Tải bản đầy đủ (.pdf) (208 trang)

So sánh thi pháp truyện thơ Tum Tiêu của dân tộc Khơme Campuchia với Vượt biển của dân tộc Tày ở Việt Nam (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 208 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CÙ THỊ ÁNH NGỌC

SO SÁNH THI PHÁP TRUYỆN THƠ
TUM TIÊU CỦA DÂN TỘC KHƠME CAMPUCHIA VỚI
VƯỢT BIỂN CỦA DÂN TỘC TÀY Ở VIỆT NAM

Ngành: Lí luận văn học
Mã số: 9.22.01.20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN ĐỨC NINH

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong
luận án là trung thực và chưa từng công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận án

CÙ THỊ ÁNH NGỌC


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .......................................6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu truyện thơ ở Việt Nam và nước ngoài..................6
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu hai truyện thơ Tum Tiêu và Vượt biển ...............17
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........................... 26
2.1. Thi pháp và thi pháp học lịch sử ............................................................................26
2.2. Văn học so sánh và so sánh song song ...................................................................33
2.3. Thi pháp truyện thơ và truyện thơ Đông Nam Á ...................................................36
2.4. Sự hình thành văn bản hai truyện thơ Tum Tiêu và Vượt biển ............................... 52
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG CỦA HAI TRUYỆN THƠ TUM
TIÊU VÀ VƯỢT BIỂN .................................................................................................66
3.1. Cốt truyện ...............................................................................................................66
3.2. Nhân vật ..................................................................................................................78
3.3. Không gian nghệ thuật............................................................................................ 86
3.4. Thời gian nghệ thuật ............................................................................................... 93
CHƯƠNG 4: NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CỦA HAI TRUYỆN THƠ TUM
TIÊU VÀ VƯỢT BIỂN ..............................................................................................101
4.1. Cốt truyện .............................................................................................................101
4.2. Nhân vật ................................................................................................................115
4.3. Không gian nghệ thuật..........................................................................................123
4.4. Thời gian nghệ thuật .............................................................................................137
KẾT LUẬN ................................................................................................................146
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Truyện thơ là một thể loại phát triển phong phú và có thành tựu trong văn học

Đông Nam Á. Truyện thơ không thuộc loại hình văn học nói - kể mà thuộc loại hình
hát - kể, nghĩa là cốt truyện tự sự được truyền đạt bằng phương thức dân ca. Và như
thế, truyện thơ các cư dân vùng Đông Nam Á ra đời, có vai trò, vị trí và tác động sâu
sắc tới đời sống văn hóa cũng như trong tiến trình lịch sử phát triển văn học các dân
tộc ở khu vực Đông Nam Á.
1.2. Campuchia được biết đến, trước hết như một quốc gia ở Đông Nam Á có một
truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời, với những công trình kiến trúc, điêu khắc kì vĩ,
độc đáo, tiêu biểu là quần thể kiến trúc Angkor - đỉnh cao của trí tuệ. Có lẽ đó chính là
cội nguồn của những rung cảm thẩm mĩ tạo nên tác phẩm văn học đặc sắc như truyện
thơ Tum Tiêu. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu Đông Nam Á, truyện thơ Tum
Tiêu không chỉ là một tác phẩm văn học đặc sắc của đất nước Campuchia mà còn
thuộc số những truyện thơ tiêu biểu ở Đông Nam Á. Nếu như Tum Tiêu được đánh giá
là thành tựu văn học xuất sắc và tiêu biểu đánh dấu chặng đường phát triển quan trọng
của văn học và chứa đựng nội dung xã hội, lịch sử của đất nước Campuchia thì với
người Tày của Việt Nam, chúng ta thấy rằng người Tày không chỉ có bề dày lịch sử
văn hóa mà văn học dân gian cũng có những đỉnh cao, nhất là những tác phẩm truyện
Nôm Tày như Khảm hải (Vượt biển). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chú trọng khai
thác những giá trị của từng văn bản nhưng chưa sử dụng văn học so sánh để tìm ra
những điểm tương đồng và khác biệt về mặt thi pháp truyện thơ Tum Tiêu của người
Khơme Campuchia với Vượt biển của người Tày ở Việt Nam. So sánh văn học giữa
các quốc gia hay liên quốc gia sẽ bổ sung quan trọng cho hướng nghiên cứu văn học
riêng lẻ từng quốc gia vốn vẫn tồn tại từ trước đến nay ở Việt Nam.
1.3. Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia láng giềng gần gũi, có quan hệ hữu
nghị truyền thống lâu đời, nhân dân hai nước là anh em gắn bó. Thiên nhiên ưu đãi đã
cho dòng sông Mê công chảy qua hai nước làm nên cuộc sống trù phú của nhân dân
hai nước. Dòng Mê công cũng chứng kiến trực tiếp mối tình hữu nghị đoàn kết gắn bó
keo sơn giữa nhân dân hai nước. Việc nghiên cứu văn học các nước trong khu vực
Đông Nam Á còn có ý nghĩa làm thay đổi nhận thức của giới văn nghệ và văn học của
Việt Nam chỉ “quen thuộc những chủ nhân từ phương xa - vốn xa lạ với chúng ta trên
nhiều phương diện, trong khi đó chúng ta lại rất lạ với người bà con ở ngay bên cạnh vốn rất gần gũi, có quan hệ gắn bó về mọi mặt với chúng ta trong cộng đồng khu vực

