Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Quyền của trẻ em bị bỏ rơi và cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THU GIANG

ĐỀ TÀI

QUYỀN CỦA TRẺ EM BỊ BỎ RƠI VÀ CƠ CHẾ BẢO VỆ
QUYỀN CỦA TRẺ EM BỊ BỎ RƠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THU GIANG

ĐỀ TÀI

QUYỀN CỦA TRẺ EM BỊ BỎ RƠI VÀ CƠ CHẾ BẢO VỆ
QUYỀN CỦA TRẺ EM BỊ BỎ RƠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Hoàng Thu Giang


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện Luận văn Thạc sĩ, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ, tạo điều kiện nhiệt tình và quý báu của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Ngô Thị Hường đã
tận tình hướng dẫn trong suốt thời gian nghiên cứu hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa đào tạo Sau đại học đã
tận tình giảng dạy, hướng dẫn, truyền đạt kiến thức trong suốt quá trình học tập và thực
hiện luận văn.
Mặc dù tôi đã rất cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình và năng
lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót hoặc có những phần
nghiên cứu chưa sâu. Rất mong nhận được sự chỉ bảo và thông cảm của các Thầy cô.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !

Hà Nội, tháng 7 năm 2017

Tác giả luận văn

Hoàng Thu Giang


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ............................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................... 2
4. Mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn ..................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn .......................................... 5
7. Kết cấu của Luận văn .............................................................................. 5
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA TRẺ EM BỊ
BỎ RƠI VÀ CƠ CHẾ BẢO VỆ QUYỀN CỦA TRẺ EM BỊ BỎ RƠI.......6
1.1. Khái niệm trẻ em, trẻ em bị bỏ rơi .......................................................... 6
1.1.1. Khái niệm trẻ em ............................................................................... 6
1.1.2. Khái niệm trẻ em bị bỏ rơi ................................................................ 8
1.2. Quyền của trẻ em bị bỏ rơi.................................................................... 10
1.3. Cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi ............................................ 13
1.4. Ý nghĩa của cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi ......................... 18
Kết luận Chương 1 ....................................................................................... 21
Chƣơng 2. QUYỀN CỦA TRẺ EM BỊ BỎ RƠI VÀ CƠ CHẾ BẢO VỆ
QUYỀN CỦA TRẺ EM BỊ BỎ RƠI THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH....22

2.1. Nhóm quyền được sống còn của trẻ em bị bỏ rơi và cơ chế bảo vệ ..... 22
2.1.1. Quyền sống...................................................................................... 22
2.1.2. Quyền được khai sinh và có quốc tịch ............................................ 25
2.1.3. Quyền được biết cha mẹ đẻ và được sống chung với cha mẹ ......... 29
2.1.4. Quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi ................... 31

2.1.5. Quyền được chăm sóc sức khỏe ...................................................... 36
2.2. Nhóm quyền được phát triển của trẻ em bị bỏ rơi và cơ chế bảo vệ .... 39
2.2.1. Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu ................ 39
2.2.2. Quyền được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể
dục, thể thao, du lịch ................................................................................. 42


2.3. Nhóm quyền được tham gia của trẻ em bị bỏ rơi và cơ chế bảo vệ ..... 44
2.4. Nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em bị bỏ rơi và cơ chế bảo vệ ......... 47
Kết luận Chương 2 ....................................................................................... 51
Chƣơng 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN CỦA TRẺ EM BỊ BỎ RƠI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO
THỰC HIỆN QUYỀN CỦA TRẺ EM BỊ BỎ RƠI....................................52
3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi .... 52
3.1.1. Thực trạng trẻ em bị bỏ rơi ở Việt Nam hiện nay........................... 52
3.1.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ
rơi ở Việt Nam hiện nay ............................................................................ 58
3.2. Một số giải pháp đảm bảo thực hiện quyền của trẻ em bị bỏ rơi.......... 71
3.2.1. Những định hướng chung ............................................................... 71
3.2.2. Một số giải pháp cụ thể................................................................... 75
KẾT LUẬN....................................................................................................85


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Để trẻ em
là một nguồn nhân lực tốt, dồi dào và hữu ích cho đất nước sau này thì ngay
lúc này, trẻ em cần được Nhà nước, xã hội, các cấp, ngành và gia đình quan

tâm. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn là nghĩa cử cao đẹp, là truyền
thống của dân tộc Việt Nam. Vấn đề này đã được Đảng ta tiếp tục khẳng định
trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII: “Bảo đảm các quyền cơ bản
của trẻ em, tạo môi trường để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất và
trí tuệ. Chú trọng bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em
gia đình nghèo, trẻ em vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn; ngăn chặn
và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em. Nhân rộng các mô hình làm tốt việc
bảo vệ, chăm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng”1.
Việt Nam là nước đầu tiên của Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới
phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em (Sau đây gọi là
Công ước quyền trẻ em). Đồng thời, Việt Nam cũng có nhiều tiến bộ, tích cực
trong việc xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về trẻ em nói chung,
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói riêng. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
“Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em
nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật
nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa dựa vào cộng đồng giai
đoạn 2013 - 2020” theo Quyết định số 647/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 26 tháng 04 năm 2013. Điều này cho thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm và có chính sách đặc biệt nhằm đảm bảo cho trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt, trong đó có trẻ em bị bỏ rơi có điều kiện để phát triển trong môi
trường thân thiện, an toàn, lành mạnh.
Có thể khẳng định rằng, trẻ em là đối tượng còn non nớt về mặt thể chất và
tinh thần, do vậy cần nhận được sự quan tâm và bảo vệ của gia đình và xã hội.
1

“Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng”.


2

Tuy nhiên, trên thực tế, không phải bất kỳ đứa trẻ nào cũng được bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục, phát triển trong một gia đình hạnh phúc, ấm áp tình thương.
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội... thì
trong những năm gần đây, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã có tác động
tiêu cực đến sự phát triển của trẻ em. Hệ quả của sự chênh lệch kinh tế,
phân hóa giàu nghèo, nạn thất nghiệp, tốc độ đô thị hóa nhanh, tình trạng di cư,
gia đình tan vỡ và xói mòn các giá trị truyền thống làm cho tỷ lệ trẻ em bị
bỏ rơi ngày càng cao. Có nhiều trường hợp trẻ em bị bỏ rơi bị ảnh hưởng
trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe và các quyền năng mà trẻ được hưởng
(quyền được giáo dục, học tập; quyền vui chơi, giải trí...). Thực trạng trẻ em
bị bỏ rơi ngày càng gia tăng đã và đang gióng lên hồi chuông báo động về tình
trạng vô trách nhiệm và sự xuống cấp trong lối sống, trong đạo đức của một số
bộ phận các bậc làm cha mẹ, đặc biệt là các bậc cha mẹ trẻ. Bên cạnh đó,
những biện pháp, cách thức nhằm bảo đảm quyền của trẻ bị bỏ rơi đã được
Nhà nước quan tâm nhưng chưa thực sự đạt hiệu quả cao trên thực tế, ảnh
hưởng đến các quyền cơ bản của trẻ em bị bỏ rơi.
Vì những lý do trên đây, việc nghiên cứu một cách toàn diện pháp luật
về quyền của trẻ em bị bỏ rơi - nhóm đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt và thực
tiễn áp dụng các quy định pháp luật vào Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa
quan trọng. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Quyền của trẻ em bị bỏ rơi
và cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi” làm đề tài nghiên cứu luận văn
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề trẻ em và quyền trẻ em nói chung luôn thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhà nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực. Trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt và thực trạng bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cũng nhận được sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả. Dưới góc độ Luật học, có nhiều bài
viết mang tính khoa học, nghiên cứu chuyên sâu về mặt lý luận cũng như thực
tiễn về trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên các tạp chí chuyên ngành, đề

