Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.95 MB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH THU HIỀN

ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH THU HIỀN

ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế


Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Thị Lan Anh

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn
Đinh Thu Hiền


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Biểu đồ 01

Thống kê số vụ tranh chấp từ năm 1993 đến 2016 tại VIAC

Biểu đồ 02

Tỷ lệ các loại tranh chấp được giải quyết tại VIAC năm 2016


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI ................. 6
1.1. Khái quát về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .................... 6
1.1.1. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .................................. 6
1.1.1.1. Khái niệm, đăc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế............ 6
1.1.1.2. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ...........................10
1.1.1.3. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
...........................................................................................................................11
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .17
1.1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế...............17
1.1.2.2. Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .........19
1.1.3. Các dạng tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế điển hình và
nguyên nhân phát sinh ......................................................................................21
1.1.3.1. Các dạng tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế................21
1.1.3.2. Những nguyên nhân phát sinh tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế ...............................................................................................................24
1.1.4. Các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế ...............................................................................................................26
1.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài ...30
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
bằng trọng tài và những ưu điểm so với các phương thức khác ......................30
1.2.2. Các hình thức trọng tài thương mại .......................................................33
1.2.3. Luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế bằng trọng tài .......................................................................................34
1.2.3.1. Luật áp dụng cho nội dung tranh chấp ................................................34


1.2.3.2. Luật áp dụng cho quá trình tố tụng trọng tài ......................................35
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG
TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM..........................................................................38
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài .................................................................38
2.1.1. Điều kiện để giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
bằng trọng tài ....................................................................................................38
2.1.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
của trọng tài ......................................................................................................40
2.1.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa bằng
trọng tài .............................................................................................................43
2.1.3.1. Nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên tranh chấp...................44
2.1.3.2. Nguyên tắc Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân
theo quy định của pháp luật ..............................................................................45
2.1.3.3. Nguyên tắc các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.46
2.1.3.4. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp không công khai ............................46
2.1.3.5. Nguyên tắc phán quyết trọng tài là chung thẩm ..................................47
2.1.4. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế bằng trọng tài .......................................................................................48
2.1.4.1. Nộp đơn kiện và thụ lí đơn kiện ...........................................................48
2.1.4.2. Thành lập Hội đồng trọng tài ..............................................................49
2.1.4.3. Hòa giải ...............................................................................................51
2.1.4.4. Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp ............................................52
2.1.4.5. Ra phán quyết trọng tài........................................................................53
2.1.5. Thi hành phán quyết trọng tài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế ........................................................................................54
2.1.6. Sự hỗ trợ của Toà án đối với hoạt động trọng tài trong giải quyết tranh
chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .......................................................59


2.1.6.1. Tòa án hỗ trợ chỉ định, thay đổi Trọng tài viên đối với Trọng tài vụ việc .59

2.1.6.2. Tòa án hỗ trợ xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài ..................................................61
2.1.6.3. Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ, triệu tập nhân
chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời .......................................62
2.1.6.4. Tòa án hỗ trợ đăng ký phán quyết Trọng tài vụ việc ...........................63
2.1.6.5. Tòa án hỗ trợ trong việc hủy phán quyết trọng tài ..............................64
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng
trọng tài tại Việt Nam .......................................................................................66
2.2.1. Khái quát tình hình giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế bằng trọng tài hiện nay ........................................................................66
2.2.2. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của thực trạng giải quyết
tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam
hiện nay .............................................................................................................70
2.2.2.1. Những hạn chế còn tồn tại ...................................................................70
2.2.2.2. Nguyên nhân ........................................................................................72
Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ TĂNG
CƯỜNG HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI ......................................74
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và tăng cường hiệu quả giải quyết
tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài .......................74
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài .................................................................75
3.3. Các giải pháp tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật về giải quyết tranh
chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài.................................79
KẾT LUẬN .........................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Giới thiệu khái quát về đề tài và tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay đang phát triển theo xu hướng
hội nhập toàn cầu, các nước không ngừng thúc đẩy phát triển kinh tế, mở rộng
thị trường, tăng cường hoạt động hợp tác với nước ngoài, thiết lập mạng lưới liên
kết đa quốc gia, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, tiến tới
phát triển mối quan hệ hợp tác cùng có lợi. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ,
Đảng và Nhà nước ta đề cao chủ trương quốc tế hoá nền kinh tế, mở rộng phát
triển nền kinh tế thị trường đa dạng hóa thành phần, đa phương, đa lĩnh vực dưới
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và tất nhiên, cùng
với một nền kinh tế phức hợp, việc giao lưu mua bán hàng hóa quốc tế cũng trở
nên phức tạp, mối quan hệ thương mại quốc tế dưới tác động trực tiếp của quy
luật cạnh tranh không tránh khỏi những tranh chấp. Số vụ tranh chấp trong kinh
doanh, thương mại quốc tế tăng qua các năm và có xu hướng tăng cao trong
những năm gần đây. Những tranh chấp này ngày càng trở nên đa dạng về loại
hình, phức tạp về tính chất và quy mô, đòi hỏi các bên phải lựa chọn phương
thức giải quyết phù hợp nhất, hiệu quả nhất nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chính mình, đồng thời cũng bảo vệ quyền và lợi ích chung của xã hội,
qua đó tạo môi trường pháp lý lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế
xã hội của từng quốc gia.
Phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế bằng trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp đã xuất hiện từ rất
sớm và ngày càng thể hiện nhiều ưu điểm phù hợp với xu thế phát triển, được sử
dụng phổ biến ở các quốc gia phát triển trên thế giới. Ở Việt Nam, phương thức
giải quyết tranh chấp này cũng được các nhà làm luật chú trọng. Ngày
17/06/2010, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Trọng tài
thương mại, thay thế Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, một bước hoàn
thiện quan trọng về thể chế tổ chức và hoạt động của Trọng tài thương mại tại


