Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Vấn đề quyền con người trong hiến pháp 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------

NGUYỄN THỊ LAM THUỶ

VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG HIẾN PHÁP 2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------

NGUYỄN THỊ LAM THUỶ

VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG HIẾN PHÁP 2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hành chính và Luật Hiến pháp
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Tô Văn Hoà

Hà Nội - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Lam Thuỷ


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1.

Tính cấp thiết của đề tài........................................................................ 1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................. 3

3.

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ..................................... 6

4.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 6


5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................... 7

6.

Kết cấu luận văn ................................................................................... 7

7.

Bố cục luận văn .................................................................................... 7

CHƢƠNG 1.LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG
HIẾN PHÁP ................................................................................................... 10
1.1.Khái quát về quyền con người: ................................................................. 10
1.1.1.Khái niệm quyền con người: .................................................................. 10
1.1.2.Tính chất cơ bản của quyền con người .................................................. 16
1.2.Mối quan hệ giữa quyền con người và Hiến pháp .................................... 24
1.2.1.Quyền con người là đối tượng điều chỉnh cơ bản của Hiến pháp.......... 24
1.2.2.Cách thức, phạm vi điều chỉnh quyền con người trong Hiến pháp ....... 28
1.2.3. Vai trò của Hiến pháp đối với việc đảm bảo quyền con người ............ 30
1.3.Chế định về quyền con người trong Hiến pháp một số quốc gia.............. 32
1.3.1.Hiến pháp Hoa Kỳ.................................................................................. 32
1.3.2.Hiến pháp Anh quốc............................................................................... 36
1.3.3.Hiến pháp Cộng hòa Pháp ...................................................................... 38
CHƢƠNG 2.THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM.............................................................. 42
2.1. Quy định về quyền con người tại Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ . 42
2.1.1. Hiến pháp năm 1946 ............................................................................. 42

2.1.2. Hiến pháp năm 1959 ............................................................................. 45
2.1.3. Hiến pháp năm 1980 ............................................................................. 48


2.1.4. Hiến pháp năm 1992 ............................................................................. 51
2.1.5. Hiến pháp năm 2013 ............................................................................. 60
2.2. Thực trạng hoạt động đảm bảo quyền con người theo Hiến pháp Việt
Nam hiện nay .................................................................................................. 66
2.2.1. Về bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp của Quốc hội ............... 66
2.2.2. Về bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp của Chính phủ ............. 68
2.2.3. Về bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp của hệ thống cơ quan tư
pháp ................................................................................................................. 73
2.2.4. Về bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp của hệ thống cơ quan
hành chính ....................................................................................................... 75
CHƢƠNG 3.ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ
ĐỊNH VỀ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM ... 78
3.1. Định hướng hoàn thiện chế định về quyền con người trong Hiến pháp
năm 2013 ......................................................................................................... 78
3.2. Giải pháp hoàn thiện chế định quyền con người trong Hiến pháp năm
2013 ................................................................................................................. 79
3.2.1. Bổ sung một số quyền con người cơ bản vào Hiến pháp năm 2013..... 79
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số điều chưa phù hợp trong Hiến pháp năm 2013
......................................................................................................................... 82
3.2.3. Chính xác hóa các quy định trong chế định quyền con người trong Hiến
pháp năm 2013 ................................................................................................ 88
3.2.4. Quy định về cơ quan nhân quyền quốc gia và hiệu lực của chế định
quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 .................................................. 89
3.2.5. Một số giải pháp bảo đảm thực thi chế định quyền con người trong
Hiến pháp năm 2013 ....................................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân quyền hay quyền con người là yếu tố cơ bản, chủ đạo tạo nên nền
tảng của một xã hội dân chủ, văn minh. Tư tưởng về nhân quyền đã hình
thành cũng như tồn tại từ rất sớm trong lịch sự nhân loại. Sự ra đời của khái
niệm nhân quyền gắn liền với những cuộc cách mạng dân chủ tư sản lật đổ
chế độ phong kiến, xã hội thần dân thế kỷ XVII, XVIII, là kết tinh của quá
trình đấu tranh không ngừng của toàn nhân loại, vươn tới những lý tưởng, giải
phóng hoàn toàn con người. Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 là một
trong những văn bản đầu tiên ghi nhận chế định này, các văn bản này đã xác
định các quyền cơ bản của con người và đề cập đến những biện pháp bảo đảm
thực hiện các quyền này. Ở nước ta, nhân quyền được Chủ tịch Hồ Chí Minh
thể hiện trong Tuyên ngôn độc lập do người soạn thảo và công bố ngày
02/9/1945 khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong các điều kiện đảm bảo thực hiện nhân quyền như: chính trị, kinh
tế, văn hóa và giáo dục… thì pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng hàng đầu
bởi: pháp luật là phương tiện chính thức hóa giá trị xã hội của quyền con
người, là công cụ sắc bén của nhà nước trong việc thực hiện và bảo vệ quyền
con người; pháp luật tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình; pháp luật còn là cầu nối quan trọng với
những điều kiện đảm bảo nhân quyền khác như chính trị, kinh tế, văn hóa,
giáo dục… Mọi điều kiện này đều phải thể hiện dưới hình thức pháp luật mới
có giá trị pháp lý cũng như xã hội ổn định và được thực hiện hóa. Hiến pháp

là đạo luật tối cao trong hệ thống văn bản pháp luật của mọi quốc gia, là đạo
luật nguồn cho mọi hệ thống pháp luật thuộc các lĩnh vực khác làm căn cứ


