Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.99 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

GIÁP MINH TÂM

BẢO LƢU QUYỀN SỞ HỮU
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

GIÁP MINH TÂM

BẢO LƢU QUYỀN SỞ HỮU
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Oanh

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Giáp Minh Tâm


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO LƢU QUYỀN SỞ
HƢU .................................................................................................................. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo lưu quyền sở hữu.......................................... 9
1.1.1. Khái niệm bảo lưu quyền sở hữu ...................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm của bảo lưu quyền sở hữu .............................................. 13
1.2. Bản chất pháp lý của bảo lưu quyền sở hữu.............................................. 18
1.3. Sự khác biệt giữa bảo lưu quyền sở hữu với các biện pháp bảo đảm
bằng tài sản khác .................................................................................................... 23
1.4. Khái quát quy định pháp luật Việt Nam về bảo lưu quyền sở hữu ....... 26
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ BẢO LƢU QUYỀN SỞ HỮU ................................................... 31

2.1. Đối tượng và phạm vi bảo đảm của bảo lưu quyền sở hữu .................... 31
2.1.1. Đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu ............................................. 31
2.1.2. Phạm vi bảo đảm của bảo lưu quyền sở hữu.................................. 40
2.2. Hình thức của bảo lưu quyền sở hữu .......................................................... 43
2.3. Hiệu lực của bảo lưu quyền sở hữu ............................................................ 48
2.3.1. Các điều kiện có hiệu lực của bảo lưu quyền sở hữu ..................... 48
2.3.2. Thời điểm phát sinh hiệu lực của bảo lưu quyền sở hữu................ 52
2.3.3. Hiệu lực đối kháng với người thứ ba của bảo lưu quyền sở hữu ... 58
2.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo lưu quyền sở hữu . 61
2.4.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán tài sản .......................................... 61
2.4.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản ......................................... 66


2.5. Chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu.................................................................. 69
Chƣơng 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO
LƢU QUYỀN SỞ HỮU ................................................................................ 74
3.1. Những ưu điểm của quy định về bảo lưu quyền sở hữu trong BLDS
năm 2015 ................................................................................................................. 74
3.2. Những điểm hạn chế và kiến nghị hoàn thiện quy định về bảo lưu
quyền sở hữu trong BLDS năm 2015 ................................................................. 77
3.2.1. Những hạn chế và kiến nghị chung về bảo lưu quyền sở hữu ........ 77
3.2.2. Những hạn chế và kiến nghị cụ thể đối với các quy định về bảo lưu
quyền sở hữu ............................................................................................. 80
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 85


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Bảo lưu quyền sở hữu là một nội dung được ghi nhận trong tất cả các
Bộ luật dân sự (BLDS) năm 1995, 2005 và gần đây nhất là năm 2015. Như
vậy, nếu xét về lịch sử hình thành thì bảo lưu quyền sở hữu không phải là quy
định mới, nhưng dưới góc độ là một biện pháp bảo đảm thì đây là quy định
xuất hiện lần đầu tiên trong BLDS năm 2015. Điều này thể hiện ở chỗ, trong
cả hai BLDS năm 1995 và 2005, bảo lưu quyền sở hữu chỉ là một trong các
quyền luật định, cho phép bên bán tài sản có thể sử dụng để bảo vệ quyền lợi
của mình trước sự vi phạm nghĩa vụ thanh toán của bên mua trong hợp đồng
mua trả chậm, trả dần. Tức là, trong hai BLDSBLDS, bảo lưu quyền sở hữu là
một trong các quy định thuộc phần hợp đồng mua bán tài sản và xét về bản
chất, nó chỉ giống như việc bên bán được quyền “chậm thực hiện nghĩa vụ
chuyển giao quyền sở hữu tài sản” sang cho bên mua. Tuy nhiên, trong BLDS
năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu được ghi nhận là một trong các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Với vị trí là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, các
vấn đề liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu đã được quy định một cách rõ
ràng, chi tiết. Đây là cơ sở quan trọng cho các bên trong hợp đồng mua bán
tài sản, đặc biệt là bên bán có căn cứ bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Đồng
thời, tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có cơ sở pháp lý
cụ thể để có thể giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tế. Tuy nhiên,
các quy định liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu trong BLDS năm 2015 lại
được ghi nhận trong cả hai chế định (chế định hợp đồng và chế định bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự), và đặc biệt khi nghiên cứu các quy định này, vẫn
còn tồn tại nhiều vấn đề pháp lý cần phải được giải quyết như sau:
Thứ nhất, bảo lưu quyền sở hữu là một quyền của bên bán trong hợp
đồng mua trả chậm, trả dần hay là một biện pháp bảo đảm được áp dụng đối
với mọi hợp đồng mua bán tài sản. Sở dĩ đây được coi là một trong những


2


vấn đề đầu tiên cần phải được giải quyết bởi vì việc ghi nhận bảo lưu quyền
sở hữu trong cả hai chế định với những quy định khác biệt đã khiến cho thực
tế tồn tại các luồng ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng bảo lưu quyền sở
hữu là quyền luật định, tức là quyền bảo lưu là do luật ghi nhận cho bên bán
tài sản. Ý kiến khác lại cho rằng, bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp bảo
đảm hình thành theo thỏa thuận, vì để coi là biện pháp bảo đảm thì các bên
phải xác lập văn bản (riêng, hoặc ghi vào hợp đồng) vấn đề bảo lưu quyền sở
hữu tài sản.
Thứ hai, đối tượng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu là tài sản mua
bán (một loại tài sản) hay là quyền sở hữu tài sản (một loại vật quyền)? Đây là
vấn đề còn chưa cụ thể và dẫn đến những cách hiểu khác nhau. Có ý kiến cho
rằng đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu là tài sản mua bán, vì bên bán có
quyền đòi lại tài sản nếu bên mua không thanh toán đầy đủ tiền trong một thời
hạn nhất định. Nhưng lại có ý kiến cho rằng đối tượng của biện pháp này chỉ
là quyền sở hữu tài sản, bởi vì bên bán đã chuyển giao tài sản cho bên mua và
chỉ giữ lại quyền sở hữu.
Thứ ba, phạm vi bảo đảm của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu là gì?
Hiện nay, trong khoa học pháp lý dân sự, tồn tại hai luồng ý kiến trái chiều về
phạm vi bảo đảm của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu. Ý kiến thứ nhất cho
rằng phạm vi bảo đảm của bảo lưu quyền sở hữu chỉ là nghĩa vụ thanh toán
tiền mua tài sản, bởi vì nếu tại thời điểm nhận tài sản, bên mua đã thanh toán
đầy đủ số tiền mua tài sản thì không đặt ra vấn đề bảo lưu quyền sở hữu. Ý
kiến thứ hai lại cho rằng, phạm vi bảo đảm của biện pháp bảo lưu quyền sở
hữu là tất cả nghĩa vụ của bên mua, bao gồm nghĩa vụ thanh toán (phát sinh
cùng thời điểm với biện pháp bảo lưu quyền sở hữu) và nghĩa vụ hoàn trả lại
tài sản (nghĩa vụ phát sinh sau thời điểm bảo lưu có hiệu lực).
Thứ tư, giá trị đích thực của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu là gì?
Thực tế tồn tại hai luồng ý kiến về giá trị đích thực của biện pháp này. Có ý
kiến cho rằng, bảo lưu quyền sở hữu cũng giống các biện pháp khác ở chỗ



