Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự (áp dụng trong thực tiễn tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG HOÀNG PHƢƠNG

§ÞA VÞ PH¸P Lý CñA NG¦êI BÞ H¹I TRONG Tè TôNG H×NH Sù
(¸P DôNG TRONG THùC TIÔN Tè TôNG H×NH Sù
TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG HOÀNG PHƢƠNG

§ÞA VÞ PH¸P Lý CñA NG¦êI BÞ H¹I TRONG Tè TôNG H×NH Sù
(¸P DôNG TRONG THùC TIÔN Tè TôNG H×NH Sù
TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

ĐẶNG HOÀNG PHƢƠNG


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI
BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................ 7
1.1.

Khái niệm địa vị pháp lý của ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự ......... 7

1.1.1. Quan niệm về người bị hại – Cơ sở để xác định địa vị pháp lý

của người bị hại .................................................................................... 7
1.1.2. Vai trò của người bi ̣ha ̣i trong tố tu ̣ng hiǹ h sự ................................... 11
1.2.

Nô ̣i dung điạ vi pha
̣ ́ p lý của ngƣời bi ha
̣ ̣i trongốttụng hình sự..... 15

1.2.1. Quyền của người bị hại ...................................................................... 15
1.2.2. Nghĩa vụ của người bị hại .................................................................. 18
1.3.

Địa vị pháp lý của ngƣời bi ha
̣ ̣i trong Luâ ̣t tố tu ̣ng hin
̀ h sƣ̣
mô ̣t số nƣớc trên thế giới ................................................................. 19

Tiể u kế t chƣơng 1 .......................................................................................... 27
Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA NGƢỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ
THƢ̣C TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊ A BÀN THÀNH PHỐ
HÀ NỘI ............................................................................................. 28
2.1.

Các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của ngƣời bị hại .......... 28

2.1.1. Trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ..................... 28
2.1.2. Từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến nay ............. 32
2.2.


Thực tiễn áp du ̣ng các quy đinh
̣ pháp luâ ̣t về địa vị pháp lý
của ngƣời bị hại trên địa bàn thành phố Hà Nội........................... 51


2.2.1. Tình hình xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nộ
i ...... 51
2.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của
người bị hại trên địa bàn thành phố Hà Nội ....................................... 55
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 71
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THƢ̣C HIỆN CÓ
HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
NGƢỜI BỊ HẠI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......... 72
3.1.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật ...................................................... 72

3.1.1. Sửa đổi, bổ sung Điều 51 của Bộ luật tố tụng hình sự ....................... 72
3.1.2. Bổ sung quy định Điều 217 của Bộ luật tố tụng hình sự về việc
trình bày lời buộc tội của người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của họ tại phiên tòa .................................................................... 75
3.1.3. Bổ sung quy định tại Điều 191 của Bộ luật tố tụng hình sự về
đảm bảo sự có mặt của người bị hại tại phiên tòa .............................. 79
3.2.

Các giải pháp khác ........................................................................... 80

3.2.1. Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa .................................... 80
3.2.2. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan và những người tiến
hành tố tụng ........................................................................................ 83

3.2.3. Nâng cao chất lượng của đội ngũ Luật sư .......................................... 86
3.2.4. Thực hiện tốt sự phân công, chỉ đạo, phối hợp trong giải quyết
án hình sự ........................................................................................... 87
3.2.5. Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo hướng phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tiến hành tố tụng ..... 88
Tiể u kế t chƣơng 3 .......................................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 93
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 99


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

TAND


Tòa án nhân dân

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 28 tháng 6 năm 1988 (có hiệu lực thi hành ngày 01
tháng 01 năm 1989), là một đạo luật quy định về trình tự, thủ tục khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án các vụ án hình sự. Tuy nhiên, sau 15 năm
thực hiện, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã bộc lộ những bất cập, hạn chế,
thiếu sót... từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố
tụng. Một trong những hạn chế dẫn đến tình trạng trên là việc Bộ luật quy
định về người tham gia tố tụng, đặc biệt là các quy định về người bị hại còn
tương đối sơ sài và chưa đầy đủ.

Thể chế hoá chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, ngày 17/12/2003,
Quốc hội nước ta đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự năm2003 với nhiề u quy
đinh
̣ mới so với Bô ̣ luâ ̣t tố tụng hình sự năm 1988. Bộ luật đã dành chương IV
tại phần thứ nhất (Những quy định chung) quy định về người bị hại với tính
chất là một loại người tham gia tố tụng đặc biệt trong tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học pháp lý vẫn còn nhiều vấn đề về lý
luận và thực tiễn áp dụng trong tố tụng hình sự cần được tiếp tục nghiên cứu
và làm sáng tỏ hơn. Luật tố tụng hình sự nước ta chỉ coi người bị hại là công
dân. Pháp nhân hay tổ chức xã hội không được coi là người bị hại. Thiệt hại
mà người bị hại phải chịu là thiệt hại thực tế, nếu thể chất, tinh thần, tài sản
của một người chưa bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra thì người đó không
được coi là người bị hại.
Xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do
tội phạm gây ra chỉ trở thành người bị hại trong tố tụng hình sự khi họ được
cơ quan có thẩm quyền công nhận là người bị hại thông qua hành vi triệu tập
họ đến khai báo với tư cách là người bị hại. Việc nghiên cứu những vấn đề lý