2

quy định. Cho nên, nhân quyền về nguyên tắc cũng như khách quan sẽ phải
được quy định cụ thể trong Hiến pháp.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề nhân quyền, Hiến pháp các
nước thường dành riêng một chương hoặc một phần nhất định để ghi nhận các
quyền con người, quyền công dân như: Chương V Hiến pháp Việt Nam năm
1992; Phần I Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1978; Chương II Hiến pháp Thụy
Điển 1974; Chương III Hiến pháp Nhật Bản năm 1946; Chương II Hiến pháp
Hàn Quốc năm 1948; Chương II Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993… Có
thể nói, nhân quyền là thành tựu chung của loài người, là kết tinh của nền văn
minh nhân loại. Lịch sử loài người chi thấy trí thức về nhân quyền có ý nghĩa
quan trọng cho sự phát triển và tiến bộ của xã hội cũng như là tiền đề cho sự
phát triển đầy đủ về nhân cách và năng lực của mỗi cá nhân. Ở phạm vi rộng
hơn, tri thức về quyền con người là tiền đề cho hòa bình và thịnh vượng của
nhân loại.
Tại Việt Nam, tư tưởng về nhân quyền gắn liền với cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc. Kể từ khi giành độc lập năm 1945, Đảng và Nhà nước ta
luôn tôn trọng quyền con người. Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chủ tịch đọc tại
quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 02/9/1945 là văn kiện có tính lịch sử trên
phương diện quốc tế về nhân quyền. Trên cơ sở đó, nhân quyền đã được ghi
nhận trong Hiến pháp nước ta lần lượt qua các thời kì phát triển lịch sử của
đất nước: Hiến pháp năm 1945, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013.
Đặc biệt, với quy định của Hiến pháp năm 2013 về nhân quyền đã tạo được
bước tiến quán trọng về mặt pháp lý cho việc thực hiện quyền con người trên
thực tế. Có thể nhận thấy, cùng với sự phát triển của đất nước, những quan

điểm và quy định pháp luật về nhân quyền của nước ta đang có những sửa đổi
tiến bộ hơn.


3

Vì vậy, để nhìn nhận chế định quyền con người một cách tổng quan dọc
quá trình hình thành và phát triển của Hiến pháp Việt Nam, đánh giá những
thành tựu cũng như hạn chế về vấn đề quyền con người qua các bản hiến pháp
mà tập trung vào Hiến pháp hiện hành năm 2013, tác giả đã chọn đề tài: “Vấn
đề quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013” làm đề tài bảo vệ
luận văn Thạc sĩ luật của tôi.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nhiều thập kỷ qua, vấn đề nhân quyền đã được nghiên cứu nhiều
cả trên bình diện quốc tế cũng như quốc gia. Nhiều tổ chức quốc tế mà đặc
biệt là Liên hợp quốc coi nhân quyền là nội dung vô cùng quan trọng trong
các hoạt động của mình. Cơ quan này hỗ trợ rất nhiều cho hoạt động nghiên
cứu, tuyên truyền, phổ biến về nhân quyền. Cho đến nay, Liên hợp quốc đã
hình thành cơ chế bảo vệ quốc tế về nhân quyền khá vững chắc với hệ thống
các điều ước, tuyên ngôn, tuyên bố quốc tế.
Nhân quyền đã được nhiều tổ chức và cá nhân nghiên cứu như:
- UNDP, Human Development Report 2000: Human Rights and
Human Development, New York, 2000;
- United Nations, Frequently asked questions on a human rights – based
approach to development cooperation;
- Johannes Morsink, The Universal Declaration of Human rights:
Origins, Drafting, and Intent, Philadelphia: University of Pennsyvania Press,
1999.
Năm 2005, Bộ Ngoại giao Việt Nam chủ trì, công bố tập tài liệu: Thành
tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam; Trung tâm nghiên cứu

quyền con người (nay là Viện nghiên cứu quyền con người trực thuộc Học
viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), Việt Nam với vấn đề