3

bảo vệ quyền lợi cho bên bán trước sự vi phạm của bên mua. Tuy nhiên, ý
kiến đối lập lại cho rằng, bảo lưu quyền sở hữu không đạt được các yêu cầu
của một biện pháp bảo đảm, bởi vì nó không có tính dự phòng như các biện
pháp bảo đảm khác, nên bên bán không có căn cứ để bảo vệ quyền lợi khi
bên mua cố tình vi phạm. Đặc biệt, nếu bên mua không thanh toán tiền và
cũng không chịu trả lại tài sản mua bán thì biện pháp này đặt ra cũng không
còn ý nghĩa.
Thứ năm, phạm vi áp dụng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu là gì?
Chính những quy định khác biệt về căn cứ phát sinh bảo lưu quyền sở hữu
trong chế định hợp đồng và chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dẫn đến các
ý kiến mâu thuẫn nhau. Có ý kiến cho rằng, bảo lưu quyền sở hữu chỉ áp dụng
đối với hợp đồng mua trả chậm, trả dần bởi vì chỉ trong loại hợp đồng này,
nghĩa vụ thanh toán tiền mua tài sản mới có thể được thực hiện sau khi đã
nhận tài sản. Ý kiến đối lập lại cho rằng, trong bất cứ hợp đồng mua bán tài
sản nào, nếu xuất hiện sự kiện bên mua chậm thanh toán tiền thì quyền sở hữu
đều được bảo lưu. Mâu thuẫn này xuất phát từ các cách hiểu không thống nhất
về tên gọi của hợp đồng mua trả chậm, trả dần.
Những vấn đề pháp lý đặt ra ở trên cho thấy quy định pháp luật về bảo
lưu quyền sở hữu còn nhiều bất cập cần phải được hoàn thiện và việc lựa
chọn nghiên cứu đề tài “Bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt
Nam” sẽ mang lại những giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần bảo
đảm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
BLDS năm 2015 là văn bản pháp lý đầu tiên ghi nhận bảo lưu quyền sở
hữu là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Điều này khiến
cho biện pháp bảo lưu quyền sở hữu vẫn là vấn đề mới và chưa có nhiều công

trình khoa học được công bố có nghiên cứu về nội dung này.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu có liên quan đến bảo lưu
quyền sở hữu như sau:


4

Thứ nhất, cuốn sách “Luật dân sự Việt Nam lược giải - Các hợp đồng
dân sự thông dụng” của Tiến sĩ luật khoa - luật sư Nguyễn Mạnh Bách, được
nhà xuất bản Chính trị quốc gia phát hành tháng 8 năm 1997. Cuốn sách đưa ra
những bình giải về các hợp đồng dân sự thông dụng trong BLDS năm 1995,
trong đó có hợp đồng mua trả chậm, trả dần - cơ sở của bảo lưu quyền sở hữu.
Liên quan đến mua trả chậm, trả dần và bảo lưu quyền sở hữu, tác giả cho rằng:
(i) Về phương diện pháp lý, mua trả chậm, trả dần (hay trả góp) là một hợp
đồng mua bán có kèm điều theo điều khoản trì hoãn việc chuyển quyền sở hữu
cho đến khi tiền được thanh toán đầy đủ, và điều khoản tiêu hủy hợp đồng
trong trường hợp người mua không trả một phân kì; (ii) việc mua bán đương
nhiên bị hủy bỏ khi người mua không thanh toán một phân kỳ của giá tiền1.
Thứ hai, cuốn sách “Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự” do TS. Phạm Văn Tuyết và TS. Lê Kim Giang đồng chủ biên và được
Nhà xuất bản Dân trí phát hành vào quý II năm 2015.

Đây là cuốn sách

nghiên cứu tổng thể các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong
BLDS năm 2005 và một số quy định trong dự thảo BLDS sửa đổi. Trong đó,
bảo lưu quyền sở hữu đối với vật bán được đề cập từ trang 9 đến trang 11 cụ
thể như sau: (i) Bảo lưu quyền sở hữu đối với vật bán được đặt ra trong các
hợp đồng mua bán mà bên mua trả chậm, trả dần tiền mua tài sản; (ii) Quyền
của bên bán là quyền kiểm soát lưu thông tài sản và là quyền pháp định và chỉ

được giải trừ khi có sự thỏa thuận khác giữa các bên; (iii) Thực tiễn đời sống
cho thấy, việc bảo lưu quyền sở hữu đối với vật bán chỉ có ý nghĩa là một
biện pháp bảo đảm cho việc trả tiền mua trong các giao dịch mua trả chậm, trả
dần những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu2.
Thứ ba, cuốn sách “Bình luận khoa học BLDS của nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015” do TS. Nguyễn Minh Tuấn làm chủ biên
1

Nguyễn Mạnh Bách (1997), Luật dân sự Việt Nam lược giải - Các hợp đồng dân sự thông dụng, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr. 32.
2
Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (đồng chủ biên, 2015), Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Nxb
Dân trí, Hà Nội, tr.9-11.


