp đồng xây dựng khác nhau, trên các địa điểm xây dựng khác nhau nhằm

17


hoàn thành yêu cầu khác nhau của các chủ đầu tư theo các hợp đồng xây dựng khác
nhau đã ký kết. Với những năng lực sản xuất hiện có, để có thể thực hiện đồng thời
nhiều hợp đồng xây dựng khác nhau, doanh nghiệp phải có hoạt động quản lý điều
hành sản xuất nghĩa là phải luôn cân đối năng lực sản xuất hiện có với nhiệm vụ xây
dựng phải thực hiện trong từng thời kỳ. Hoạt động kế hoạch hố sản xuất nội bộ
doanh nghiệp là một cơng cụ hỗ trợ đắc lực trong công tác quản lý và nâng cao hiệu
quả hoạt động của mỗi doanh nghiệp.
1.2.3.3 Hoạt đợng tài chính
Hoạt động sản xuất kinh doanh đã làm nẩy sinh nhu cầu tài chính của doanh
nghiệp và điều quan trọng là nhu cầu này thường xuyên thay đổi. Hoạt động tài

chính do đó là một hoạt động quan trọng, bao trùm mọi hoạt động của doanh nghiệp
và là yếu tố khơng thể thiếu được trong q trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hoạt động tài chính bao gồm các nội dung cơ bản sau:
- Cung cấp tài chính cho sản xuất thi công xây lắp;
- Đầu tư mua sắm, đổi mới máy móc thiết bị, dây chuyền cơng nghệ thi cơng v.v..
- Đầu tư tài chính: mua bán cổ phiếu, trái phiếu,....
Để tiến hành các hoạt động tài chính, doanh nghiệp cần có các quan hệ tài
chính sau:
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp xây dựng với thị trường: Thị trường
các yếu tố đầu vào (nguyên nhiên vật liệu, sức lao động, thị trường tiêu thụ sản phẩm);
- Quan hệ tài chính của doanh nghiệp và ngân sách nhà nước: các khoản phải
nộp (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế vốn, thuế tài nguyên,...);
- Quan hệ tài chính nội bộ doanh nghiệp: Các mối quan hệ khi trích lập và sử
dụng quỹ của doanh nghiệp.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA
DOANH NGHIỆP
Toàn bộ những nhân tố tác động đến đầu vào, đầu ra đều là những nhân tố
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Các
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh có thể được chia thành hai nhóm chủ

18


yếu: nhóm bên ngồi bao gồm mơi trường kinh tế thế giới, tình hình thị trường, cơ
chế chính sách kinh tế của nhà nước; và nhóm nhân tố bên trong bao gồm nguồn lao
động, cơng nghệ, tình hình và khả năng quản lý tổ chức sản xuất. Để có căn cứ khoa
học trong việc đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, cần nghiên cứu các nhân tố này.
1.3.1 Các nhân tố thuộc về môi trường bên trong
- Lao động: Là một trong những nhân tố quan trọng nhất tác động đến hiệu

quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả của mỗi quốc gia, ngành và doanh
nghiệp phụ thuộc nhiều vào trình độ văn hóa, tay nghề, kỹ năng, năng lực của đội
ngũ lao động. Nếu khơng có sự phối hợp phát triển tốt nguồn nhân lực thì các yếu tố
vốn, cơng nghệ khó có thể phát huy được tác dụng. Trong các doanh nghiệp, hiệu
quả là một trạng thái tổng hợp của các cách thức hoạt động của con người và các
doanh nghiệp. Xây dựng, phát triển và nâng cao trình độ, kỹ năng của nguồn nhân
lực sẽ tạo điều kiện sản xuất có hiệu quả, với chất lượng cao hơn. Vì vậy, để nâng
cao hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp cần quan tâm đến yếu tố con người trên cơ
sở nhận thức đúng vai trò quan trọng của yếu tố con người; thường xuyên tạo điều
kiện cho người lao động nâng cao trình độ, đưa ra những ý kiến đóng góp, kích
thích tinh thần sáng tạo, tính tích cực trong cơng việc bằng các hình thức khuyến
khích vật chất và tinh thần nhằm làm cho người lao động thỏa mãn, gắn bó với
doanh nghiệp; thực hiện quyền làm chủ của người lao động.
- Vốn của doanh nghiệp: Theo nghĩa chung nhất, vốn được biểu hiện bằng
cả cơng nghệ, thiết bị máy móc, ngun liệu và tiền. Việc đảm bảo vốn đầy đủ, kịp
thời và sử dụng có hiệu quả là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Cơng nghệ có vai trị quyết định năng suất lao động và
chất lượng sản phẩm. Sự hoàn thiện của máy móc thiết bị và cơng cụ lao động gắn
bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, chất lượng sản
phẩm và hạ giá thành. Do vậy, doanh nghiệp cần tìm ra các giải pháp đầu tư hợp lý,
chuyển giao công nghệ phù hợp với trình độ cơng nghệ tiên tiến của thế giới, bồi
dưỡng và đào tạo lực lượng lao động để có thể làm chủ được công nghệ.

19


Trong việc huy động và sử dụng vốn, doanh nghiệp cần phải xây dựng kế
hoạch cụ thể và phải có những biện pháp phịng ngừa rủi ro có thể có; phải xác định
cơ cấu vốn hợp lý, chặt chẽ thích ứng với quy mô và nhu cầu phát triển SXKD của
doanh nghiệp, tránh không lạm dụng vốn vay quá mức, đặc biệt là vốn ngắn hạn.

- Nhân tố tổ chức và quản lý: Trình độ và khả năng tổ chức sản xuất của
mỗi doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ tới hiệu quả kinh doanh thông qua việc xác
định phương hướng phát triển, phương hướng đầu tư, phương án lựa chọn cơng
nghệ, cách thức tổ chức bố trí dây chuyền công nghệ và cơ cấu tổ chức sản xuất.
Tăng cường chun mơn hóa, kết hợp đa dạng hóa cùng với những phương án quy
mô hợp lý cho phép khai thác tối đa lợi thế quy mơ giảm chi phí, nâng cao hiệu quả
sử dụng các yếu tố đầu vào. Việc tổ chức, phối hợp với các hoạt động kinh tế thơng
qua các hình thức tổ chức liên doanh, liên kết nhằm phát huy sức mạnh chung, tăng
khả năng cạnh tranh và tiêu thụ trên thị trường là một trong các biện pháp tăng hiệu
quả kinh doanh.
Trình độ tổ chức quản lý doanh nghiệp đạt hiệu quả thể hiện qua các mặt sau:
+ Cơ cấu tổ chức phải gọn nhẹ, hợp lý, bao quát hết các chức năng quản lý,
không chồng chéo và tiết kiệm chi phí.
+ Tổ chức sản xuất hợp lý, phối kết hợp chặt chẽ giữa sức lao động và tư liệu
sản xuất phù hợp với yêu cầu sản xuất sẽ tiết kiệm được yếu tố đầu vào, tăng sản
lượng đầu ra góp phần năng cao hiệu quả kinh doanh.
+ Tổ chức phân công lao động tốt, đúng ngành nghề và khả năng của từng cá
nhân nó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh chung của doanh nghiệp.
- Cơ chế quản lý của doanh nghiệp: Mỗi doanh nghiệp có một cơ chế quản
lý riêng của mình nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong SXKD. Đối với các đơn vị xây
dựng giao thơng nói riêng và xây dựng nói chung, cơ chế quản lý phải hết sức chặt
chẽ và linh hoạt vì chi phí đầu vào lớn, sử dụng nguồn vốn cũng lớn nếu quản lý
không chặt chẽ sẽ lãng phí và dễ thất thốt vốn.
Cơ chế quản lý trong xây dựng được ví như con dao hai lưỡi: nếu có cơ chế
quản lý tốt sẽ thúc đẩy được sản xuất kinh doanh có hiệu quả, ngược lại nếu cơ chế

20




×