4

quyền con người. Và đề tài độc lập cấp nhà nước; quyền con người trong thời
kỳ đổi mới – thành tựu – vấn đề và phương hướng giải quyết.
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu dưới dạng luận văn như:
- Tác giả Phạm Văn Khánh với đề tài “Tính phổ biến và tính đặc thù
của quyền con người”, Luận án Tiến sĩ khóa học triết học, Đại học Tổng hợp
Hà Nội bảo vệ năm 1995. Luận án nghiên cứu tính phổ biến của quyền con
người trong mối liên hệ tiến bộ xã hội, dân chủ và chủ quyền quốc gia. Tính
đặc thù của quyền con người ở Việt Nam. Một số kiến nghị bảo đảm và phát
triển quyền con người ở Việt Nam.
- Tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân với đề tài “Hoàn thiện cơ chế thực
hiện điều ước quốc tế về quyền con người tại Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ
Luật quốc tế, Trường đại học luật Hà Nội bảo vệ năm 2012. Luận án trình bày
một số vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế thực hiện điều ước quốc tế về quyền
con người. Thực trạng, phương hướng và giải pháp hoàn thiện cơ chế thực
hiện điều ước quốc tế về quyền con người tại Việt Nam.
- Tác giả Lê Hoài Trung với đề tài “Pháp luật bảo đảm quyền con
người trong lĩnh vực xã hội ở Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn”,
Luân án Tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội bảo vệ năm 2011. Luận
án nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật bảo đảm quyền con
người trong lĩnh vực xã hội. Từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật
bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực quan trọng này ở Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Giáp Mạnh Huy với đề tài “Bảo đảm pháp
lý về quyền con người ở Việt Nam hiện nay” bảo vệ năm 2008; Luận văn thạc
sĩ luật học của Trương Thị Dung với đề tài “Vai trò của tư pháp trong việc

bảo vệ quyền con người ở Việt Nam” bảo vệ năm 2014; Luận văn thạc sĩ
chuyên ngành pháp luật về quyền con người của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng
với đề tài “Vai trò của Quốc Hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con


5

người ở Việt Nam” bảo vệ năm 2014; Luận văn thạc sĩ chuyên ngành pháp
luật về quyền con người của tác giả Nguyễn Thùy Dương với đề tài “Chế
định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam” bảo vệ
năm 2014; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đậu Công Hiệp với đề tài
“Bảo đảm và thúc đẩy nhân quyền trong tương quan với các yếu tố nhân văn
của nền văn hóa Việt Nam hiện nay”, Đại học Luật Hà Nội, năm 2015…
Các bài viết, tạp chí chuyên ngành luật như: Hoàng Văn Nghĩa với bài
viết Nguyên tắc Paris và các cơ chế bảo đảm nhân quyền quốc gia trên thế
giới, tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Văn phòng Quốc hội, Số 4/2013, tr. 56 –
63; Nguyễn Đăng Dung với bài viết Cách tiếp cận hay là cách thức quy định
nhân quyền trong hiến pháp, Nghiên cứu lập pháp. Văn phòng Quốc hội, Số
22/2011, tr. 41 – 48; Phạm Văn Tỉnh với bài viết Nhân quyền học - nhận diện
và cách tiếp cận Nhà nước và Pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật, Số
1/2012, tr. 80 – 84; ê Văn Yên với bài viết Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch
Hồ Chí Minh - tuyên ngôn tỏa sáng tư tưởng nhân quyền và dân quyền của
các dân tộc bị áp bức, Cộng sản. Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Số
9/2014, tr. 52 – 55; Mạc Thị Hoài Thương với bài viết Một số vấn đề pháp lí
về cơ quan nhân quyền quốc gia và thực tiễn tại Việt Nam Luật học. Trường
Đại học Luật Hà Nội, Số 9/2013, tr. 47 – 55…
Những công trình nêu trên cung cấp một lượng tri thức, thông tin khá
lớn và hữu ích về chế định nhân quyền trong các bản Hiến pháp của Việt
Nam. Mặc dù vậy chưa có công trình nào phân tích một cách toàn diện những
tiến bộ, hạn chế và cơ chế bảo đảm thực thi những quy định về nhân quyền

trong các bản hiến pháp đặc biệt là trong Hiến pháp năm 2013 hiện hành. Vì
vậy, việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa lý luận lẫn thực tiễn nhất định.


6

3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là về nhân quyền trong Hiến pháp
Việt Nam.
Với đối tượng nghiên cứu này, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn,
tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu quy định về nhân quyền trong các bản Hiến pháp
Việt Nam (1945, 1956, 1980, 1992, 2013). Trong đó, tập trung vào chế định
nhân quyền của Hiến pháp hiện hành 2013.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích những cơ sở lý luận,
thực tiễn và nội dung của chế định quyền con người trong các bản Hiến pháp
Việt Nam nhằm đánh giá một cách tổng quan những thành tựu, hạn chế của
Hiến pháp Việt Nam về vấn đề nhân quyền. Từ đó, đưa ra quan điểm và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế định này.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cơ bản
sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận nền tảng về khái niệm nhân quyền và
mối quan hệ giữa nhân quyền và Hiến pháp.
- Phân tích chế định quyền con người trong các bản Hiến pháp Việt
Nam (1945, 1956, 1980, 1992, 2013), chỉ ra sự phát triển của chế định này
qua từng bản Hiến pháp.
- Phân tích những sửa đổi, bổ sung của chế định nhân quyền trong Hiến
pháp năm 2013. Từ đó phân tích, chỉ ra những điểm tiến bộ và hạn chế của
chế định về quyền con người trong bản hiển pháp này trên cơ sở so sánh với

các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập làm thành
viên, Hiến pháp của một số nước trên thế giới.


