Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TIẾN ĐẠI

ĐỀ TÀI
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
KHI KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
: 60380104

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

HÀ NỘI - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác, Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn


này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Tiến Đại


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

KSV

Kiểm sát viên

THQCT

Thực hành quyền công tố

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS


Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VAHS

Vụ án hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
SỐ BẢNG
Bảng 3.1

TÊN BẢNG

TRANG

Bảng số liệu thống kê, đánh giá tình hình kiểm sát thủ

60

tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố
Hà Nội so sánh với số liệu cả nước (từ ngày 01/12/2011
đến ngày 30/11/2016)
Bảng 3.2

Bảng thống kê, đánh giá tỉ lệ số vụ án Viện kiểm sát


62

nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội tiến hành kiểm sát
phiên tòa xét xử sơ thẩm so với số vụ án kiểm sát theo thủ
tục xét xử sơ thẩm (từ ngày 01/12/2011 đến ngày
30/11/2016)
Bảng 3.3

Bảng thống kê tỉ lệ số phiên tòa xét xử lưu động và số
phiên tòa xét xử rút kinh nghiệm vụ án hình sự trên địa
bàn thành phố Hà Nội so với cả nước (từ ngày
01/12/2011 đến ngày 30/11/2016)

64

Bảng 3.4

Bảng số liệu thống kê, đánh giá kiến nghị của Viện kiểm
sát nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (từ ngày 01/12/2011 đến
ngày 30/11/2016)

65

Bảng 3.5

Bảng số liệu thống kê, đánh giá kháng nghị phúc thẩm
của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (từ ngày
01/12/2011 đến ngày 30/11/2016)


66

Bảng 3.6

Bảng số liệu thống kê tỉ lệ số vụ án Viện kiểm sát nhân
dân cấp trên rút kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm
sát nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội (từ ngày
01/12/2011 đến hết ngày 30/11/2016)

70


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................. .1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN
HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT KHI KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ ...................................................................................... .8
1.1. Khái niệm, đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát khi
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ...................................................................................... 8
1.2. Cơ sở quy đinh và ý nghĩa của việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ................................................. 21
Kết luận chƣơng 1 ............................................................................. 27
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT KHI
KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................ 28
2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự .................................................................................................... 28
2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự .................................................................................................... 39

2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát các hoạt động sau
khi kết thúc phiên tòa ................................................................................................ 45
2.4. Đánh giá quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ..................... 47
Kết luận chƣơng 2 ............................................................................. 53
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT KHI KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ ................................................................................................. 54
3.1. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội ............................................................. 56
3.2. Một số kiến nghị bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ................................................................ 79
Kết luận chƣơng 3 ............................................................................. 88
KẾT LUẬN ........................................................................................ 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm hệ thống các cơ
quan Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở “…quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 2 Điều 3 Hiến pháp
năm 2013).
Trong bộ máy Nhà nước ta, VKSND cũng như các cơ quan tư pháp khác giữ
vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, duy trì trật tự pháp
luật, bảo đảm sự ổn định của xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ đó, pháp luật quy định

cho VKS có những các chức năng cụ thể. Theo đó, VKSND thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp (khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013) và theo
tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Ban chấp hành trung ương
Đảng về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định: “Trước mắt, Viện
kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã
xác định: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp”. Để đáp ứng những yêu cầu của cải
cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, việc đổi mới về tổ chức và hoạt động của
VKS là một yêu cầu tất yếu khách quan.
Thực tiễn kiểm sát xét xử VAHS cho thấy, cùng với những vấn đề lý luận về
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự chưa có
sự thống nhất trong nhận thức thì một số quy định của pháp luật TTHS về vấn đề
này cũng còn nhiều nội dung cần được làm rõ.
Bên cạnh việc thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn THQCT trong tố tụng hình
sự, VKS đã tăng cường nhiều biện pháp để thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ, quyền
hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS nói chung và trong xét xử sơ
thẩm VAHS nói riêng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
VKS đã phát hiện nhiều vi phạm của Tòa án trong hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS


2

để ban hành kiến nghị, kháng nghị nhằm bảo đảm pháp chế trong hoạt động xét xử
sơ thẩm VAHS, góp bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.
Với đặc thù là thủ đô của cả nước, địa bàn rộng và số lượng VAHS được đưa
ra xét xử sơ thẩm lớn, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn thành phố Hà Nội
đã đạt được nhiều thành tích nổi bật. Nhiều vi phạm pháp luật trong giai đoạn xét

xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn thành phố Hà Nội đã được VKS kịp thời phát hiện,
xử lý. Tuy nhiên, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát tuân
theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng
và trên toàn quốc nói chung còn gặp một số hạn chế, vướng mắc, dẫn đến chất
lượng của công tác này chưa cao. Bởi vậy, việc nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn thành phố Hà Nội mang
tính cấp thiết, nhằm tìm ra nguyên nhân của những hạn chế và đưa ra các giải pháp
khắc phục, không chỉ đối với công tác này trên địa bàn thành phố Hà Nội mà còn
đối với các địa phương khác trên toàn quốc.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố
Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có nhiều bài viết trên các báo, tạp chí, sách, các công trình
nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử sơ thẩm
VAHS như:
- Trịnh Duy Tám (2006), Bàn về vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự, Tạp chí Nghề Luật, số 4. Bài viết nêu rõ, trong phiên tòa xét
xử sơ thẩm VAHS, Kiểm sát viên thực hiện hai chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử vụ án hình sự. Đây là quyền đồng
thời là nghĩa vụ của Kiểm sát viên.1
- Nguyễn Tiến Sơn (2009), Phân biệt thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự, Tạp chí kiểm sát, số 09, tháng 5/2009. Bài

1

Trịnh Duy Tám (2006), Bàn về vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tạp chí
Nghề Luật, (4).



3

viết đã phân tích một số dấu hiệu cơ bản phân biệt THQCT và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự. Từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của
pháp luật nhằm phân biệt rõ hơn nữa hai chức năng này của Viện kiểm sát.2
- Phạm Văn An (2011), Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
hình sự tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí kiểm sát, số 7, tháng
4/2011. Bài viết đã chỉ ra được một số hạn chế trong công tác THQCT và kiểm sát
xét xử hình sự tại phiên toà theo yêu cầu cải cách tư pháp, từ đó chỉ ra nguyên nhân
dẫn đến tồn tại và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác này của VKS
theo yêu cầu cải cách tư pháp3.
- Viện khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Sổ tay
Kiểm sát viên hình sự, Nxb. Văn hoá dân tộc, tập 1. Cuốn sách đã phân tích, làm rõ
nhiệm vụ, quyền hạn của KSV khi THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong
TTHS nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS nói riêng theo quy định
của pháp luật TTHS hiện hành4.
- Nguyễn Hoà Bình (chủ biên, 2016), Những nội dung mới trong Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia. Cuốn sách chuyên khảo này bao
gồm nhiều bài viết của các nhà luật học, đi sâu phân tích những điểm mới của
BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003 về thủ tục tố tụng hình sự. Đặc biệt,
trong cuốn sách chuyên khảo này đã có những bài viết tập trung phân tích, làm rõ
những điểm mới của BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003 về nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự5.
- Mai Văn Thùy (2011), Chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự,
Luận văn thạc sĩ. Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số lý luận về chức năng,
nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tổng kết, phân
tích, đánh giá, nhận xét thực tiễn thực hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các VAHS của VKSND thành phố Hải Phòng
2


Nguyễn Tiến Sơn (2009), Phân biệt thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố
tụng hình sự, Tạp chí kiểm sát, (09).
3
Phạm Văn An (2011), Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự tại phiên tòa theo yêu
cầu cải cách tư pháp, Tạp chí kiểm sát, (7).
4
Viện khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Sổ tay Kiểm sát viên hình sự, Nxb. Văn
hoá dân tộc, tập 1.
5
Nguyễn Hoà Bình (chủ biên, 2016), Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb.
Chính trị quốc gia.


4

từ năm 2004 - 2011. Đề xuất các phương hướng, xây dựng các giải pháp để khắc
phục những hạn chế của VKS trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình để nâng cao chất lượng của hoạt động này trong thời gian tới đồng thời cũng
nhằm nâng cao vị thế của ngành Kiểm sát trong hoạt động bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền và tự do của công dân6.
- Lê Thắng (2012), Vị trí, vai trò, chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ. Luận văn nghiên cứu, phân tích,
đánh giá về thực trạng vị trí, vai trò và chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử
hình sự sơ thẩm (thông qua các số liệu thực tế từ các báo cáo tổng kết công tác
trong các năm 2006 - 2010 của VKSND thành phố Hà Nội). Đề xuất những kiến
giải lập pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như đề xuất các
quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò của VKS trong
giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm, đáp ứng với tinh thần của công cuộc cải cách tư
pháp hiện nay7.
- Nguyễn Tuyết Nhung (2012), Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân

dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Hải Phòng - Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ. Luận văn đã làm sáng tỏ một số lý luận về
chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Tổng kết, phân tích, đánh giá, nhận xét thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
VKSND thành phố Hải Phòng từ năm 2004 - 2011. Đề xuất các phương hướng, xây
dựng các giải pháp để khắc phục những hạn chế của VKS trong quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình để nâng cao chất lượng của hoạt động này trong thời
gian tới, đồng thời cũng nhằm nâng cao vị thế của ngành Kiểm sát trong hoạt động
bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và tự do của công dân8.
- Nguyễn Thị Hường (2014), Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân
theo pháp luật tại phiên toà sơ thẩm theo Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ. Luận văn đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận về THQCT và kiểm sát việc tuân
6