mà chúng ta là một thành viên” [102; 3]. Vì vậy, nghiên cứu văn học Campuchia vừa
có ý nghĩa củng cố tình hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam - Campuchia vừa có đóng góp
vào sự phát triển chung của khu vực Đông Nam Á (ASEAN).
1


Để góp phần khai thác các giá trị văn hóa và văn học trong sự tương đồng, khác
biệt của truyện thơ hai nước chúng tôi chọn: “So sánh thi pháp truyện thơ Tum Tiêu
của dân tộc Khơme Campuchia với Vượt biển của dân tộc Tày ở Việt Nam” làm
đề tài nghiên cứu của mình. Đây là việc làm vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa
thực tiễn. Nghiên cứu văn học Campuchia song hành với văn học Việt Nam còn góp
phần mở rộng hơn về mối quan hệ văn hóa - văn học giữa Việt nam với các nước
Đông Nam Á. Từ đó, những vấn đề của văn học Việt Nam cũng sẽ được làm sáng tỏ
hơn, thuyết phục hơn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Luận án đi sâu nghiên cứu để tìm ra những đặc điểm thi pháp của Tum Tiêu, Vượt
biển và so sánh thi pháp của những tác phẩm đó để thấy tư duy nghệ thuật, mĩ cảm, tâm lí,
tính cách của người Khơme và người Tày ở hai quốc gia Campuchia và Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận án là phân tích các khía cạnh, các
bình diện thi pháp của hai tác phẩm Tum Tiêu, Vượt biển, xem xét môi trường văn hóa,
lịch sử của các tác phẩm để có thể tiến hành so sánh loại hình truyện thơ Khơme và
truyện thơ Tày.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi chọn các văn bản truyện thơ Tum Tiêu của người Khơme Campuchia,
các văn bản truyện thơ Vượt biển của người Tày ở Việt Nam để nghiên cứu thi pháp
các tác phẩm đó và tiến hành so sánh thi pháp của chúng trên các bình diện: cốt truyện,
nhân vật, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi văn bản: Tum Tiêu là một truyện thơ tiêu biểu cho thể loại văn học truyền
thống của Campuchia. Đây là một câu chuyện có thật trong dân gian sau đó nó được
rất nhiều người viết lại và người thành công hơn cả là nhà sư Bôtum Mắtthê Xôm. Và
Tum Tiêu đã trở thành một tác phẩm văn học viết hoàn chỉnh của người Khơme
Campuchia (Ở Campuchia người Khơme được chia thành 3 cách gọi: 1) Khơme
Thượng là Khơme Trên hay còn gọi là Khơme Lự; 2) Khơme Kaldai hay còn gọi là
Khơme Giữa; 3) Khơme Krom là Khơme Dưới sống ở Việt Nam, còn được gọi là
Khơme Nam Bộ). Ở Việt Nam, có hai bản dịch Tum Tiêu được xem là phản ánh trung
thực, đầy đủ sát với nguyên tác là bản dịch nghĩa của Thái Văn Chải (1972) và dịch
thơ của Phùng Huy Thịnh (1987). Cả hai bản dịch đều thể hiện sự làm việc nghiêm
túc, công phu của các dịch giả để mang đến cho người đọc nguồn tri thức tin cậy, kết
2