1


luận và thực tiễn về người bị hại trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay
cũng như thực trạng về người bị hại ở từng địa phương (nhất là địa bàn thành
phố Hà Nội) để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này
trong thực tế, góp phần xử lý kịp thời, khách quan nhằm bảo vệ tốt hơn các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội là
một nhu cầu khách quan và cần thiết.
Trước yêu cầu cải cách tư pháp thì các vấn đề đảm bảo quyền dân chủ
và nhân quyền, đặc biệt là các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong
tố tụng hình sự luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết

số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020 đã tiếp tục xác định: “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp
theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận
tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư
pháp” [5]. Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã khẳng định cụ thể hơn tư
tưởng chỉ đạo này.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: Địa vị pháp lý của người
bị hại trong tố tụng hình sự (Áp dụng trong thực tiễn tố tụng hình sự trên địa
bàn thành phố Hà Nội) làm Luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Người bị hại là một loại người tham gia tố tụng được quy định trong
luật tố tụng hình sự năm 2003, tại Điều 51. Trong thời gian qua, kể cả trước
khi Bộ luật ra đời, ở nước ta đã có nhiều bài viết, công trình khoa học nghiên
cứu về việc quy định và áp dụng trong tố tụng hình sự như Luận văn thạc sỹ
Luật học, các bài viết, công trình nghiên cứu phân tích, giải quyết và làm rõ
được một số vấn đề lý luận về người bị hại trong tố tụng hình sự như: khái
niệm, ý nghĩa, các kiến nghị như Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
2


(Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – NXB TP. Hồ Chí Minh, năm 2004), Bàn
về việc tòa án cấp phúc thẩm có được thay đổi tư cách của người tham gia tố
tụng khi xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xác định không đúng, Tạp chí Tòa án
nhân dân tối cao số 24/2005, Một số vướng mắc khi giải quyết vụ án được
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, Tạp chí kiểm sát số 7/2008, Một số vấn
đề cần chú ý khi xác định người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, Tạp chí
Toà án nhân dân số 13/2008, Người bị hại trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa
học pháp lý số 01/2007, Quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng tại

phiên tòa hình sự phúc thẩm, Tạp chí Tòa án. Tòa án nhân dân tối cao số
5/2004, Tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự tại phiên tòa
phúc thẩm, Tạp chí Tòa án. Tòa án nhân dân tối cao số 4/2008, Việc quy định
những người tham gia tố tụng trong Bộ luật tố tụng hình sự, Tập san Tòa án
nhân dân số 4/2000, Xác định tư cách người tham gia tố tụng hình sự, Tập
san Tòa án số 12/1999…
Các bài viết, công trình nghiên cứu trên đã phân tích, giải quyết và làm
rõ được một số vấn đề lý luận về chế định quyền và nghĩa vụ của người bị hại
trong tố tụng hình sự Việt Nam như: khái niệm về người bị hại, ý nghĩa của
việc tìm hiểu chế định về người bị hại, các kiến nghị về hoàn thiện các quy
định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bị hại, việc áp dụng quy định
khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại.... Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề về
lý luận và thực tiễn mà các công trình nghiên cứu trên chưa đề cập đầy đủ,
phương pháp tiếp cận còn chưa phù hợp, chưa có nghiên cứu về áp dụng thực
tiễn tố tụng hình sự của từng địa phương, đặc biệt là trên địa bàn Thủ đô Hà
Nội sau khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời. Do hầu hết các công
trình trên đều đề cập và nghiên cứu vấn đề trước khi Bộ luật ra đời nên việc
đánh giá tình hình chưa có cơ sở thực tiễn.
Bên cạnh đó, Luận văn thạc sỹ Luật học: Người bị hại trong tố tụng hình
sự Việt Nam - Thịnh Quang Thắng (2010) đã đề cập tương đối đầy đủ các luận
3


cứ khoa học như: bản chất, ý nghĩa, mục đích của việc nghiên cứu về người bị
hại, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài. Tuy nhiên, các dẫn chứng số liệu đều
được lấy ở một địa bàn nhỏ hẹp là huyện Đông Anh – một huyện ngoại thành
Hà Nội nên việc nghiên cứu đánh giá còn nhiều hạn chế, chưa làm bật lên
những đặc điểm đặc thù của Thủ đô Hà Nội để đưa ra những giải pháp, kiến
nghị cho phù hợp nhằm áp dụng chế định về địa vị pháp lý của người bị hại
trong tố tụng hình sự chặt chẽ và sát với thực tế của Thủ đô Hà Nội.

Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Nguyên Thanh (2012), “Người
bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự”, trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh đi sâu nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của người bị hại
và nguyên đơn dân sự với tư cách là người tham gia tố tụng độc lập . Luận án
tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại trong tố
tụng hình sự”, Viện khoa học và Xã hội Viê ̣t Nam tiếp cận quyền của người bị
hại dưới góc độ quyền con người, đồng thời nêu ra cơ chế bảo đảm quyền của
người bị hại trong tố tụng hình sự . Tuy nhiên cũng cần khẳng định rằng cho
đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiế p địa vị pháp lý của người
bị hại trong tố tụng hình sự và đặc biệt là viê ̣c áp dụng trong thực tiễn các quy
đinh
̣ về địa vị pháp lý của người bị hại trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Trong quá trình dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, các cơ quan
đã khảo sát và nghiên cứu về tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới về
việc áp dụng chế định về người bị hại trong tố tụng hình sự . Các nghiên cứu
đã đề cập tương đối đầy đủ các luận cứ khoa học như: bản chất, ý nghĩa, mục
đích của việc nghiên cứu về người bị hại, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu ở phạm vi rộng, chưa đi sâu vào nghiên cứu tình
hình áp dụng của từng địa phương cụ thể để đưa ra những giải pháp, kiến nghị
cho phù hợp nhằm áp dụng trong tố tụng hình sự chặt chẽ và sát với thực tế
các địa phương, nhất là ở địa bàn thành phố Hà Nội, nơi mà tình hình tội
phạm trong thời gian qua đã diễn ra tương đối phức tạp và ngày càng có chiều
4