Mai Văn Thùy (2011), Chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, Luận văn thạc sĩ.
Lê Thắng (2012), Vị trí, vai trò, chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
Luận văn thạc sĩ.
8
Nguyễn Tuyết Nhung (2012), Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự tại Hải Phòng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ.
7


5

theo pháp luật tại phiên toà hình sự sơ thẩm, phân tích và phân định hai chức năng
này của Viện kiểm sát. Làm rõ thực trạng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật tại phiên toà hình sự sơ thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp hiện nay. Trên cơ
sở đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hơn nữa chất lượng THQCT và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật tại phiên toà hình sự sơ thẩm9.
Ngoài ra còn có một số công trình khác cũng có nội dung liên quan đến luận văn
như: Nguyễn Hữu Khoa (2010), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ; Nguyễn Thuỳ Linh (2012), Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân, Luận văn thạc sĩ; Nguyễn Đức Mai (2003), Chức năng của Viện kiểm sát
trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát, số 4;...
Các công trình nghiên cứu khoa học, bài viết nêu trên chỉ nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn về chức năng của VKS nói chung hoặc chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên, chưa
có công trình khoa học nào nghiên cứu toàn diện, đầy đủ, có hệ thống về nhiệm vụ,
quyền hạn của của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS và đặc biệt chưa có
công trình nào nghiên cứu về vấn đề này cụ thể trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực
tiễn về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS trên địa
bàn thành phố Hà Nội; đánh giá có căn cứ và khoa học về thực trạng thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn
thành phố Hà Nội, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công
tác này trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và nhân rộng trên phạm vi cả nước.
Bên cạnh đó, đưa ra một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
Phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm, cơ sở và ý nghĩa của nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;

9

Nguyễn Thị Hường (2014), Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên toà sơ
thẩm theo Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ.



6

Phân tích quy định của pháp luật TTHS hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đồng thời chỉ ra những điểm hợp
lý, bất hợp lý của pháp luật TTHS hiện hành, trên cơ sở đối chiếu với BLTTHS năm
2015 để xác định những điểm bất hợp lý nào đã được BLTTHS năm 2015 khắc
phục, những điểm nào chưa được khắc phục;
Phân tích thực tiễn và các các yếu tố có ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn thành phố
Hà Nội. Chỉ ra những thành tích đạt được, những hạn chế, tồn tại và tìm ra nguyên
nhân của những hạn chế, tồn tại đó.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu một số vấn đề lý
luận về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS hiện hành quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Nghiên cứu thực trạng
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS trên
địa bàn thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: Về phương diện lý luận, phạm vi nghiên cứu của luận
văn là những vấn đề lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự. Về phương diện pháp luật, phạm vi nghiên cứu của luận văn
là những quy định của pháp luật TTHS hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
khi kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS, có so sánh với những quy định của BLTTHS
năm 2015 để đánh giá sự phát triển của pháp luật về lĩnh vực nghiên cứu. Về
phương diện thực tiễn, phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực tiễn thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn
thành phố Hà Nội từ năm công tác 2012 đến hết năm công tác 2016.
Luận văn không nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát khởi

tố, điều tra, truy tố, xét xử phúc thẩm và thi hành án hình sự.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây
dựng, cải cách tư pháp trong thời kỳ đổi mới.


7

Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng kết hợp các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp,
thống kê,… để giải quyết vấn đề.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Đóng góp của luận văn về mặt khoa học luật TTHS Việt Nam là góp phần làm
sáng tỏ cơ sở lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự.
Đóng góp của luận văn về mặt thực tiễn là đề xuất một số kiến nghị nhằm góp
phần bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm
VAHS trên địa bàn thành phố Hà Nội và nhân rộng ra cả nước.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các nhà nghiên cứu, các giảng viên trong công tác nghiên cứu và giảng
dạy về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Đồng thời, giúp cho các KSV không chỉ trên địa bàn thành phố Hà Nội mà còn trên
cả nước trong công tác thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự.
7. Bộ cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt
Nam.
Chương 2. Thực trạng chế định thời hiệu trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và

thực tiễn áp dụng.
Chương 3. Hoàn thiện chế định thời hiệu trong Bộ luật Hình sự và một số giải
pháp khác bảo đảm áp dụng đúng chế định này.