hợp với văn phong dung dị, gần gũi. Tuy nhiên, trong đề tài luận án nghiên cứu thi
pháp truyện thơ Tum Tiêu của Campuchia chúng tôi chủ yếu dùng theo văn bản của
Phùng Huy Thịnh (Nxb Khoa học Xã hội, 2000) vì: 1) Tác giả đã dịch trực tiếp từ
tiếng Campuchia sang tiếng Việt đúng theo cấu trúc của nguyên tác (7 tiếng) và “bản
dịch đạt được thần thái của nguyên tác” [193; 8]; 2) Dịch giả có nhiều năm công tác
trên nước Campuchia, am tường lịch sử văn hóa, phong tục, tập quán của đất nước này.
“Vốn là một cử nhân văn chương, lại có nhiều năm lăn lộn với nghề làm báo, Phùng Huy
Thịnh tỏ ra mẫn cảm với việc nhận biết các giá trị văn học, giá trị dân tộc và giá trị văn
hóa tiềm tàng trong tác phẩm Tum Tiêu” [193; 8]; 3) Văn bản này được nhà xuất bản
Khoa học Xã hội ấn hành lần đầu năm 1987 và sau đó tái bản năm 2000.
Vượt biển (Khảm hải) - một truyện thơ dân gian của người Tày ở vùng núi phía
Bắc Việt Nam. Đã có rất nhiều văn bản Vượt biển được các nhà nghiên cứu văn hóa
dân gian sưu tầm và biên dịch lại như Nông Minh Châu, Vi Hồng, Lục Văn Pảo… Tuy
nhiên, các văn bản này lại chủ yếu được sưu tầm ở các tỉnh Việt Bắc như Thái
Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn… Và nó đã đem đến cho người đọc những cảm nhận

khác nhau, nhưng tựu chung lại tác phẩm có cốt truyện đậm màu sắc trữ tình tự sự.
Còn văn bản Vượt biển do Hoàng Hạc sưu tầm và giới thiệu in trong cuốn Truyện thơ
Tày - Nùng, tập 2 (Nxb Văn học, 1964) được chúng tôi chọn làm văn bản nghiên cứu
đối trọng với Tum Tiêu của người Khơme Campuchia vì: 1) Đây là văn bản do Hoàng
Hạc sưu tầm và giới thiệu trên chính quê hương ông (xã Xuân Lai, huyện Yên Bình,
tỉnh Yên Bái - thuộc vùng Tây Bắc): “Ngày còn nhỏ, tôi đã được nghe cha mẹ và các
cụ trong bản kể cho nghe từng đoạn Vượt biển. Tôi cũng lại đã dự xem nhiều buổi
“biểu diễn” Vượt biển của các ông Pụt (thầy cúng)” [13; 307] và nó có một tích truyện
cụ thể khi kể về cuộc đời cùng đường, bế tắc của con người: “Đây là con người lao
động nghèo khổ, những kẻ bị trị, những Sa dạ Sa dồng, quanh năm nai lưng làm lụng
một nắng hai sương mà rồi vẫn nghèo xác nghèo xơ. Những người ấy, lúc sống đã bị
bọn vua quan bắt đi phục dịch. Khi chết vẫn bị quan Slay bắt đi phục dịch, mang của
cống lễ lên quan trên miền âm phủ” [13 ; 307]; 2) Tác phẩm được khẳng định là một
truyện thơ có kết cấu cốt truyện, nhân vật cụ thể và mang đậm màu sắc tự sự trữ tình,
nên được đưa vào dạy trong chương trình Ngữ văn phổ thông: “Nguyên văn Khảm hải
bằng chữ Nôm Tày, Hoàng Hạc dịch ra thành 249 câu tiếng Việt. Bản được đưa vào
sách văn 10 có cốt truyện quen thuộc như các truyện thơ Tày - Nùng khác” [150; 49]
và trong giáo trình Văn học dân gian bậc đại học.
Phạm vi nghiên cứu: Khi nghiên cứu thi pháp truyện thơ có những bình diện khác
nhau. Ở luận án này, chúng tôi giới hạn sử dụng chủ yếu phương pháp so sánh song
3


