Tải bản đầy đủ (.doc) (195 trang)

Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.82 KB, 195 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ MỸ HẠNH

ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ NGỮ NGHĨA
CỦA THUẬT NGỮ MĨ THUẬT TIẾNG VIỆT

Ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9229020

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hà Quang Năng

Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố
trong bất cứ cơng trình nào khác.
Hà Nội, ngày 26 tháng 02 năm
2019
Tác giả luận án

Lê Thị Mỹ Hạnh


LỜI CÁM ƠN


Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo khoa Ngơn ngữ học, Ban lãnh đạo
Học viện cùng tồn thể cán bộ, các thầy giáo, cô giáo của Học viện Khoa học
xã hội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q trình học tập,
nghiên cứu, triển khai thực hiện luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Hà Quang
Năng
đã ln tận tình hướng dẫn, định hướng cho tơi trong suốt q trình học tập,
nghiên cứu để tơi có thể hồn thành luận án của mình.
Tơi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm
Nghệ thuật Trung ương đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tơi học tập,
nghiên cứu, hồn thành nhiệm vụ được giao. Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp ln quan tâm, động viên và đồng hành cùng tôi, tạo điều kiện để tơi
hồn thành luận án này.

Hà Nội, ngày 26 tháng 02 năm
2019
Tác giả luận án

Lê Thị Mỹ Hạnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................. 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN.................................................................................................................................................... 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở nước ngoài và ở Việt Nam 7

1.2.Cơ sở lí luận............................................................................................................................. 19
Tiểu kết chương 1......................................................................................................................... 54
Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ PHƢƠNG THỨC TẠO THÀNH


THUẬT NGỮ MĨ THUẬT TIẾNG VIỆT.................................................................. 55
2.1. Yếu tố cấu tạo thuật ngữ.................................................................................................. 55
2.2. Các phương diện và cách thức khảo sát.................................................................. 60
2.3. Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt xét về mặt cấu tạo............................................... 60
2.4. Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt xét về mặt từ loại................................................ 77
2.5. Thuật ngữ mĩ thuật xét về mặt nguồn gốc.............................................................. 80
2.6. Nhận xét chung về đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt 82

2.7. Phương thức tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt....................................... 86
Tiểu kết chương 2......................................................................................................................... 99
Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA VÀ ĐỊNH DANH CỦA THUẬT
NGỮ MĨ THUẬT TIẾNG VIỆT................................................................................... 102
3.1. Ý nghĩa của thuật ngữ.................................................................................................... 102
3.2. Sự thể hiện ý nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.................................. 106
3.3. Đặc điểm định danh của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt................................. 114
Tiểu kết chương 3...................................................................................................................... 140
KẾT LUẬN.................................................................................................................................. 142


DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ

ĐĐĐD

Đặc điểm định danh


MHCT

Mơ hình cấu tạo

Nxb

Nhà xuất bản

TNMT

Thuật ngữ mĩ thuật

TNMTTV

Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Vi ệt

Tr.

Trang

YTCT

Yếu tố cấu tạo


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ

Số TT

Tên bảng


Trang

1.

Bảng 2.1: Bảng tổng hợp các mơ hình cấu tạo của thuật
ngữ mĩ thuật tiếng Việt

76

2.

Bảng 2.2: Bảng tổng hợp đặc điểm từ loại của thuật
ngữ mĩ thuật tiếng Việt

79

3.

Bảng 2.3: Bảng tổng hợp nguồn gốc cấu tạo thuật ngữ mĩ
thuật tiếng Việt là từ

81

4.

Bảng 2.4: Bảng tổng hợp nguồn gốc yếu tố cấu tạo
thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt là cụm từ

82


5.

Bảng 2.5: Bảng tổng hợp phân bố số lượng TN mĩ thuật
tiếng Việt theo yếu tố cấu tạo

83

6.

Bảng 2.6: Tổng hợp các phương thức tạo thành thuật
ngữ mĩ thuật tiếng Việt

98


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu thuật ngữ, xây dựng hệ thống thuật ngữ và biên soạn,
xuất bản các từ điển thuật ngữ đang là nhu cầu cần thiết trong xu thế phát triển
mạnh mẽ của tất cả các ngành khoa học trên thế giới. Điều này cũng hết sức
cấp thiết đối với nước ta hiện nay. Tuy nhiên, muốn làm tốt công tác này,
chúng ta phải xây dựng được nền tảng lí luận vững vàng về thuật ngữ học,
cũng như hiểu biết và xác định rõ phương pháp biên soạn các loại từ điển
thuật ngữ. Rất tiếc, cả hai vấn đề này đều còn chưa được quan tâm nghiên cứu
đúng mức ở Việt Nam.
1.2. Trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ, thuật ngữ là đơn vị từ vựng có
phạm vi hoạt động và sử dụng hạn chế. Đó là những đơn vị từ vựng của ngôn
ngữ được sử dụng để biểu đạt khái niệm cụ thể hay trừu tượng trong hệ thống
lí thuyết thuộc một lĩnh vực chun mơn nhất định. Vì vậy, thuật ngữ là một

đối tượng đặc biệt, khác với từ và cụm từ như là đối tượng của ngôn ngữ học.
Mặc dù trong đa số trường hợp thuật ngữ học xem xét các đơn vị từ vựng đó
như là ngơn ngữ học, nhưng ở thuật ngữ có những đặc trưng khác. Thuật ngữ
có những yêu cầu chuẩn mực khác với những yêu cầu mà ngơn ngữ học địi
hỏi ở các đơn vị từ vựng khác. Vì vậy, để hiểu rõ đặc điểm hệ thống thuật ngữ
của bất kì ngành khoa học, kĩ thuật nào đều cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng toàn
diện và hệ thống thuật ngữ đó. Đó là lí do vì sao hiện nay ở nước ta, trong địa
hạt thuật ngữ học, bên cạnh nhiều cơng trình nghiên cứu lí thuyết về thuật ngữ
tiếng Việt, cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu các hệ thuật ngữ của các
chuyên ngành cụ thể. Kết quả nghiên cứu hệ thống thuật ngữ của các chuyên
ngành cụ thể sẽ góp phần thiết thực vào việc phát triển khoa học, kĩ thuật và
công nghệ của nước ta.