2

Việt Nam, tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc cho hoạt động giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài.
Tuy nhiên, trước diễn biến phức tạp của những tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong tình hình hiện nay, pháp luật giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài tỏ ra khá hạn chế, tồn tại nhiều quy định chưa rõ ràng,
chưa dự liệu hết những trường hợp xảy ra trên thực tế, cũng như chưa theo kịp
tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Hơn thế nữa, hiện tại nước ta mới gia nhập
Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, những vấn đề cấp
thiết đặt ra trong thực tiễn đòi hỏi cần có những công trình nghiên cứu mới có hệ
thống về pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
bằng trọng tài nhằm tiến tới đổi mới một cách sâu sắc, toàn diện hệ thống pháp
luật về trọng tài thương mại cho phù hợp với tính chất và đặc điểm của quan hệ
mua bán hàng hóa quốc tế trong điều kiện mới, đồng thời đưa ra được các kiến
nghị hoàn thiện pháp luật, các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của việc
giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài phù
hợp với tiến trình hội nhập. Đó cũng là lý do tác giả đã lựa chọn đề tài: “Pháp
luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng
tài” để nghiên cứu trong khuôn khổ Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề pháp lý về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và pháp luật
giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài là vấn đề có tính thời sự
cao nên từ trước tới nay có rất nhiều các công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác
nhau như Luận án, Luận văn, Khóa luận hay các bài báo, tạp chí chuyên ngành.
Có thể kể đến một vài công trình nghiên cứu như:
“Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn thi hành tại
tỉnh Sơn La” của tác giả Nguyễn Văn May (Luận văn thạc sĩ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội, 2016); “Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng
trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Trần
Minh Ngọc (Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009); “Giải



3
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa” của tác giả
Thái Tăng Bang (Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1999).
Tuy nhiên, những nghiên cứu mang tính tổng thể và đề cập trực tiếp đến
vấn đề pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
bằng trọng tài khá hạn chế. Sau khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 được
ban hành, chỉ có một nghiên cứu ở cấp độ Khóa luận tốt nghiệp của Đặng Thùy
Dương, Trường Đại học Luật Hà Nội: “Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” năm 2016, tuy nhiên khóa luận này còn chưa thực sự toàn diện. Vì thế, có
thể nói đây là một đề tài rất mới nên tác giả lựa chọn để nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế, các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài; và
thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật đó.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là một vấn đề khá rộng,
liên quan đến nhiều lĩnh vực và có nhiều loại chủ thể tham gia. Tuy nhiên, để bài
nghiên cứu được tập trung và sâu sát hơn, Luận văn giới hạn nội dung nghiên
cứu về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài
theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng chủ yếu tại Trung tâm trọng tài
quốc tế tại Việt Nam trong thời gian qua.
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là phân tích các vấn đề pháp lý cơ bản
nhất về việc giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng
trọng tài, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về

giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam phù hợp với


4
thông lệ quốc tế, theo kịp tiến trình hội nhập phát triển kinh tế toàn cầu, và một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm trọng tài
thương mại ở Việt Nam, để trọng tài trở thành phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế hữu hiệu.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tiếp cận cơ sở lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại nói chung, giải
quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài nói riêng;
Tiếp cận để làm rõ những ưu điểm, hạn chế, bất hợp lý còn tồn tại trong hệ
thống pháp luật cũng như trong thực tiễn thực hiện giải quyết tranh chấp về hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam hiện nay;
Đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật và tăng cường hiệu quả giải
quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam.
5. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong quản lý Nhà nước nói
chung và quản lý Nhà nước với hoạt động trọng tài thương mại nói riêng, để
thực hiện được những mục tiêu nghiên cứu đặt ra, Luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: Phương pháp luận chủ nghĩa Mác
Lênin, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra một số
phương pháp phổ biến khác cũng được sử dụng, đó là phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp nghiên cứu
lý luận và thực tiễn… được dùng để thực hiện đề tài này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa khoa học:
Luận văn đã phân tích, chỉ rõ đặc thù pháp luật áp dụng giải quyết tranh
chấp hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài, đưa ra những đánh giá
ưu điểm, hạn chế của các quy định đó, đồng thời có sự so sánh giữa các phương