song để tìm ra các điểm tương đồng và khác biệt trên các bình diện: cốt truyện, nhân
vật, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật của hai tác phẩm vừa nêu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ở luận án này, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Là nghiên cứu tác phẩm như một chỉnh thể
nghệ thuật qua các bình diện như cốt truyện, nhân vật, không gian nghệ thuật, thời
gian nghệ thuật. Chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu đó nhằm xác định những

nét tương đồng và khác biệt giữa Tum Tiêu với Vượt biển.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành, đa ngành: Để hiểu rõ hơn giá trị tác phẩm ở
hai nền văn học cần thiết sử dụng kiến thức tổng hợp và viện dẫn kết quả của các
ngành có liên quan như dân tộc học, văn hóa học, xã hội học… Theo chúng tôi, sự kết
hợp đa ngành là cách thức tối ưu làm nổi bật những nét tương đồng và khác biệt trong
đời sống văn học - văn hóa, môi trường, bối cảnh lịch sử của hai tác phẩm Tum Tiêu và
Vượt biển.
Phương pháp thống kê: Luận án tiến hành sưu tầm, thống kê số lượng văn bản, số
lượng những điểm tương đồng và khác biệt trong những văn bản đó. Đồng thời, luận
án dựa trên những kết quả, đưa ra những nhận xét, đánh giá một cách chính xác về các
khía cạnh của vấn đề.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Chúng tôi lựa chọn phương pháp này để phân
tích tác phẩm và tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp so sánh song song: Là tìm kết cấu nội tại, mối liên hệ giữa toàn bộ
tác phẩm với toàn bộ tiến trình xã hội của người Khơme và người Tày dựa trên các tư
liệu trong lịch sử và trong quá trình điền dã. Từ đó, luận án đối chiếu các bình diện thi
pháp truyện thơ của người Khơme Campuchia và người Tày ở Việt Nam để tìm ra
những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng, nhằm cho thấy tính liên văn hóa và
tính xuyên văn hóa trong nền văn hóa, văn học của hai nước.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về so sánh thi pháp
truyện thơ Tum Tiêu của người Khơme Campuchia với Vượt biển của người Tày ở
Việt Nam. Kết quả nghiên cứu căn cứ vào quá trình hình thành sẽ làm rõ những điểm
tương đồng và khác biệt trên các bình diện thi pháp: cốt truyện, nhân vật, không gian
nghệ thuật, thời gian nghệ thuật của hai tác phẩm thuộc hai tộc người của hai đất nước
khác nhau. Thông qua sự phân tích, so sánh này, luận án tiến tới giải mã các mã văn
hóa từ không gian văn hóa, từ chỗ tải đạo đến tải đời. Đặc biệt, luận án đưa ra được
những kết luận có tính chất khái quát về sự sáng tạo độc đáo của các tác giả trong từng
bình diện thi pháp của Tum Tiêu và Vượt biển. Đó là sự xây dựng thành công cốt
4



truyện tự sự trữ tình với mô hình cấu trúc “kết thúc bi kịch”, đã phá vỡ kiểu mô hình
vòng tròn khép kín của “kết thúc có hậu” để tạo nên một kiểu kết thúc mở và việc chọn
cách kết thúc cốt truyện đúng như thực tế sự việc đã diễn ra; Đó là kiểu nhân vật có
ngoại hình, tính cách và tâm lí duy mĩ, duy tình dám bẻ lái số phận bằng cách chọn cái
chết để giữ lòng thủy chung trong tình yêu và sự tinh khiết trong tâm hồn; Đó là mô
hình không gian - thời gian gắn liền với tinh thần tôn trọng thiên nhiên và các giá trị
văn hóa của con người trong đời sống khi cùng sinh tụ trên một khu vực địa lí. Qua đó,
hai truyện thơ này sẽ khơi dậy những khoái cảm thẩm mĩ và làm sáng tỏ bản sắc văn
hóa dân tộc độc đáo của họ. Đồng thời, hai truyện thơ này còn góp phần làm phong
phú và đa dạng hơn trong thể loại truyện thơ Campuchia và Việt Nam.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
Một, Chúng tôi giới thuyết cụ thể một cách hệ thống diễn trình vận động của lí
thuyết: thi pháp và thi pháp học lịch sử; văn học so sánh và so sánh song song; thi
pháp truyện thơ và truyện thơ Đông Nam Á thông qua các công trình tiêu biểu của các
đại diện quan trọng. Một số công trình nghiên cứu ứng dụng được xem là có tính chất
hệ thống khi nghiên cứu thi pháp học lịch sử và thi pháp truyện thơ.
Hai, Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh song song để tìm ra những
điểm tương đồng và khác biệt trên các bình diện thi pháp của Tum Tiêu và Vượt biển.
Qua đó, luận án sẽ góp phần làm phong phú hơn lí luận về thể loại truyện thơ.
Ba, Hơn nữa, việc luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu song song để tìm ra
những điểm tương đồng và khác biệt trên các bình diện thi pháp của Tum Tiêu và Vượt
biển còn góp phần quan trọng vào tìm hiểu quá trình biến đổi và tiếp nối trong nghiên
cứu lí thuyết thi pháp truyện thơ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ luận án này, chúng tôi hi vọng sẽ góp phần bổ sung cho việc nghiên cứu truyện thơ
các dân tộc thiểu số của Việt Nam, Campuchia và các dân tộc trong khu vực Đông Nam Á.
Ngoài ra, luận án còn là nguồn tư liệu tham khảo bổ ích cho các giảng viên, giáo