1


1.3. Mĩ thuật là một trong những bộ môn nghệ thuật ra đời sớm nhất của
loài người. Mĩ thuật học là ngành khoa học nghiên cứu những vấn đề lí luận
của các loại hình nghệ thuật tạo hình như hội họa, điêu khắc, đồ họa,... về các
phương diện như thể loại, chất liệu, hoạt động sáng tạo, đặc trưng ngôn ngữ,
các trường phái, xu hướng của các loại hình nghệ thuật kể trên. Đã có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu về mĩ thuật ở nước ta từ nhiều phương diện khác
nhau. Tuy nhiên, cho đến nay, hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt chưa
được chú ý nghiên cứu, ngoài một số cơng trình từ điển được biên soạn trên
cơ sở dịch các thuật ngữ mĩ thuật nước ngoài, chưa có cơng trình nào nghiên
cứu một cách tồn diện hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt về phương diện
lí thuyết.
Vì những lí do nêu trên, chúng tơi lựa chọn đề tài “Đặc điểm cấu tạo và
ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt ” cho cơng trình luận án của
mình. Luận án của chúng tơi sẽ tập trung nghiên cứu những đặc điểm cấu tạo,

nội dung ngữ nghĩa (bao gồm ý nghĩa và đặc điểm định danh), phương thức
tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng
Viêt. Đó là các từ, cụm từ biểu thị các khái niệm, sự vật, hiện tượng, quá trình,
hoạt động, tính chất… thuộc phạm vi của mĩ thuật truyền thống, gồm các
ngành: hội họa, điêu khắc, kiến trúc, đồ họa.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án giới hạn ở các phương diện cấu tạo, ngữ
nghĩa và phương thức tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt dựa trên tư liệu
là 1.320 thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt được thu thập từ các từ điển mĩ thuật,
giáo trình mĩ thuật học tiếng Việt thuộc phạm vi của mĩ thuật truyền thống,
gồm các ngành: hội họa, điêu khắc, kiến trúc, đồ họa.

2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng rõ đặc điểm cấu tạo, đặc
điểm ngữ nghĩa, đặc điểm định danh (ĐĐĐD) và phương thức tạo thành thuật
ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:

a. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuật ngữ nói chung, thuật ngữ mĩ
thuật nói riêng trên thế giới và ở Việt Nam, qua đó xác lập cơ sở lí luận cho
việc nghiên cứu;
b. Khảo sát, thống kê, phân loại thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt; tìm hiểu

đặc điểm cấu tạo thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt gồm: xác định khái niệm thuật
ngữ mĩ thuật để nhận diện thuật ngữ, tìm hiểu đặc điểm cấu tạo, miêu tả và
phân tích các mơ hình cấu tạo (MHCT) thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt;
c. Tìm hiểu nội dung ý nghĩa thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt, gồm có
các phương thức tạo nên ý nghĩa của thuật ngữ và các phạm trù nội dung ý
nghĩa làm cơ sở định danh của các đơn vị thuật ngữ trong hệ thống thuật ngữ
mĩ thuật tiếng Việt.
d. Tìm hiểu các phương thức tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
4. Tƣ liệu khảo sát
Tư liệu khảo sát của luận án là các thuật ngữ mĩ thuật rút từ các từ điển
thuật ngữ mĩ thuật và được thu thập từ những giáo trình mĩ thuật học, sách
báo, tạp chí về mĩ thuật bằng tiếng Việt. Cụ thể là:
- Thuật ngữ mĩ thuật Pháp - Việt, Việt - Pháp ( Viện Ngôn ngữ học, Hà
Nội, 1978);
- Từ điển mĩ thuật phổ thơng (Đặng Thị Bích Ngân (chủ biên), Nxb.
Mĩ thuật, Hà Nội, 2000);

3


- Từ điển mĩ thuật (Lê Thanh Lộc biên soạn, Nxb. Văn hóa - Thơng tin,
Hà Nội, 1998);
- Lược sử mĩ thuật và mĩ thuật học (Chu Quang Chứ, Phạm Thị
- Các thể loại và loại hình mĩ thuật (Nguyễn Trân, Nxb. Mĩ thuật, Hà
Nội, 2005);
- Mĩ thuật hiện đại Việt Nam, Nxb. Mĩ thuật, Hà Nội, 1996;
- Nghệ thuật học (Đỗ Văn Khang, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004);
- Điêu khắc (Nguyễn Thị Hiên, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2008);
- Điêu khắc hiện đại Việt Nam, Nxb. Mĩ thuật, Hà Nội, 2000.
- Lịch sử mĩ thuật học (Trần Tiểu Lâm, Phạm Thị chính, Nxb. Đại học

Sư phạm, Hà Nội, 2013);
- Lịch sử mĩ thuật Việt Nam (Phạm Thị Chính, Nxb. Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 2010);
- Hình họa 1 (Triệu Khắc Lễ, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2004).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu và các nội dung nghiên cứu đã đặt
ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phƣơng pháp miêu tả
Phương pháp miêu tả được sử dụng để thu thập, thống kê các thuật ngữ
mĩ thuật từ các nguồn tư liệu khảo sát, miêu tả các phương thức tạo thành
thuật ngữ, các kiểu cấu tạo thuật ngữ, các lớp thuật ngữ được sử dụng trong
lĩnh vực chuyên môn của chuyên ngành mĩ thuật và đặc điểm ý nghĩa và định
danh của hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
5.2. Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp
Phương pháp này được áp dụng để mô tả quan hệ ngữ pháp giữa các yếu
tố cấu tạo (YTCT) trong cấu trúc nội bộ của các thuật ngữ, xác định các kiểu
MHCT của hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt theo quan hệ

4


ngữ pháp giữa các YTCT trong cấu trúc của thuật ngữ mĩ thuật. Từ đó, tìm ra
được các ngun tắc tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt và các quy tắc cụ
thể tạo nên hệ thống thuật ngữ này.
5.3. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa
Phương pháp này được áp dụng để tìm hiểu những cách thức tạo thành ý
nghĩa thuật ngữ, phân tích ý nghĩa của các thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt. Dựa
vào các phạm trù nội dung ý nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt để phân
chia hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt thành các tiểu phạm trù ngữ nghĩa
và xác định các đặc trưng làm cơ sở định danh của hệ thuật ngữ và các kiểu

quan hệ ngữ nghĩa là cơ sở tạo nên thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt. Từ đó lập
các mơ hình định danh thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
5.4. Thủ pháp thống kê
Là một thủ pháp của phương pháp miêu tả, thủ pháp thống kê được sử dụng
để xác định số lượng, tần số xuất hiện, tỉ lệ phần trăm của các phương thức tạo
thành thuật ngữ, các MHCT, mơ hình định danh thuật ngữ. Các kết quả thống kê
sẽ được tổng hợp lại dưới hình thức của bảng biểu giúp hình dung rõ hơn tổng
thể diện mạo cấu tạo, định danh của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.