tài nghiên cứu đã được công bố. Một số công trình tiêu biểu như:


3
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, “Pháp luật Việt Nam về quyền
trẻ em và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam” - Trường Đại học Luật Hà Nội - 2012.
Công trình nghiên cứu trên đã khái quát tổng hợp những vấn đề cơ bản về trẻ
em, quyền trẻ em theo quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004 và thực tiễn thực hiện các quyền của trẻ em ở Việt Nam giai đoạn
trước năm 2012. Công trình nghiên cứu cũng đã có những chuyên đề phân
tích, đánh giá về trẻ em bị bỏ rơi, quyền của trẻ em bị bỏ rơi và biện pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của trẻ; tuy nhiên, chuyên đề nghiên cứu
mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, chưa đi sâu phân tích các nhóm quyền
cơ bản của trẻ em bị bỏ rơi.
- Tăng Thị Thu Trang, “Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt
Nam hiện nay” - Luận án Tiến sĩ Luật học - Viện hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam - 2016. Công trình nghiên cứu đã khái quát và phân tích những vấn
đề lý luận về trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; quy định của Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 về quyền của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt;
thực trạng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong giai đoạn hiện nay và một số
giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao nhận thức và hành động trong việc bảo vệ
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có nhóm trẻ em bị bỏ rơi. Tuy nhiên,
công trình nghiên cứu chưa thật sự đi sâu phân tích quyền và bảo vệ quyền
của nhóm trẻ em bị bỏ rơi.
- Hoàng Thị Thùy Dung, “Các quyền cơ bản của trẻ em theo pháp luật
Việt Nam hiện hành” - Luận văn Thạc sĩ Luật học - Trường Đại học Luật Hà
Nội - 2014. Luận văn đã khái quát các quyền cơ bản của trẻ em nói chung
theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. Luận văn cũng
phân tích một số khía cạnh liên quan đến quyền và bảo vệ quyền của nhóm trẻ
em bị bỏ rơi nhưng chỉ ở mức độ liên hệ, mở rộng với nhóm trẻ em nói chung.

Ngoài ra, còn có nhiều bài viết, bài nghiên cứu khoa học được đăng tải
trên các tạp chí nghiên cứu pháp luật phân tích về trẻ em, quyền của trẻ em và
công tác bảo vệ trẻ em nói chung, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói riêng trong
giai đoạn hiện nay như:
- TS. Trần Quang Tiệp, “Một số vấn đề về quyền trẻ em trong Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004” - Nhà nước và pháp luật - Số 7/2006.
- TS. Nguyễn Thị Mùi, “Định hướng giá trị của thành viên tổ chức xã
hội Việt Nam trong việc giám sát thực hiện quyền trẻ em” - Viện Tâm lý học Số 2/2016.


4
- Th.S Lã Văn Bằng, “Quyền trẻ em trong Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014” - Dân chủ và pháp luật - Số 9/2015.
- Th.S Đỗ Thị Oanh, “Bảo đảm quyền trẻ em thông qua hoạt động xây
dựng và thực thi chính sách, pháp luật ở Việt Nam” - Dân chủ và pháp luật Số 7/2016.
- Th.S Phạm Thị Hải Hà, “Thực trạng xã hội hóa công tác bảo vệ, chăm sóc
trẻ em ở Việt Nam hiện nay” - Tổ chức Nhà nước - Số 3/2016.
Như vậy, nghiên cứu riêng về quyền của trẻ em bị bỏ rơi theo pháp luật
hiện hành thì chưa có một bài viết nghiên cứu khoa học cụ thể nào. Có thể
nói, đây là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên tập trung nghiên cứu một
cách khách quan, khoa học, toàn diện về các quyền và cơ chế bảo vệ quyền
của trẻ em bị bỏ rơi.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là trẻ em bị bỏ rơi ở Việt Nam. Bao
gồm những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hiện hành về quyền của
trẻ em bị bỏ rơi và cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi. Luận văn đi sâu
phân tích quyền của trẻ em bị bỏ rơi; qua đó tác giả đề xuất một số giải pháp
nhằm bảo đảm thực thi quyền của trẻ em bị bỏ rơi trên thực tế.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn dựa trên các quy định của Luật Trẻ
em năm 2016, một số văn bản hướng dẫn khác về quyền của trẻ em bị bỏ rơi

và dựa trên thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về quyền của trẻ em
bị bỏ rơi trong những năm gần đây trên phạm vi toàn quốc.
4. Mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là góp phần làm rõ những vấn đề lý
luận về trẻ em bị bỏ rơi và các quy định của pháp luật hiện hành về quyền và
cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi. Đồng thời, nghiên cứu thực tiễn
thực hiện các quyền của trẻ em bị bỏ rơi trong những năm gần đây; qua đó,
tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về trẻ em
bị bỏ rơi và bảo đảm thực thi quyền của trẻ em bị bỏ rơi trên thực tế.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, Luận
văn đặt ra những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về trẻ em, trẻ em bị bỏ rơi, quyền của
trẻ bị bỏ rơi, bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi.