hướng gia tăng thì việc nghiên cứu tình hình và áp dụng các quy định về
người bị hại trên địa bàn này là hết sức có ý nghĩa, đáp ứng tốt yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm và công cuộc cải cách tư pháp của Thủ đô.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở phân tích điạ vi ̣pháp lý của người

bị hại trong TTHS , đánh giá v iê ̣c áp du ̣ng các quy đinh
̣ này trên điạ bàn Hà
Nô ̣i, đưa ra một số giải pháp thực hiê ̣n có hiê ̣u quả các quy định về người bị
hại trong thực tiễn điề u tra , truy tố , xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
Để đạt được mục đích trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ như sau:
- Nêu cơ sở lý luận về ng ười bị hại và địa vị pháp lý của người bị hại
trong tố tụng hình sự.
- Đánh giá khái quát thực trạng thực hiê ̣n các quy đinh
̣ pháp luâ ̣t về địa
vị pháp lý của người bị hại trên địa bàn thành phố Hà Nội; chỉ ra những bất
cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện và nguyên nhân.
- Đề xuấ t các giải pháp thực hiê ̣n có hiê ̣u quả các quy đinh
̣ pháp luâ ̣t về
địa vị pháp lý của người bị hại từ thực tiễn của Hà Nô ̣i
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu điạ vi ̣pháp lý của ng ười bị hại trong tố tụng hình
sự, viê ̣c áp dụng các quy đinh
̣ của Bô ̣ luâ ̣t tố tu ̣ng hiǹ h sự năm 2003 về điạ vi ̣
pháp lý của ng ười bị hại trên địa bàn thành phố Hà Nội. Các cơ quan tiến
hành tố tụng hin
̀ h sự trong Quân đội nhân dân không thuô ̣c pha ̣m vi nghiên
cứu của đề tài.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với yêu cầu của từng vấn đề nghiên cứu
5



như: phương pháp phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử, tổng hợp, so sánh,
thống kê tư pháp.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Trên cơ sở phân tích điạ vi ̣pháp lý của người bi ̣ha ̣i trong tố tu ̣ng hình
sự, đánh giá một cách có hệ thống, toàn diện các vấn đề về thực trạng áp dụng
các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong tố tụng hình sự trên
địa bàn thành phố Hà Nội;
- Đề xuấ t các giải pháp hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ
của người bị hại trong Bô ̣ luâ ̣t tố tu ̣ng hiǹ h sự cũng như các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Tăng cường nhận thức thố ng nhất của những ng ười tiến hành tố tụng
và các cơ quan tiến hành tố tụng về bảo vê ̣ quyề n , lơ ̣i ích hơ ̣p pháp của người
bị hại trong tố tụng hình sự.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quyền và
nghĩa vụ của ng ười bị hại trong điề u kiê ̣n Bô ̣ luâ ̣t tố tu ̣ng hình sự năm

2003

đang đươ ̣c nghiên cứu sửa đổ i, bổ sung.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
Luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của người bị hại trong tố
tụng hình sự.
Chương 2: Các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của người bị hại
trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quy
định về địa vị pháp lý của người bị hại trên địa bàn thành

phố Hà Nội.

6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƢỜI BỊ HẠI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự
1.1.1. Quan niệm về ngƣời bị hại – Cơ sở để xác định địa vị pháp lý
của ngƣời bị hại
Để nghiên cứu về điạ vi ̣pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự,
trước hế t cầ n làm rõ khái niê ̣m điạ vi ̣pháp lý . Trong khoa ho ̣c pháp lý , khái
niê ̣m “điạ vi ̣” cũng như khái niê ̣m “điạ vi ̣ pháp lý ” thường đươ ̣c nh ắc đến
trong giáo trình các môn luâ ̣t , trong các bài viế t v à công trình nghiên cứu
nhưng chưa có mô ̣t đinh
̣ nghiã hoàn chỉnh mang tính chính thố ng. Trước hế t ,
khái niệm “địa vị” được nhắc đến trong Từ điển tiếng Việt, đó là vị trí cá nhân
trong quan hệ xã hội, do chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có, về mặt được coi
trọng ít hay nhiều…; vị trí trong quan hệ xã hội, kinh tế, chính trị do vai trò,
tác dụng mà có còn pháp lý là căn cứ, cơ sở của pháp luật [27]. Địa vị của
một cá nhân là vị trí của cá nhân đó trong vai trò xã hội của mình, thể hiện
năng lực, trình độ, vai trò của cá nhân đó trong mối quan hệ tương quan với
các cá nhân khác trong xã hội. Địa vị này có thể do cá nhân tạo lập nên hoặc
do thừa hưởng từ cá nhân khác. Khái niệm “ địa vị” thường được dùng đi kèm
bổ ngữ, tạo thành khái niệm mang tiń h tâ ̣p hơ ̣p , ví dụ: “điạ vi ̣xã hô ̣i”, “điạ vi ̣
pháp lý”... Khái niệm “địa vị pháp lý” được giả i thích trong Từ điển luật học,
đó là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể khác
trên cơ sở các quy định pháp luật; địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể
hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó

xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của
mình. Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ

7


thể pháp luật khác , đồng thời, cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng
của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật

[7]. Như vâ ̣y “địa vị

pháp lý” khác với “địa vị xã hội” ở chỗ nó được pháp luật quy định và nó biểu
hiện ở các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể. Cách giải thích này của Từ điển
Luâ ̣t ho ̣c đươ ̣c đa số luâ ̣t gia, các nhà nghiên cứu chấp nhận.
Địa vị pháp lý của các chủ thể bao gồm tổng thể các quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các chủ thể, qua đó xác lập, giới hạn khả năng của chủ thể đối với
các hoạt động của mình trong phạm vi quyền và nghĩa vụ. Xác định địa vị
pháp lý của các chủ thể giúp phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp
luật khác trong mối quan hệ với nhau. Do vậy, nghiên cứu làm rõ khái niệm
địa vị pháp lý của từng chủ thể trong quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ
pháp luật tố tụng hình sự nói riêng và đặc biệt là địa vị pháp lý của người bị
hại là cần thiết không chỉ đối với người bị hại mà còn có ý nghĩa đối với các
chủ thể khác. Chỉ khi làm rõ địa vị pháp lý của từng chủ thể trong quan hệ
pháp luật tố tụng hình sự mới bảo vệ được quyền và lợi ích của người tham
gia tố tụng có hiệu quả. Địa vị pháp lý thể hiện vị trí, vai trò của chủ thể khi
tham gia vào một hoặc nhiều quan hệ pháp luật và gắn liền với nó là quyền và
nghĩa vụ cũng như trách nhiệm pháp lý phát sinh. Người bi ̣ha ̣i là mô ̣t chủ thể
tham gia tố tu ̣ng hình sự, có địa vị pháp lý riêng biệt so với những người tham
gia tố tu ̣ng hình sự khác.
Để tìm hiể u điạ vi ̣pháp lý của người bi ̣ha ̣i


, cầ n xác đinh
̣ đươ ̣c khái

niê ̣m người bi ̣ha ̣i. Khái niệm người bị hại đã xuất hiện từ rất sớm, khi bắ t đầ u
có thủ tục tố tụng hình sự . Sau này , do ngành khoa ho ̣c nghiên cứu về na ̣n
nhân ho ̣c trên thế giới phát triể n ma ̣nh vào thế kỷ XX , khái niệm người bị hại
đươ ̣c các nhà nghiên cứu về tô ̣i pha ̣m ho ̣c đưa vào ứng du ̣ng trong viê ̣c xác
đinh
̣ những mấ t mát , tổ n thương do tô ̣i pha ̣m gây ra từ khiá ca ̣nh của tô ̣i pha ̣m
học. Đối với Việt Nam , người bị hại là khái niệm quen thuộc trong tố tụng

8


hình sự. Tuy nhiên thế nào là người bị hại? Địa vị pháp lý của người bị hại là
gì? Phạm vi quyề n ha ̣n và nghiã vu ̣ của người bị hại ra sao… thì đến nay vẫn
còn nhiều ý kiến khác nhau, và cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất. Vì
vậy, để có sự nhận thức đầy đủ và thống nhất về khái niệm người bị hại và địa
vị pháp lý của người bị hại cần phải tiếp cận khái niệm này dưới những góc
độ khác nhau.
Trong khoa ho ̣c luâ ̣t tố tu ̣ng hiǹ h sự, khái niệm n gười bị hại được hiểu
dưới nhiều góc độ khác nhau với những phương pháp tiếp cận khác nhau.
Viê ̣c coi người bi ̣ha ̣i là mô ̣t cá nhân (thể nhân) thì trong các ngành khoa ho ̣c
pháp lý liên quan đến tư pháp hình sự như luật hình sự , tô ̣i pha ̣m ho ̣c, luâ ̣t tố
tụng hình sự, khoa ho ̣c điề u tra tô ̣i pha ̣m hầ u như không có sự tranh luâ ̣n. Vấn
đề tranh luâ ̣n nhiề u nhấ t trong lý thuyế t và trong thực tiễn là trong tr ường hợp
cơ quan, tổ chức (pháp nhân) bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại thì họ có phải
là bị hại không thì có nhiều ý kiế n khác nhau.
Ý kiến thứ nhất cho rằng người bị hại chỉ là thể nhân, một con người cụ

thể; cơ quan, tổ chức không thể là người bị hại. Bởi lẽ khái niệm “người” ở
đây là đề cập đến con người cụ thể. Người bị hại là người bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần… do hành vi phạm tội gây ra, mà thể chất và tinh thần thì chỉ
gắn liền với con người, một thể nhân cụ thể, thiệt hại này không thể xảy ra đối
với pháp nhân hay tổ chức [42].
Ý kiến thứ hai cho rằng ngoài cá nhân là người bị hại, trong trường hợp
cơ quan, tổ chức bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại thì phải xem cơ quan, tổ
chức đó là người bị hại. Cần quan niệm khái niệm người bị hại theo nghĩa
rộng của từ này. Những người theo quan điểm này cho rằng trong thực tế
hành vi phạm tội không chỉ gây thiệt hại cho cá nhân, hành vi phạm tội trong
thực tế còn nhằm đến để gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức. Thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra cho cơ quan, tổ chức là rất đa dạng, không thuần tuý