6. Ý nghĩa và đóng góp của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện phương diện cấu
tạo, nội dung ngữ nghĩa, các phương thức tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng
Việt, luận án sẽ có những đóng góp về mặt lí luận và thực tiễn như sau:
6.1. Ý nghĩa lí luận
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp thêm vào việc nghiên cứu lí
thuyết chung về thuật ngữ học, đồng thời chỉ ra được những đặc điểm riêng về
phương diện cấu tạo, đặc điểm ngữ nghĩa ( ngữ nghĩa và định danh) và
phương thức tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ:

5


- Cho phép đề xuất được các biện pháp, phương hướng cấu tạo các thuật
ngữ mĩ thuật mà tiếng Việt hiện chưa có;
- Là cơ sở để biên soạn từ điển giải thích thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt, góp
phần vào việc nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực thuật ngữ học tiếng Việt.

- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo

phục vụ cho cơng tác nghiên cứu, biên soạn giáo trình ngành mĩ thuật học và
giảng dạy ngành mĩ thuật học ở nước ta;
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương
được bố cục như sau:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chƣơng 2: Đặc điểm cấu tạo và phƣơng thức tạo thành thuật ngữ
mĩ thuật tiếng Việt
Chƣơng 3: Đặc điểm ngữ nghĩa và định danh của thuật ngữ mĩ
thuật tiếng Việt

6


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
"Mĩ thuật học là một mơn khoa học nghiên cứu những vấn đề lí luận về
mĩ thuật" [16; 5]. Loại hình nghệ thuật này có quan hệ đến sự cảm thụ bằng
mắt và sự tạo thành các hình tượng lấy từ thế giới vật chất bên ngoài để đưa
lên mặt phẳng hoặc một không gian nào đấy. "Mĩ thuật là một trong những bộ
môn nghệ thuật ra đời sớm nhất của loài người, khởi đầu bằng sự khai thác và
phát huy tác dụng của các nhân tố không gian như hình khối, đường nét, màu
sắc,...để diễn đạt và truyền cảm. Nó bao gồm nhiều thể loại, tựu trung lấy việc
kiến tạo các quan hệ không gian làm phương tiện diễn đạt và lấy việc gây cảm
hứng thị giác làm mục đích truyền đạt. Do đó mĩ thuật được liệt vào loại nghệ
thuật thị giác hay nghệ thuật không gian" [87, tr.5]. Các nhà nghiên cứu cho
rằng: "nếu nói một cách chính xác hơn, nên dùng danh từ "nghệ thuật tạo
hình". Trên thế giới, danh từ "nghệ thuật tạo hình" đã trở nên phổ cập và được
chính thức đưa vào bách khoa toàn thư, từ điển" [16; 5]. Như vậy, thuật ngữ
"nghệ thuật tạo hình" đồng nghĩa với thuật ngữ "mĩ thuật". Tuy nhiên để đảm

bảo tính nhất quán, trong luận án này chúng tôi chỉ sử dụng thuật ngữ "mĩ
thuật".
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở nước ngồi và ở Việt Nam

1.1.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở nước ngoài

Theo những nghiên cứu và tổng kết của Hà Quang Năng [86, 80 - 86],
việc nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới đã sớm bắt đầu ngay từ thế kỉ 18. Các
nghiên cứu về thuật ngữ ở thời kì này đều tập trung vào nội dung tạo lập thuật
ngữ, xác định các nguyên tắc cho việc xây dựng một hệ thống thuật ngữ riêng
cho từng ngành khoa học. Đi tiên phong trong công tác nghiên cứu thuật ngữ
ở thời kì này là các nhà khoa học như: Carl von Linné (1736); Beckmann
(1780); A.L. Lavoisier, G.de Morveau, M.Berthellot và A.F.de Fourcoy

7


(1789) và William Wehwell (1840). Carl von Linné (1707 - 1778) có thể được
coi là người xác lập cơng tác nghiên cứu thuật ngữ, trong đó gồm có việc nêu
quy tắc tạo thuật ngữ, xác định chuẩn mực của thuật ngữ và lập kế hoạch xây
dựng các hệ thuật ngữ khoa học. Bởi vì chỉ từ khi tác phẩm Fundamenta
botanica (1736) của ơng ra đời thì người ta mới có thể nói đến một hệ thuật
ngữ thực vật học được xác định theo quy tắc nhất định. Có đến gần 1000 thuật
ngữ đã được ơng giải thích ý nghĩa và chỉ rõ cách sử dụng chúng rất tỉ mỉ.
Trong khi Linné dựa vào ngôn ngữ khoa học đang được sử dụng ở châu Âu
thời bấy giờ là tiếng Latinh để xây dựng thuật ngữ khoa học, thì ngay từ giữa
thế kỉ 18, M.V. Lomonosov đã đưa ra một hệ thống thuật ngữ lí - hố riêng
của tiếng Nga, trong đó ông sử dụng tối đa các thuật ngữ bằng tiếng Nga và
chỉ sử dụng các thuật ngữ ngoại lai khi khơng thể tìm ra các tương đương
trong tiếng Nga.