5
- Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về quyền của trẻ em bị
bỏ rơi và cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi.
- Tìm hiểu thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật hiện hành về
quyền và cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi, chỉ ra những kết quả đã
đạt được và những vướng mắc bất cập. Từ đó, tác giả đưa ra những kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nhằm đảm bảo thực thi các quyền
của trẻ em bị bỏ rơi trên thực tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã
sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê...
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn

Luận văn phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về quyền của
trẻ em bị bỏ rơi và cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi. Đây là công trình
nghiên cứu khoa học mới về quyền của trẻ em bị bỏ rơi.
Những giải pháp trình bày trong luận văn có thể tham khảo và áp dụng
trong việc hoàn thiện cơ chế pháp lý và xây dựng những giải pháp bảo đảm
những quyền cơ bản của trẻ em bị bỏ rơi trên thực tế trong thời gian tới. Luận
văn là tài liệu tham khảo có giá trị trong nghiên cứu và áp dụng pháp luật.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyền của trẻ em bị bỏ rơi và cơ chế
bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi.
Chương 2. Quyền của trẻ em bị bỏ rơi và cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em
bị bỏ rơi theo quy định của pháp luật hiện hành.
Chương 3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền của trẻ em bị
bỏ rơi và một số giải pháp đảm bảo thực hiện quyền của trẻ em bị bỏ rơi.


6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA TRẺ EM BỊ BỎ RƠI
VÀ CƠ CHẾ BẢO VỆ QUYỀN CỦA TRẺ EM BỊ BỎ RƠI
1.1. Khái niệm trẻ em, trẻ em bị bỏ rơi
1.1.1. Khái niệm trẻ em
Trẻ em luôn là đối tượng nhận được nhiều sự quan tâm từ phía gia đình
và xã hội, là thuật ngữ thường xuyên được nhắc đến trong đời sống con người
trên thực tế. Trên thế giới, trong các văn kiện pháp lý quốc tế, thuật ngữ trẻ
em được sử dụng tương đối thống nhất. Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về
Quyền trẻ em năm 1959, Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1968,
Công ước quyền trẻ em năm 1989, Công ước 138 của Tổ chức lao động quốc

tế về tuổi tối thiểu làm việc năm 1976 quy định tuổi của trẻ em là “dưới 18
tuổi”. Tuy nhiên, mỗi quốc gia trên thế giới có những quan niệm khác nhau về
trẻ em.
Dưới góc độ nghiên cứu khác nhau như sinh học, xã hội học, tâm lý học,
luật học, thuật ngữ trẻ em cũng có những cách hiểu khác nhau. Dưới góc độ
sinh học, trẻ em là bất kỳ ai trong giai đoạn phát triển của tuổi thơ ấu, giữa sơ
sinh và trưởng thành. Dưới góc độ xã hội, trẻ em là một bộ phận của cơ cấu
xã hội. Dưới góc độ tâm lý, thuật ngữ “trẻ em” được dùng để chỉ giai đoạn
đầu của sự phát triển tâm lý - nhân cách con người.
Dưới góc độ luật học, các quốc gia thường xác định trẻ em căn cứ vào
việc phân định độ tuổi. Độ tuổi là một trong các yếu tố góp phần đánh giá
từng giai đoạn phát triển thể chất, nhận thức và tâm sinh lý của con người.
Điều 1 Công ước quyền trẻ em quy định: “Trẻ em là những người dưới 18 tuổi,
trừ những trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em có quy định tuổi thành niên
thấp hơn”. Các quốc gia trên thế giới thường lấy mốc độ tuổi để làm căn cứ xác
định trẻ em, tuy nhiên cũng có những quy định khác nhau. Theo pháp luật của
Liên Bang Nga, “Trẻ em được hiểu là người chưa thành niên” (Điều 88, Điều
152 Bộ luật hình sự Liên Bang Nga)2. Tại một số quốc gia Bắc Âu như Thụy
Điển, Đan Mạch, Hà Lan... là những nước có nền kinh tế phát triển ổn định,
2

“Số chuyên đề Luật hình sự của một số nước trên thế giới” (1998), Tạp chí dân chủ và pháp luật, tr.74, tr.90.


7
chú ý nhiều hơn đến vấn đề an sinh xã hội cho con người thì có quy định lớn
hơn về độ tuổi trẻ em. Cụ thể, luật pháp các quốc gia này quy định trẻ em là
người dưới hai mươi tuổi3.
Ở Việt Nam, quy định độ tuổi trẻ em cũng khác so với pháp luật quốc tế
và các quốc gia khác. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004

quy định: “Trẻ em quy định trong luật này là những công dân Việt Nam dưới
16 tuổi”4. Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”5.
Như vậy, Luật Trẻ em năm 2016 đã có quy định mới và hướng mở rộng hơn
về khái niệm “trẻ em” so với Luật cũ trước đây. Luật không quy định giới hạn
trẻ em là “công dân Việt Nam” mà thay bằng thuật ngữ “người dưới 16 tuổi”.
Mặc dù cú pháp câu ngắn gọn hơn nhưng nội hàm của nó bao quát hơn rất
nhiều. Theo đó, trẻ em được pháp luật Việt Nam bảo vệ không phải chỉ là
công dân Việt Nam, người mang quốc tịch Việt Nam mà bất cứ người nào,
không phân biệt quốc tịch, cứ dưới 16 tuổi mà sinh sống, cư trú trên lãnh thổ
Việt Nam thì được pháp luật Việt Nam bảo vệ. Điều này đã cho thấy sự thay
đổi tiến bộ trong hệ thống pháp luật Việt Nam về trẻ em nhằm chuẩn hóa so với
Hiến pháp của Nhà nước và sự phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam
là quốc gia thành viên.
Việc xác định đối tượng nào là trẻ em có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi
trẻ em là nhóm xã hội dễ bị tổn thương do còn non nớt về thể chất, chưa đủ
nhận thức và cần được bảo vệ. Do đó, Đảng và Nhà nước thường xuyên có
những chính sách quan tâm, hỗ trợ để đảm bảo sự phát triển toàn diện của trẻ
nhỏ. Từ những dẫn chứng trên, có thể rút ra khái niệm trẻ em như sau: Trẻ em
là một nhóm người ở một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát
triển con người có những đặc điểm về sức khỏe, tâm sinh lý khác so với
những nhóm người ở độ tuổi khác và được pháp luật quy định những quyền
và nghĩa vụ nhất định.
3

Hoàng Thị Thùy Dung (2014), Các quyền cơ bản của trẻ em theo pháp luật Việt Nam hiện hành, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.5.
4
Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
5
Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016.