5

và được nhà xuất bản Tư pháp phát hành ngày 21 tháng 10 năm 2016. Cuốn
sách này đưa ra những phân tích, bình luận tổng thể các quy định trong BLDS
năm 2015. Trong đó, liên quan đến vấn đề bảo lưu quyền sở hữu, cuốn sách
này khẳng định: “Xét về bản chất, bảo lưu quyền sở hữu là việc ghi nhận
quyền sở hữu cho chủ thể bán mặc dù tài sản đã được đưa vào giao dịch, thậm
chí đã giao toàn bộ cho bên mua”3.
Thứ tư, cuốn sách “Bình luận khoa học BLDS năm 2015 của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ và
PGS.TS. Trần Thị Huệ là đồng chủ biên và được nhà xuất bản Công an nhân
dân phát hành vào quý I năm 2017. Đây là công trình khoa học đồ sồ, trong
đó đưa ra những bình luận, đánh giá về tất cả các quy định trong BLDS năm
2015. Về bảo lưu quyền sở hữu, cuốn sách chỉ điểm qua những nét khái quát
nhất dựa theo những điều luật cụ thể, trong đó khẳng định rằng: (i) để bảo vệ

quyền lợi của bên bán, các bên cần phải ghi rõ trong hợp đồng mua bán hoặc
xác lập hợp đồng riêng về bảo lưu quyền sở hữu và đăng ký biện pháp bảo
lưu quyền sở hữu4; (ii) mua trả chậm, trả dần chỉ khả dụng với vật không
tiêu hao5.
Thứ năm, bài viết “Lập pháp, nhìn từ quy định bảo lưu quyền sở hữu
tài sản” của TS. Bùi Đức Giang đăng trên thời báo Kinh tế Sài gòn online
ngày 13/11/2016. Trong bài viết này, tác giả cho rằng, quy định về bảo lưu
quyền sở hữu là quy định nửa vời, không thể xá định rõ ràng các bên trong
quan hệ bảo đảm cũng như nghĩa vụ được bảo đảm. Tác giả cũng cho rằng,
quy định của BLDS năm 2015 đã vô tình tước đi quyền hưởng biện pháp bảo
đảm của bên bán thông qua việc đặt nghĩa vụ cho bên bán phải hoàn trả bên
mua số tiền đã nhận thanh toán từ bên này. Đặc biệt tác giả cho rằng biện
3

Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên, 2016), Bình luận khoa học BLDS của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2015, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.505.
4
Nguyễn Văn Cừ & Trần Thị Huệ (đồng chủ biên, 2017), Bình luận khoa học BLDS năm 2015 của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội, tr.528.
5
Nguyễn Văn Cừ & Trần Thị Huệ (đồng chủ biên, 2017), Bình luận khoa học BLDS năm 2015 của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội, tr.679.


6

pháp bảo lưu quyền sở hữu như được quy định trong BLDS năm 2015 không
phản ánh được bản chất của một biện pháp bảo đảm6.
Tất cả các công trình được đề cập ở trên đều có đề cập đến bảo lưu
quyền sở hữu ở các góc nhìn khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào

nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận và thực trạng pháp luật về bảo lưu
quyền sở hữu. Hơn nữa, cũng chưa có công trình nào đưa ra những đánh giá
toàn diện cũng như những kiến nghị hoàn thiện quy định trong BLDS năm
2015 về bảo lưu quyền sở hữu. Trước thực trạng về tình hình nghiên cứu này
cho thấy, việc tiếp tục nghiên cứu nhằm đưa ra những ý kiến hoàn thiện quy
định về bảo lưu quyền sở hữu là đòi hỏi bức thiết. Việc nghiên cứu đề tài “Bảo
lưu quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam” sẽ mang lại những giá trị
thiết thực cho công tác nghiên cứu, lập pháp và áp dụng trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quy định về
biện pháp bảo lưu quyền sở hữu trong BLDS năm 2015.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định về biện pháp
bảo lưu quyền sở hữu trong BLDS năm 2015, có so sánh đối chiếu với các
quy định về bảo lưu quyền sở hữu trong các văn bản trước đó để chỉ ra sự
thay đổi phù hợp hay không phù hợp. Đồng thời, luận văn cũng sẽ nghiên cứu
so sánh quy định pháp luật Việt Nam với pháp luật một số quốc gia trên thế
giới về bảo lưu quyền sở hữu.
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu: việc nghiên cứu luận văn nhằm mục tiêu đưa ra
những kiến nghị hoàn thiện quy định trong BLDS năm 2015 về bảo lưu quyền
sở hữu. Đặc biệt là kiến nghị có nên lược bỏ hay vẫn tiếp tục giữ lại các quy
định về bảo lưu quyền sở hữu với vị trí là một trong các biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ.
6

Bùi Đức Giang (2016), Lập pháp, nhìn từ quy định của bảo lưu quyền sở hữu tài sản, Thời báo Kinh tế Sài gòn online,
tại địa chỉ: ngày
truy cập 05/04/2017.



7

Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn có
những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
(i) Luận văn sẽ nghiên cứu để chỉ ra những vấn đề lý luận cơ bản về
bảo lưu quyền sở hữu để từ đó có quan điểm phù hợp cho việc phân tích, đánh
giá quy định của pháp luật;
(ii) Luận văn sẽ phân tích thực trạng quy định của BLDS năm 2015 về
bảo lưu quyền sở hữu. Qua đó đưa ra những đánh giá về những quy định này;
(iii) Trên cơ sở những vấn đề lý luận và những phân tích, đánh giá quy
định trong BLDS năm 2015, luận văn sẽ xây dựng hệ thống các kiến nghị
nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận: việc nghiên cứu luận văn sẽ dưa trên cơ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lênin. Đây được coi là kim chỉ nam cho việc định hướng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể của tác giả trong quá trình thực hiện luận văn. Phương pháp
này được tác giả sử dụng để nghiên cứu các vấn đề lý luận trong luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể: trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sẽ sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích và bình luận để làm rõ những vấn đề lý luận
và quy định pháp luật hiện hành về bảo lưu quyền sở hữu;
- Phương pháp tổng hợp nhằm khái quát hoá thực trạng pháp luật bảo
lưu quyền sở hữu, nhằm đưa ra những kiến nghị phù hợp;
- Phương pháp so sánh để nhằm chỉ ra những điểm tương đồng và khác
biệt giữa quy định của pháp luật Việt Nam qua các thời kì và giữa pháp luật
Việt Nam với pháp luật của một số nước trên thế giới.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc nghiên cứu luận văn
Ý nghĩa khoa học: luận văn là công trình khoa học nghiên cứu một
cách toàn diện các vấn đề lý luận về bảo lưu quyền sở hữu. Do đó, việc