thức chung trong việc điều chỉnh luật áp dụng theo pháp luật quốc gia và pháp
luật quốc tế. Từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật còn tồn tại
hạn chế, tiến tới xây dựng một hệ thống pháp luật toàn diện, thống nhất. Luận


5
văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu pháp luật về giải
quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài tại các cơ sở
giáo dục đại học ngành luật.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn thống kê tình hình giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam, kết hợp nhận xét, đánh giá, chỉ rõ những
điểm bất cập còn tồn tại xảy ra trên thực tế. Qua đây cũng đưa ra những kiến
nghị để tăng cường hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế bằng trọng tài dưới sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước hữu quan, sự
phối kết hợp của các cá nhân, tổ chức liên quan. Từ đó, góp phần giúp các doanh
nghiệp có cái nhìn đúng đắn, thực tế hơn để có thể áp dụng pháp luật và thực
hiện quan hệ hợp đồng mua bán quốc tế hiệu quả, tự bảo vệ được quyền và lợi
ích của mình.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
kết cấu thành ba chương, gồm:
Chương 1: Khái quát chung về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế và giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng cường hiệu quả
giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài.



6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA QUỐC TẾ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI
1.1. Khái quát về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.1. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.1.1. Khái niệm, đăc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
a) Khái niệm
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là một trong những loại hợp đồng
thương mại quốc tế. Hợp đồng thương mại quốc tế là sự thỏa thuận giữa các bên
về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ thương mại quốc tế.
Hợp đồng thương mại quốc tế có rất nhiều loại, chẳng hạn như hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng cung ứng dịch vụ, hợp đồng chuyển giao công
nghệ... Trong đó, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là loại hợp đồng thường
gặp nhất có liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp1.
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế còn được gọi là hợp đồng mua bán
ngoại thương hoặc hợp đồng xuất nhập khẩu, là hợp đồng mua bán hàng hoá có
tính chất quốc tế hay nói cách khác là có yếu tố nước ngoài. Tính chất quốc tế
của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được hiểu không giống nhau tuỳ theo
quan điểm của luật pháp từng nước.
- Theo hai Công ước La Haye do Viện nghiên cứu quốc tế về thống nhất
luật tư - Unidroit cho ra đời năm 1964, một Công ước có tên là “Luật thống nhất
về thiết lập hợp đồng mua bán quốc tế các động sản hữu hình”, Công ước thứ
hai là về “Luật thống nhất cho mua bán quốc tế các động sản hữu hình” thì tính
chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thể hiện ở các tiêu chí như:
1

Nguyễn Xuân Công (2009), “Hợp đồng Thương mại Quốc tế - Những nội dung doanh nghiệp cần quan

tâm”, Trang thông tin điện tử Bộ Tư pháp, tại địa chỉ: ngày truy cập 13/05/2017


7
các bên giao kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng hoá, đối
tượng của hợp đồng được chuyển qua biên giới một nước, hoặc là việc trao đổi ý
chí giao kết hợp đồng giữa các bên được lập ở những nước khác nhau (Điều 1
của Công ước “Luật thống nhất về thiết lập hợp đồng mua bán quốc tế các động
sản hữu hình”). Nội dung Công ước còn nêu rõ nếu các bên giao kết không có
trụ sở thương mại thì sẽ dựa vào nơi cư trú thường xuyên của họ. Yếu tố quốc
tịch của các bên không có ý nghĩa trong việc xác định yếu tố nước ngoài của hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Theo Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
(viết tắt theo tên tiếng Anh là CISG - Convention on Contracts for International
Sales of Goods) được soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương
mại quốc tế (UNCITRAL) thì tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế được xác định chỉ bởi một tiêu chuẩn duy nhất, đó là các bên giao kết
hợp đồng có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau (Điều 1 Công ước Viên
năm 1980). Và, giống như Công ước La Haye năm 1964, Công ước Viên năm
1980 cũng không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định tính
chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, tuy nhiên Công ước Viên
năm 1980 không đưa ra tiêu chí hàng hoá phải được chuyển qua biên giới của
một nước để xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Theo quan điểm của Việt Nam, hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế được
quy định tại Điều 27 Luật thương mại năm 2005, theo đó:
“Điều 27. Mua bán hàng hoá quốc tế
1. Mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu,
nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.
2. Mua bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng
bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”.