9


là thiệt hại về tài sản. trong thực tế, cơ quan, tổ chức có thể bị thiệt hại về vật
chất và tinh thần, chẳng hạn như một doanh nghiệp bị giả mạo về thương
hiệu, bị vu khống làm mất uy tín trong kinh doanh.
Vâ ̣y nếu nghiêng về ý kiến cho rằng ngư ời bị hại chỉ có thể là cá nhân
thì cơ quan, tổ chức bị tội phạm trực tiếp xâm hại sẽ tham gia tố tụng với tư
cách gì? Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam quy đinh
̣ trong trư ờng hợp này cơ
quan hay tổ chức bị tội phạm xâm hại thì tham gia tố tụng với tư cách là
nguyên đơn dân sự khi có đơn yêu cầu. Quy định này chưa được hợp lý,
không phù hơ ̣p với thực tiễn bởi lẽ:
Thứ nhất, đối với các cơ quan, tổ chức mà tài sản thuộc về sở hữu nhà
nước khi bị tội phạm gây thiệt hại, cơ quan, tổ chức đó không có đơn yêu cầu
thì họ sẽ tham gia tố tụng với tư cách gì? Tài sản của nhà nước liệu được đảm
bảo? Vậy khi tham gia tố tụng toà án có đưa họ vào tham gia tố tụng không và

với tư cách gì?
Thứ hai, dưới góc độ quyền và nghĩa vụ, có thể thấy người bị hại không
chỉ là người bị tội phạm gây thiệt hại mà họ còn là chủ thể của quan hệ pháp
luật tố tụng hình sự, là chủ thể của quyền con người trong tư pháp hình sự. Do
vậy, khái niệm người bị hại cũng cần phải được xem xét trên cơ sở quyền và
nghĩa vụ pháp lý [22].
Như vâ ̣y , nếu không coi cơ quan, tổ chức là người bị hại sẽ vi phạm
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án và nguyên tắc tranh tụng.
Điều này thể hiện sự bất bình đẳng giữa cá nhân và cơ quan, tổ chức, vì cơ
quan, tổ chức phải có đơn yêu cầu mới được tham gia tố tụng mà tham gia với
tư cách là nguyên đơn dân sự và nguyên đơn dân sự thì lại không có quyền
kháng cáo về hình phạt, chỉ có quyền kháng cáo về bồi thường. Điều này còn
tạo nên sự khác biệt và bất bình đẳng đối với bị cáo và đối tượng được bảo vệ.
Phải chăng có sự không công bằng trong việc bảo vệ tài sản của cá nhân và cơ

10


quan, tổ chức. Có sự không công bằng giữa bị cáo gây thiệt hại cho cá nhân
và pháp nhân , tổ chức. Cầ n coi ngư ời bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị
thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra, được cơ quan có
thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật, có quyền và nghĩa vụ
pháp lý được pháp luật bảo đảm thực hiện, từ đó xác đinh
̣ đúng điạ vi ̣phá p lý
của họ trong tố tụng hình sự.
1.1.2. Vai trò của ngƣời bi ̣haị trong tố tụng hình sƣ̣
Cũng cần nhấn mạnh rằng , vai trò của người bị hại trong tố tụng hình
sự không phải là thu ̣ đô ̣ng , mà trái lại , có sự chủ động nh ất đinh.
̣ Xét theo
chức năng của tố tu ̣ng hin

̀ h sự và vai trò của các chủ thể tham gia tố tu ̣ng

,

người bi ̣ha ̣i (hoă ̣c đa ̣i diê ̣n hơ ̣p pháp của ho ̣ ) trước hế t đươ ̣c thể hiê ̣n ở việc
buộc tội, thông qua việc đóng góp của họ vào quá trình giải quyết vụ án đó là
buộc tội (nhân danh cá nhân) người đã gây thiệt hại cho mình đồng thời yêu
cầu người gây thiệt hại phải bồi thường và khắc phục thiệt hại do tội phạm
gây ra. Trong tố tụng hình sự mô ̣t số quố c gia , bên ca ̣nh khái niê ̣m công tố ,
viê ̣c buộc tội nhân danh cá nhân được gọi là tư tố (Liên bang Nga, Trung
Quố c, Phầ n Lan, mô ̣t số bang của Hoa Kỳ...). Viê ̣c cơ quan công tố nhân danh
lợi ích công cộng , lợi ích Nhà nước để truy cứu trách nhiê ̣m hình sự mô ̣t
người pha ̣m tô ̣i nhằ m bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức , cá
nhân… là hoa ̣t đô ̣ng công tố . Tuy nhiên, trong thực tế pháp luật quy định
trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, tạo khả năng
và điều kiện cho người bị hại được tự do lựa chọn cách giải quyết, hoặc là yêu
cầu pháp luật can thiệp hoặc là tự dàn xếp với người đã gây thiệt hại cho mình
một cách ổn thoả, đó là tư tố . Tố tụng hình sự Việt Nam chỉ quy định thủ tục
công tố cho tất cả các vụ án hình sự. Điều đó có nghĩa là việc khởi tố, trừ một
số trường hợp phải có yêu cầu của người bị hại, thì đều do cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và Toà án thực hiện, còn việc truy tố hình sự, thực hành quyền