viên, học sinh các trường; những người có nhu cầu tìm hiểu truyện thơ của người
Khơme Campuchia và người Tày ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được kết cấu
thành 04 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương 3: Những điểm tương đồng của hai truyện thơ Tum Tiêu và Vượt biển
Chương 4: Những điểm khác biệt của hai truyện thơ Tum Tiêu và Vượt biển
5


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu truyện thơ ở Việt Nam và nước ngoài
1.1.1. Một số vấn đề lí luận về truyện thơ
Ở Việt Nam có ba khái niệm “truyện thơ”, “truyện Nôm” và “truyện thơ Nôm”.
Truyện thơ chủ yếu nói về các tác phẩm của các dân tộc ít người ở Việt Nam (như
truyện thơ Mường, truyện thơ Tày - Nùng, truyện thơ Thái). Trong cuốn Từ điển văn
học (bộ mới) thì truyện Nôm (hay truyện thơ Nôm) chủ yếu nói về các tác phẩm của
dân tộc Việt (Kinh) và đó là những tác phẩm viết bằng chữ Nôm (không phải chữ
Hán). Để hiểu một cách cụ thể về khái niệm “truyện thơ” chúng tôi sẽ tìm hiểu từ khái
niệm về “truyện thơ Nôm” một thể loại tương đối hoàn chỉnh trong nền văn học truyền
thống của Việt Nam.
Truyện Nôm tuy có từ xa xưa nhưng khái niệm và thuật ngữ “truyện Nôm” thì có
lẽ phải đến Dương Quảng Hàm mới được gọi là chính thức. Trước đó trong sách Việt
Hán văn khảo của Bưu Văn Phan Kế Bính và Quốc văn cụ thể của Ưu Thiên Bùi Kỷ
không thấy nhắc đến tên gọi thể loại này. Còn Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn
học sử yếu đã có chương XV ghi rõ: “Các văn thể riêng của ta đã nói đến hai thể:
truyện, ngâm, hát nói trong đó “các truyện Nôm của ta viết theo hai thể: lục bát và biến

thể lục bát”, và ông hiểu “truyện Nôm là tiểu thuyết viết bằng văn vần…” (Dẫn theo
Trần Đình Sử) [143; 83]. Đây là định nghĩa sơ lược đầu tiên về truyện Nôm. Nhà
nghiên cứu Nguyễn Hồng Phong trong sách Sơ khảo văn học Việt Nam (tập 3, 1959)
lại xem truyện Nôm bình dân là thể loại “tiểu thuyết” tuy còn non kém [135; 36]. Còn
nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh trong sách Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt
Nam (1974) cũng đồng quan điểm cho rằng truyện Nôm là một loại tiểu thuyết bằng
thơ [39; 131].
Ở cuốn Từ điển thuật ngữ Văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
đồng chủ biên thì mục từ “truyện Nôm” có lời giải thích như sau: “Thể loại tự sự bằng
thơ dài rất tiêu biểu cho văn học cổ điển Việt Nam, nở rộ vào cuối thế kỉ XVIII, đầu
thế kỉ XIX, do viết bằng tiếng Việt ghi bằng chữ Nôm nên được gọi là truyện Nôm”
[48; 45]. Còn trong cuốn Từ điển văn học (bộ mới) thì nguồn gốc của truyện Nôm vẫn
là một ẩn số “cho đến nay chưa thể biết truyện Nôm ra đời vào lúc nào và hình thái
đầu tiên như thế nào” [49; 1847]. Trong chuyên luận Truyện Kiều và thể loại truyện
Nôm, Đặng Thanh Lê đã đưa ra hai nhận định cụ thể về truyện Nôm: 1) “Truyện Nôm
nằm trong hệ thống các tác phẩm phản ánh cuộc sống bằng phương thức tự sự có ý
nghĩa là phản ánh cuộc sống xã hội thông qua sự trình bày, miêu tả có tính chất hoàn
chỉnh vận mệnh một nhân vật (trong mối quan hệ với nhiều vận mệnh, nhiều tính cách
6