8
1.1.2. Khái niệm trẻ em bị bỏ rơi
Pháp luật quốc tế cũng ghi nhận trẻ em bị bỏ rơi là nhóm đối tượng cần
được quan tâm và chăm sóc đặc biệt. Theo Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc,
nhóm trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt gồm: Trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi, trẻ
em khuyết tật, trẻ em tàn tật, trẻ em làm con nuôi, trẻ em nghiện ma túy, trẻ
em bị nhiễm HIV/AIDS, trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em bị bắt cóc và bị
buôn bán. Pháp luật Việt Nam, với tư cách là một quốc gia thành viên của
Công ước Quyền trẻ em, cũng có những quy định cụ thể về trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt, trong đó có trẻ em bị bỏ rơi.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, “bỏ rơi” có nghĩa là bỏ mặc, không quan
tâm, cắt đứt quan hệ6. Theo Luật Trẻ em năm 2016 thì “bỏ rơi, bỏ mặc trẻ
em” là hành vi của cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ em7.
Hành vi bỏ rơi trẻ em có thể xuất phát từ các nguyên nhân như: Người
mẹ sinh con trong hoàn cảnh lầm lỡ, không muốn nuôi dạy trẻ; cha mẹ có
hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không đủ điều kiện chăm sóc trẻ; quan niệm
phân biệt giới, bất bình đẳng giới, ... Từ quy định của Luật Trẻ em năm 2016,
trẻ em bị bỏ rơi có thể chia làm ba nhóm:
(i) Nhóm thứ nhất, trẻ em bị bỏ rơi là nhóm trẻ em sơ sinh vừa được
sinh ra đã bị cha, mẹ “vứt bỏ”. Cha mẹ từ chối nghĩa vụ, trách nhiệm chăm
sóc, nuôi dưỡng chính con đẻ của mình, tước đoạt đi quyền sống của trẻ ngay
từ khi trẻ mới chào đời. Đây là hành vi bỏ rơi xuất phát từ chính trong suy
nghĩ, ý chí chủ quan của người vứt bỏ trẻ. Thậm chí, người vứt bỏ trẻ có thể
biết trước được hậu quả là tính mạng của đứa trẻ đó đang bị đe dọa, khả năng
sống sót là thấp nhưng vẫn nhẫn tâm thực hiện. Hành vi này bị lên án gay gắt
trong xã hội, là hành vi vi phạm đến chuẩn mực đạo đức, truyền thống dân tộc

Việt Nam và là hành vi vi phạm pháp luật. Người nào có hành vi vứt bỏ trẻ
em sơ sinh mà dẫn đến hậu quả đứa trẻ đó bị mất đi quyền sống thì sẽ bị coi là
người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự và chịu trách nhiệm hình sự về
hành vi phạm tội của mình.
6

Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Nguyễn Như Ý (Chủ biên - 1998), Đại Từ điển Tiếng Việt,
NXB Văn hóa - Thông tin, tr.174.
7

Khoản 9 Điều 4 Luật Trẻ em năm 2016.


9
(ii) Nhóm thứ hai, trẻ em bị bỏ rơi là nhóm trẻ em trong độ tuổi pháp luật
quy định bị cha, mẹ hoặc người chăm sóc từ chối nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ, khiến trẻ rơi vào hoàn cảnh không có nhà cửa, không nơi nương
tựa, không có đủ các điều kiện để thực hiện các quyền sống còn, quyền phát
triển, quyền được bảo vệ và quyền tham gia. Hành vi bỏ rơi này có thể là xuất
phát từ nguyên nhân cha, mẹ, người chăm sóc trẻ không đủ điều kiện để cho
trẻ phát triển toàn diện trong môi trường bình thường và muốn cho trẻ được
sống trong một môi trường tốt hơn, có điều kiện hơn.
(iii) Nhóm thứ ba, trẻ em bị bỏ rơi có thể hiểu là nhóm trẻ em bị bỏ rơi
trong chính ngôi nhà của mình. Điều này có nghĩa là, trẻ em vẫn được sống
trong môi trường gia đình, thậm chí sống cùng với cha mẹ nhưng bị cha mẹ
không quan tâm, không chăm sóc và có hành vi bỏ mặc. Nhóm trẻ này có thể
được trang bị đầy đủ về mặt vật chất, được đảm bảo các nhu cầu thiết yếu
sinh hoạt nhưng bị cha mẹ thờ ơ, lạnh nhạt; hoặc cũng có thể có trường hợp,
trẻ sống có cha, có mẹ nhưng không được chăm sóc đầy đủ về vật chất lẫn
tinh thần. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển toàn diện của

trẻ, ảnh hưởng đến nhân cách của trẻ.
Trong phần giải thích từ ngữ của Luật Trẻ em năm 2016, Luật không
phân biệt rõ ràng giữa hành vi bỏ rơi trẻ em và hành vi bỏ mặc trẻ em mà chỉ
quy định chung bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em được hiểu như thế nào. Theo quan điểm
của tác giả, quy định này khiến cho người đọc luật khó xác định được hành vi
nào là hành vi bỏ rơi trẻ em một cách chính xác. Do vậy, Luật cần có quy
định cụ thể thế nào là hành vi bỏ rơi trẻ em, thế nào là hành vi bỏ mặc trẻ em.
Dưới góc độ nghiên cứu của mình, tác giả cho rằng “bỏ mặc” trẻ em được
hiểu là hành vi cha mẹ không quan tâm, thờ ơ, lạnh nhạt, trốn tránh nghĩa vụ
chăm sóc, nuôi dưỡng con cái. Trẻ vẫn được sống tại gia đình, sống cùng với
cha mẹ nhưng cha mẹ thực hiện không đầy đủ trách nhiệm của mình đối với
trẻ. “Bỏ rơi” trẻ em được hiểu là hành vi cha mẹ từ bỏ nghĩa vụ chăm sóc con
cái, không quan tâm đến sự sống còn của trẻ, không thực hiện trách nhiệm của
người làm cha mẹ. Tong trường hợp này, đứa trẻ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt
không nơi nương tựa, không đủ điều kiện để thực hiện các quyền của mình.


10
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm trẻ em bị bỏ rơi như sau: Trẻ
em bị bỏ rơi là nhóm người ở một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của
sự phát triển con người; bị cha, mẹ, người chăm sóc từ bỏ, không nuôi dưỡng
chăm sóc, khiến cho trẻ không đủ điều kiện để thực hiện các quyền cơ bản
theo quy định pháp luật; cần có sự hỗ trợ, can thiệp đặc biệt của Nhà nước,
gia đình và xã hội để được an toàn, hòa nhập gia đình, cộng đồng.
1.2. Quyền của trẻ em bị bỏ rơi
“Quyền” là khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà
pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó,
cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn
chế8. Quyền phải được ghi nhận về mặt pháp lý, được bảo đảm thực hiện bởi
quy định của pháp luật; đồng thời, quyền phải được thừa nhận về mặt xã hội,

gắn liền với chủ thể cá nhân, được thể hiện cụ thể hóa trong thực tiễn đời sống
thông qua các quan hệ xã hội của cá nhân đó. Các quyền cơ bản của cá nhân
nói chung, trẻ em nói riêng, trong đó có trẻ bị bỏ rơi phát sinh khi cá nhân đó
sinh ra và có những quyền cụ thể khác phát sinh và được ghi nhận khi cá nhân
phát triển đến một giai đoạn nhất định và tham gia vào các quan hệ xã hội
nhất định. Quyền của cá nhân chỉ bị tước bỏ bởi pháp luật và chấm dứt khi
người đó chết. Việc ghi nhận quyền của trẻ em bị bỏ rơi là yếu tố quan trọng
quyết định sự tồn tại của đứa trẻ đó. Do đó, tôn trọng các quyền của trẻ bị bỏ
rơi là nguyên tắc quan trọng của hoạt động tư pháp và là nội dung quan trọng
của quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Nghiên cứu quyền của trẻ em bị bỏ rơi phải trên cơ sở quyền con người.
Quyền con người theo nghĩa chung là quyền của mọi cá nhân, mang tính phổ
quát và không thể chuyển nhượng có nghĩa là chúng được áp dụng ở khắp nơi
và không thể lấy đi9.
8

Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách Khoa và NXB Tư pháp,
Hà Nội, tr.648.
9
“Tìm hiểu về quyền con người”(2008), NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.12, trích trong tài liệu: “Nguyễn Thị Hải
(2011), Bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật
học, Trường Đại học luật Hà Nội, tr.6.”