8

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN
KIỂM SÁT KHI KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm
sát khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
- Khái niệm kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Giải quyết VAHS là một quá trình phức tạp. Từ khi phát hiện dấu hiệu của tội
phạm đến khi người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu hình phạt, vụ án phải trải
qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án lại có nhiệm vụ
riêng biệt phù hợp với tính chất, đặc điểm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Theo
tác giả Lê Văn Cảm:
Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước của quá trình tố tụng hình sự,
tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng
loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án
hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp
phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền hợp
pháp của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự10.
Sự phân chia các giai đoạn tố tụng này gắn liền với trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Các giai đoạn của hoạt động tố tụng độc lập với nhau nhưng
lại có mối quan hệ khăng khít với nhau. Giai đoạn trước là tiền đề cho giai đoạn
sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước, tạo thành hệ thống hoạt động thống nhất
hướng tới giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.

Xét xử là chức năng hiến định của Tòa án. Kết quả xét xử của Tòa án là phán
quyết cuối cùng đối với người thực hiện hành vi phạm tội. “Không ai bị coi là có
tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9
BLTTHS năm 2003). Đây là cơ sở duy nhất để xác định một người có bị coi là có
tội hay không. Xét xử sơ thẩm VAHS có vị trí, vai trò quan trọng nhất, không chỉ
trong giai đoạn xét xử mà còn trong cả quá trình giải quyết vụ án hình sự.“Các giai
đoạn tố tụng trước đó, chỉ là quá trình chuẩn bị điều kiện cho xét xử sơ thẩm. Các
10

Lê Văn Cảm (2004), “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng”, Tạp chí kiểm sát, (2), tr.26.


9

giai đoạn sau xét xử sơ thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của nó,
khắc phục những thiếu sót, sai lầm nếu có và đưa các quyết định, bản án sơ thẩm
đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành”11. Giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS bắt đầu kể
từ thời điểm Toà án cấp sơ thẩm nhận được hồ sơ vụ án cùng với cáo trạng (hoặc
quyết định truy tố) truy tố bị can trước Toà án, do VKS cùng cấp chuyển đến và kết
thúc bằng một bản án, quyết định giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật của Toà án
cấp sơ thẩm. Tại phiên toà xét xử sơ thẩm VAHS, trên cơ sở những chứng cứ đã
được kiểm tra công khai, khách quan, Toà án cấp sơ thẩm ra bản án xác định bị cáo
có tội hay không có tội. Nếu bị cáo có tội thì đó là tội gì, quy định tại điều khoản
nào của Bộ luật Hình sự. Ngoài việc ra bản án, Toà án cấp sơ thẩm còn có thẩm
quyền ra các quyết định cần thiết khác nhằm giải quyết vụ án hình sự.
Hiện nay, khái niệm “xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” còn có nhiều cách tiếp
cận khác nhau. Theo Từ điển luật học, “xét xử sơ thẩm là một từ Hán Việt, có nghĩa
là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền” 12. Đây là khái
niệm mang tính khái quát chung để chỉ tất cả việc xét xử sơ thẩm các VAHS, dân
sự, hành chính,… Tuy nhiên, định nghĩa này còn sơ sài, chưa làm rõ được đầy đủ

nội dung, mục đích của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự của Đại học Quốc gia Hà Nội:
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu là một giai đoạn tố tụng hình sự,
trong đó Tòa án có thẩm quyền thay mặt Nhà nước tiến hành việc xét xử lần
đầu, toàn diện, tổng thể vụ án hình sự trên cơ sở bản cáo trạng của Viện kiểm
sát, Tòa án sẽ xem xét đánh giá chứng cứ dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên
tòa làm sở để ra các phán quyết công minh, có căn cứ và đúng pháp luật bằng
bản án và quyết định của mình13.
Định nghĩa này đã xác định xét xử sơ thẩm VAHS là giai đoạn của TTHS và
chỉ ra được nội dung, mục đích của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên,
định nghĩa này xác định xét xử sơ thẩm VAHS là việc “xét xử lần đầu” là chưa thực
sự chính xác. Bởi, không phải mọi trường hợp xét xử sơ thẩm VAHS đều là xét xử
11

Nguyễn Anh Tuấn (2015), Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa
bàn tỉnh Hòa Bình), Luật văn thạc sỹ Luật học, tr.15.
12
Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa và Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 870.
13
Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
tr.359.