8

nghiên cứu luận văn sẽ góp phần hình thành một bức tranh tổng thể các vấn
đề lý luận về bảo lưu quyền sở hữu. Tác giả luận văn kỳ vọng rằng sẽ đưa ra
những cách hiểu thống nhất về khái niệm, bản chất và những giá trị pháp lý
của việc nghiên cứu quy định về bảo lưu quyền sở hữu.
Ý nghĩa thực tiễn: Những phân tích, đánh giá các quy định của BLDS
năm 2015 là cơ sở quan trọng cho việc hoàn thiện quy định về bảo lưu quyền
sở hữu. Qua đó, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật vào
giải quyết các vụ việc có liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu. Việc nghiên
cứu các quy định về bảo lưu quyền sở hữu trong các văn bản khác nhau ở các
thời kì sẽ cho thấy những thay đổi tích cực trong các quy định về bảo lưu
quyền sở hữu. Ngoài ra, việc nghiên cứu so sánh với quy định của một số
quốc gia sẽ góp phần đưa ra những bài học kinh nghiệm cho các nhà làm luật
tham khảo khi sửa đổi các quy định về bảo lưu quyền sở hữu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn được kết cấu theo 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về bảo lưu quyền sở hữu
Chương 2. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo
lưu quyền sở hữu
Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo lưu quyền sở hữu


9

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO LƢU QUYỀN SỞ HƢU

1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo lƣu quyền sở hữu
1.1.1. Khái niệm bảo lưu quyền sở hữu
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như thế giới, luật dân sự luôn
chiếm một vị trí quan trọng, bao gồm nhiều chế định điều chỉnh các nhóm
quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân giữa các chủ thể bình đẳng với nhau về
địa vị pháp lý. Chính vì vậy mà điểm đặc biệt của hệ thống pháp luật luật dân
sự so với hệ thống pháp luật hình sự hay hành chính là ở phương pháp điều
chỉnh. Sự đặc biệt này thể hiện ở chỗ luật dân sự điều chỉnh các quan hệ dân
sự bằng cách ghi nhận cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự
được quyền tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận … về tất cả các vấn đề liên
quan đến quan hệ mà mình tham gia. Phương pháp điều chỉnh đặc trưng này
thể hiện thông qua việc ghi nhận các nguyên tắc cơ bản của luật dân sự tại
Điều 3 BLDS năm 2015.
BLDS năm 2015 không phải là văn bản pháp luật đầu tiên ghi nhận các
nguyên tắc cơ bản của luật dân sự. Tuy nhiên, sau mỗi lần sửa đổi, các
nguyên tắc cơ bản của luật dân sự đều được thay đổi và ngày càng được hoàn
thiện hơn, thể hiện rõ phương pháp điều chỉnh của luật dân sự với tiêu chí
“việc dân sự cốt ở đôi bên”. Để bảo đảm các văn bản pháp luật dân sự được
ban hành phù hợp với tiêu chí này, quan điểm lập pháp của nước ta hiện nay
thể hiện ở việc ghi nhận cho các chủ thể được quyền tự do làm tất cả những gì
mà luật không cấm. Điều này thể hiện ở chỗ khi tham gia quan hệ pháp luật
dân sự, các chủ thể được quyền tự định đoạt về mọi vấn đề có liên quan đến
quan hệ mà mình tham gia. Tức là, chủ thể được tự do trong việc lựa chọn
loại quan hệ mà mình muốn xác lập, đối tác mà mình mong muốn xác lập
quan hệ, hình thức của quan hệ, nội dung của quan hệ, phương thức giải quyết
tranh chấp, … Và đặc biệt, các chủ thể còn có quyền tự do trong việc lựa chọn


10


biện pháp bảo đảm cho quyền và lợi ích của mình nhằm ngăn chặn, hạn chế
sự vi phạm của đối tác, hướng tới việc bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước
các hành vi vi phạm. Như vậy, có thể thấy, các chế định luật dân sự (bao gồm
cả chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ) được xây dựng trên cơ sở của
nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận của các chủ thể. Hay nói
cách khác, các nguyên tắc cơ bản của luật dân sự chính là cơ sở để ban hành
các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không phải là chế định mới xuất hiện trong
BLDS năm 2015, mà đã tồn tại từ lâu cùng với sự hình thành của các văn bản
pháp luật đầu tiên điều chỉnh các vấn đề dân sự (nội dung này sẽ được trình
bày cụ thể trong mục 1.4). Tuy nhiên, trải qua các giai đoạn phát triển khác
nhau, sự nhìn nhận của nhà làm luật về bản chất, vai trò của các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cũng khác nhau. Điều này được thể hiện rõ nét
nhất trong sự thay đổi các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, cụ thể: Pháp
lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 có đề cập đến ba biện pháp bảo đảm đó là
cầm cố, thế chấp và bảo lãnh bằng tài sản; Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm
1991 lại bổ sung thêm biện pháp đặt cọc; BLDS năm 1995 và BLDS năm
2005 đều quy định bảy biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, nhưng
khác nhau ở chỗ biện pháp phạt vi phạm trong BLDS năm 1995 được thay
bằng biện pháp tín chấp trong BLDS năm 2005. Tuy nhiên, có lẽ văn bản thể
hiện sự hoàn thiện nhất về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chính là BLDS năm
2015, trong đó đã bổ sung thêm hai biện pháp bảo đảm mới so với BLDS năm
2005 đó là biện pháp cầm giữ tài sản và biện pháp bảo lưu quyền sở hữu.
Trong khoa học pháp lý dân sự, đây là hai trong các biến thể của biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự7. Đây là những biện pháp bảo đảm có đối
tượng là tài sản và có sự đặc biệt hơn so với các biện pháp bảo đảm có đối
tượng là tài sản khác. Điểm đặc biệt này thể hiện ở chỗ tài sản bảo đảm lại
7

Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang (đồng chủ biên, 2015), Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự,

Nxb dân trí, Hà Nội, tr.6.