11
Như vậy, quyền con người là những quyền tự nhiên của con người, tồn tại
một cách khách quan và ngay từ khi sinh ra, con người đã được hưởng những
quyền này. Theo nghĩa hẹp hơn, quyền con người thường gắn với một loại
chủ thể nhất định, những chủ thể này có thể được phân biệt theo giới tính
hoặc lứa tuổi. Quyền con người là các quyền của tất cả cá nhân, cho dù họ có

quyền công dân của một nước cụ thể nào hay không10.
Để hiểu quyền trẻ em bị bỏ rơi là gì, chúng ta cũng cần nắm bắt được
khái niệm “quyền trẻ em” được hiểu như thế nào? Khái niệm “quyền trẻ em”
được chính thức đề cập đến trong Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ về Quyền trẻ em
được Hội Quốc liên thông qua năm 1924. Điều 25 Tuyên ngôn quốc tế Nhân
quyền ghi nhận: “... Trẻ em được đảm bảo sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt”.
Tuyên ngôn về Quyền trẻ em tiếp tục khẳng định: “Loài người phải dành
riêng cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất mà mình có”. Công ước quyền trẻ em
mà Việt Nam là quốc gia ký kết thành viên đã có một bước tiến mới trong hệ
thống pháp luật quốc tế trong việc ghi nhận quyền trẻ em và cơ chế bảo vệ
quyền trẻ em. Công ước đã ghi nhận tập hợp các quyền trẻ em trên tất cả các
lĩnh vực mà các văn kiện pháp lý quốc tế trước đó chưa đề cập đến. Đó là các
quyền mà trẻ em được phát triển toàn diện cả về thể chất, tinh thần, trí tuệ,
tình cảm, đạo đức; là cơ chế quốc tế để giám sát việc thực hiện các quyền trẻ
em trên thế giới. Từ đó, có thể hiểu, quyền trẻ em là những lợi ích của trẻ em
được pháp luật bảo hộ và được bảo đảm thực hiện, bao gồm quyền được sống
và đáp ứng các nhu cầu để tồn tại, quyền được bảo vệ, quyền được phát triển
và tham gia.
Theo Công ước quyền trẻ em, quyền của trẻ em nói chung được chia làm
bốn nhóm quyền cơ bản sau:
- Quyền được sống còn: bao gồm quyền của trẻ em được sống cuộc sống
bình thường và được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát
triển thể chất. Đó là mức sống đủ, có nơi ở, ăn uống đủ chất, được chăm sóc
sức khoẻ. Nhóm quyền được sống còn bao gồm: Quyền được sống; quyền có
họ tên, quốc tịch; Quyền được biết cha mẹ và được cha mẹ chăm sóc; quyền
được bảo đảm đến mức tối đa có thể được để sống và phát triển.
10

“Tìm hiểu về quyền con người”(2008), NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.12, trích trong tài liệu: “Nguyễn Thị Hải
(2011), Bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật

học, Trường Đại học luật Hà Nội, tr.6.”


12
- Quyền được phát triển: gồm những điều kiện để trẻ em có thể phát triển
đầy đủ nhất về cả tinh thần và đạo đức, bao gồm việc học tập, vui chơi, tham
gia các hoạt động văn hoá, tiếp nhận thông tin, tự do tư tưởng, tự do tín
ngưỡng và tôn giáo. Trẻ em cần có sự yêu thương và cảm thông của cha mẹ
để có thể phát triển hài hoà.
- Quyền được bảo vệ: bao gồm những quy định như trẻ em phải được
bảo vệ chống tất cả các hình thức bóc lột lao động, bóc lột và xâm hại tình
dục, lạm dụng ma tuý, xao nhãng và bị bỏ rơi, bị bắt cóc và buôn bán. Trẻ em
còn được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô cớ vào thư tín và sự riêng tư.
- Quyền được tham gia: là nhóm quyền tạo mọi điều kiện cho trẻ em
được tự do bày tỏ quan điểm và ý kiến về những vấn đề có liên quan đến cuộc
sống của mình. Trẻ em còn có quyền kết bạn, giao lưu và hội họp, được tạo
điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin và chọn lựa thông tin phù hợp.
Trẻ em bị bỏ rơi - một trong trường hợp có hoàn cảnh đặc biệt của trẻ
em; do vậy, trẻ bị bỏ rơi cũng được hưởng các quyền như một đứa trẻ bình
thường, được hưởng những quyền tự nhiên, ngay từ lúc sinh ra đã có. Đó là
những quyền mà không ai có thể chối bỏ, tước đoạt. Công ước quyền trẻ em
cũng ghi nhận việc bảo vệ quyền của nhóm trẻ em đặc biệt (tàn tật, lang
thang, cơ nhỡ...), trong đó có trẻ em bị bỏ rơi; đồng thời còn quy định những
biện pháp nhằm xóa bỏ nguy cơ đe dọa sự sống và sự phát triển lành mạnh, an
toàn của trẻ nhỏ. Ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em
bị bỏ rơi sẽ đáp ứng được những nhu cầu, lợi ích cần thiết cho trẻ em bị bỏ
rơi. Từ đó, trẻ em bị bỏ rơi được sống trong môi trường phát triển đầy đủ,
toàn diện, an toàn và lành mạnh. Trên cơ sở cam kết quốc tế, Việt Nam cũng
đã có những quy định ghi nhận quyền của trẻ em bị bỏ rơi. Ngoài ra, Nhà
nước cần phải có biện pháp để ngày càng mở rộng các quyền của trẻ em, trẻ

em bị bỏ rơi. Tuy nhiên, trên thực tế, ở những trường hợp trẻ em bị bỏ rơi
khác nhau và mức độ can thiệp của Nhà nước, cộng đồng, xã hội đối với
trường hợp này là khác nhau mà trẻ em bị bỏ rơi chỉ được hưởng những
quyền nhất định. Thậm chí, cùng là trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, nhưng trẻ em
bị bỏ rơi sống ở những môi trường khác nhau thì mức độ hưởng quyền của trẻ
cũng là khác nhau.