10

lần đầu. Trong trường hợp Tòa án có thẩm quyền xem xét ra quyết định hủy bản án
để điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại thì việc xét xử sơ thẩm lại không phải là xét
xử lần thứ nhất.
Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội, “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó toà án

có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng
theo quy định của pháp luật”14. Định nghĩa này đã xác định được xét xử sơ thẩm là
một giai đoạn tố tụng hình sự. Tuy nhiên, định nghĩa này mới chỉ xem xét hình thức
của việc xét xử sơ thẩm VAHS để giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng
theo quy định của pháp luật mà chưa làm rõ được những nội dung của việc giải
quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng.
Như vậy, có thể hiểu: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động nhà nước do
Tòa án thực hiện ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các chứng
cứ, các tài liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở đó ra bản án, quyết định để xác định có
hành vi phạm tội hay không, người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt được áp
dụng đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác có
liên quan trong vụ án hình sự15.
Khoa học luật TTHS Việt Nam hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất về
khái niệm “kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”. “Kiểm sát” ở tầng nghĩa phổ
thông, theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, thì “kiểm sát là kiểm tra,
giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước”16. Theo đó, nội dung của khái
niệm “kiểm sát” là hoạt động kiểm tra, giám sát, với đối tượng kiểm tra, giám sát là
việc chấp hành pháp luật của Nhà nước. Nhưng khái niệm nêu trên còn chung
chung, chưa chỉ ra được chủ thể của hoạt động kiểm sát.
+ Về chủ thể của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Theo quy định của pháp luật hiện hành: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” (khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014). Pháp luật
14

Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội, tr.345.
15
Võ Thị Kim Oanh (2011), Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh, tr.8.

16
Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr.523.


11

TTHS hiện hành nước ta quy định VKS là cơ quan thực hiện chức năng THQCT và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội
đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội (khoản 3 Điều 23 BLTTHS năm 2003).
Như vậy, trước hết cần khẳng định “kiểm sát” là một loại quyền lực của Nhà
nước, do VKS thực hiện với đối tượng kiểm tra, giám sát là việc chấp hành pháp
luật của Nhà nước nói chung và của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong lĩnh vực TTHS
nói riêng.
Tuy nhiên, hoạt động “kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà
nước” trong TTHS không chỉ có VKS, mà còn có các chủ thể khác như: người tham
gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cá nhân công dân và toàn thể xã
hội nói chung. Quyền “kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước”
trong TTHS của các chủ thể khác xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của Hiến
pháp và pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước và quyền công dân. Đối với những
chủ thể này, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không phải là chức năng hoạt động
giống như VKS, mà là các quyền, nghĩa vụ phái sinh từ chức năng hoạt động hay
các quyền, các hoạt động mang tính tự nguyện nhằm hướng tới việc phát hiện kịp
thời vi phạm pháp luật và loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc
cá nhân trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, các hoạt động trên không thể coi là hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật (hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước)
trong TTHS, mà chỉ là các hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng

hình sự. Sự khác nhau giữa hoạt động kiểm sát của VKS và hoạt động giám sát của
các chủ thể khác chính là hình thức thực hiện các quyền năng mà pháp luật TTHS
cho phép (tính được bảo đảm bằng quyền lực Nhà nước). Chính điều này làm cho
hoạt động giám sát của các chủ thể khác không thể hiện được tính ưu việt giống như
hoạt động “kiểm sát” của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt
quan trọng của hoạt động giám sát của các chủ thể khác, có thể coi đây là các thiết


12

chế bổ trợ cho hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS nói chung
và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS nói riêng.
Ngoài ra, xuất phát từ đặc thù của mối quan hệ phối hợp – chế ước trong quá
trình giải quyết VAHS, các cơ quan tiến hành tố tụng có vai trò giám sát lẫn nhau.
Cụ thể, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, Tòa án có thể phát hiện và kiến nghị xử lý
các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra và VKS nếu thấy có vi phạm
pháp luật và ngược lại. Đây cũng là một thiết chế bổ trợ cho hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTHS nói chung và trong xét xử sơ thẩm nói riêng.
+ Về đối tượng của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật hiện hành xuất hiện hai thuật ngữ “kiểm
sát hoạt động tư pháp” (theo Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND hiện hành) và
“kiểm sát việc tuân theo pháp luật” (theo BLTTHS hiện hành) để cùng nói về chức
năng kiểm sát của VKSND trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Những thuật ngữ này gây
khó hiểu cho người nghiên cứu.
Theo Từ điển luật học do Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp xuất bản năm
2006, thì “Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát, xem xét, theo dõi việc
tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, giam
giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết các hành vi phạm pháp,
kiện tụng trong nhân dân nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất”17. Theo định nghĩa này thì đối tượng của kiểm sát hoạt động

tư pháp trong lĩnh vực TTHS là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong
lĩnh vực tố tụng hình sự.
Nhưng theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong TTHS của VKS nhằm kịp thời phát hiện vi phạm
pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng, áp dụng những biện pháp theo quy định của BLTTHS hiện hành để loại
trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này (khoản 2 Điều 23
BLTTHS năm 2003). Theo quy định này, đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tuân

theo pháp luật trong TTHS không chỉ là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố

17

Viện khoa học pháp lý Bộ tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa - Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, tr.441.