11

không thuộc sở hữu của bên bảo đảm8. Sự đặc biệt này không phải là yếu tố
tạo ra những ưu thế của hai biện pháp này so với các biện pháp bảo đảm khác,
mà nó còn cho thấy những điểm bất hợp lý trong các quy định có liên quan,
đặc biệt là bảo lưu quyền sở hữu.
Dưới góc độ khoa học pháp lý dân sự, có lẽ đặc điểm quan trọng nhất
của biện pháp bảo đảm chính là chức năng bảo đảm và tính dự phòng. Điều
này thể hiện ở chỗ các biện pháp bảo đảm phải có khả năng thay thế cho các
nghĩa vụ khi các nghĩa vụ này bị vi phạm. Tức là khi nghĩa vụ bị vi phạm, bên
có quyền có thể xử lý tài sản bảo đảm hoặc yêu cầu bên bảo đảm phải chuyển
giao các lợi ích để thay thế cho các lợi ích bị mất nhằm bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp cho bên có quyền. Tuy nhiên, căn cứ những quy định trong
BLDS năm 2015, nhiều nhà nghiên cứu thể hiện sự hoài nghi về tính bảo đảm
của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu.
Cho đến nay, trong khoa học pháp lý dân sự hiện đại, chưa có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu về bảo lưu quyền sở hữu nói chung, biện
pháp bảo lưu quyền sở hữu nói riêng. Một số công trình nghiên cứu như tác
giả đã đề cập trong phần tình hình nghiên cứu cũng chỉ đưa ra một vài nhận
xét về bảo lưu quyền sở hữu chứ chưa có công trình nào xây dựng khái niệm
về bảo lưu quyền sở hữu. Trong đó, mỗi công trình đều thể hiện sự nhìn
nhận khác nhau về bảo lưu quyền sở hữu. Theo đó, bảo lưu quyền sở hữu chỉ
là điều khoản trì hoãn việc chuyển quyền sở hữu cho đến khi bên mua thanh
toán đầy đủ tiền mua tài sản9. Hay bảo lưu quyền sở hữu đối với vật bán chỉ
có ý nghĩa là một biện pháp bảo đảm cho việc trả tiền mua trong các giao
dịch mua trả chậm, trả dần những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu10. Đặc
biệt có quan điểm lại không thừa nhận bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp

bảo đảm khi cho rằng “biện pháp bảo lưu quyền sở hữu như được quy định
8

Khoản 1 Điều 295 BLDS năm 2015.
Nguyễn Mạnh Bách (1997), Luật dân sự Việt Nam lược giải - Các hợp đồng dân sự thông dụng, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr. 32.
10
Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (đồng chủ biên, 2015), Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự,
Nxb Dân trí, Hà Nội, tr.9-11.
9


12

trong BLDS năm 2015 không phản ánh được bản chất của một biện pháp
bảo đảm”11. Như vậy, mặc dù còn tồn tại nhiều quan điểm nhìn nhận khác
nhau về bảo lưu quyền sở hữu. Nhưng dưới góc độ pháp lý, bảo lưu quyền sở
hữu đã được ghi nhận là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong
BLDS năm 2015.
Theo những quy định trong BLDS năm 2015, mục đích của bảo lưu
quyền sở hữu là cho phép bên bán được tạm hoãn việc chuyển quyền sở hữu
tài sản cho đến khi nào bên mua thanh toán hết tiền mua theo thời hạn đã thỏa
thuận. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mục đích này chỉ thực sự có tính thực tiễn
nếu tài sản mua bán là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu. Bởi vì, khi bên mua
không trả hết tiền theo thời hạn đã thỏa thuận, bên bán có quyền đòi lại tài sản
và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có. Nhưng có thể quyền này sẽ không
được đáp ứng nếu bên mua đã tẩu tán tài sản mua bán là tài sản không phải
đăng ký quyền sở hữu. Đương nhiên, việc tẩu tán tài sản sẽ không thể thực
hiện được nếu tài sản đó là loại tài sản phải đăng ký quyền sở hữu. Hiện nay,
luật không có quy định giới hạn loại tài sản có thể là đối tượng của bảo lưu

quyền sở hữu, nên các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận để lựa chọn phương
thức mua bán phù hợp nhất và hạn chế rủi ro nhất đối với mình.
Hiện nay, chưa có công trình khoa học nào đưa ra khái niệm về bảo lưu
quyền sở hữu, nên việc xây dựng khái niệm về bảo lưu quyền sở hữu là một nội
dung quan trọng nhằm góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống lý luận cơ bản về
bảo lưu quyền sở hữu nói chung, biện pháp bảo lưu quyền sở hữu nói riêng.
Nhìn nhận dưới góc độ của một thuật ngữ thì “bảo lưu là giữ nguyên không
thay đổi, chừa lại để dùng khi cần”12, và bảo lưu quyền sở hữu chính là việc
chủ sở hữu sẽ giữ lại quyền sở hữu tài sản mà lẽ ra sẽ phải chuyển cho bên mua
từ thời điểm bên mua nhận tài sản. Tức là chủ sở hữu được tạm hoãn thực hiện
11

Bùi Đức Giang (2016), Lập pháp, nhìn từ quy định của bảo lưu quyền sở hữu tài sản, Thời báo Kinh tế Sài gòn online,
tại địa chỉ: ngày
truy cập 05/04/2017.
12
Viện ngôn ngữ (2014), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa - thông tin, Hà Nội, tr.54.