nhân vật khác)”; 2) “Thể loại tiểu thuyết này sử dụng ngôn ngữ, văn tự dân tộc: chữ
Nôm và với tư cách tác phẩm tự sự bằng văn vần, đại bộ phận các tác phẩm đều sử
dụng một thể loại thơ dân tộc - thể lục bát” [74; 55]. Như vậy, Đặng Thanh Lê đã coi
truyện Nôm như một thể loại tiểu thuyết bằng thơ. Các học giả Nga như B.L. Riptin,
N.I. Niculin đã nhìn truyện Nôm trong truyền thống truyện thơ gần gũi với các
nước trong khu vực Đông Nam Á. Ở Việt Nam, truyện Nôm có thể diễn ca không
chỉ truyện cổ tích, thần thoại, ngụ ngôn, Phật thoại, tiên thoại, sử kí mà còn diễn ca
cả tiểu thuyết chương hồi. Điều đó chứng tỏ truyện thơ Nôm là một hình thức văn
học vừa ổn định vừa linh hoạt, có khả năng đồng hóa lớn, có sức sống lâu bền trong

tâm thức người Việt.
Một vấn đề khác là truyện Nôm gắn với chữ Nôm, thuộc phạm trù văn học Viết
dân tộc. Năm 1993, Kiều Thu Hoạch công bố công trình Truyện Nôm - Nguồn gốc và
bản chất thể loại, trong chương Thi pháp truyện Nôm ông đã phủ nhận xem truyện
Nôm bình dân là văn học viết, là thể loại tự sự tiểu thuyết hóa và có xu hướng xem đó
là thể loại văn học dân gian, sáng tác theo khuôn hình cốt truyện văn học dân gian,
nhân vật nhiều loại tính hơn là cá tính, tác phẩm mang đậm tư duy cổ tích, sử dụng kết
cấu có hậu với yếu tố thần kì, các môtíp truyện dân gian được sử dụng phổ biến, ngay
ngôn ngữ đối thoại, độc thoại cũng là bộ phận cấu thành quan trọng của thể loại cổ tích
[54; 133 - 215]. Truyện Nôm bình dân là sản phẩm sáng tác tập thể và sáng tác để kể
miệng là chính. Sự phân tích của Kiều Thu Hoạch đã làm sâu sắc thêm bản chất dân
gian của thể loại mà nhiều khi chưa được giới nghiên cứu nhận thức đầy đủ. Mặt khác,
các chứng cứ của nhà nghiên cứu cũng không thể bác bỏ được đặc trưng của văn học
viết của các tác phẩm đó. Cho đến nay, chưa có truyện Nôm nào được các nhà nghiên
cứu văn học dân gian ghi chép bằng phương pháp điền dã (chép trực tiếp từ người hát)
mà chỉ có các bản phiên âm của một văn bản Nôm có trước. Đồng thời, cho dù những
lí lẽ xác định bản chất sáng tác văn học dân gian hoàn toàn đủ sức thuyết phục, thì đó
cũng mới đề cập đến bộ phận truyện Nôm bình dân, vô danh hay khuyết danh thì vẫn
còn một bộ phận truyện Nôm có tác giả Nôm, bác học nữa được xem là tiểu thuyết.
Như vậy, truyện Nôm là thể loại truyện kể dân gian hay thể loại tiểu thuyết thuộc hai
loại hình văn học viết. Và để hiểu rõ hơn chúng tôi sẽ làm rõ những đặc trưng chung
của chúng.
Năm 2002, Trần Đình Sử đã ra chuyên luận về Thi Pháp Truyện Kiều. Trong
chuyên luận ông dành hẳn một mục Truyện thơ Nôm và Truyện Kiều. Theo quan điểm
của Trần Đình Sử thì truyện Nôm không phải thể loại sử thi, khác với cổ tích, khác với
tiểu thuyết hiện đại “truyện Nôm là thể loại “truyện vừa trung đại”, chỉ kể các nhân vật
và sự tích trong quan hệ nhân quả sít sao, chặt chẽ, có hậu. Truyện Nôm nói chung
chưa biết đến các chi tiết “thừa”, nó chưa cho ta biết về vô thức và trạng thái thế giới
7