11


công tố trước toà chỉ thuộc thẩm quyền, chức năng của Viện kiểm sát. Tố
tụng hình sự của chúng ta không áp dụng thủ tục tư tố, không cho phép người
bị hại quyền truy tố hình sự và thực hiện việc buộc tội trước toà. Tuy nhiên,
cũng có ý kiến cho rằng, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì việc quy định trong một
số trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại có thể coi là tư

tố. Bởi lẽ chức năng buộc tội trong tố tụng hình sự là chức năng của Viện
kiểm sát thay mặt Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội, nhưng quyền buộc tội cá nhân vẫn được tôn trọng ở mức độ nhất định.
Như vậy, không giống quyền công tố, với quyền tư tố, pháp luật cho phép sự
thể hiện ý chí cá nhân của người bị hại trong việc tự giải quyết các sự việc
gây thiệt hại cho chính mình trong giới hạn nhất định mà xã hội và cộng đồng
có thể chấp nhận được. Đó là sự tự định đoạt của người bị hại đối với người
đã gây ra thiệt hại cho mình, nói cách khác họ có thể thoả thuận, hoà giải với
nhau xem có nên đưa vụ án ra toà để giải quyết hay không.
Hai là, vai trò của người bị hại trong việc xác định sự thật khách quan
của vụ án. Ngoài vai trò buộc tội, người bị hại còn có vai trò tích cực trong
việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Điều này thể hiện ở việc khai báo
những tình tiết liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự…; vai trò bảo vệ
lợi ích cá nhân trong vụ án hình sự thông qua quyền yêu cầu khởi kiện dân sự
trong vụ án hình sự. Việc người bị hại khai báo những tình tiết liên quan giúp
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc điều tra, khám phá tội phạm, thu thập
chứng cứ để làm sáng tỏ những vấn đề cần chứng minh nhằm giải quyết đúng
đắn vụ án hình sự.
Để tìm hiể u điạ vi ̣pháp lý của người bi ̣ha ̣i, cầ n xem xét đế n mố i tương
quan giữa người bi ̣ha ̣i với các c hủ thể tham gia tố tụng hình sự bao gồm
nhiều tư cách tố tụng khác nhau và được phân thành các nhóm như cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; cơ quan có thẩm quyền tiến hành

12


một số hoạt động điều tra…; người tham gia tố tụng có quyền lợi pháp lý liên
quan (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án); người bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự; và người tham gia tố tụng không

có quyền lợi pháp lý liên quan như người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch và chủ thể khác. Tuy nhiên cách phân chia này chưa chỉ rõ được sự
khác nhau về mục đích và hướng tham gia tố tụng của các chủ thể cũng như
vai trò, chức năng của từng chủ thể trong tố tụng hình sự. Ví dụ đều là cơ
quan tiến hành tố tụng nhưng Viện kiểm sát và Tòa án lại thực hiện các chức
năng tố tụng khác nhau. Hoặc đều là người tham gia tố tụng có quyền lợi
pháp lý liên quan nhưng bị can, bị cáo và người bị hại tham gia tố tụng với
mục đích không như nhau. Vì vậy để làm rõ vị trí của người bị hại cần có
cách tiếp cận khác về vị trí của các chủ thể trong tố tụng hình sự, đó là dựa
vào mục đích, nhiệm vụ, chức năng… của các chủ thể. Để xác định được vị
trí của người bị hại, trước hết chúng ta phải xác định người bị hại thuộc nhóm
nào và mối quan hệ giữa họ với các chủ thể còn lại.
Tiếp cận theo cách phân chia này thì nhóm thứ nhất gồm người bị thiệt
hại do tội phạm gây ra, đó là người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền
lợi liên quan đến vụ án và người bảo vệ quyền lợi của họ. Những chủ thể này
tham gia với mục đích buộc tội người gây thiệt hại và yêu cầu được bồi
thường thiệt hại. Cùng với những người nói trên, nhóm này còn có những chủ
thể đại diện cho nhà nước có quyền tiến hành các hoạt động tố tụng nhằm truy
cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội đối với người thực hiện hành vi phạm tội
như cơ quan điều tra, viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng của cơ
quan này. Tuy nhiên mục đích của họ lại hướng tới việc buộc tội nhằm cải tạo
giáo dục, trừng trị người phạm tội chứ không nhằm để được bồi thường hay
khắc phục thiệt hại do tội phạm gây ra [22].

13


Nhóm chủ thể thứ hai có vị trí tố tụng đối lập với người bị hại, đó là
người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), người có
trách nhiệm bồi thường thiệt hai do hành vi phạm tội gây ra như bị đơn dân

sự, người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa…
Nhóm chủ thể thứ ba là Tòa án, Chánh án, Phó Chánh án tòa án, Thẩm
phán, Hội thẩm và Thư ký Tòa án có nhiệm vụ giải quyết vụ án (Hội đồng xét
xử), tức là có vị trí trọng tài nhằm giải quyết vụ án một cách khách quan và
công bằng.
Ngoài ra, còn một nhóm chủ thể nữa là những người tham gia tố tụng
nhằm hỗ trợ và giúp cơ quan có thẩm quyền làm rõ chứng cứ và xác định sự
thật khách quan của vụ án như người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch. Khác với những nhóm trên, các chủ thể trong nhóm này không có
quyền và lợi ích liên quan đến vụ án. Với cách tiếp cận này người bị hại có
vi trí độc lập với nhóm chủ thể bị buộc tội và bị đơn dân sự. Người bị hại
có thể được coi là chủ thể cùng bên với cơ quan điều tra, viện kiểm sát
nhưng lại có địa vị tố tụng độc lập. Trong quan hệ với Tòa án, người bị hại
được coi là một trong những bên tranh tụng thực hiện quyền buộc tội, yêu
cầu bồi thường thiệt hại [41, tr.58].
Với tư cách là người tham gia tố tu ̣ng hìn h sự, điạ vi ̣pháp lý của người
bị hại bị chi phối bởi nhiều yếu tố như : như đă ̣c điể m của mô hình tố tu ̣ng
hình sự thẩ m vấ n hay tranh tu ̣ng , kế t hơ ̣p giữa mô hình thẩ m vấ n và mô hình
tranh tu ̣ng ; quan niê ̣m về người bi ̣ha ̣i trong tố tu ̣ng hình sự (cá nhân h oặc
pháp nhân , cả pháp nhân và cá nhân ); mố i tương quan giữa người bi ̣ha ̣i và
các chủ thể khác tham gia tố tụng hình sự ; hê ̣ thố ng quy đinh
̣ pháp luâ ̣t về t ố
tụng hình sự hiện hành ... . Sự tác động của các yếu tố nói trên dẫn đến sự
khác biệt giữa địa vị pháp lý của với địa vị pháp lý của người bi ̣ha ̣i với những
người tham gia tố tu ̣ng khác như bi ̣can, bị cáo, người có quyề n và lơ ̣i ić h liên