13

nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu cho bên mua cho đến khi bên mua trả tiền xong.
Do đó, khái niệm bảo lưu quyền sở hữu có thể được hiểu như sau:
Bảo lưu quyền sở hữu là việc bên bán được tạm hoãn thực hiện nghĩa
vụ chuyển quyền sở hữu cho bên mua, nhằm bảo đảm cho việc bên mua sẽ
thanh toán đầy đủ số tiền mua bán tài sản theo đúng thời hạn đã thóa thuận.
1.1.2. Đặc điểm của bảo lưu quyền sở hữu
Bảo lưu quyền sở hữu là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ, nên cũng có đầy đủ các đặc điểm chung của biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ:

Thứ nhất, hình thành từ sự thỏa thuận của các bên
Đặc điểm này xuất phát từ phương pháp điều chỉnh đặc trưng của luật
dân sự. Đó là cho phép các bên tham gia quan hệ pháp luật dân sự được quyền
tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận về tất cả các vấn đề liên quan đến nội
dung quan hệ mà mình tham gia. Khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự, các
bên chủ thể luôn bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, nên không bên nào được ép
buộc bên nào xác lập biện pháp bảo đảm để bảo vệ cho quyền lợi của mình.
Pháp luật dân sự cũng tôn trọng quyền tự do lựa chọn các nội dung của quan
hệ mà các chủ thể tham gia. Tức là biện pháp bảo đảm có được xác lập hay
không hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Nếu nhận thấy sự
cần thiết phải áp dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì một bên đề
xuất xác lập và biện pháp bảo đảm chỉ thực sự được xác lập nếu có sự đồng ý
của bên kia.
Sự thỏa thuận này nếu thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự thì sẽ có giá trị với hai bên và có thể có hiệu lực với người thứ ba. Khi
biện pháp bảo đảm có hiệu lực sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các
bên cũng như của người thứ ba liên quan đến biện pháp bảo đảm đó (ví dụ,
bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm khi bên có nghĩa vụ vi
phạm nghĩa vụ, và quyền này sẽ phát sinh khi biện pháp bảo đảm có giá trị).
Như vậy, biện pháp bảo đảm được hình thành thông qua một hợp đồng (hợp


14

đồng bảo đảm) - một trong hai loại giao dịch dân sự mà Điều 116 BLDS năm
2015 đã đề cập.
Thứ hai, chỉ được thực hiện trên thực tế khi có sự vi phạm nghĩa vụ.
Về cơ bản, cũng giống như các biện pháp bảo đảm khác, bảo lưu quyền
sở hữu cũng là một biện pháp bảo đảm được hình thành và có hiệu lực về mặt
lý thuyết. Tức là biện pháp bảo lưu quyền sở hữu được xác lập và có hiệu lực

cùng thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng mua bán tài sản. Tuy nhiên,
các biện pháp bảo đảm nói chung, biện pháp bảo lưu quyền sở hữu nói riêng
chỉ được thực hiện trên thực tiễn nếu có sự vi phạm nghĩa vụ của bên kia (bên
bán không thanh toán hết tiền). Trường hợp bên mua thanh toán đầy đủ số
tiền mua tài sản theo thời hạn thỏa thuận (không có sự vi phạm nghĩa vụ xảy
ra) thì biện pháp bảo lưu quyền sở hữu sẽ chấm dứt và quyền và nghĩa vụ của
các bên liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu không được hiện thực hóa (quyền
đòi lại tài sản của bên bán không được thực hiện, nghĩa vụ trả lại tiền cho bên
mua cũng không được thực hiện trên thực tế, …). Mặc dù khi đó bên bán phải
làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua, tuy nghĩa vụ này là
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán tài sản chứ không phát sinh từ biện
pháp bảo lưu quyền sở hữu.
Thứ ba, tạo ra phương thức bảo vệ quyền lợi cho bên bị vi phạm
Trên thực tế, khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ mà các bên không
áp dụng biện pháp bảo đảm trước đó thì bên có quyền vẫn có thể yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết nhằm bảo vệ quyền lợi của mình.
Tuy nhiên, ngay cả khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành quyết
định giải quyết tranh chấp và xác định nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, thì cũng
không có căn cứ khẳng định chắc chắn rằng bên có nghĩa vụ thực hiện hoặc sẽ
có khả năng thực hiện nghĩa vụ đó. Điều này thường tạo tâm lý e ngại cho các
chủ thể khi quyết định xác lập một quan hệ với chủ thể khác. Song, thay vì
việc thu hẹp các mối quan hệ, các bên có thể lựa chọn áp dụng một biện pháp
bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Khi đến hạn mà nghĩa


15

vụ không được hoàn thành, bên có quyền có thể tự mình thực hiện các biện
pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của mình trước sự vi phạm đó thông qua việc xử
lý tài sản bảo đảm hoặc thực hiện các quyền yêu cầu phát sinh từ biện pháp

bảo đảm. Như vậy, thay vì phải khởi kiện yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan có
thẩm quyền khác buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ, bên nhận
bảo đảm có thể tự mình bảo vệ quyền lợi của mình trước sự vi phạm đó (có
thể tiến hành xử lý tài sản bảo đảm để khấu trừ vào nghĩa vụ).
Thứ tư, ngăn chặn sự vi phạm nghĩa vụ xảy ra
Khi quan hệ nghĩa vụ được xác lập có kèm theo biện pháp bảo đảm,
bên bảo đảm (thường là bên có nghĩa vụ) luôn nằm trong tình trạng có thể gặp
bất lợi về tài sản nếu vi phạm nghĩa vụ với bên có quyền. Trên thực tế, khi lựa
chọn áp dụng biện pháp bảo đảm, bên nhận bảo đảm thường cân nhắc, tính
toán áp dụng biện pháp nào là tối ưu nhất và có thể thay thế tốt nhất cho nghĩa
vụ bị vi phạm (ví dụ, mặc dù pháp luật không có quy định bắt buộc về giá trị
tài sản bảo đảm, nhưng bên nhận bảo đảm thường yêu cầu bên bảo đảm phải
giao tài sản có giá trị lớn hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm). Do đó, khi
biện pháp bảo đảm được xác lập có khả năng thay thế nghĩa vụ càng cao thì
bên bảo đảm sẽ đứng trước nguy cơ bị ảnh hưởng về lợi ích lớn bấy nhiêu.
Đây chính là yếu tố tác động khiến cho bên có nghĩa vụ phải tuân thủ nghĩa
vụ với bên có quyền. Từ đó có thể ngăn ngừa sự vi phạm xảy ra.
Ngoài những đặc điểm chung của biện pháp bảo đảm, biện pháp bảo
lưu quyền sở hữu còn có những đặc điểm riêng, có thể phân biệt với các biện
pháp bảo đảm khác như:
Thứ nhất, bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm gắn liền với hợp
đồng mua bán tài sản.
Thông thường, phạm vi áp dụng của biện pháp bảo đảm sẽ phụ thuộc
vào sự thỏa thuận lựa chọn của các bên tại thời điểm xác lập. Tức là, biện
pháp bảo đảm thường được xác lập để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ
phát sinh từ bất kỳ căn cứ nào (nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng hoặc nghĩa vụ