13
Như vậy, khái niệm quyền trẻ em bị bỏ rơi được hiểu là các quy định
pháp luật dành cho một nhóm đối tượng xác định là trẻ bị bỏ rơi, được tự
mình thực hiện hoặc người khác phải thực hiện những hành động nào đó
nhằm đảm bảo cho trẻ được hưởng những lợi ích vật chất và tinh thần, được
phát triển toàn diện, lành mạnh và an toàn.
1.3. Cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi
Trẻ em là tương lai của nhân loại, của thế giới, của mỗi dân tộc, mỗi
cộng đồng, mỗi họ tộc và của mỗi gia đình. Chính vì vậy, nâng cao trách
nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và bảo vệ các quyền của trẻ em là
trách nhiệm của toàn xã hội11.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, “cơ chế” có nghĩa là cách thức sắp xếp, tổ
chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện12. “Bảo vệ” có nghĩa là
giữ gìn, chống sự xâm phạm để khỏi bị hư hỏng, mất mát13. Qua đó, có thể
hiểu, cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi là tổng thể các yếu tố có quan
hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau tạo thành những phương thức, cách thức vận
hành, biện pháp để bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi, nhằm bảo đảm trẻ em
bị bỏ rơi được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh và có điều kiện phát
triển toàn diện như những đứa trẻ bình thường khác. Cơ chế bảo vệ quyền của
trẻ em bị bỏ rơi bao gồm các yếu tố: thể chế và phương thức, cách thức thực
hiện. Thể chế là hệ thống các quy định pháp luật, hành lang pháp lý ghi nhận
quyền của trẻ em bị bỏ rơi. Phương thức, cách thức là những biện pháp, hành

động thực hiện trên thực tế nhằm bảo đảm quyền của trẻ em bị bỏ rơi.
Hiểu theo nghĩa thông thường, bảo vệ quyền trẻ em bị bỏ rơi là việc đảm
bảo cho nhóm đối tượng đó không bị phân biệt đối xử, không bị xâm phạm
đến sức khỏe, không bị xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, không bị buôn
bán ra nước ngoài, không bị xâm hại tình dục, không bị bóc lột sức lao động...
11

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường (2012), Pháp luật về quyền trẻ em và thực tiễn thực hiện tại Việt
Nam, Trường Đại học luật Hà Nội, tr.62.
12
Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Nguyễn Như Ý (Chủ biên - 1998), Đại Từ điển Tiếng Việt,
NXB Văn hóa - Thông tin, tr.464.
13
Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Nguyễn Như Ý (Chủ biên - 1998), Đại Từ điển Tiếng Việt,
NXB Văn hóa - Thông tin, tr.464.


14
Liên minh các tổ chức cứu trợ trẻ em trên thế giới có đề cập đến vấn đề bảo
vệ trẻ em và nhận định rằng, bảo vệ trẻ em là xây dựng hệ thống và cơ chế
hoạt động hiệu quả để phòng ngừa, can thiệp và giải quyết tình trạng xâm hại,
xao nhãng, bóc lột và bạo lực đối với trẻ em14. Xâm hại là những hành động
cố ý gây hại hoặc có thể đe dọa gây thiệt hại đối với sự an toàn, phát triển và
nhân phẩm của trẻ em. Xao nhãng là việc không cung cấp những thứ cần thiết
trong đời sống vật chất cũng như tinh thần; hoặc không đảm bảo sự an toàn và
phát triển về thể chất cho một đứa trẻ, thiếu sự quan tâm, chăm sóc trẻ. Bóc
lột trẻ em có nghĩa là sử dụng, tận dụng hoặc khai thác trẻ để kiếm lời làm
tăng thu nhập cho người khác và dẫn đến tình trạng bị đối xử thô bạo, ác độc
và nguy hiểm cho trẻ. Bạo lực trẻ em, gồm 3 hình thức. Bạo lực tự thân tức là
việc tự tử, tự gây hại cho bản thân. Bạo lực đôi bên tức là tất cả các hình thức

xâm hại, bóc lột và xao nhãng về thể chất, tinh thần, tình dục thông qua bạo
lực khác biệt về giới tính. Bạo lực tập thể là do tổ chức, tập thể gây ra do sự
lạm quyền hoặc sử dụng quá đáng quyền hạn được pháp luật cho phép.
Muốn xây dựng hệ thống và cơ chế hoạt động hiệu quả nhằm bảo vệ
quyền trẻ em bị bỏ rơi thì trước tiên, ta phải xác định được nguyên tắc khi
thực hiện các quyền của trẻ em trên thực tế. Công ước quyền trẻ em bao gồm
54 điều khoản, trong đó nêu bật bốn nguyên tắc cơ bản về quyền trẻ em xuyên
suốt toàn bộ Công ước, bao gồm:
(i) Không phân biệt đối xử trong việc đảm bảo thực hiện tất cả các quyền
trẻ em;
(ii) Trẻ em có quyền xác lập, thể hiện ý kiến riêng của mình và quyền đó
phải được tôn trọng;
(iii) Dành những lợi ích đẹp nhất cho trẻ em;
(iv) Những điều khoản trong Luật quốc gia hoặc quốc tế có lợi hơn đối
với trẻ em so với những điều khoản trong Công ước sẽ được áp dụng.
Nguyên tắc là những quan điểm chỉ đạo, xuyên suốt trong quá trình thực
hiện một vấn đề gì đó, điều chỉnh các quan hệ pháp luật hay những điều cam
kết, thỏa thuận giữa các thành viên. Vì vậy, mọi quốc gia thành viên trong
việc bảo vệ quyền trẻ em, trẻ em bị bỏ rơi, phải cam kết thực hiện đúng các
nguyên tắc này, trong đó có quốc gia Việt Nam.
14

Hoàng Thị Thùy Dung, tlđd chú thích 3, tr.13-14.