Thời kì này ở nước Pháp người ta cũng nỗ lực xây dựng hệ thuật ngữ
hoá học. A. L. Lavoisier, G. de Morveau, M. Berthellot và A. F. de Fourcroy
đã xây dựng được một hệ thuật ngữ gọi tên các chất hoá học trong cơng trình
Méthode de nomenclature chimique xuất bản năm 1787. Hệ thống thuật ngữ
này đã thể hiện rõ các mối quan hệ qua lại trong các kết hợp của các chất (ví
dụ ở các kết hợp với lưu huỳnh: sulphite, sulphate, sulphurate v.v.) để tạo ra
một hệ thuật ngữ thống nhất và bao quát được toàn bộ hệ thống tên gọi các
chất hóa học.
Một bước quan trọng tiếp theo được Johann Beckmann (1739 - 1811)
thực hiện với việc lập ra một hệ thuật ngữ cơng nghệ. Ơng đã xây dựng hệ
thống thuật ngữ kĩ thuật trong lĩnh vực thủ công. Beckmann biết rõ trong các
nghề thủ công người ta sử dụng rất nhiều các thuật ngữ khác nhau nhưng
chúng lại khơng thống nhất giữa các ngành. Có nhiều thuật ngữ rất khác nhau
lại được dùng để gọi tên những quá trình hay những phương tiện kĩ thuật
giống nhau. Những người thợ thủ công đã không thể dùng tiếng Latinh, thứ

8


tiếng của các học giả thời đó, để đặt thuật ngữ cho ngành nghề của mình. Cịn
các ngơn ngữ quốc gia lại rất khó khăn để có thể diễn đạt được đầy đủ và rõ
ràng các thuật ngữ chuyên ngành trong lĩnh vực kĩ thuật. Theo tinh thần đó,
Beckmann cho rằng để có một hệ thuật ngữ cơng nghệ được quy định thống
nhất thì, một mặt, "phải loại bỏ đi các từ đồng nghĩa, mặt khác, phải dần tiếp
nhận một lượng từ ngữ mới”. Tuy nhiên, những chỉ dẫn về việc chuẩn hoá
thuật ngữ của Beckmann phải mãi 150 năm sau mới được thực hiện đối với hệ
thống thuật ngữ về kĩ thuật.
Công tác nghiên cứu và xây dựng một hệ thuật ngữ mang tính hệ thống
bằng tiếng mẹ đẻ của mỗi một dân tộc hay bằng ngôn ngữ quốc gia chỉ được
tiến hành mãi sau chiến tranh thế giới thứ nhất và đạt được đỉnh điểm của nó

vào đầu những năm 30 của thế kỉ 20. Ý tưởng về một khoa học thuật ngữ phải
đến đầu thế kỉ 20 mới hình thành, việc nghiên cứu thuật ngữ mới có được
định hướng khoa học và được công nhận là một hoạt động quan trọng về mặt
xã hội.
Từ những năm 1930, việc nghiên cứu thuật ngữ thực sự diễn ra một cách
đồng thời với những cơng trình nghiên cứu thuật ngữ của các học giả Liên Xơ
cũ, Cộng hịa Tiệp Khắc và Áo. Việc nghiên cứu thuật ngữ ở thế kỉ 20 thực sự
diễn ra từ những năm 1930 một cách đồng thời nhưng độc lập bởi các học giả
người Áo, Liên Xô cũ và Tiệp Khắc. Những nghiên cứu này được coi là nền
tảng cho sự khởi đầu của ngành thuật ngữ học trên thế giới. Đây là ba cái nôi
nghiên cứu thuật ngữ tiêu biểu và lớn nhất trên thế giới tạo thành ba trường
phái nghiên cứu thuật ngữ.
Trường phái nghiên cứu thuật ngữ của Áo gắn liền với tên tuổi của
E.Wuster (1898 -1977). Ơng khơng chỉ được coi là người đầu tiên đặt nền
móng cho cơng tác nghiên cứu và phát triển thuật ngữ hiện đại ở thế kỉ 20 mà
cịn là người có ảnh hưởng rất lớn đến việc nghiên cứu thuật ngữ của nhiều
học giả sau này. Các phương pháp nghiên cứu thuật ngữ của trường phái này

9


chủ yếu dựa theo những nguyên tắc được trình bày rất rõ ràng trong tác phẩm
Lí luận chung về thuật ngữ của Wuster (1931). Trong tác phẩm này, Wuster đã
đề cập đến những phương diện ngôn ngữ học của công tác nghiên cứu thuật
ngữ liên quan đến hệ thống tên gọi các khái niệm, đối tượng trong lĩnh vực kĩ
thuật. Ông đã xác lập được các phương pháp nghiên cứu thuật ngữ, đưa ra
một số nguyên tắc xây dựng thuật ngữ và xác định các phương pháp xử lí ngữ
liệu thuật ngữ. Cơng trình của ơng đã được Leo Weisgeber (1975) đánh giá
như là một cột mốc của ngôn ngữ học ứng dụng.
Đặc điểm quan trọng nhất của trường phái nghiên cứu thuật ngữ Áo là tập

trung vào các khái niệm và hướng việc nghiên cứu thuật ngữ vào chuẩn hóa các
thuật ngữ và các khái niệm. Việc nghiên cứu của trường phái này nhằm phục vụ
nhu cầu của các nhà kĩ thuật, các nhà khoa học là chuẩn hóa thuật ngữ trong lĩnh
vực của họ để đảm bảo sự giao tiếp hiệu quả và có thể chuyển tải kiến thức trong
lĩnh vực chuyên môn. Những nguyên tắc nghiên cứu thuật ngữ của trường phái
này được trình bày cụ thể trong các tài liệu về chuẩn hóa từ vựng của thuật ngữ.
Đa số các nước vùng Trung Âu và Bắc Âu (Áo, Đức, Na Uy, Thụy Sĩ, Đan
Mạch) đều nghiên cứu thuật ngữ theo hướng này.