14


quan đế n vu ̣ án , luâ ̣t sư , người bà o chữa , và lại càng khác với các chủ thể

tham gia tố tu ̣ng khác.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm địa vị pháp lý của người bị
hại như sau: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự là tổng thể
các quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng được pháp luật tố tụng
hình sự quy định và bảo đảm thực hiện.
1.2. Nô ̣i dung điạ vi pha
̣ ́ p lý của ngƣời bi ha
̣ ̣i trong tố tu ̣ng hin
̀ h sƣ̣
1.2.1. Quyền của ngƣời bị hại
Trong tố tụng hình sự, người bị hại là chủ thể của quan hệ pháp luật
cũng như các chủ thể khác có quyền nhất định. Tuy nhiên, do tư cách tố tụng
của mình nên người bị hại có một số quyền giống và một số quyền khác mà
những người tham gia tố tụng khác không có.
Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự chưa được định nghĩa
trong giáo trình luật tố tụng hình sự của các cơ sở đào tạo luật một cách cụ
thể. Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự là sự cụ thể hóa các quyền
con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự được quy định dành cho người bị
hại khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Đây được coi là tiêu chuẩn
nhân quyền trong tư pháp hình sự. Theo nghiên cứu của chúng tôi, hiện nay
có nhiều công trình nghiên cứu khái niệm quyền con người trong tố tụng hình
sự nhưng chủ yếu tập trung vào quyền của người bị buộc tội mà ít quan tâm
đến quyền của người bị hại.
Học viên cho rằng: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự là
những quyền con người dành cho người bị thiệt hại (cá nhân, cơ quan, tổ
chức) do tội trực tiếp gây ra khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự.
Khác với quyền con người nói chung, quyền của người bị hại trong tố
tụng hình sự là quyền có điều kiện chỉ phát sinh khi cá nhân, cơ quan hoặc tổ
chức bị hành vi phạm tội trực tiếp gây thiệt hại và họ tham gia chủ động hay
bị động vào quá trình tố tụng [22, tr.54].

15


Là người bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại, người bị hại phải gánh chịu
những hậu quả do tội phạm gây ra mà họ hoàn toàn không mong muốn. Tuy
nhiên, người bị hại chỉ tham gia tố tụng trong trường hợp được cơ quan có
thẩm quyền thừa nhận bằng một quyết định tố tụng dưới các hình thức khác
nhau tùy theo mỗi quốc gia.
Một là, quyền buộc tội, quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự: Buộc tội
là hoạt động tố tụng hướng đến việc xác định có tội phạm xảy ra, người thực
hiện hành vi phạm tội và lỗi của họ trong việc thực hiện hành vi phạm tội,
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt được áp dụng… Trong tố
tụng hình sự, quyền buộc tội thuộc về Nhà nước (quyền truy cứu trách nhiệm
hình sự) nhằm giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân khi tội phạm
xảy ra qua đó bảo vệ lợi ích của nhà nước bị xâm hại. Ở một số nước trên thế
giới quyền buộc tội còn thuộc về người bị hại hay còn gọi là tư tố. Là người
bị thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra nên người bị hại có quyền buộc tội
nhân danh cá nhân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ở Việt
Nam, BLTTHS năm 2003 không quy định quyền buộc tội của người bị hại
nhưng có quy định quyền này trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại, đó là quyền trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thì quyền buộc
tội của người bị hại trước hết là quyền yêu cầu (hoặc rút yêu cầu) khởi tố vụ
án hình sự và quyền trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Đối với các vụ án
không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì cơ quan có
thẩm quyền nhân danh nhà nước có vai trò chính trong hoạt động buộc tội,
nhưng không phải vì thế mà người bị hại không có quyền buộc tội. Quyền
kháng cáo về hình phạt đối với bị cáo của người bị hại theo chúng tôi ở một
góc độ nào đó cũng là quyền buộc tội. Như vậy, về mặt khoa học, chúng tôi
hoàn toàn đồng ý với quan điểm cho rằng, người bị hại tham gia thực hiện