15
Điều 4 Công ước quyền trẻ em quy định: “Các quốc gia thành viên phải
thi hành tất cả các biện pháp lập pháp, hành chính và các biện pháp thích hợp
khác để thực hiện những quyền được thừa nhận trong Công ước này. Về
những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, các quốc gia thành viên phải thi hành

những biện pháp như vậy ở mức tối đa các nguồn lực sẵn có của mình và khi
cần thiết trong phạm vi khuôn khổ hợp tác quốc tế”. Như vậy, có thể khẳng
định, ngoài việc ghi nhận và tôn trọng quyền trẻ em thì việc xây dựng các
thiết chế, các biện pháp nhằm bảo vệ trẻ em, bảo đảm cho trẻ em được sống
trong môi trường an toàn, lành mạnh là điều vô cùng cần thiết. Việt Nam là
quốc gia sớm phê chuẩn Công ước quyền trẻ em và đó là cơ sở pháp lý để
Việt Nam nội luật hóa, ghi nhận các quyền trẻ em nói chung cũng như quyền
trẻ em bị bỏ rơi nói riêng; đồng thời Việt Nam cũng có những cơ chế, biện
pháp bảo vệ quyền trẻ em bị bỏ rơi.
Điều 36 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và
gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em”. Hiến pháp là sự cam kết
của Nhà nước Việt Nam trong thực thi Công ước quyền trẻ em, là cơ sở quan
trọng để hình thành hệ thống pháp luật về quyền trẻ em, trong đó có trẻ em bị
bỏ rơi.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những quy định liên quan đến việc tôn
trọng và bảo vệ quyền con người như: Quyền được khai sinh (Điều 30);
Quyền có quốc tịch (Điều 31); Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về
tính mạng, sức khỏe, thân thể (Điều 33); Quyền được bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, uy tín (Điều 34)...
Bộ luật Hình sự năm năm 2015 cũng có quy định rất nghiêm khắc đối
với các hành vi xâm hại đến trẻ em và quyền trẻ em. Bộ luật hình sự quy định
nghiêm cấm việc vứt bỏ hoặc giết hại trẻ em mới đẻ. Chính việc “vứt bỏ” đó
dẫn đến tình trạng trẻ bị bỏ rơi, bị xâm hại đến quyền sống, quyền được chăm
sóc sức khỏe... Do vậy, những người có hành vi vi phạm này sẽ phải chịu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã
có những quy định nhằm đảm bảo cho trẻ bị bỏ rơi được sống, được chăm sóc
và được thực hiện các quyền cơ bản của mình. Đó là các quy định về trách
nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ đối với con cái, quy định về nhận nuôi
con nuôi đối với trường hợp trẻ em bị bỏ rơi...



16
Luật Trẻ em năm 2016 thay thế Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em năm 2004, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 6 năm 2017. Luật Trẻ em năm
2016 gồm 7 chương với 106 Điều, trong đó Luật này đã dành riêng một
chương (Chương II) để quy định quyền và bổn phận của trẻ em (từ Điều 12
đến Điều 41). Theo đó, Luật Trẻ em tiếp tục kế thừa và mở rộng ghi nhận 25
nhóm quyền của trẻ em như: như quyền sống; quyền bí mật đời sống riêng tư;
quyền được sống chung với cha, mẹ; quyền được chăm sóc thay thế và nhận
làm con nuôi; quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục, không bị bóc
lột sức lao động, không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc, không bị mua, bán, bắt
cóc, đánh tráo, chiếm đoạt; quyền được đảm bảo an sinh xã hội; quyền được
tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội;... Về cơ chế bảo vệ trẻ, Luật
Trẻ em quy định cụ thể các nội dung về các cấp độ bảo vệ trẻ em (phòng
ngừa, hỗ trợ, can thiệp) và trách nhiệm thực hiện; cơ sở cung cấp dịch vụ bảo
vệ trẻ em; chăm sóc thay thế; các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố
tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng. Các biện
pháp phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp được quy định cụ thể, cùng với trách
nhiệm thực hiện của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc bảo vệ
trẻ em. Như vậy, có thể khẳng định rằng, Luật Trẻ em năm 2016 đã ghi nhận
các quyền cơ bản của trẻ em bị bỏ rơi và các thiết chế pháp luật, các biện
pháp Nhà nước sử dụng để bảo đảm quyền của trẻ em bị bỏ rơi trên thực tế.
Các quy định trong các văn bản pháp lý này không chỉ là ghi nhận các
quyền của trẻ, mà còn đưa ra những biện pháp nhằm đảm bảo thực hiện các
quyền của trẻ trên thực tế. Bảo vệ trẻ em bị bỏ rơi với mục tiêu hướng tới
nhằm đảm bảo để trẻ có điều kiện được chăm sóc và giáo dục tốt. Hiện nay,
khi xảy ra tình trạng trẻ em bị bỏ rơi, đứa trẻ đó sẽ được nhận chăm sóc thay
thế. Chăm sóc thay thế là việc tổ chức, gia đình, cá nhân nhận trẻ em về chăm
sóc, nuôi dưỡng khi trẻ em không còn cha mẹ; trẻ em không được hoặc không

thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ; trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa,
xung đột vũ trang nhằm bảo đảm sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em15.
Luật Trẻ em năm 2016 quy định các hình thức chăm sóc thay thế trẻ như sau:
15

Khoản 3 Điều 4 Luật Trẻ em năm 2016.


17
(i) Hình thức thứ nhất, chăm sóc thay thế bởi người thân thích. Đây là
hình thức nhằm tìm kiếm gia đình, người thân, cội nguồn của trẻ bị bỏ rơi.
Mặc dù bị cha mẻ đẻ của mình từ bỏ trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng
nhưng đứa trẻ bị bỏ rơi vẫn có quyền được sống trong tình yêu thương của
những người có cùng huyết thống. Khi đó, trẻ sẽ được sống với gia đình của
mình, được phát triển một cách tự nhiên và toàn diện nhất.
(ii) Hình thức thứ hai, chăm sóc thay thế bởi cá nhân, gia đình không
phải là người thân thích. Đây là những trường hợp mà các cá nhân, gia đình
tạm thời nhận nuôi dưỡng trẻ từ thời gian phát hiện trẻ em bị bỏ rơi đến khi
tìm kiếm cha mẹ đẻ của trẻ hoặc đến khi trẻ được nhận chăm sóc thay thế
bằng các hình thức khác. Hình thức này sẽ được thực hiện có hiệu quả khi
nhận được sự đồng cảm, quan tâm của mỗi công dân trong xã hội khi phát
hiện có trường hợp trẻ em bị bỏ rơi. Trong trường hợp này, trẻ sẽ được bảo vệ
và phát triển, hưởng các quyền như những đứa trẻ bình thường khác.
(iii) Hình thức thứ ba, chăm sóc thay thế bằng hình thức nhận con nuôi.
Đây là hình thức chăm sóc trẻ em tốt nhất vì việc thiết lập mối quan hệ giữa
cha mẹ nuôi và con nuôi mang lại cho trẻ em những lợi ích toàn diện, ổn định;
tạo sự thân thuộc và điều kiện phát triển bình thường nhất. Trẻ được sống
trong môi trường gia đình theo đúng nghĩa của nó, có cha mẹ quan tâm, thậm
chí là có anh chị em chia sẻ. Trẻ sẽ được hình thành những thói quen ứng xử
phù hợp, những chuẩn mực thông thường và phát triển nhân cách.