Trường phái thuật ngữ học của Tiệp Khắc với đại diện tiêu biểu là L.
Drodz, một trong những người khởi xướng và phát triển công tác nghiên cứu
thuật ngữ ở Tiệp Khắc từ cách tiếp cận ngôn ngữ học về mặt chức năng của
Trường phái ngôn ngữ học Praha. Trong nghiên cứu, các nhà khoa học của
trường phái này quan tâm đặc biệt đến việc miêu tả cấu trúc và chức năng của
các ngôn ngữ chun ngành, trong đó thuật ngữ đóng vai trị quan trọng. Theo
quan niệm của Trường phái ngôn ngữ học Praha, thì các ngơn ngữ chun
ngành mang đặc điểm của phong cách khoa học, tồn tại cùng với các loại
phong cách chức năng khác như phong cách chính luận, phong cách hành
chính - cơng vụ, phong cách văn học nghệ thuật và phong cách khẩu ngữ. Họ
xem thuật ngữ như là những đơn vị tạo nên diện mạo của phong cách khoa

10


học. Mối quan tâm nhất của trường phái này là vấn đề chuẩn hóa ngơn ngữ và
chuẩn hóa thuật ngữ.
Trường phái nghiên cứu thuật ngữ của Nga - Xô Viết
Theo tổng kết của các tác giả cơng trình "Thuật ngữ học - Những vấn đề
lí luận và thực tiễn" [84], sự phát triển khoa học về thuật ngữ ở Nga và Liên
Xơ trải qua 4 thời kì.

- Thời kì chuẩn bị: Bắt đầu từ năm 1780 và kéo dài đến cuối thập niên 20
của thế kỉ 20. Đây là thời kì lựa chọn, xử lí sơ bộ các thuật ngữ và xác định
các khái niệm chuyên biệt liên quan. Sự bắt đầu thời kì này được đánh dấu
bằng việc dịch các thuật ngữ và biên soạn từ điển thuật ngữ học đầu tiên vào
năm 1780.
- Thời kì thứ nhất: từ năm 1930 đến năm 1960 của thế kỉ 20. Đặc điểm
cơ bản thời kì này là sự ra đời các lí thuyết về thuật ngữ học và những hoạt
động thực tiễn về thuật ngữ học trên nền tảng giáo dục kĩ thuật của hai chuyên
gia là D. S. Lotte và E.K.Drezen, cũng như những đóng góp lớn lao cuả A. A.
Reformatsky và G. O.Vinokur. Trong các cơng trình khoa học của mình, D.S
Lotte và E.K.Drezen đã đưa các quan điểm ngơn ngữ học vào việc tìm hiểu sự
phát triển khoa học về thuật ngữ ở Nga. Đại diện tiêu biểu của trường phái
nghiên cứu thuật ngữ Nga - Xô viết là Đ.X. Lotte (1898 -1950) với cơng trình
Ngun lí xây dựng hệ thuật ngữ khoa học kĩ thuật, ông được coi là người
đứng đầu trong công tác phát triển hệ thuật ngữ hiện đại của Liên Xô. Lotte đã
tạo ra nền móng về mặt lí thuyết và phương pháp cho cơng tác thuật ngữ của
Liên Xơ.
- Thời kì thứ hai kéo dài từ năm 1970 đến 1990 của thế kỉ 20: Thuật ngữ
học trở thành một ngành khoa học độc lập. Những thành tựu trong ngôn ngữ
học, logic học và tiến bộ trong công nghệ thông tin đã dẫn đến việc xác định
rõ chủ thể và khách thể của thuật ngữ học với những cải tiến về phương pháp
nghiên cứu, góp phần giải quyết những vấn đề cơ bản của thuật ngữ học. Hoạt

11


động của các Ủy ban về thuật ngữ trong phạm vi nghiên cứu mang tính hàn
lâm cuả các nước cộng hịa trong Liên bang Xơ Viết về cơng tác chuẩn hóa
thuật ngữ được đặc biệt chú ý. Thời kì này, ở Cộng hòa Liên bang Nga đã tổ
chức một số hội nghị, hội thảo về thuật ngữ học, hàng chục chuyên khảo đã

được công bố, gần 20 tuyển tập các bài báo về thuật ngữ đã được xuất bản và
hơn 100 luận án Phó tiến sĩ, Tiến sĩ đã được bảo vệ. Ngồi ra, hàng nghìn các
từ điển bách khoa và từ điển thuật ngữ học, bao gồm từ điển thuật ngữ kĩ thuật
tổng hợp, từ điển thuật ngữ khoa học công nghệ chung và các loại từ điển
chuyên ngành sâu… đã được biên soạn với sự đóng góp của các nhà khoa học
như L.N. Beljaeva, L. I. Borisova, L.Ju. Bujanova, A.S. Gerd, B.N. Golovin,
S.V. Grinev, V.P. Danilenko, G.A. Dianova, A. D. Hajutin, T.L. Kandenlaki,
R.Ju. Kobrin, Z.I. Komarova, T.B. Kryuchkova; O. D. Mitrofanova,V.I.
Mikhailova, S.E. Nikitina, A. V. Superanskaja, V.D. Tabanakova, V.A.
Tatarinov, L.B. Tkacheva, N.I.Tolstoy, O.N. Trubachev, N.V. Vasilieva, M.N.
Volođina.
- Thời kì thứ ba là thập niên cuối cùng của thế kỉ 20. Đặc điểm của thời
kì này là việc nghiên cứu thuật ngữ được thực hiện trong bối cảnh sau khi
Liên Xô sụp đổ, với những thay đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế, xã hội,
khoa học. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu thuật ngữ học được đánh dấu
bằng sự khủng hoảng ở nửa đầu thập niên và những đổi mới ở nửa sau thập
niên cuối cùng của thế kỉ 20. Trong những thập niên đầu của thế kỉ 21, số
lượng các cơng trình nghiên cứu thuật ngữ ở Nga không ngừng tăng lên,
tập trung nghiên cứu những phương thức sáng tạo thuật ngữ, nguyên tắc xây
dựng các hệ thống thuật ngữ mới và chỉnh lí một số hệ thống thuật ngữ đã có.
Hiện nay các nhà nghiên cứu cũng đã tập trung nghiên cứu thuật ngữ theo
hướng ngơn ngữ học tri nhận, như vấn đề tính đa dạng trong cách tri nhận,
trong sáng tạo thuật ngữ. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu thuật ngữ theo
hướng tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận, như: "Cơ sở ngôn ngữ - tri