13

tụng, mà còn bao gồm hoạt động của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng.
Do đó, “khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
rộng hơn khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự”18. Theo quy
định của pháp luật TTHS hiện nay, khái niệm “kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự” cần được hiểu là “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự”.
Về thuật ngữ “tuân theo pháp luật” trong “kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” cũng cần được hiểu thống nhất.
“Tuân theo pháp luật” cần được hiểu là một thuật ngữ pháp lý thống nhất mang tính
chỉnh thể để chỉ một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật. Theo lý luận chung về

pháp luật, bốn hình thức thực hiện pháp luật gồm: Tuân thủ pháp luật (tuân theo
pháp luật) là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế,
không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Các quy phạm pháp luật cấm
được thực hện ở hình thức này; Thi hành (chấp hành) pháp luật là hình thức thực
hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lí của mình
bằng hành động tích cực; Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền, tự do pháp lí của mình (những hành vi mà
pháp luật cho phép chủ thể tiến hành); Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện
pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách
có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của
pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết
định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ
thể19.
Như vậy, “tuân theo pháp luật” chỉ là một hình thức thực hiện pháp luật ở mức
độ tự giác thấp. Nếu hiểu “tuân theo pháp luật” trong khái niệm “kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” như trên thì nội hàm của thuật ngữ
“kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” sẽ bị thu hẹp lại
18

Nguyễn Thuỳ Linh (2012), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân, Luận văn thạc sĩ, tr.10.
19
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nôi, tr. 183-184.


14

đáng kể. Trong khi đó, pháp luật thực định cho thấy đối tượng của “kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” không chỉ có hoạt động tuân

theo pháp luật ở mức độ tự giác thấp mà còn có những hoạt động thực hiện pháp
luật ở mức độ cao hơn và những hoạt động này chiếm tỉ lệ đa số. Đó là những hoạt
động áp dụng pháp luật, sử dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Việc “tuân
theo pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” ở góc độ thực tế phải bao hàm tất cả
các hình thức thực hiện pháp luật nêu trên.
Bởi vậy, đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm VAHS là hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan tiến hành
tố tụng là Tòa án cấp sơ thẩm; người tiến hành tố tụng bao gồm: Thẩm phán, Hội
thẩm, Thư ký tòa án; người tham gia tố tụng bao gồm: bị cáo, người bào chữa,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án và những người đại diện hợp pháp của họ, người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch… trong quá trình giải quyết vụ án tại giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự.
+ Về phạm vi và mục đích của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm
Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS được thực hiện xuyên suốt giai
đoạn xét xử sơ thẩm. Bởi vậy, phạm vi của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm
VAHS được bắt đầu kể từ khi giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS bắt đầu và kết thúc
tại thời điểm giai đoạn xét xử sơ thẩm kết thúc. Nói cách khác, phạm vi của hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS được bắt đầu kể từ thời điểm
Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án cùng với cáo trạng (hoặc quyết định truy tố) của VKS đề
nghị truy tố bị can, kết thúc khi bản án, quyết định giải quyết vụ án của Tòa án cấp
sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Mục đích của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm
VAHS là nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kip thời.
+ Về nội dung của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nội dung của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS là tổng hợp những
nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật TTHS quy định và VKS phải thực hiện khi kiểm
sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Các nhiệm vụ, quyền hạn này bao gồm: kiểm sát
căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các thủ tục tố tụng trong các bước giải



15

quyết vụ án ở giai đoạn xét xử sơ thẩm; kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện
pháp ngăn chặn; kiểm sát việc ra các quyết định, bản án của Toà án cấp sơ thẩm;
kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm
pháp luật; yêu cầu Tòa án cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ VAHS để xem xét,
quyết định việc kháng nghị; kháng nghị bản án, quyết định giải quyết vụ án của Tòa
án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng; thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị
và nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát xét xử VAHS theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự.
Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS của VKS chỉ được tiến hành trên cơ
sở quy định của pháp luật. Kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS là một hoạt động mang
tính quyền lực Nhà nước, do VKS tiến hành nhằm kiểm tra, giám sát hoạt động thực
hiện pháp luật của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS, nhằm bảo đảm
cho việc xét xử của Tòa án đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.
Từ các phân tích nêu trên, theo tác giả, kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
được hiểu là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định của các chủ thể trong xét xử vụ án hình sự, được thực hiện
từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi bản án quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật.
- Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
Trong khoa học pháp lý, “thẩm quyền”, “nhiệm vụ” và “quyền hạn” là các
thuật ngữ khác nhau nhưng dễ gây nhầm lẫn. “Thẩm quyền là quyền chính thức xem
xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề”20. Khái niệm thẩm quyền bao
hàm hai nội dung chính là quyền xem xét để kết luận và quyền định đoạt, quyết
định của cơ quan, tổ chức trong bộ máy Nhà nước. “Nghĩa vụ là việc phải làm theo

bổn phận của mình”21. Hay nói cách khác, “nghĩa vụ là cách xử sự mà chủ thể buộc
20

Viện khoa học pháp lý Bộ tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa - Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, tr. 701.
21
Viện khoa học pháp lý Bộ tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa - Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, tr. 560.