(iv) Hình thức thứ tư, chăm sóc thay thế tại cơ sở trợ giúp xã hội. Trẻ
được chăm sóc, nuôi dưỡng tại các trung tâm nuôi dưỡng hoặc các cơ sở trợ
giúp trẻ em công lập, ngoài công lập. Đây là hình thức chăm sóc, nuôi dưỡng
trẻ em mang tính tập thể, có quy mô lớn và cũng là một hình thức khá phổ
biến. Gần đây, các cơ quan cơ sở trợ giúp trẻ em ngoài công lập cũng được
thành lập, tạo điều kiện tốt hơn để tăng số lượng trẻ em bị bỏ rơi được tiếp
nhận vào các cơ sở nuôi dưỡng. Trẻ được nuôi dưỡng, chăm sóc tại các cơ sở
nuôi dưỡng được Nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ kinh phí chăm sóc trẻ.


18
Nhà nước đã đề ra rất nhiều chính sách, chương trình, kế hoạch và xây
dựng hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ để thực thi các quyền cơ bản của
trẻ em; góp phần thực hiện tốt sự nghiệp “trồng người”, xây dựng thế hệ
tương lai của đất nước. Đồng thời, thông qua các hình thức, biện pháp, cơ chế
đó, Việt Nam đã thực hiện đầy đủ theo các nguyên tắc của Công ước về
quyền trẻ em.
Như vậy, khái niệm cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi có thể hiểu
là hệ thống các biện pháp, cách thức, cơ chế hoạt động được pháp luật quy
định để ngăn chặn, phòng ngừa, giải quyết những vấn đề liên quan đến trẻ bị
bỏ rơi nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của trẻ bị bỏ rơi được thực hiện,
được bảo vệ trong môi trường an toàn và được phát triển.
1.4. Ý nghĩa của cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi
Xây dựng cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em bị bỏ rơi đảm bảo ý nghĩa là
giảm thiểu tình trạng của trẻ em bị bỏ rơi; đồng thời, nâng cao trách nhiệm
của cá nhân, gia đình và xã hội trong việc bảo vệ trẻ em. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ trẻ em bị bỏ rơi ngày càng gia tăng trong thời gian
qua là nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn của các bậc cha mẹ, đặc biệt là bậc
cha mẹ trẻ tuổi về việc đảm bảo quyền của trẻ em và hậu quả của hành vi bỏ
rơi trẻ em. Chính vì vậy, giáo dục ý thức pháp luật cho mọi người tôn trọng

quyền của trẻ em bị bỏ rơi sẽ góp phần giảm tỷ lệ trẻ em bị bỏ rơi, hạn chế
được những trường hợp đáng tiếc xảy ra, ảnh hưởng nghiêm trọng đến những
quyền cơ bản của trẻ em bị bỏ rơi.
Bảo vệ quyền trẻ em bị bỏ rơi có tác dụng kịp thời ngăn chặn các hành vi
trái pháp luật xâm phạm nhằm bảo đảm trật tự pháp lý xã hội. Xét về mặt văn
hóa và truyền thống, trẻ em được coi là niềm hạnh phúc của gia đình và là
tương lai của đất nước. Chính vì vậy, đảm bảo cho trẻ có một gia đình, một
mái ấm, một tình thương là điều quý trọng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trong
giai đoạn hiện nay, trẻ em bị bỏ rơi không phải là số lượng nhỏ, mà có thể nói
là vấn đề nhức nhối trong xã hội Việt Nam. Những đứa trẻ, non nớt về mặt
thể chất và trí tuệ, chưa thể bảo vệ mình; lại rơi vào hoàn cảnh đặc biệt,


19
thiếu thốn về điều kiện sinh tồn, điều kiện phát triển; do vậy, Nhà nước và xã
hội phải là chủ thể quan tâm đặc biệt tới những đối tượng ấy. Cần có những
quy định của pháp luật về quyền của trẻ em bị bỏ rơi, nghĩa vụ của cha mẹ,
gia đình, xã hội để trẻ được bảo vệ và phát triển. Từ đó, các quy định pháp
luật bảo vệ quyền trẻ em bị bỏ rơi là cơ sở để bảo đảm quyền công dân, quyền
con người trong phạm vi quốc gia.
Bảo vệ quyền trẻ em bị bỏ rơi có ý nghĩa cho việc thay đổi cơ bản số
phận của đứa trẻ; phát triển mọi tiềm năng của đứa trẻ. Theo quy định của
pháp luật Việt Nam, đối với trẻ bị bỏ rơi thì Nhà nước có quy định trẻ sẽ có
quyền được nhận nuôi con nuôi, được sống trong gia đình chăm sóc thay thế
hoặc được sống tại cơ sở nuôi dưỡng. Như vậy, nếu được sống trong gia đình
chăm sóc thay thế, đứa trẻ sẽ được sống trong môi trường gia đình an toàn,
lành mạnh, thuận lợi để phát triển hài hòa về thể chất, nhân cách và tinh thần
với sự yêu thương, che chở trong một gia đình theo đúng nghĩa của nó. Điều
này cũng thể hiện mục đích nhân đạo cao đẹp, đáp ứng nhu cầu tình cảm của
con người mặc dù không cùng chung huyết thống. Thêm vào đó, khi đảm bảo

cho trẻ bị bỏ rơi có một mái ấm gia đình, được quyền chăm sóc sức khỏe,
được học tập, được vui chơi giải trí, tham gia các hoạt động thể dục thể thao,
văn hóa, nghệ thuật; từ đó, trẻ có nhiều cơ hội thuận lợi hơn để phát triển
năng lực, năng khiếu của bản thân mình. Đặc biệt, tạo điều kiện cho trẻ bị bỏ
rơi được có cha mẹ, được quan tâm, chăm sóc, được sống trong môi trường an
toàn, lành mạnh sẽ giúp hạn chế, khắc phục được tình trạng trẻ tiếp tục bị bỏ
rơi, bị xao nhãng, bị bóc lột sức lao động, bị xâm hại tình dục, bị buôn bán, bị
bạo lực hay tự kiếm sống trong môi trường với nhiều mối nguy hại khi còn
quá nhỏ tuổi. Ngoài ra, có cơ chế bảo vệ trẻ bị bỏ rơi sẽ làm hạn chế được
nguy cơ trẻ bị sa ngã vào các tệ nạn xã hội, trước những nguy cơ có khả năng
phạm tội. Bởi nếu trẻ bị bỏ rơi không có gia đình, không có nơi nuôi dưỡng
chăm sóc, không có người giáo dục thì những đứa trẻ ấy sẽ dễ đi đến việc
lang thang, học đòi thói xấu và bị ảnh hưởng bởi những tác động xấu, mặt trái
của xã hội.


×