12


nhận của việc nghiên cứu thuật ngữ chuyên ngành", "Nghiên cứu từ vựng
chuyên ngành từ góc độ định danh - tri nhận (trên tư liêu tên gọi các cây

thuốc", "Mô hình hóa và cơ sở tri nhận hệ thống thuật ngữ bệnh học trong
tiếng Anh hiện đại", "Thuật ngữ học từ vựng là một hệ thống",v.v.[86]
Như vậy, cả ba trường phái nói trên đều có chung quan điểm là nghiên
cứu thuật ngữ dựa trên ngôn ngữ học. Các nhà khoa học đều xem thuật ngữ
như là một phương tiện để diễn đạt và giao tiếp trong lĩnh vực chun mơn.
Vì vậy cả ba trường phái đã hình thành cơ sở lí thuyết về thuật ngữ và những
nguyên lí xây dựng thuật ngữ mang tính phương pháp chi phối những ứng
dụng của thuật ngữ. Những thành tựu nghiên cứu thuật ngữ của các trường
phái này là một trong những động lực quan trọng cho việc phát triển những
hướng mới nghiên cứu thuật ngữ sau này - đó là thuật ngữ được nghiên cứu
theo hướng dịch thuật và kế hoạch hóa ngơn ngữ.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam
Thuật ngữ khoa học tiếng Việt xuất hiện chưa lâu, chỉ từ nửa đầu thế kỉ
20 trở lại đây. Mãi đến đầu thế kỉ 20, một số thuật ngữ tiếng Việt mới lẻ tẻ
xuất hiện và cũng chỉ hạn chế trong một vài lĩnh vực rất hẹp, cũng không
được phổ biến rộng rãi. Những thuật ngữ này lúc đầu chủ yếu là về khoa học
xã hội và nhân văn, nhất là về chính trị và triết học, sau mới phát triển sang
các ngành khoa học khác. Đóng góp quan trọng cho sự hình thành hệ thống
thuật ngữ tiếng Việt giai đoạn này là một số tờ báo, một số văn kiện của tổ
chức đảng tiền thân, một số văn bản ở giai đoạn 1900 – 1930 và những thuật
ngữ Hán Việt xuất hiện trong Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh. Lần đầu
tiên trong từ điển này có nhiều mục từ là các thuật ngữ thuộc nhiều môn khoa
học khác nhau được nhận diện và giải thích. Việc đặt thuật ngữ khoa học tiếng
Việt cũng đã được các nhà khoa học chú ý và phát triển trong báo Khoa học
(1942 - 1943). Đáng chú ý nhất là quan điểm về thuật ngữ trong cơng trình
"Danh từ khoa học" của Hoàng Xuân Hãn, người tiên phong trong

13



nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ tiếng Việt. Trong cơng trình này, lần đầu
tiên Ơng đã tổng kết ba phương thức xây dựng thuật ngữ dựa vào từ thông
thường, mượn tiếng Hán và phiên âm từ các tiếng Ấn - Âu và đề ra 8 yêu cầu
đối với việc xây dựng thuật ngữ khoa học. Như vậy, giai đoạn 1930 - 1945, hệ
thống thuật ngữ tiếng Việt đã hình thành.
Thấy rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng hệ thống thuật ngữ tiếng
Việt, nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ khoa học,
dần dần tiêu chuẩn hoá và thống nhất thuật ngữ trong các ngành chuyên môn,
cuối tháng 12 - 1964, Uỷ ban Khoa học Nhà nước đã triệu tập Hội nghị bàn về
vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học với sự tham gia nhiều cán bộ nghiên cứu
khoa học, giảng viên các trường đại học thuộc các ngành chuyên môn khác
nhau đã tới dự. Một bản Quy tắc phiên âm thuật ngữ khoa học nước ngoài
(gốc Ấn - Âu) ra tiếng Việt đã được soạn thảo sau hội nghị. Bản Quy tắc này
đã góp phần đẩy cơng tác thuật ngữ lên một bước và một loạt gần 40 tập thuật
ngữ đối chiếu đã ra đời. Tuy vẫn cịn những có những ý kiến khác nhau trong
vấn đề bàn về các tiêu chuẩn của thuật ngữ: khoa học, dân tộc, đại chúng
nhưng về cơ bản, ý kiến của các nhà nghiên cứu đều thống nhất với những
nguyên tắc trong đề án Quy tắc phiên âm thuật ngữ khoa học nước ngoài ra
tiếng Việt do Ủy ban Khoa học xã hội cơng bố. Chính điều này đã góp phần
đẩy mạnh việc thống nhất và tiêu chuẩn hóa thuật ngữ. Vì vậy, việc xây dựng
các hệ thống thuật ngữ và biên soạn từ điển thuật ngữ giai đoạn này đã phát
triển mạnh mẽ.
Ở miền Nam, Lê Văn Thới là nhà khoa học có nhiều đóng góp với cơng
tác xây dựng thuật ngữ khoa học tiếng Việt. Lê Văn Thới đã soạn thảo nguyên
tắc xây dựng danh từ chun mơn làm tài liệu hướng dẫn chính thức cho công
việc xây dựng thuật ngữ khoa học ở miền Nam. “Qua hơn mười
năm áp dụng bản nguyên tắc đó, các nhà thuật ngữ học miền Nam đã hồn
thành được một khối lượng công việc đáng kể. Hơn 50 cuốn thuật ngữ đối