16


việc buộc tội không chỉ trong vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người đó,
mà thực tế trong tất cả các vụ án hình sự [28, tr.27]. Quyền buộc tội của người
bị hại cũng có mối quan hệ với quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu hoạt
động buộc tội không được chấp nhận thì cũng ảnh hưởng đến kết quả giải
quyết bồi thường thiệt hại.
Hai là, quyền được bồi thường: Quyền được bồi thường của người bị
hại bao gồm các quyền được đề nghị mức bồi thường và quyền đề nghị biện
pháp đảm bảo bồi thường. Trong số những người tham gia tố tụng, thì chỉ có
người bị hại có quyền kháng cáo về hình phạt. Đồng thời có quyền yêu cầu bị
can, bị cáo hoặc bị đơn dân sự bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra dưới
hình thức bồi hoàn, sửa chữa, khắc phục những thiệt hại đó. Quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại của người bị hại được bảo đảm bởi nguyên tắc giải quyết
vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Người bị hại có quyền đề nghị các biện
pháp đảm bảo bồi thường.
Ba là, quyền được tham gia tố tụng: Quyền được tham gia tố tụng của
người bị hại là các quyền như: Tham gia một số hoạt động điều tra…; tham
gia phiên tòa; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa;
Bốn là, quyền được bảo vệ: Quyền được bảo vệ gồm các quyền như
được áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tài sản… khi tham gia tố tụng; được có người bảo vệ quyền
lợi cho mình; được giữ bí mật thông tin của người bị hại…
Năm là, quyền được thông tin: Trong tố tụng hình sự, quyền được
thông tin của người bị hại thể hiện ở việc họ được giải thích quyền và nghĩa
vụ; được thông báo kết quả điều tra; được giao nhận các quyết định liên quan
đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Sáu là, quyền khiếu nại; kháng cáo bản án và quyết định chưa có hiệu

lực pháp luật của tòa án, quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng… khi

17


không đồng ý hoặc cho rằng quyết định, hành vi tố tụng của những người tiến
hành tố tụng hoặc bản án, quyết định của Tòa án là không có căn cứ.
1.2.2. Nghĩa vụ của ngƣời bị hại
Quyền và nghĩa vụ của người bị hại là bộ phận hợp thành địa vị pháp lý
của người bị hại trong tố tụng hình sự. Việc thực hiện quyền luôn luôn gắn liền
với thực hiện nghĩa vụ. Nghĩa vụ của người bị hại là cách xử sự mà người bị
hại buộc phải thực hiện khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự nhằm
đáp ứng việc thực hiện quyền của các chủ thể khác. Việc buộc người bị hại
phải thực hiện nghĩa vụ của mình nhằm đáp ứng cho việc thực hiện trách nhiệm
và quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này thể hiện nguyên tắc
thống nhất về quyền và nghĩa vụ trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân.
Nhà nước tạo mọi khả năng để người bị hại bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, đồng thời cũng đòi hỏi người bị hại thực hiện một số nghĩa vụ
nhất định nhằm bảo đảm cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Cùng với việc tham gia tố tụng với tư cách là chủ thể có quyền nhất
định để thỏa mãn ý chí, lợi ích cá nhân, thì người bị hại còn là chủ thể tham
gia tố tụng có nghĩa vụ nhất định. Đó là nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập
của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nếu từ chối khai báo mà không
có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Với nghĩa vụ này
người bị hại có vai trò gần như người làm chứng. Lời khai của người bị hại là
một trong những nguồn chứng cứ quan trọng giúp cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án để đưa ra cách giải quyết
vụ án chính xác. Việc người bị hại có nghĩa vụ khai báo xuất phát từ thực
tiễn, họ là người có thể biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án.
Những thông tin do người bị hại trình bày sẽ trở thành chứng cứ quan trọng

trong nhiều trường hợp như đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe…

18


1.3. Địa vị pháp lý của ngƣời bi ha
̣ ̣i trong Luâ ̣t tố tu ̣ng hin
̀ h sƣ̣ mô ̣t
số nƣớc trên thế giới
Trong quá trình nghiên cứu luật tố tụng hình sự của một số nước trên
thế giới chúng tôi thấy rằng, người bị hại luôn được coi là chủ thể quan trọng
của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự nhưng việc quy định về địa vị pháp lý
của họ lại không như nhau, cụ thể là một số nước coi người bị thiệt hại là nạn
nhân của tội phạm hoặc bên bị thiệt hại như các nước thuộc hệ thống luật
Châu Âu lục địa. Luật tố tụng hình sự của các nước này không đưa ra khái
niệm nạn nhân của tội phạm và cũng không phân biệt người bị hại với nguyên
đơn dân sự.
Theo BLTTHS Cộng hòa Pháp, những người có quyền nộp đơn kiện
đòi bồi thường thiệt hại được gọi là “nạn nhân” hoặc “bên dân sự”.
Theo BLTTHS của Cộng hòa liên bang Đức thì những đối tượng tham
gia vào quan hệ tố tụng hình sự để giải quyết vụ án đều là chủ thể của quan hệ
pháp luật tố tụng hình sự và giống như Luật tố tụng hình sự của Cộng hòa
Pháp, luật tố tụng hình sự của Cộng hòa liên bang Đức cũng không phân biệt
giữa người bị hại và nguyên đơn dân sự và họ có vai trò là chủ thể của quyền
tư tố, đồng thời có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuỳ theo loại người có
những vai trò khác nhau trong tố tụng hình sự mà pháp luật quy định quyền
và nghĩa vụ của họ tham gia giải quyết vụ án. Trong luật tố tụng hình sự hình
sự Cộng hòa Liên bang Đức thì người bị hại là nạn nhân của tội phạm trước
đây có vai trò không đáng kể trong tố tụng hình sự [42]. Về mặt hình phạt của
tội phạm, lợi ích của họ được coi là phụ so với lợi ích công chúng và vai trò

của họ đơn thuần chỉ là nguyên đơn kiện bồi thường các thiệt hại về dân sự.
Địa vị pháp lý của người bị hại đã được cải thiện một cách đáng kể với sự ra
đời của Luật bảo vệ nạn nhân năm 1986 mà theo đó luật tố tụng hình sự cũng
đã sửa đổi. Sự tham gia của người bị hại trong tiến trình tố tụng được quy

19


×