16


ngoài hợp đồng). Tuy nhiên, bảo lưu quyền sở hữu thực chất là việc bên bán
tạm ngừng thực hiện việc chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua cho đến
khi bên mua thanh toán hết tiền mua tài sản. Do đó bảo lưu quyền sở hữu là
biện pháp bảo đảm được xác lập chỉ nhằm bảo đảm cho việc thanh toán tiền
mua tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán tài sản.
Thứ hai, tài sản bảo đảm không thuộc sở hữu của bên bảo đảm
Thông thường, với các biện pháp bảo đảm có đối tượng là tài sản, đối
tượng của biện pháp bảo đảm không trùng lặp với đối tượng của hợp đồng có
nghĩa vụ được bảo đảm. Tài sản bảo đảm thường sẽ thuộc sở hữu của bên bảo
đảm. Điều này bảo đảm cho khả năng thay thế của biện pháp bảo đảm đối với
nghĩa vụ chính khi bị vi phạm. Tức là khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ
thì bên nhận bảo đảm có thể xử lý tài sản bảo đảm để bù đắp vào giá trị nghĩa
vụ bị vi phạm.
Đối với biện pháp bảo lưu quyền sở hữu, đối tượng của biện pháp bảo
đảm này lại chính là đối tượng của hợp đồng mua bán, và đặc biệt tài sản bảo
đảm trong biện pháp này không thuộc sở hữu của bên bảo đảm. Mặc dù,
BLDS không xác định cụ thể bên mua tài sản là bên bảo đảm, nhưng bảo lưu
quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán
tiền mua tài sản, nên bên bảo đảm chính là bên mua tài sản, còn bên nhận bảo
đảm là bên bán. Hơn nữa, bên mua lại được nhận và sử dụng tài sản bảo đảm,
nên khả năng bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán là rất cao. Khi bên mua vi
phạm nghĩa vụ thanh toán, việc bên bán có đòi được tài sản đã giao cho bên
mua hay không cũng là một vấn đề khó dự liệu trên thực tiễn. Việc đòi lại tài
sản trong trường hợp này chỉ thực sự khả thi nếu tài sản đó phải đăng ký
quyền sở hữu. Nếu tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì khả năng tài
sản bị bên mua tẩu tán sẽ thường xảy ra.
Thứ ba, là một trường hợp cụ thể của hoãn thực hiện nghĩa vụ trong
hợp đồng song vụ



17

Về nguyên tắc, khi hợp đồng mua bán tài sản có hiệu lực, bên bán phải
giao tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua, còn bên mua phải
trả tiền cho bên bán. Việc bên nào phải thực hiện nghĩa vụ trước sẽ do các bên
thỏa thuận. Đối với trường hợp mua trả chậm, trả dần, bên bán là bên phải
thực hiện nghĩa vụ trước, và thông thường, khi giao tài sản bên bán phải làm
thủ tục chuyển quyền sở hữu cho bên mua. Tuy nhiên, trong trường hợp mua
trả chậm, trả dần, việc bên mua được thanh toán tiền mua tài sản sau khi đã
nhận tài sản một thời gian có thể là nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm nghĩa vụ
của bên mua. Hơn nữa, phương thức mua bán trả chậm, trả dần cũng cho thấy
khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên mua không cao như các trường hợp mua
bán thông thường. Chính vì vậy, bên bán có quyền tạm hoãn việc chuyển giao
quyền sở hữu tài sản cho đến khi bên mua hoàn thành xong nghĩa vụ trả tiền.
Thứ tư, tài sản bảo đảm không bị xử lý ngay cả khi có sự vi phạm nghĩa
vụ của bên có nghĩa vụ
Về nguyên tắc, khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ thì bên nhận bảo
đảm sẽ tiến hành xử lý tài sản bảo đảm theo một trong các phương thức đã
thỏa thuận hoặc luật quy định. Tuy nhiên, đối với biện pháp bảo lưu quyền sở
hữu, ngay cả khi bên mua không thanh toán tiền mua thì tài sản bảo đảm cũng
không bị xử lý. Điều này là bởi tài sản bảo đảm trong trường hợp này thuộc
sở hữu của chính bên nhận bảo đảm (bên bán), nên khi bên mua không thanh
toán hết tiền mua tài sản, thay vì thực hiện quyền xử lý tài sản, bên bán sẽ
thực hiện quyền đòi lại tài sản từ bên mua. Hơn nữa, khi bên bán đòi lại tài
sản thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ trả lại số tiền mua tài sản đã thanh toán.
Xét về hình thức, việc thực hiện nghĩa vụ của các bên đối với nhau giống như
việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Do đó có thể thấy, đối với biện pháp
bảo lưu quyền sở hữu, sự vi phạm nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ không dẫn
đến hoạt động xử lý tài sản bảo đảm mà lại dẫn đến việc khôi phục lại tình
trạng ban đầu của hợp đồng mua bán.