7

- Đưa ra một số quan điểm về nhân quyền trong Hiến pháp và đề xuất
các giải pháp nhằm tổ chức thực hiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chế
ddinjj này trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận án được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lenin, bao gồm phép biện chứng duy vật và phương pháp
luận duy vật lịch sử. Theo đó, vấn đề pháp luật thanh toán và phân chia di sản
thừa kế được nghiên cứu luôn ở trang thái vận động và phát triển trong mối
quan hệ không tách rời với các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội. Trong quá
trình nghiên cứu, luận văn còn dựa trên cơ sở các quan điểm, định hướng của
Đảng và Nhà nước ta về quan hệ thanh toán và phân chia di sản thừa kế trong
đời sống xã hội tại Việt Nam.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, tác giả còn sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu phổ biến phù hợp như: Phương pháp lịch sử; phương pháp
phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh và phương pháp thống kê…
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chương sau:
- Chương 1: Lý luận chung về quyền con người trong Hiến pháp
- Chương 2: Thực trạng quy định về quyền con người trong Hiến pháp
Việt Nam
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện chế định quyền con
người trong Hiến pháp Việt Nam
7. Bố cục luận văn

LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG
HIẾN PHÁP


8

1.1.

Khái quát về quyền con người

1.1.1. Khái niệm nquyền con người
1.1.2. Tính chất cơ bản của quyền con người
1.2.

Mối quan hệ giữa quyền con người và Hiến pháp

1.2.1. Quyền con người là đối tượng điều chỉnh cơ bản của Hiến pháp
1.2.2. Cách thức, phạm vi điều chỉnh quyền con người trong Hiến pháp
1.3.

Chế định về quyền con người trong Hiến pháp một số quốc gia

1.3.1. Hiến pháp Hoa Kỳ
1.3.2. Hiến pháp Anh quốc
1.3.3. Hiến pháp Cộng hòa Pháp
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM
2.1. Quy định về quyền con người tại Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ
2.1.1. Hiến pháp năm 1946

2.1.2. Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992
2.1.3. Hiến pháp năm 2013
2.2. Thực trạng các quy định về đảm bảo nhân quyền theo Hiến pháp Việt
Nam 2013 hiện nay
2.2.1. Về bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp của Quốc hội
2.2.2. Về bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp của Chính phủ
2.2.3. Về bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp của hệ thống cơ quan tư
pháp
2.2.4. Về bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp của hệ thống cơ quan
hành chính
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỀN CHẾ
ĐỊNH VỀ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM


9

3.1. Định hướng hoàn thiện chế định về quyền con người trong Hiến pháp
năm 2013
3.2. Giải pháp hoàn thiện chế định về quyền con người trong Hiến pháp năm
2013
KẾT LUẬN


10

CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG HIẾN PHÁP
1.1.

Khái quát về quyền con ngƣời:


1.1.1. Khái niệm quyền con người:
Quyền con người hay nhân quyền là phạm trù chính trị - pháp lý, sự ra
đời của khái niệm Nhân quyền gắn liền với các cuộc cách mạng dân chủ tư
sản lật đổ chế độ phong kiến, xã hội thần dân thế kỷ XVII, XVIII. Vì vậy,
Nhân quyền là vấn đề có lịch sử lâu đời, có nội dung rộng lớn, liên quan tới
nhiều lĩnh vực như đạo đức, chính trị, pháp lý… Trong lịch sử nhân loại, có
nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về vấn đề nhân quyền. Mỗi
một quan điểm là một sự biểu hiện khác nhau ở góc độ nhìn nhận về vấn đề
quyền con người. Tuy nhiên, tổng hợp lại có thể chia thành ba nhóm quan
điểm chủ yếu về nhân quyền như sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất: Bắt nguồn từ việc con người là một thực thể
tự nhiên, nên quyền con người là quyền “bẩm sinh”, là “đặc quyền”, nghĩa là
quyền con người, quyền lợi của con người với tư cách là người, gắn liền với
cá nhân con người, không thể tách rời. Quan điểm này được các đại biểu tư
tưởng của giai cấp tư sản thời kỳ khai sáng (thế kỷ XVII, XVIII) như: Crotius,
Thomas Hobbes, Kant, Locke, Paine, Spinoza, Rousseau hoàn thiện và nêu ra
trong học thuyết về pháp luật tự nhiên. Trường phái này cho rằng, quyền tự
nhiên, pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nước. Theo đó,
nhân quyền là các quyền tự nhiên (natural rights) do tạo hóa ban cho họ. Các
quyền này mang tính bẩm sinh, vốn có của các cá nhân, khi sinh ra đã được
thừa hưởng, bởi vì họ là thành viên của nhân loại. Các quyền này không một
xã hội hay một chính phủ nào có thể ban phát, xóa bỏ hoặc “chuyển nhượng”
và nó không phụ thuộc vào các phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay
ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước


11

nào. Đây là các quyền vốn có của các cá nhân. Xuất phát từ quan điểm này,

Jacques Mourgon (giáo sư đại học khoa học xã hội Toulouse) đưa ra quan
niệm: “Quyền con người là những đặc quyền được các quy tắc điều khiển mà
con người giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với các cá nhân và với
chính quyền”.1 Quan niệm này chủ yếu đề cập đến nhân quyền ở khía cạnh tự
nhiên của nó.
Nhóm quan điểm thứ hai: Trái với nhóm quan điểm thứ nhất, nhóm
quan điểm này lại chỉ đặt con người và quyền con người trong mối quan hệ xã
hội. Quan điểm này cho rằng, con người chỉ là một thực thể xã hội nên quyền
của họ chỉ được xác định trong mối tương quan với các thực thể xã hội khác
và vì là quan hệ xã hội nên nó chịu sự điều chỉnh cũng như được bảo vệ bởi
nhà nước và pháp luật. Quan điểm này có tính tích cực khi coi quyền con
người là một khái niệm có tính lịch sử, đặt con người trong tổng hòa các mối
quan hệ xã hội. Vì con người là thực thể của xã hội, có mối quan hệ phổ biến
với xã hội nên quyền con người luôn gắn liền với đấu tranh giai cấp, đấu tranh
chống áp bức, bóc lột, đấu tranh chống bạo lực, chống bất công trong xã hội.
Theo đó, các quyền con người không phải tự nhiên đã có mà nó phải được
thừa nhận và luật hóa. Cơ sở của quyền con người ở đây chính là trình độ phát
triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội và do chế độ kinh tế, chế độ xã hội
quyết định. Luận ra, các quyền này phụ thuộc vào ý chí của nhà nước (tức giai
cấp thống trị), truyền thống văn hóa và các phong tục, tập quán. Quan điểm
này cũng chính là nội dung của học thuyết cho rằng nhân quyền là quyền
pháp lý (legal right) với những đại diện như học giả Edmund Burke (17271797) và Jeremy Bentham (1748-1832). Quan điểm này xuất phát từ chính
lịch sử phát triển của quyền con người. Nhân loại đã chứng kiến sự tồn tại của
các hình thức pháp lý này, khởi đầu là Bộ luật cải cách của Urukagina, đây là
1

Jacques Mourgon, Quyền con người, Nxb. Đại học Pháp, Hà Nội, 1995


12


bộ luật được biết đến sớm nhất (khoảng năm 2350 TCN), trong bộ luật này đã
nói đến những khái niệm về quyền con người, tuy nhiên, văn bản chính thức
bộ luật đó hiện vẫn chưa được tìm thấy. Ngoài ra, Luật UrNammu (khoảng
năm 2050 TCN) và Bộ luật Hammurabi (khoảng năm 1780 TCN) cũng được
coi là những bộ luật xa xưa nhất ghi nhận về các quyền con người, kể cả
quyền của phụ nữ, trẻ em, quyền của nô lệ. Mặt khác, quyền con người còn
được ghi nhận trong các tài liệu tôn giáo, dĩ nhiên không nhiều lắm. Kinh Vệ
đà, Kinh Thánh, Kinh Koran và sách văn tuyển Luận Ngữ của Khổng Tử
cũng nằm trong số những tài liệu ra đời sớm nhất đã nêu ra những vấn đề về
nghĩa vụ, quyền và bổn phận của con người.
Nhóm quan điểm thứ ba: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn
đề quyền con người. Xuất phất từ quan điểm coi con người vừa là sản phẩm
tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng vấn đề
quyền con người “về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội”.2
Xét về mặt tự nhiên, C. Mác cho rằng, con người là “động vật xã hội”
có khả năng “tái sinh ra con người”, con người là động vật cao cấp nhất trong
quá trình tiến hóa. Do đó, về mặt này quyền con người trước hết là một thuộc
tính tự nhiên, quyền con người không phải là một “tặng phẩm” do giai cấp
thống trị ban phát thông qua nhà nước mà quyền con người trong hình thức
lịch sử tự nhiên của nó mang bản chất tự nhiên, được thể hiện ở quyền được
sống, quyền tự do, quyền được sáng tạo, phát triển, quyền được đối xử như
con người, xứng đáng với con người.
Xét về mặt xã hội, con người mặc dù là động vật cao cấp nhất tự nhiên,
nhưng ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao cấp, con người đã sống thành
bầy đàn và trở thành sản phẩm của lịch sử xã hội. Trong luận cương thứ VI về
Phoi-ơ-bắc, C. Mác cho rằng: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
2

C. Mác – Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập III, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986