16

phải thực hiện theo quy định của pháp luật nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của
chủ thể khác”22.
Thuật ngữ “nhiệm vụ”, theo Từ điển tiếng Việt được hiểu là “công việc phải
làm vì một mục đích và trong một thời gian nhất định”23. Theo cách giải thích này
thì nhiệm vụ nói chung là công việc mang tính chất bắt buộc chủ thể phải thực hiện.
Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách cùa chủ thể trong quan hệ xã hội mà
chủ thể đó tham gia và được pháp luật quy định. Cùng một chủ thể, nhưng mỗi quan
hệ xã hội khác nhau thì quy định pháp luật xác định nhiệm vụ khác nhau. Do đó, có
thể hiểu nhiệm vụ của cơ quan VKS trong TTHS là những hoạt động cụ thể của
VKS trong một thời gian nhất định nhằm thực hiện chức năng của ngành mình để
cùng thực hiện công việc của bộ máy Nhà nước trong lĩnh vực TTHS, trên cơ sở
quy định của Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự.
Nhiệm vụ của VKS khi kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS là những công việc cụ
thể do Nhà nước đặt ra và được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND,
BLTTHS và các văn bản pháp luật khác mà VKS phải thực hiện bằng những hình
thức, biện pháp nhất định trong quá trình kiểm sát xét xử sơ vụ án hình sự.
Như vậy, nhiệm vụ của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
là những công việc cụ thể do pháp luật quy định đối với Viện kiểm sát nhằm kiểm

tra, giám sát hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nhằm bảo đảm cho việc xét xử của Toà án đúng
pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.
Còn về khái niệm “quyền hạn” được hiểu là “quyền được xác định về nội
dung, phạm vi, mức độ”24. Dưới góc độ pháp lý, “quyền hạn của một cơ quan, tổ
chức hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp
và chức vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo
quy định của pháp luật”25.
22

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình lí luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 156.
23
Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 718.
24
Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nắng, tr. 815.
25
Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa - Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, tr. 651.


17

Quyền hạn thường gắn chủ thể với một cương vị, tư cách cụ thể. Trong khoa
học pháp lý, quyền hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ máy Nhà nước
hoặc của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn của cơ quan, tổ
chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ
quan, tổ chức. Quyền hạn của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức là quyền
quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó.

Đối với quyền của chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật TTHS do pháp luật
TTHS quy định.
Nhiệm vụ và quyền hạn là hai khái niệm khác nhau, song lại có mối liên hệ
chặt chẽ. Nhiệm vụ của VKS là việc phải thực hiện các chức năng tố tụng là pháp
luật TTHS quy định, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ thì
tùy theo tính chất và mức độ mà việc giải quyết vụ án hình sự sẽ không được chính
xác. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, pháp luật cần trao cho Viện kiểm sát
những quyền hạn đầy đủ.
Tuy nhiên, khái niệm nhiệm vụ và quyền hạn đặt trong một điều kiện với một
chủ thể xác định thì nhiệm vụ và quyền hạn là tương đối thống nhất. Pháp luật quy
định nhiệm vụ VKS phải thực hiện những công việc gì, đồng nghĩa là pháp luật trao
cho VKS những quyền hạn để thực hiện nhiệm vụ đó. Nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS nói chung được quy định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Còn
trong TTHS nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng, nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự.
Như vậy, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự là
quyền quyết định thực hiện các hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát nhằm kiểm tra,
giám sát hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nhằm bảo đảm cho việc xét xử của Toà án đúng
pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.
- Đặc điểm nhiệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự


18

Thứ nhất, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự do pháp luật quy định, Viện kiểm sát không thực hiện những hoạt
động ngoài nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.