bao la xung quanh con người và sự việc. Và do đó, truyện Nôm chưa phải là tiểu
thuyết” [143; 102]. Đây là một nhận định rất xác đáng khi nhà nghiên cứu dựa trên
quan điểm của A. Chichêrin về việc phân loại truyện vừa trong văn học Nga và thể
loại tiểu thuyết. Bằng những luận điểm và những dẫn chứng rất cụ thể, chi tiết thì đây
là một nhận định khoa học đáng tin cậy.
Năm 2016, Đức Ninh chủ biên công trình Quá trình hình thành thể loại tiểu thuyết
hiện đại trong văn học Việt Nam và một số nước Đông Nam Á, ở mục truyện Nôm thì
“Truyện Nôm là một thể loại truyện kể có cốt truyện được viết dưới hình thức văn
vần” [107; 82]. Công trình đã tổng kết những ý kiến đánh giá khác nhau của các nhà
nghiên cứu văn học trung đại và văn học hiện đại về thời điểm ra đời của truyện Nôm
dẫn đến các cách gọi khác nhau: “Cho đến nay, các nhà nghiên cứu văn học trung đại
vẫn chưa thể xác định được một cách chắc chắn thời điểm ra đời của thể loại này trong
lịch sử nước ta. Trong quan điểm của một số nhà nghiên cứu văn học hiện đại, thể
truyện Nôm có nhiều đặc tính của tiểu thuyết. Một số nhà nghiên cứu đã không ngần
ngại dùng thuật ngữ “tiểu thuyết” để chỉ thể loại này, thậm chí kể cả những dạng thức
manh nha của loại hình truyện kể” [107; 82]. Hơn nữa, chuyên khảo đã so sánh được
sự khác nhau về quan niệm đạo đức, nhân vật, ngôn ngữ giữa truyện Nôm bình dân và
truyện Nôm bác học để thấy được sự ảnh hưởng của nó lên tiểu thuyết quốc ngữ đầu
thế kỉ XX. Những ý kiến đánh giá trong công trình được đúc kết cô đọng, có giá trị và
tác động sâu sắc đến tư tưởng để chúng tôi tiếp tục triển khai đề tài.
Theo chúng tôi thì truyện Nôm là để nói về tác phẩm tự sự ở Việt Nam viết bằng
các loại chữ Nôm (Nôm Việt, Nôm Tày…) dưới hình thức văn vần hoặc văn xuôi. Còn
truyện thơ Nôm chỉ để nói về một loại tác phẩm tự sự ở Việt Nam, viết bằng thơ (của
tác giả khuyết danh hoặc có tên), văn tự là chữ Nôm các loại, chủ yếu xuất hiện ở Việt
Nam trong các thế kỉ XVIII, XIX.
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm “truyện thơ Nôm”, chúng ta tiếp tục mở rộng phạm
vi khảo sát các ý kiến, nhận định của các nhà nghiên cứu về nội hàm và ngoại diện của
“truyện thơ”. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm “truyện thơ”: Trong Từ điển văn
học (bộ mới) nêu ngắn gọn truyện thơ là “Một thể loại văn học viết dưới hình thức văn

vần có cốt truyện” [49; 1850]. Phan Đăng Nhật trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu
số ở Việt Nam đã đưa ra một cách hiểu khá đơn giản “Truyện thơ - đó là những tác
phẩm tự sự dưới hình thức thơ ca” [110; 150]. Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong
cuốn Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức trong thơ ca Việt Nam lí giải khái
niệm truyện thơ hoàn chỉnh và sâu sắc hơn: “Truyện thơ căn bản dựa vào phương thức
tự sự với một hệ thống sự kiện và cốt truyện để bộc lộ nội dung chủ đề. Cốt truyện
trong truyện thơ cũng giống như cốt truyện của kịch, tiểu thuyết. Bằng hình thức kể có
cốt truyện, nhà thơ có điều kiện đi sâu vào những tình tiết, những sự kiện của câu
8