13

người là tổng hòa những quan hệ xã hội. Do đó, xét về khía cạnh xã hội thì
quyền con người ngay từ khi có xã hội loài người, bên cạnh bản tính tự nhiên
còn in đậm bản tính xã hội”.3 Theo Mác: “Quyền con người là những đặc
quyền chỉ có ở con người mới có, với tư cách là con người, là thành viên xã
hội loài người”.4
Khi xã hội hình thành giai cấp, hình thành nhà nước đã tạo ra những
chuyển biến có tính “bước ngoặt” trong sự biến đổi mối quan hệ tương quan
giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của quyền con người. Đi kèm xã hội
có giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; do đó, trong điều kiện
xã hội có giai cấp thì bản tính xã hội trở thành bản tính giai cấp. Và ngay cả
bản tính tự nhiên, những giá trị phổ biến của quyền con người cũng tất yếu
chịu sự chi phối của giai cấp thống trị xã hội.
Mặt khác, nhân quyền, kể cả quyền tự nhiên, bẩm sinh còn bị ràng
buộc, chi phối vào chính khả năng khám phá, chinh phục tự nhiên của chính
con người, nghĩa là nó phụ thuộc vào khả năng hoàn thiện, phát triển của con
người, sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ kinh tế - xã hội. Con
người càng có khả năng chế ngự, chinh phục thiên nhiên bao nhiêu thì tự do,
quyền con người ngày càng được mở rộng, ngày càng được đảm bảo bấy
nhiêu. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con người không phải
chỉ là phép cộng đơn giản đối với hai quan niệm về quyền con người nêu trên,
mà từ phân tích cho thấy bản chất hai mặt tự nhiên và xã hội của quyền con
người có những thuộc tính phức tạp và luôn có sự thống nhất giữa hai mặt đối
lập.
Về mặt thuật ngữ, “nhân quyền” hay còn gọi là “quyền con người” đều
băt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh “human rights”, mà nếu dịch trực tiếp sang
3

4

C. Mác – Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập III, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986
C. Mác – Ph. Ăngghen, Về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.


14

tiếng Việt là quyền con người; còn nếu dịch qua Hán - Việt là nhân quyền.
Xét về mặt ngôn ngữ học, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng
nghĩa.5 Theo một tài liệu năm 1994 của Liên Hiệp Quốc, United Nations
Human rights: Question anh Answer, thống kê có đến gần 50 khái niệm về
quyền con người đã được công bố. Mỗi khái niệm tiếp cận vấn đề từ một góc
độ nhất định khác nhau, chỉ ra những thuộc tính nhất định nhưng không khái
niệm nào cũng bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.
Ở cấp độ quốc tế, khái niệm của văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về
nhân quyền thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo khái niệm
này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal
guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những
hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự được phép (entit lements) và sự tự do cơ bản (fundamental
freedoms) của con người. Theo đó, quyền con người được pháp luật quốc tế
ghi nhận và bảo vệ. Đồng thời, chỉ ra rằng, quyền con người không chỉ được
đề cập ở khía cạnh là quyền của các cá nhân mà nó còn được đề cập là quyền
của nhóm, chẳng hạn như: quyền của phụ nữ, quyền của trẻ em, quyền của
người khuyết tật, quyền của các quốc gia, dân tộc.
Một số khái niệm khác cũng được trích dẫn như: quyền con người là
những sự được phép (entitlements) mà tất cả các thành viên của cộng đồng
nhân loại không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội,… đều
có ngay từ khi sinh ra đơn giản chỉ vì họ là con người. Khái niệm này mang

dấu ấn của học thuyết về quyền tự nhiên.
Ở Việt Nam, đã có những quan niệm khác nhau giữa các học giả
nghiên cứu về quyền con người. Học giả Nguyễn Bá Diến cho rằng: “Quyền
con người là các khả năng của con người được đảm bảo bằng pháp luật (luật
5

Viện Ngôn ngữ học, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1999


15

quốc gia và luật quốc tế) về sử dụng và chi phối các phúc lợi xã hội, các giá
trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong xã hội trong
phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt động của mình và của người
khác trên cơ sở pháp luật”.6 Quan niệm này mới chỉ đề cập đến quyền con
người với tư cách là phạm trù luật học.
TS. Trần Quang Tiệp đưa ra khái niệm ngắn gọn và khá đầy đủ, cụ thể
về quyền con người như sau: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự
nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định”.
Theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung, quyền con người là những quyền cơ
bản nhất của con người, được có một cách tự nhiên gắn bó mật thiết với con
người – một động vật cao cấp có lý trí, và có tình cảm làm cho con người
khác với các động vật khác, mà nhà nước thành lập với một trong những
nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền đó.7
Như vậy, có thể hiểu quyền con người là một phạm trù tổng hợp, vừa là
“chuẩn mực tuyệt đối” mang tính phổ biến, vừa là “sản phẩm tổng hợp của
một quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triển”. Quyền con
người “không thể tách rời”, đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Quyền con người là một tổng thể những

quyền gắn bó với nhau trong mối tương quan biện chứng, đó là quyền cá nhân
và quyền của dân tộc cộng đồng, quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và
xã hội, quyền của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội. Có thể thấy, khái
niệm quyền con người là một khái niệm năng động và được thay đổi, mở
rộng. Hiểu một cách đơn giản, quyền con người là những nhu cầu tự nhiên,
6

Nguyễn Bá Diến (1993), Về quyền con người –trong tập chuyên khảo "Quyền con người, quyền công dân",
Tập 1, Trung tâm nghiên cứu quyền con người – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
7
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Những nội dung cơ
bản về quyền con người, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 1997