14



chiếu đã được biên soạn. Trong hồn cảnh chính trị lúc bấy giờ, rõ ràng là
phải nhiệt tình lắm mới có thể làm được những việc như thế” [127; 28]. Sau
khi nước nhà thống nhất, công tác xây dựng thuật ngữ tiếp tục được đẩy mạnh
và phát triển trong phạm vi cả nước. Theo thống kê chưa đầy đủ, ở thời kì đầu
sau cách mạng tháng Tám, số lượng thuật ngữ khoa học, kĩ thuật có vào
khoảng 40.000 đơn vị, sau 20 đến 25 năm đã lên tới 900.000 đơn vị [83].
“Trải qua hơn nửa thế kỉ, thuật ngữ tiếng Việt đã có những bước phát triển
nhanh chóng về số lượng. Đáng chú ý hơn, bên cạnh mặt số lượng, thuật ngữ
tiếng Việt đã thay đổi cả về chất” [83;121]. Tuy nhiên, trong thời kì này cịn
nhiều vấn đề như xác định khái niệm thuật ngữ, những tiêu chuẩn của thuật
ngữ; phương thức đặt thuật ngữ; vay mượn và xử lí thuật ngữ nước ngồi
trong tiếng Việt; vấn đề chuẩn hóa hệ thuật ngữ tiếng Việt vẫn chưa có những
nghiên cứu chun sâu, tồn diện và có hệ thống.
Từ 1986 trở đi, khi đất nước ta từng bước hội nhập vào không gian kinh
tế của khu vực và quốc tế, cùng với sự phát triển vũ bão của khoa học kĩ
thuật, đặc biệt là ngành công nghệ thông tin, ngành tài chính, ngân hàng,
ngành kinh tế, luật…số lượng thuật ngữ khoa học vay mượng nước ngoài
trong tiếng Việt tăng lên rất nhiều, nhưng lại chưa có những nguyên tắc, cách
thức xử lí tồn diện và nhất qn.
Trong thời kì này, cơng tác nghiên cứu thuật ngữ về phương diện lí
thuyết cũng được quan tâm, đã xuất hiện nhiều cơng trình nghiên cứu chun
sâu về lí luận thuật ngữ. Cơng trình “Sự phát triển của từ vựng nửa sau thế kỉ
XX” [83] đã dành một chương nghiên cứu về thuật ngữ tiếng Việt, chỉ rõ
những chặng đường phát triển của tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt, nêu rõ
những con đường hình thành thuật ngữ tiếng Việt cũng như những giải pháp
cụ thể trong việc tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài vào tiếng Việt.
Đề tài cấp Bộ “Những vấn đề thời sự của chuẩn hóa tiếng Việt” của Viện
Ngơn ngữ học (do Vũ Kim Bảng và Nguyễn Đức Tồn làm chủ nhiệm đề tài)


15


đã dành riêng cho việc nghiên cứu, xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng
Việt trong thời kì hội nhập và tồn cầu hóa hiện nay. Nội dung nghiên cứu tập
trung vào việc tổng kết những vấn đề lí luận truyền thống về thuật ngữ như
vấn đề định danh ngôn ngữ và vấn đề xây dựng thuật ngữ, vấn đề vay mượn
thuật ngữ nước ngoài và vấn đề áp dụng lí thuyết điển mẫu vào nghiên cứu
thuật ngữ và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt.
Đề tài "Một số vấn đề lí luận và phương pháp luận biên soạn từ điển
chuyên ngành và thuật ngữ" của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt
Nam (do Hà Quang Năng làm chủ nhiệm) tập trung tìm hiểu những vấn đề
nghiên cứu lí luận và thực tiễn của thuật ngữ học ở nước ngồi và ở Việt Nam,
trong đó trình bày những kết quả nghiên cứu về nhiều khái niệm cơ bản của
thuật ngữ học như: YTCT thuật ngữ, tiêu chuẩn của thuật ngữ, ý nghĩa và định
danh thuật ngữ, xây dựng từ điển thuật ngữ,...đã được trình bày cụ thể. Kết
quả nghiên cứu của đề tài này đã được công bố trong cơng trình: Thuật ngữ
học - Những vấn đề lí luận và thực tiễn" [84].
Đề tài "Nghiên cứu hệ thuật ngữ tiếng Việt hiện đại nhằm góp phần xây
dựng nền văn hóa tri thức Việt Nam" [108] do Lê Quang Thiêm làm chủ
nhiệm đã nghiên cứu điều tra tổng hợp đánh giá, miêu tả sự hình thành và
phát triển hệ thuật ngữ tiếng Việt quốc ngữ Latinh hóa theo định hướng văn
hóa từ 1907 đến 2005. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự phát triển của tiếng
Việt, đặc biệt là bình diện nghĩa, cấp độ từ vựng - ngữ nghĩa mà cụ thể là hệ
thuật ngữ tiếng Việt hiện đại. Tìm hiểu sự phát triển hệ thuật ngữ tiếng Việt
theo định hướng văn hóa, đề tài này nghiên cứu thuật ngữ trong mối quan hệ
với sự phát triển, phổ biến tri thức khoa học và công nghệ; chuyển từ xem xét
thuật ngữ như một lớp từ vựng xét về mặt phạm vi sử dụng sang xem xét, đối
xử với thuật ngữ với tầm mức và quy mơ phát triển của nó, với đặc điểm đa

ngành, liên ngành ngôn ngữ - tri thức - văn hóa - giáo dục, như một phân

16


ngành, ngành thuật ngữ với tư cách một ngành khoa học nghiên cứu về thuật
ngữ - thuật ngữ học của Việt Nam.
Cơng trình "Thuật ngữ học tiếng Việt hiện đại" [110] là cơng trình tổng
kết một số thành tựu mới nhất nghiên cứu về thuật ngữ tiếng Việt. Cơng trình
đã tổng quan tình hình nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ trên thế giới và ở
Việt Nam, trình bày khái niệm thuật ngữ và các tiêu chuẩn của thuật ngữ trong
sự phân biệt với các đơn vị từ vựng phi thuật ngữ, lí thuyết điển mẫu và vấn
đề chuẩn hóa thuật ngữ. Cơng trình này cũng trình bày những đặc điểm thuật
ngữ của một ngành khoa hoc với tư cách là những nghiên cứu trường hợp cụ
thể (hệ thuật ngữ vật lí học; hệ thuật ngữ ngơn ngữ học; hệ thuật ngữ khoa
học kĩ thuật xây dựng; hệ thuật ngữ thương mại). Trên cơ sở đó tổng kết tình
hình nghiên cứu, xây dựng và sử dụng thuật ngữ tiếng Việt hiện nay và đề
xuất 6 kiến nghị cụ thể về các giải pháp xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ
tiếng Việt trong thời kì cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế để làm cơ sở xây dựng luật ngơn ngữ.
Các cơng trình khảo cứu chuyên sâu về hệ thống thuật ngữ của một
chuyên ngành khoa học nhất định chủ yếu là các luận văn thạc sĩ, luận án tiến
sĩ. Cho đến nay đã có hàng chục luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ khảo sát,
nghiên cứu nhiều hệ thống thuật ngữ của từng ngành khoa học và kĩ thuật cụ
thể [26, 33, 40, 43, 44, 70, 78, 106,...]. Các luận án tập trung nghiên cứu các
nội dung chủ yếu sau đây:
- Thu thập, thống kê thuật ngữ của các ngành khoa học, kĩ thuật khác
nhau, xác định YTCT thuật ngữ rồi tiến hành phân loại thuật ngữ theo đặc
điểm cấu tạo, đặc điểm từ loại và nguồn gốc của thuật ngữ;
- Miêu tả đặc điểm cấu tạo thuật ngữ theo số lượng các YTCT thuật ngữ;