chuyện, những khía cạnh khác nhau của xung đột xã hội, do đó, truyện thơ có khả
năng phản ánh những mặt phong phú của đời sống xã hội. Trên ý nghĩa đó, truyện thơ
có thể được xem như một tiểu thuyết. Một mặt khác, do chỗ vận dụng ngôn ngữ thơ ca
để diễn đạt nên từ hình ảnh, nhịp điệu đến cú pháp thơ ca, truyện thơ tự xác định chỗ
khác nhau với tiểu thuyết” [109; 396]. Võ Quang Nhơn trong giáo trình Văn học dân
gian các dân tộc ít người ở mục Truyện thơ đưa ra định nghĩa: “Truyện thơ một mặt kế
thừa và phát triển truyền thống tự sự và trữ tình của truyện cổ và thơ ca dân gian, một
mặt tiếp thu ảnh hưởng của nền văn hóa bác học và đặc biệt là nền văn hóa bác học
Việt. Từ những kế thừa và chịu ảnh hưởng nhiều mặt đó, các nghệ nhân dân gian và
các trí thức dân tộc đã sáng tạo nên một thể loại văn học dân gian mới với nội dung bề
thế hơn về mặt dung lượng, với nghệ thuật được trau chuốt và hoàn thiện hơn” [128;
450]. Nguyễn Xuân Kính trong mục Chung quanh các khái niệm “truyện thơ” và
“truyện thơ các dân tộc thiểu số” đã xác định: “Truyện thơ các dân tộc thiểu số là một
thể loại văn học dân gian thuộc loại hình tự sự, bao gồm những tác phẩm có hình thức
văn vần, được kể, được hát, được ngâm, đọc (kể cả trước và sau khi đã được ghi chép)
và thường có nội dung thể hiện thân phận con người và cuộc sống đôi lứa” [62; 547].
Có thể thấy, dù nghiên cứu từ một loại hình lí thuyết nào, dù nghiên cứu từ một
phương diện nội dung hay hình thức nghệ thuật của thể loại truyện thơ các nhà nghiên
cứu đều chú ý đến khai thác hai yếu tố: tự sự và trữ tình và coi nó là một loại tiểu

thuyết bằng thơ. Tuy nhiên, nếu chỉ khai thác các yếu tố này vào tác phẩm truyện thơ
cụ thể thì vẫn chưa thỏa đáng. Điểm dừng của các công trình này sẽ là điểm tiếp nối để
chúng tôi khai triển tiếp vấn đề lí luận về truyện thơ.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đưa ra khái niệm Truyện thơ ở hai góc độ lí luận văn học
và văn học sử: 1) Truyện thơ là một thể loại văn học nằm trong hệ thống những tác
phẩm phản ánh cuộc sống hiện thực bằng phương thức tự sự thông qua sự trình bày
miêu tả có tính chất hoàn chỉnh vận mệnh của một hay một số nhân vật chính và trên
cơ sở ấy là sự phát triển có tính chất hoàn chỉnh của một số tính cách nhân vật (trong
mối quan hệ với nhiều tính cách nhân vật khác). Tính chất hoàn chỉnh này cũng được
tạo nên bởi kết cấu cốt truyện, hệ thống nhân vật, tình huống trong một kiểu kết cấu
phổ biến; 2) Truyện thơ phản ánh cuộc sống bằng việc sử dụng hình thức văn vần
(thể thơ) trên cơ sở của các bài hát dân ca thấm đẫm chất trữ tình với đầy đủ những
đặc trưng của phương thức sáng tác này cùng với sự tồn tại của nó trong không
gian diễn xướng.
Khái niệm truyện thơ mà chúng tôi đưa ra khác với khái niệm về sử thi. Có thể
nhận thấy, trong văn học của các dân tộc thiểu số nổi lên hai thể loại văn học đặc trưng
cho văn hóa vùng miền, đó là: đối với dân tộc thiểu số miền Bắc là truyện thơ còn đối
với dân tộc thiểu số Tây Nguyên là sử thi. Hai đối tượng này có những điểm tương
9


Luận án đầy đủ ở file: Luận án Full















×