Có thể thấy Luật Thương mại năm 2005 không đưa ra tiêu chí để xác định
tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhưng lại liệt kê
những hoạt động được coi là mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm xuất khẩu, nhập


8
khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu. Trong đó, “Xuất
khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa
vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan
riêng theo quy định của pháp luật” (Khoản 1 Điều 28 Luật Thương mại 2005).
“Nhập khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước
ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực
hải quan riêng theo quy định của pháp luật” (Khoản 2 Điều 28 Luật Thương mại
2005). “Tạm nhập, tái xuất hàng hoá là việc hàng hoá được đưa từ lãnh thổ
nước ngoài hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam, có làm thủ tục
nhập khẩu vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi
Việt Nam” (Khoản 1 Điều 29 Luật Thương mại 2005). “Tạm xuất, tái nhập hàng
hoá là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt
nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định
của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập
khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam” (Khoản 2 Điều 29 Luật Thương mại
2005). “Chuyển khẩu hàng hoá là việc mua hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để
bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm thủ
tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam”
(Khoản 1 Điều 30 Luật Thương mại 2005).
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 đã sử dụng tiêu chí hàng hóa phải là
động sản; có thể được di chuyển qua biên giới của Việt Nam hoặc qua biên giới
của một nước, vùng lãnh thổ; hoặc di chuyển qua khu chế xuất, khu vực hải quan
riêng... để xem xét tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, yếu tố

di chuyển qua biên giới tạo nên sự khác biệt so với CISG.
Như vậy, có thể thấy theo Luật quốc tế hay Luật quốc gia của Việt Nam thì đối
tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều phải là động sản, nếu đối tượng
của hợp đồng mua bán là bất động sản thì hợp đồng đó không phải là hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế cho dù bất động sản được bán cho người nước ngoài.


9
b) Đặc điểm
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một dạng hợp đồng mua bán đặc
biệt, có những đặc điểm đặc trưng riêng mà những hợp đồng mua bán hàng hóa
thông thường trong nước không có. Những đặc điểm riêng biệt của hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế gồm:
- Về chủ thể: Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các bên,
có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau.
- Về đối tượng của hợp đồng: Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế là động sản, tức là hàng hóa có thể dịch chuyển qua biên giới của một
nước, vùng lãnh thổ.
- Về đồng tiền thanh toán: Đồng tiền dùng để thanh toán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế có thể là nội tệ hoặc có thể là ngoại tệ đối với các bên.
Ví dụ: Hợp đồng mua bán được giao kết giữa người bán Việt Nam và người mua
Nhật Bản, hai bên thoả thuận sử dụng đồng Yên làm đồng tiền thanh toán. Lúc
này, đồng Yên là ngoại tệ đối với phía người bán Việt Nam nhưng lại là nội tệ
đối với người mua Nhật Bản. Các bên cũng có thể thỏa thuận sử dụng đồng Đô
la Mỹ là ngoại tệ đối với cả hai bên để thanh toán.
- Về ngôn ngữ của hợp đồng: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường
được ký kết bằng ngôn ngữ phổ biến quốc tế là tiếng Anh. Ngoài ra các bên cũng
có thể sử dụng song ngữ gồm cả tiếng của bên bán và tiếng của bên mua để xây
dựng hợp đồng.
- Về luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng: Luật điều chỉnh hay luật áp dụng đối

với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế khá đa dạng và phức tạp. Hợp đồng có
thể phải chịu sự điều chỉnh của luật nước người bán hoặc luật nước người mua
hoặc luật của nước nơi ký kết hay thực hiện hợp đồng, thậm chí còn phải chịu sự
điều chỉnh của điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế hoặc cả án lệ.
- Về giải quyết tranh chấp: Các tranh chấp phát sinh từ việc giao kết và thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể được giải quyết tại Tòa án hoặc
Trọng tài tùy theo sự lựa chọn thỏa thuận của các bên.


10
1.1.1.2. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Khi nói đến hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thường có
hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có thể được ký
kết bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi hay bằng bất kỳ hình thức nào khác
do các bên tự do thoả thuận. Các nước theo quan điểm này hầu hết là các nước
có nền kinh tế thị trường phát triển như Anh, Pháp, Mỹ...
Quan điểm thứ hai: Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được ký kết
dưới hình thức văn bản. Những nước nêu ra quan điểm này chủ yếu là một số
nước có nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam. Tại Khoản 2 Điều 27 Luật
Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Mua bán hàng hoá quốc tế phải
được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng các hình thức có
giá trị pháp lý tương đương”.
Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải lựa
chọn sự dung hòa bằng cách đưa vào những quy định theo hướng công nhận cả
hai điều khoản liên quan đến hình thức của hợp đồng. Tại Điều 11 của Công ước
quy định rằng hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có thể được ký kết bằng lời
nói và không cần thiết phải tuân thủ bất kỳ yêu cầu nào khác về mặt hình thức
của hợp đồng. Còn Điều 96 của Công ước lại cho phép các quốc gia được quyền
bảo lưu, không áp dụng Điều 11 nếu luật pháp của quốc gia đó quy định hình