16

vốn có của con người. Đó là những khả năng hành động một cách có ư thức
của con người.
Tuy nhiên, tự bản thân chúng chưa phải là quyền. Các nhu cầu của cá
nhân khi trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật thì mới trở thành các
quyền của con người. Không có pháp luật thì không có quyền của con người.
Do đó, quyền con người được nhìn nhận là những nhu cầu tự nhiên, vốn có
của con người và được pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia ghi nhận và bảo
vệ bằng các cơ chế khác nhau. Mặc dù, cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều
cách nhìn nhận khác nhau về quyền con người, nhưng có một điều rõ ràng
rằng quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ.
Trong thời đại ngày nay, quyền con người không thể tách khỏi hòa bình, dân
chủ và phát triển.
1.1.2. Tính chất cơ bản của quyền con người
1.1.2.1. Tính phổ biến

Học thuyết về quyền con người và những cơ sở lý luận cơ bản về quyền
con người đã được phát triển sớm trong điều kiện tự nhiên – xã hội của
phương Tây và quyền con người đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện chính
trị - pháp lý khác nhau. Những học thuyết này, xét cho cùng vẫn bị chi phối
bởi những điều kiện kinh tế, xã hội và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Và quyền con
người trong các văn kiện chính trị - pháp lý đó cũng là những sản phẩm của
các điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nên vẫn còn tồn tại những hạn chế
nhất định.
Để quyền con người tiến tới là một giá trị chung của nhân loại, kế thừa
những tinh hoa của những tư tưởng Cận đại về nhân quyền và vượt lên trên
những hạn chế của các văn kiện vừa nêu trên, Liên hợp quốc, ở buổi sơ khai
đã tốn hơn ba năm bàn bạc, xây dựng, để có thể công bố Tuyên ngôn toàn thế
giới về quyền con người năm 1948, sự khởi đầu của ngành luật quốc tế về


17

quyền con người. Bản Tuyên ngôn là thỏa thuận pháp lý quốc tế đầu tiên về
quyền con người, được đại đa số các nước chấp nhận, ký kết, thông qua, thừa
nhận tính phổ quát của các quyền con người, dựa trên việc thừa nhận phẩm
giá vốn có, các quyền bình đẳng của mọi thành viên trong gia đình nhân loại
là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Đây là thành quả của
sự phát triển, sự tiến bộ và văn minh của lịch sử nhân loại, không chỉ mang
tính tất yếu khách quan mà còn thể hiện nguyện vọng chủ quan của con người
trên toàn thế giới, ai cũng có quyền tồn tại, có quyền phát triển và có quyền
mưu cầu hạnh phúc.
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người nêu rõ, tất cả mọi người
sinh ra đều tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền. Mọi người đều
được phú cho lý trí và lương tri và cần phải đối xử như nhau. Thông qua bản
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, tính phổ biến của quyền con

người được cộng đồng quốc tế thừa nhận thể hiện ở chỗ quyền con người là
những gì bẩm sinh, vốn có của con người. Quyền con người được áp dụng
bình đẳng cho mọi người, không có sự phân biệt đối xử bởi bất kỳ lý do nào
về chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, thành phần xuất thân… Như vậy,
quyền con người là một giá trị chung của nhân loại, là mục đích vươn tới của
nhân loại.
Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý bản chất của sự bình đẳng về
quyền con người không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền mà
là bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người. Mọi thành viên của
nhân loại đều được công nhận có các quyền con người song mức độ hưởng
thụ các quyền phụ thuộc vào năng lực cá nhân của từng người, cũng như hoàn
cảnh chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa… nơi người đó đang sống.
Ngày nay, tính phổ biến của quyền con người được thừa nhận trên
phạm vi toàn cầu nhưng vẫn tiếp tục trở thành vấn đề nổi cộm trong các cuộc


18

tranh luận của giới nghiên cứu cũng như giữa các chính trị gia bởi tồn tại
những quan niệm khác nhau về tính phổ biến và nội dung của quyền con
người. Mặc dù nội hàm quan niệm về quyền con người trong Tuyên ngôn
toàn thế giới về quyền con người của Liên hợp quốc có bao hàm các quan
niệm nhân quyền của phương Tây nhưng không có nghĩa là cũng đồng nhất
với họ, cũng bị giới hạn quyền con người phổ quát theo quan niệm đó. Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người đã xem xét quyền con người không chỉ
với tư cách quyền tự nhiên bẩm sinh, mà còn là quyền có tính xã hội, không
chỉ đơn thuần xem quyền con người là những quyền chính trị mà còn là
những quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền phát triển.
Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau về nhân quyền giữa các nhà
nghiên cứu, các chính trị gia cũng như giữa nhiều quốc gia, nhưng trong các