18

Thứ năm, bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm phải được xác
lập dưới hình thức văn bản
Không giống như BLDS năm 2005, hầu hết các biện pháp bảo đảm đều
phải được xác lập bằng hình thức văn bản (trừ biện pháp ký cược). Trong
BLDS năm 2015, hình thức của giao dịch dân sự nói chung, hình thức của
giao dich bảo đảm nói riêng được quy định chung tại Điều 119. Tuy nhiên,
cùng với biện pháp tín chấp, BLDS năm 2015 quy định bảo lưu quyền sở hữu
phải được xác lập bằng văn bản (văn bản riêng hoặc ghi vào hợp đồng mua
bán). Bởi vì, thông thường khi bên bán chuyển giao tài sản cho bên mua thì
quyền sở hữu sẽ thuộc về bên mua từ thời điểm nhận tài sản (trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận hoặc luật liên quan có quy định khác). Theo đó, bên bán
chỉ được bảo lưu quyền sở hữu nếu như các bên lập văn bản riêng hoặc xác
lập một điều khoản về bảo lưu quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán tài sản.
Tức là bảo lưu quyền sở hữu phải do các bên thỏa thuận. Sự thỏa thuận này
chỉ có tính xác thực nếu được thể hiện thông qua hình thức bằng văn bản. Căn
cứ quy định tại Điều 331 BLDS năm 2015, nếu hợp đồng mua bán được xác
lập bằng miệng mà các bên không lập văn bản về bảo lưu quyền sở hữu thì có
thể hợp đồng mua bán vẫn phát sinh hiệu lực, nhưng biện pháp bảo lưu quyền
sở hữu sẽ không được hình thành.
1.2. Bản chất pháp lý của bảo lƣu quyền sở hữu
Mua trả chậm, trả dần là hình thức mua bán được quy định từ lâu trong
hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam. Cùng với hình thức mua bán này, bên
bán có quyền được bảo lưu quyền sở hữu cho đến khi bên mua thanh toán hết
tiền mua tài sản. Căn cứ các quy định về mua trả chậm, trả dần trong các
BLDS 1995 (Điều 457), BLDS năm 2005 (Điều 461) và thậm chí là BLDS
năm 2015 (Điều 453), có thể nhận thấy rằng điểm chung của ba Điều luật này

là đều xác định “bên bán được bảo lưu quyền sở hữu cho đến khi bên mua
thanh toán hết tiền mua tài sản, nếu không có thỏa thuận khác”. Tức là có thể


19

nhận thấy bảo lưu quyền sở hữu là một “quyền pháp định”13 mà BLDS trao
cho bên bán trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần. Quyền này đương nhiên
phát sinh khi hợp đồng mua trả chậm, trả dần có hiệu lực và “chỉ được giải trừ
khi có thỏa thuận khác giữa các bên”14. Theo đó, khi các bên giao kết hợp
đồng mua bán theo phương thức trả chậm, trả dần mà không có thỏa thuận gì
liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu hay bảo lưu quyền sở hữu thì đương
nhiên bên bán được bảo lưu quyền sở hữu cho đến khi bên mua thanh toán hết
tiền mua tài sản.
Trong BLDS năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu không chỉ được xác định
là một quyền pháp định gắn với hợp đồng mua bán trả chậm, trả dần mà còn
được coi là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Vấn đề đặt ra
là khi bảo lưu quyền sở hữu được xác định là một biện pháp bảo đảm thì quyền
của bên bán trong hợp đồng mua bán tài sản có sự thay đổi gì so với quyền của
bên bán khi bảo lưu quyền sở hữu được coi là một quyền pháp định?
Khi bảo lưu quyền sở hữu vẫn là một quyền pháp định trong các BLDS
năm 1995 và 2005, pháp luật không có quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ
của bên bán cũng như bên mua trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần. Tuy
nhiên, có thể xác định được các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên trong
hai trường hợp:
(i) Nếu bên mua thanh toán hết tiền mua tài sản trong thời hạn đã thỏa
thuận thì quyền sở hữu tài sản sẽ thuộc về bên mua. Việc chuyển quyền sở
hữu này có thể là tự động đối với trường hợp tài sản mua bán là tài sản không
phải đăng ký quyền sở hữu. Đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, việc
chuyển quyền sở hữu cho bên mua phải thông qua thủ tục đăng ký sang tên,

nên bên bán có nghĩa vụ thực hiện thủ tục sang tên cho bên mua (trừ trường
hợp luật có liên quan quy định khác về thời điểm chuyển quyền sở hữu đối
13

Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (đồng chủ biên, 2015), Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự,
Nxb Dân trí, Hà Nội, tr.9-11.
14
Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (đồng chủ biên, 2015), Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự,
Nxb Dân trí, Hà Nội, tr.9-11.


20

với tài sản phải đăng ký. Ví dụ, thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở theo
quy định tại Điều 12 Luật nhà ở năm 2014 có thể là thời điểm bên mua thanh
toán hết tiền mua tài sản). Như vậy, có thể thấy rằng, việc bên mua thanh toán
hết tiền mua tài sản theo đúng thời hạn thỏa thuận chính là điều kiện để bên
bán chuyển quyền sở hữu cho bên mua.
(ii) Nêu bên mua không thanh toán tiền mua tài sản trong thời hạn đã
thỏa thuận thì quyền sở hữu tài sản vẫn thuộc về bên bán. Lúc này, việc
chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua không được thực hiện bởi vì điều
kiện để chuyển quyền sở hữu đã không xảy ra. Theo đó, bên bán có quyền đòi
lại tài sản từ bên mua, đồng thời bên bán phải trả lại bên mua số tiền còn lại
sau khi đã trừ hao mòn và tiền bồi thường thiệt hại (nếu có). Đồng thời, bên
mua có nghĩa vụ trả lại tài sản cho bên bán và có quyền nhận lại số tiền đã trả
cho bên bán sau khi khấu trừ các khoản chi phí phải thanh toán.
Khi bảo lưu quyền sở hữu trở thành một trong các biện pháp bảo đảm
trong BLDS năm 2015, căn cứ các quy định tại các Điều 332 và 333 có thể
nhận thấy quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua không có sự thay đổi so
với khi bảo lưu quyền sở hữu chưa phải là một biện pháp bảo đảm. Trong đó,

quyền quan trọng nhất của bên bán vẫn chính là quyền đòi lại tài sản từ bên
mua và nghĩa vụ cơ bản nhất của bên bán vẫn là nghĩa vụ hoàn trả lại số tiền
bên mua đã trả sau khi trừ đi các khoản chi phí liên quan.
Với những phân tích trên cho thấy, cho dù bảo lưu quyền sở hữu chỉ là
một quyền pháp định gắn liền với hợp đồng mua bán trả chậm, trả dần hay là
một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì quyền và nghĩa vụ của các bên
vẫn không có sự thay đổi. Thậm chí, mục đích của bảo lưu quyền sở hữu
trong hai trường hợp này cũng hoàn toàn giống nhau đó là buộc bên mua phải
thanh toán hết số tiền mua tài sản theo thỏa thuận. Có chăng sự thay đổi ở đây
chỉ là thay đổi về vị trí của bảo lưu quyền sở hữu trong kết cấu của BLDS.
Vậy bản chất thực sự của bảo lưu quyền sở hữu là gì?


×