- Xác định các MHCT thuật ngữ và biểu diễn các mối quan hệ ngữ pháp
giữa các YTCT thuật ngữ theo sơ đồ chúc đài;

17


- Tìm hiểu những phương thức định danh thuật ngữ, xác định các đặc
điểm, dấu hiệu được sử dụng để định danh thuật ngữ và miêu tả ĐĐĐD thuật
ngữ bằng các mơ hình định danh;
- Khảo sát một số thuật ngữ không chuẩn căn cứ vào các tiêu chuẩn thuật ngữ,
từ đó đề xuất phương hướng chuẩn hóa thuật ngữ và cách xử lí các thuật ngữ

khơng chuẩn;
- Đối chiếu chiếu thuật ngữ tiếng Anh với thuật ngữ tiếng Việt về
phương diện cấu tạo, định danh để tìm hiểu những điểm tương đồng và khác
biệt giữa hai hệ thuật ngữ của hai ngôn ngữ.
- Tiến hành khảo sát vấn đề dịch thuật ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt
để xác định các kiểu tương đương trong cách dịch thuật ngữ.
Như vậy, công tác nghiên cứu thuật ngữ và thuật ngữ học ở nước ta
trong thời gian qua đã đạt được những kết quả rõ rệt. Có thể thấy rằng, các
vấn đề thuật ngữ học được nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu là từ góc độ thực
tiễn: xây dựng các thuật ngữ khoa học kĩ thuật. Kết quả là hàng loạt cuốn từ
điển thuật ngữ đối chiếu các ngôn ngữ nước ngoài và tiếng Việt đã được xuất
bản. Giai đoạn cuối thế kỉ 20 đầu thế kỉ 21, công tác nghiên cứu thuật ngữ ở
nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới: nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống
thuật ngữ của một chuyên ngành khoa học cụ thể. Hàng loạt các luận án tiến
sĩ nghiên cứu một các toàn diện, có hệ thống đặc điểm cấu tạo,
ĐĐĐD và các phương thức tạo lập các hệ thống thuật ngữ tiếng Việt hoặc đối
chiếu hệ thống thuật ngữ tiếng Anh với hệ thống thuật ngữ tiếng Việt của
nhiều ngành khoa học kĩ thuật và công nghệ đã được bảo vệ thành công.

1.1.3. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ mĩ thuật ở nước ngồi và ở
Việt Nam
1.1.3.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ mĩ thuật ở nước ngồi
Là một trong những bộ mơn nghệ thuật ra đời sớm nhất của loài người,
ngành mĩ thuật học đã có lịch sử phát triển lâu dài. Trên thế giới đã có rất

18


nhiều cơng trình nghiên cứu sự hình thành và phát triển của các loại hình nghệ
thuật phản ánh cái đẹp bằng màu sắc, đường nét, hình khối. Tuy nhiên, khơng
có nhiều cơng trình nghiên cứu TNMT (TNMT) từ phương diện ngôn ngữ
học. Theo khảo sát của chúng tôi, hiện nay có nhiều cơng trình ngơn ngữ học
nghiên cứu đặc điểm thuật ngữ trong hệ thống thuật ngữ của các ngành khoa
học khác nhau. Trong đó có những cơng trình nghiên cứu thuật ngữ của lĩnh
vực mĩ thuật học. Chẳng hạn, cơng trình "Lịch sử hình thành hệ thuật ngữ
nghệ thuật tạo hình trong tiếng Nga thế kỉ 18 đến đầu thế kỉ 19" và "Hệ thống
thuật ngữ nghệ thuật tạo hình trong tiếng Nga thế kỉ 19 - 20" của B.N
Xécgheev; "Thuật ngữ thiết kế (design) trong hệ thống từ vựng tiếng Nga" của
N.L. Tukhareli. Các cơng trình nghiên cứu này chủ yếu dành cho việc tìm
hiểu những con đường hình thành và phát triển hệ thống thuật ngữ thuộc lĩnh
vực nghệ thuật học nói chung trong tiếng Nga. Cơng trình "Hệ thống thuật
ngữ hội họa trong tiếng Nga (các bình diện cấu trúc và chức năng" của Jan
Lanlan dành cho việc nghiên cứu tồn diện và có hệ thống đặc điểm cấu tạo,
ĐĐĐD, nguồn gốc, phương thức sáng tạo thuật ngữ hội họa và hoạt động
hành chức của thuật ngữ hội họa trong lĩnh vực chuyên môn và phi chun
mơn, tìm hiểu hoạt động của thuật ngữ hội họa trong một số tác phẩm của
Gôgôn, Sêkhốp và các tác phẩm thi ca tiếng Nga. [86]
1.1.3.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ mĩ thuật ở Việt Nam
Việt Nam là một dân tộc có truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ

nước suốt mấy nghìn năm nay. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, dân tộc ta đã
tạo ra một nền mĩ thuật phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc, mặc
dù mỗi lần đất nước bị xâm lăng là một lần nền văn hóa dân tộc bị thử thách.
Cho đến nay, nền văn hóa nghệ thuật của chúng ta khơng những khơng bị
đồng hóa mà bản sắc dân tộc càng được khẳng định hơn. Các nhà nghiên cứu
mĩ thuật đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, hệ thống TNMT
tiếng Việt (TNMTTV) lại chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ. Cho đến

19


×