quan niệm ấy đều tồn tại một cơ sở chung làm nên tính phổ biến về quyền con
người, đó là nhân phẩm (hay phẩm giá con người – human dignity). Ngay từ
lời nói đầu của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, phẩm giá con
người đã được thừa nhận là cơ sở chung của quyền con người: “Việc thừa
nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi
thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình
trên thế giới”. Tuyên ngôn cũng đã khẳng định mọi người đều được tự do và
bình đẳng về nhân phẩm và các quyền (Điều 1). Phẩm giá con người là những
giá trị phản ánh và tạo nên phẩm chất của chính bản thân con người, chỉ con
người mới có và phân biệt giữa con người với thế giới động vật.
1.1.2.2. Tính không thể chuyển nhượng (tước đoạt) (inalienable)
Sự hiện hữu của con người trên trái đất hoàn toàn thuận theo tự nhiên,
không ai có thẩm quyền định đoạt về giá trị tồn tại và vị trí của nó. Mỗi con
người tự do tham gia vào đời sống xã hội, có quyền tự do ý chí, thể hiện
nguyện vọng của bản thân và tự gánh chịu trách nhiệm về hành vi, hoạt động


19

của mình và mọi hậu quả pháp lý của những hành vi, hoạt động đó. Bất kỳ
một chủ thể nào bao gồm cơ quan công quyền hay công chức nhà nước cũng
không có quyền tước đoạt một cách tùy tiện các quyền tự do ý chí, thể hiện
nguyện vọng đó của mỗi cá nhân trong xã hội. Sự tùy tiện tước đoạt quyền
con người bởi một chủ thể nào đó là sự vi phạm các quyền con người đã được
pháp luật bảo vệ (Điều 9 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm
1948). Bên cạnh đó, bất cứ ai, không những không được quyền tước đoạt mà
còn không được quyền hạn chế hoặc xâm phạm một cách tùy tiện các quyền
con người của mỗi cá nhân.
Tất cả những quy định đó của pháp luật đều hướng tới mục đích chung,
đó là bảo vệ con người và quyền con người, sự bình đẳng pháp lý của mọi cá

nhân, quyền tự do dân chủ của họ và những bảo đảm cho các quyền và tự do
đó.
Như vậy, tính không thể tước đoạt của quyền con người thể hiện ở chỗ
quyền con người không thể bị tước bỏ hoặc bị hạn chế một cách tùy tiện bởi
bất kể chủ thể nào. Ở đây, khía cạnh “tùy tiện” nói đến giới hạn của vấn đề.
Nó cho thấy, không phải lúc nào quyền con người cũng “không thể bị tước
bỏ”. Trong một số trường hợp đặc biệt, quyền con người có thể bị tước bỏ
hoặc hạn chế bằng pháp luật như khi một người phạm một tội ác, hành vi vi
phạm pháp luật được xác định bởi một phán quyết của tòa án có thẩm quyền
đã có hiệu lực thì mới có thể bị tước bỏ quyền tự do. Sự tước bỏ hoặc hạn chế
này thực chất là nhằm bảo vệ các quyền con người của người khác bị ảnh
hưởng bởi hành vi vi phạm pháp luật của người bị tước đoạt hoặc bị hạn chế
gây ra. Con người cần biết sống đời sống xã hội, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau
nhưng không có quyền xâm phạm đến quyền của người khác.
Tuy nhiên, sự tước đoạt ở đây được giải thích có cơ sở từ chính góc độ
bảo vệ các quyền con người. Điều này được thể hiện trong Hiến pháp của


20

nhiều quốc gia. Cụ thể, khoản 1 Điều 2 Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức
năm 1949 quy định: “Mọi người có quyền phát triển nhân cách của mình tự
do chừng nào người ấy không vi phạm quyền của người khác hoặc vi phạm
chống lại trật tự Hiến pháp hoặc luân lý”. Khoản 3 Điều 17 Hiến pháp Liên
bang Nga năm 1993 quy định: “Việc thực hiện các quyền và tự do của con
người và công dân không được xâm phạm quyền và tự do của người khác”.
Khoản 2 Điều 31 Hiến pháp Ba Lan năm 1997 cũng quy định: “Mọi người có
trách nhiệm tôn trọng tự do và quyền của người khác”. Khoản 2 Điều 14
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân
chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý

do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khoẻ của cộng đồng”. Do đó, cơ sở lý luận cho sự tước đoạt hoặc hạn chế ở
đây được hiểu ở góc độ bảo vệ các quyền con người, bảo vệ lợi ích quốc gia,
dân tộc. Bởi vậy, Điều 29.2 của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người
khẳng định: Khi thụ hưởng các quyền tự do của mình, mọi người chỉ phải
tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận
và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác cũng như
nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và
phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.
1.1.2.3. Tính không thể chia cắt (indivisiable)
Tính không thể chia cắt của nhân quyền xuất phát từ nhận thức cho
rằng các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau. Bởi vậy, trong các
văn kiện pháp lý quốc tế đều thừa nhận về nguyên tắc, không có quyền nào
được xem là cao hơn, quan trọng hơn quyền nào. Các quyền đều ngang nhau
về mặt giá trị. Sự xác nhận về mặt nguyên tắc tầm quan trọng như nhau của
các quyền con người bảo đảm sự tự do, nhân phẩm của con người. Bởi vì,
nhân phẩm và giá trị của con người là cơ sở chung để xây dựng nên tất cả các


×