thức văn bản là bắt buộc đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Rõ ràng ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với các đối tác nước ngoài dưới
hình thức văn bản đảm bảo an toàn và quyền lợi cho các doanh nghiệp hơn hẳn.
Ký bằng văn bản sẽ giúp các bên có được bằng chứng đầy đủ khi phải tham gia
tranh tụng trong trường hợp có tranh chấp phát sinh. Ký bằng văn bản sẽ tạo điều
kiện cho sự kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng có hiệu quả hơn. Ký hợp
đồng bằng văn bản còn giúp các bên theo dõi nội dung đã cam kết và dễ dàng
thỏa thuận bổ sung các cam kết nhỏ đính kèm khi cần thiết.


11
Bên cạnh đó, hình thức hợp đồng có giá trị pháp lý tương đương văn bản
cũng cần được chú ý. Pháp luật thương mại Việt Nam quy định: “Các hình thức
có giá trị pháp lý tương đương ở đây bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ
liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật” (Khoản 15 Điều 3 Luật
Thương mại Việt Nam năm 2005). Trong số các hình thức tương đương này,
hình thức chủ yếu được ký là dạng hợp đồng điện tử. Điều 33 Luật Giao dịch
điện tử năm 2005 quy định: “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới
dạng thông điệp dữ liệu…”. Tuy nhiên, đối với các hợp đồng điện tử như vậy,
các doanh nghiệp cần lưu ý đến những rủi ro cả về mặt kỹ thuật, mặt thương mại
cũng như cả về mặt pháp lý, bên cạnh những tiện ích mà hợp đồng điện tử mang
lại. Có thể kể đến những rủi ro phổ biến như: chủ thể ký kết hợp đồng bị mạo
danh bởi một người nào đó không có thẩm quyền về mặt pháp lý, vấn đề bảo mật
trong lưu trữ chữ ký điện tử, doanh nghiệp có thể bị giả mạo ký kết hợp đồng ảo
gây mất danh tiếng hay phải thực hiện những hợp đồng không phải do mình ký,
đối tác không tin tưởng…, nếu có tranh chấp xảy ra, bất lợi sẽ rơi vào doanh
nghiệp không có khả năng bảo mật và kiểm soát việc sử dụng các phương tiện
điện tử.
1.1.1.3. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Theo Từ điển Black Law Dictionary, “Trong phạm vi nghiên cứu pháp lí,

thuật ngữ “các nguồn của pháp luật” nói đến 3 khái niệm khác nhau mà có thể
phân biệt được. Một, nguồn của pháp luật có thể nói đến nguồn gốc của các khái
niệm và tư tưởng pháp lí… Hai, nguồn pháp luật có thể nói đến các cơ quan, tổ
chức chính phủ mà đã tạo ra các quy định pháp luật… Ba, nguồn của pháp luật
có thể nói đến những quy định pháp luật đã được công bố rõ ràng. Những cuốn
sách, những cơ sở dữ liệu máy tính, những đĩa máy tính và tất cả những phương
tiện thông tin khác mà có chứa đựng các thông tin về pháp luật thì đều là nguồn
của pháp luật”2. Như vậy, theo Từ điển này thì nguồn của pháp luật là khái niệm
rộng, có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và có thể được xem xét dưới
2

Bryan A. Garner (1999), Black’s Law Dictionary Seventh Edition, West Group, tr. 1401.


12
nhiều góc độ khác nhau. Theo nghĩa hẹp, nguồn của pháp luật là khái niệm dùng
để chỉ tất cả những nơi có chứa đựng các quy định mà các thẩm phán có thể dựa
vào đó để giải quyết vụ án. Theo nghĩa rộng, nói đến nguồn của pháp luật là nói
đến nguồn gốc của các khái niệm, các tư tưởng pháp lí; các chủ thể có thẩm quyền
ban hành pháp luật; các quy định của pháp luật; nơi chứa đựng các quy định của
pháp luật nói chung và các quy định về hiệu lực của các đạo luật và các quyết định
của toà án; điểm khởi nguồn của pháp luật hoặc sự phân tích pháp lí3…
Trong khoa học pháp lí ở Việt Nam hiện nay, tồn tại một số quan niệm khác
nhau về nguồn pháp luật. Có quan điểm cho rằng, nguồn pháp luật là tất cả các
căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ sở xây dựng, thực hiện
pháp luật cũng như áp dụng để giải quyết những vụ việc pháp lí xảy ra trên thực
tiễn. Theo quan điểm này, nguồn pháp luật gồm nguồn nội dung và nguồn hình
thức. Nguồn nội dung của pháp luật là xuất xứ, là căn nguyên, chất liệu làm nên
các quy định cụ thể của pháp luật, đó là các yếu tố kinh tế, chính trị, tư tưởng,
văn hoá… của đời sống. Nguồn hình thức của pháp luật được hiểu là phương