Đây chính là nội dung trong nguyên tắc pháp chế - nguyên tắc quan trọng
trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, của tổ chức xã hội, của
những người có chức vụ, quyền hạn và của công dân. Trong hoạt động của VKS,
nguyên tắc bảo đảm pháp chế hay bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
do pháp luật quy định. Viện kiểm sát không thực hiện những hoạt động ngoài nhiệm
vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động của
VKS phải được pháp luật điều chỉnh chặt chẽ, cụ thể và các quy định của pháp luật
phải được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, thống nhất. Trong trường hợp có sự vi
phạm pháp luật, VKS có trách nhiệm phải áp dụng biện pháp theo quy định của
pháp luật để khắc phục vi phạm đó.
Để bảo đảm việc kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS được khách quan, đúng pháp
luật thì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, VKS mà đại diện
là Viện trưởng VKS, Phó Viện trưởng VKS và các KSV phải tuyệt đối tuân theo
pháp luật. Theo pháp luật TTHS hiện hành, VKS là cơ quan có nhiệm vụ, quyền
hạn THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong TTHS nói chung và trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng. Với nhiệm vụ, quyền hạn của mình, VKS thực hiện
quyền lực Nhà nước, trực tiếp tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật
của các chủ thể tiến hành tố tụng và các chủ thể tham gia tố tụng, góp phần bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm pháp luật thực hiện thống nhất, nghiêm minh.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm VAHS, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn: kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc xét xử sơ thẩm các VAHS của Tòa án; kiểm sát bản án, quyết
định của Tòa án; kiểm sát hoạt động TTHS của người tham gia tố tụng; yêu cầu,
kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố
tụng vi phạm pháp luật; yêu cầu Tòa án cùng cấp chuyển hồ sơ VAHS để xem xét,
quyết định việc kháng nghị; kháng nghị bản án, quyết định giải quyết vụ án của Tòa
án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng; thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị
và nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS theo quy định



19

của Bộ luật tố tụng hình sự. Viện kiểm sát chỉ thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn
này theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Viện kiểm sát không tiến
hành những nhiệm vụ, quyền hạn khác mà pháp luật TTHS không quy định.
Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn bảo đảm cho Viện kiểm sát thực hiện tốt chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm và người tham gia
tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, góp phần bảo đảm cho việc
xét xử của Tòa án đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời.
Viện kiểm sát là một chủ thể trong quan hệ pháp luật TTHS, có những quyền
và nghĩa vụ tố tụng nhất định. Với vị trí pháp lí là cơ quan tiến hành tố tụng nhưng
VKS lại hoàn toàn khác với vị trí của các cơ quan tiến hành tố tụng khác khi thực
hiện chức năng THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong TTHS riêng có của
mình. Khi thực hiện chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm VAHS, Kiểm sát viên đại
diện cho VKS thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật TTHS quy định. Đó là
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, người tham gia tố tụng trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm. Việc thực hiện nhiêm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử
sơ thẩm VAHS theo đúng quy định của pháp luật TTHS là nhằm bảo đảm cho VKS
thực hiện tốt chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm và
người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Vấn đề này
được thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Khi thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa xét xử sơ thẩm VAHS,
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, KSV phải tiến hành theo trình tự, thủ
tục mà pháp luật quy định. Bên cạnh đó, VKS còn phải kiểm sát hoạt động tố tụng
của người tham gia tố tụng và Tòa án cấp sơ thẩm nhằm bảo đảm cho việc xét xử
của Tòa án đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời.
Như vậy, VKS đóng vai trò là cơ quan tiến hành tố tụng, có nhiệm vụ, quyền
hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm và người tham gia tố
tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS, góp phần bảo đảm cho việc xét xử của
Tòa án đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời.

Thứ ba, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự được thực hiện thông qua hoạt động Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm
sát viên.


20

Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, VKS không thể tự mình thực
hiện mà phải thực hiện thông qua những người tiến hành tố tụng thuộc VKS gồm:
Viện trưởng VKS và Kiểm sát viên. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS, Viện
trưởng VKS có nhiệm vụ, quyền hạn như: tổ chức và chỉ đạo hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; quyết định
phân công Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động TTHS của Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên; quyết
định thay đổi hoặc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó
Viện trưởng VKS và Kiểm sát viên; quyết định thay đổi Kiểm sát viên; kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm cá bản án, quyết định của Toà án… Khi Viện trưởng VKS
vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện trưởng. Phó Viện trưởng VKS chịu trách nhiệm trước Viện
trưởng về nhiệm vụ được giao. Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Kiểm sát viên khi được phân công thực hiện
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS có nhiệm
vụ, quyền hạn như: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của
Tòa án (kiểm sát thẩm quyền xét xử, giới hạn xét xử, thời hạn chuẩn bị xét xử,…),
của những người tham gia tố tụng (bị cáo, người bị hại, người làm chứng,…) và
kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án hoặc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
khác thuộc thẩm quyền của VKS theo sự phân công của Viện trưởng VKS, bảo đảm
việc xét xử sơ thẩm VAHS tuân thủ đúng, đầy đủ quy định của pháp luật về thủ tục,
cũng như nội dung.

Từ những phân tích nêu trên, có thể khẳng định: Nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là những công việc cụ thể
do pháp luật quy định đối với Viện kiểm sát và quyền quyết định thực hiện các hoạt
động tố tụng của Viện kiểm sát để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết
định của các chủ thể trong xét xử vụ án hình sự, được thực hiện từ khi Tòa án thụ lý
vụ án đến khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm bảo đảm
cho việc xét xử của Toà án đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.


×