thức tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi
có thể cung cấp các quy phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể có
thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp lí xảy ra trong thực tế.
Xuất phát từ quan niệm về nguồn pháp luật và giá trị của từng loại nguồn
pháp luật mà ở mỗi nước có thể có các loại nguồn khác nhau. Nhìn chung trên
thế giới, nguồn pháp luật khá phong phú, bao gồm nhiều loại như văn bản quy
phạm pháp luật, tập quán pháp, tiền lệ pháp, điều ước quốc tế, các chuẩn mực
đạo đức xã hội, các nguyên tắc của pháp luật… 4.
Đối với quan hệ hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế nên luật điều chỉnh
quan hệ này cũng rất đa dạng. Theo nguyên tắc chung của tư pháp quốc tế, trong
mua bán hàng hóa quốc tế, các bên có quyền tự do thoả thuận chọn nguồn luật áp
dụng cho quan hệ hợp đồng của mình. Nguồn luật đó có thể là luật quốc gia,
điều ước quốc tế hoặc tập quán thương mại quốc tế hay các án lệ...
3

Nguyễn Thị Hồi (2008), “Về khái niệm nguồn pháp luật”, Tạp chí Luật học, (02), tr. 26.
Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Văn Năm (Chủ biên, 2016), Giáo trình lí luận chung về nhà nước và pháp
luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Tư pháp, tr. 283.
4


13
a) Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế, với một định nghĩa tương đối thống nhất, được hiểu là
“một hiệp định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được
pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất
hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng
của nó là gì”. Điều ước quốc tế được áp dụng mặc nhiên đối với các bên tham
gia hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là công dân của quốc gia tham gia điều
ước, cũng có thể được áp dụng nếu các bên thỏa thuận ghi nhận hay dẫn chiếu

thực hiện.
Thứ tự ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế được quy định khác nhau trong
pháp luật của mỗi quốc gia. Cộng hoà Pháp là một trong những quốc gia điển
hình coi quy phạm pháp luật quốc tế (điều ước quốc tế) có vị trí ưu thế hơn so
với pháp luật quốc gia. Điều 55 Hiến pháp ngày 4/10/1958 của Cộng hoà Pháp
tại Mục 6 về Điều ước quốc tế đã quy định: “Các điều ước quốc tế đã được phê
chuẩn hoặc phê duyệt theo đúng quy định, có hiệu lực cao hơn luật, kể từ ngày
công bố, với điều kiện điều ước quốc tế đó cũng được bên kia thực hiện”. Pháp
luật Hoa Kỳ tại Điều 6 Hiến pháp 1789 quy định: “Hiến pháp này, các đạo luật
của Hoa kỳ được ban hành theo Hiến pháp này, mọi điều ước đã hoặc sẽ được
ký kết dưới thẩm quyền của Hoa kỳ sẽ là luật tối cao của quốc gia. Quan toà ở
các bang đều phải tuân theo những luật này...”.
Theo pháp luật Việt Nam, trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Việt
Nam theo quan điểm về giá trị ưu thế của điều ước quốc tế so với pháp luật trong
nước, coi điều ước quốc tế là một bộ phận cấu thành của pháp luật Việt Nam, và
điều ước quốc tế được ưu tiên áp dụng trước luật quốc gia. Điều 665 Bộ luật Dân
sự năm 2015 về áp dụng điều ước quốc tế đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài quy định: “1. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên có quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì quy định của điều ước quốc tế đó được
áp dụng.


14
2. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên có quy định khác với quy định của Phần này và luật khác về pháp
luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì quy định của điều
ước quốc tế đó được áp dụng”.
Hiện nay, điều ước được áp dụng thống nhất, toàn diện nhất cho hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế là Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng

hóa quốc tế. Công ước xây dựng một mô hình hữu ích cho các nước đang xem
xét việc ban hành luật hợp đồng mua bán hiện đại. Công ước được áp dụng đối
với các hợp đồng mua bán giữa người mua và người bán có trụ sở thương mại tại
các nước là thành viên của Công ước, song Công ước cũng có sự nhất quán trong
việc nhấn mạnh yếu tố tự do của hợp đồng, theo đó các bên có quyền quy định
các điều khoản cụ thể theo thỏa thuận.
Ngày 18/12/2015 vừa qua, Việt Nam đã chính thức phê duyệt việc gia nhập
CISG để trở thành viên thứ 84 của Công ước này. Điều đáng chú ý là Việt Nam
đã đi trước nhiều nước ASEAN khác để trở thành thành viên thứ 2 sau Singapore
gia nhập Công ước quan trọng này. Công ước Viên 1980 bắt đầu có hiệu lực
ràng buộc tại Việt Nam từ ngày 1/1/2017. Việc gia nhập CISG đã đánh dấu một
mốc mới trong quá trình tham gia vào các điều ước quốc tế đa phương về thương
mại, tăng cường mức độ hội nhập của Việt Nam, góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa quốc tế và cho các doanh nghiệp Việt
Nam một khung pháp lý hiện đại, công bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.
b) Luật quốc gia
Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế trong các trường hợp sau:
- Khi hợp đồng quy định:
Các bên có thể quy định về luật áp dụng ngay từ giai đoạn đàm phán, ký kết
hợp đồng, bằng cách chỉ rõ trong nội dung hợp đồng rằng luật của một nước nào
đó sẽ được áp dụng, điều chỉnh cho hợp đồng. Cách thứ hai các bên có thể thoả


15
thuận lựa chọn luật quốc gia là luật áp dụng cho hợp đồng sau khi đã ký kết hợp
đồng, thậm chí đến khi tranh chấp phát sinh. Cách này được các bên áp dụng khi
trong nội dung hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mà các bên đã ký trước đó
không có điều khoản về luật áp dụng. Trong thực tế, cách này rất khó thực hiện

vì các bên khó có thể đạt được một sự nhất trí về việc chọn luật áp dụng khi mà
tranh chấp đã phát sinh, người bán thì chỉ muốn áp dụng luật của nước nào bảo
vệ được quyền lợi cho mình trong khi đó người mua cũng tương tự. Trong
trường hợp này, hai bên chỉ đạt được sự thống nhất khi luật được lựa chọn là luật
không nghiêng quá về bảo vệ quyền lợi cho bên nào. Công ước Viên năm 1980
là giải pháp tối ưu cho các bên trong trường hợp này.
- Khi trọng tài quyết định:
Theo pháp luật Việt Nam, tổ chức trọng tài có thể chọn luật áp dụng: “Đối
với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do
các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng
trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp
nhất” (Khoản 2 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010).
Khác với Toà án, Tòa án của nước nào thì có quyền áp dụng các quy tắc tố
tụng của nước đó khi giải quyết các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế, còn luật nội dung trong xét xử sẽ do các bên lựa chọn.
Như vậy, luật quốc gia của một nước có thể tác động đến mối quan hệ của
các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các doanh nghiệp cần phải
nghiên cứu pháp luật toàn diện để tránh rơi vào thế bị động.
c) Tập quán thương mại quốc tế
Tập quán thương mại quốc tế có thể là luật áp dụng cho hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế. Tập quán thương mại quốc tế là những thói quen, phong tục về
thương mại được nhiều nước áp dụng, một cách thường xuyên, với nội dung rõ
ràng để dựa vào đó các bên xác định quyền và nghĩa vụ với nhau.
Tập quán thương mại quốc tế thông thường được chia thành ba nhóm: các
tập quán có tính chất nguyên tắc; các tập quán thương mại quốc tế chung và các


16
tập quán thương mại khu vực. Trong đó, tập quán có tính chất nguyên tắc là
những tập quán cơ bản, bao trùm được hình thành trên cơ sở các nguyên tắc cơ

bản của luật quốc tế và luật quốc gia như nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc
gia, nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc… Tập quán thương mại quốc tế
chung là các tập quán thương mại được nhiều nước công nhận và được áp dụng
ở nhiều nơi, nhiều khu vực trên thế giới. Ví dụ: Các Điều kiện Thương mại Quốc
tế Incoterms năm 2010 do Phòng Thương mại Quốc tế tập hợp và soạn thảo
được rất nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận và áp dụng trong hoạt động mua
bán hàng hoá quốc tế. Tập quán thương mại khu vực là các tập quán thương mại
quốc tế được áp dụng ở từng nước, từng khu vực hoặc từng cảng. Ví dụ: ở Hoa
Kỳ cũng có điều kiện cơ sở giao hàng FOB, theo đó có 6 loại FOB với quyền và
nghĩa vụ của bên bán, bên mua rất khác nhau.
Tập quán thương mại quốc tế sẽ được áp dụng trong các trường hợp sau:
+ Khi hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định;
+ Khi các điều ước quốc tế liên quan quy định;
+ Hoặc khi luật quốc gia do các bên lựa chọn không có hoặc có nhưng
không đầy đủ.
Tập quán quốc tế về thương mại chỉ có giá trị bổ sung cho hợp đồng. Vì
vậy, những vấn đề gì hợp đồng đã quy định thì tập quán quốc tế không có giá trị,
hay nói cách khác, hợp đồng mua bán hàng hóa có giá trị pháp lý cao hơn so với
tập quán thương mại quốc tế. Khi áp dụng, để tránh sự nhầm lẫn hoặc hiểu
không thống nhất về một tập quán nào đó, cần phải quy định cụ thể tập quán đó
trong hợp đồng.
d) Án lệ
Án lệ được hiểu là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của cơ quan tài phán quốc tế về một vụ việc cụ thể. Án lệ
được lựa chọn phải đáp ứng được các tiêu chí như chứa đựng lập luận để làm rõ
quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn
đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật


17

cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể; có tính chuẩn mực; có giá trị hướng dẫn
áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những vụ việc có tình tiết,
sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau. Hệ thống án lệ
CISG trên toàn cầu hiện nay có khoảng trên 2,500 án lệ. Tuy nhiên theo thông
tin trên website chính thức của trường Đại học Luật PACE, con số thực tế có thể
lên đến gấp đôi, vì nhiều án lệ không được báo cáo rộng rãi.
e) Các nguồn luật khác
Ngoài các loại nguồn cơ bản, còn có các văn bản có ảnh hưởng đến hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế như các hợp đồng mẫu, các luật mẫu, các báo
cáo, công trình nghiên cứu của các tổ chức quốc tế (như các công trình của Ủy
ban luật hợp đồng quốc tế của Hội nghị quốc tế La hay)…
Như vậy, hợp đồng mẫu không phải là nguồn trực tiếp, hợp đồng mẫu là
các hợp đồng thường được các tập đoàn, các công ty lớn mang tầm cỡ quốc tế
soạn thảo và đã áp dụng phổ biến, trong một khoảng thời gian nhất định. Ví dụ:
Hợp đồng mẫu của ITC về mua bán quốc tế hàng hóa dễ hỏng (The ITC Model
Contract for the International Sale of Perishable Goods), Hợp đồng mẫu của ICC
về hàng hóa được sản xuất để bán lại (The ICC Model International Sale
Contract on Manufactured Goods Intended for Resale)... Những hợp đồng mẫu
này chỉ có giá trị khi được các bên tham chiếu bằng cách chỉ rõ trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế. Trong trường hợp này, hợp đồng mẫu sẽ có giá trị bắt
buộc đối với các bên và, nếu trong hợp đồng mẫu có quy định điều khoản về luật
áp dụng thì luật đó đương nhiên sẽ là luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế mà hai bên đã ký kết.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Theo Từ điển Luật học Black’s Law Dictionary, khái niệm “Tranh chấp”
được hiểu là sự mâu thuẫn hoặc bất đồng về các yêu cầu hay quyền lợi, sự đòi
hỏi về yêu cầu hay quyền lợi từ một bên được đáp lại bởi một yêu cầu hay lập



18
luận trái ngược từ bên kia5. Theo Từ điển Tiếng Việt, tranh chấp là giành nhau
một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào6. Hay nói cách khác, tranh chấp
là những mâu thuẫn, bất đồng hoặc xung đột về quyền và lợi ích giữa các chủ thể
trong một quan hệ.
Tranh chấp thương mại là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở
Việt Nam những năm gần đây thay thế cho khái niệm “tranh chấp kinh tế” trong
nền kinh tế kế hoạch hóa trước đây. Trong từng giai đoạn khác nhau có nhiều
cách hiểu khác nhau, lần đầu tiên khái niệm tranh chấp thương mại được ghi
nhận trong Luật thương mại năm 1997 tại Điều 238: “Tranh chấp thương mại là
tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp
đồng trong hoạt động thương mại”. Tuy nhiên quan niệm này đã loại bỏ nhiều
tranh chấp không được coi là tranh chấp thương mại mặc dù xét về bản chất
chúng hoàn toàn có thể được coi là những tranh chấp thương mại. Hoạt động
thương mại, được hiểu theo nghĩa rộng như Luật mẫu UNCITRAL, là việc thực
hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại lý thương
mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng, đầu
tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm, thăm dò, khai thác; liên doanh và các hình
thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; vận chuyển hàng hoá, hành
khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi
thương mại khác theo quy định của pháp luật. Còn tại Hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ ngày 13/7/2000 được Quốc hội phê chuẩn ngày 28/11/2001 quy
định, tranh chấp thương mại là tranh chấp giữa các bên trong một giao dịch
thương mại (Khoản 4 Điều 9). Như vậy khái niệm tranh chấp thương mại ở đây
đã được mở rộng hơn, tranh chấp thương mại có thể nảy sinh ở mọi quan hệ
thương mại và có thể ở bất cứ giai đoạn nào của hoạt động thương mại mà bản
chất là những bất đồng giữa các chủ thể tham gia.
5


Henry Campbell Black (1991), Black’s Law Dictionary, West Pub Co., tr. 1012.
Hoàng Phê (chủ biên, 1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học và Xã hội,tr. 898

6


×