Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Vấn đề đại diện giữa vợ và chồng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ KHÁNH LINH

VẤN ĐỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ KHÁNH LINH

VẤN ĐỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành


: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự

Mã số

: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phƣơng Lan

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trìnhnào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Khánh Linh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự


HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

NLHVDS

Năng lực hành vi dân sự

Nghị định 126/2014/NĐ-CP

Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày
31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các từ viết tắt
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠI DIỆN
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG

6

1.1.

Khái niệm về đại diện và đại diện giữa vợ và chồng

6

1.2.

Cơ sở của việc quy định về đại diện giữa vợ và chồng

9

1.3.

Bản chất pháp lý và đặc điểm của đại diện giữa vợ và chồng


15

1.4.

Ý nghĩa của việc quy định về đại diện giữa vợ và chồng

20

Chương 2. NỘI DUNG QUYỀN ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

26

2.1. Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng

26

2.2. Đại diện theo pháp luật giữa vợ và chồng

28

2.2.1. Đại diện giữa vợ và chồng khi một bên mất năng lực hành vi dân sự

28

2.2.2. Đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp vợ hoặc chồng bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự

33


2.3. Đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng

36

2.3.1. Nội dung pháp lý của việc đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng

38

2.3.2. Các trường hợp đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng

42

2.3.2.1. Vợ chồng đại diện cho nhau trong việc thực hiện các giao dịch liên
quan đến tài sản chung

42

2.3.2.2. Vợ chồng đại diện cho nhau trong việc thực hiện các giao dịch liên
quan đến tài sản riêng của một bên vợ, chồng

54

2.4. Trách nhiệm tài sản đối với các giao dịch do vợ hoặc chồng thực hiện
với tư cách là đại diện cho chồng hoặc vợ của mình

57


Chương 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẠI DIỆN
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG – KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN


62

3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về đại diện giữa vợ và chồng

62

3.1.1. Những thuận lợi

62

3.1.2. Những vướng mắc, bất cập khi thực hiện các quy định về đại diện
giữa vợ và chồng

64

3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng

73

3.2.1. Hoàn thiện Luật HN&GĐ và các văn bản hướng dẫn

73

3.2.2. Hoàn thiện các văn bản pháp luật khác có liên quan

78

KẾT LUẬN


81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ hôn nhân – quan hệ vợ chồng là loại quan hệ đặc biệt nhưng lại
phổ biến trong đời sống xã hội mỗi quốc gia. Do tính cộng đồng của quan hệ hôn
nhân, sau khi kết hôn hai vợ chồng cùng ăn ở, chung sống với nhau trong suốt
thời kỳ hôn nhân, thực hiện các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản nhằm
bảo đảm đáp ứng các nhu cầu chung của vợ chồng, của gia đình, nghĩa vụ nuôi
dưỡng, giáo dục các con… Vì vậy, khi điều chỉnh quan hệ giữa vợ và chồng, cần
phải có một quy chế pháp lý đặc biệt, phù hợp với loại quan hệ xã hội này.
Xuất phát từ thực tiễn, các giao lưu dân sự và thương mại của vợ, chồng
ngày càng đa dạng, việc vợ, chồng tự do tham gia kinh doanh ngày càng nhiều,
đặc biệt việc vợ, chồng đưa tài sản chung vào giao lưu dân sự, kinh doanh ngày
càng sôi động và phức tạp. Do đó, việc đặt ra vấn đề đại diện cho nhau giữa vợ
và chồng là vô cùng cần thiết, bảo đảm lợi ích của cả hai bên vợ, chồng, cũng
như quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể thứ ba trong các giao dịch đó.
Quyền đại diện cho nhau giữa vợ và chồng lần đầu tiên được ghi nhận
tại Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 19/06/2014
và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, trên cơ sở kế thừa các quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, đã quy định cụ thể về vấn đề đại diện giữa
vợ và chồng nhằm đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng, của
gia đình; bảo đảm sự phù hợp và thống nhất với các quy định của Bộ luật dân sự

và luật khác có liên quan (như Luật đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Kinh
doanh bất động sản…). Nhìn chung các quy định về đại diện giữa vợ và chồng
theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bắt kịp xu thế chung của thế giới,
có những quy định tiến bộ, phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội hiện nay. Tuy
nhiên, cũng chính sự phát triển không ngừng của xã hội cũng như tính chất phức
tạp và có phần “nhạy cảm” của quan hệ vợ chồng, những quy định của pháp luật
vẫn còn một số “lỗ hổng” gây khó khăn, vướng mắc cho quá trình áp dụng trên
thực tế. Do đó, người viết đã lựa chọn đề tài “Vấn đề đại diện giữa vợ và chồng


2

theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014” với mong muốn làm rõ hơn các
quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng, đồng thời chỉ ra được
những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp
luật, việc áp dụng pháp luật trên thực tế một cách hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đại diện giữa vợ và chồng là một trong những vấn đề được sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu. Qua tìm hiểu nhận thấy, đã có một số công trình khoa
học nghiên cứu ở nhiều phạm vi và cấp độ khác nhau, đề cập trực tiếp hoặc gián
tiếp liên quan đến vấn đề này, cụ thể như sau:
 Các bài nghiên cứu trên tạp chí chuyên ngành:
- Bài viết của tác giả Nguyễn Minh Hằng: “Đại diện theo ủy quyền từ
pháp luật nội dung đến tố tụng dân sự” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
số 5 năm 2005. Bài viết trao đổi một số vấn đề xung quanh quy định về đại diện
theo ủy quyền, những vướng mắc nảy sinh từ việc hiểu và áp dụng các quy định
này trong thực tiễn thụ lý và giải quyết các tranh chấp dân sự.
- Bài viết của tác giả Đỗ Văn Đại - Nguyễn Nhật Thanh về “Trách
nhiệm liên đới của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014” đăng
trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5 năm 2015. Bài viết đã xác định các trường

hợp vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới theo Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014.
- Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Huy (2015) về “Đại diện giữa vợ và
chồng. Một số tồn tại và giải pháp hoàn thiện” đăng trên website
, cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp. Đây là một trong số ít
bài viết nghiên cứu trực tiếp về vấn đề đại diện giữa vợ và chồng được thực hiện
sau khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực. Bài viết phân tích khái
quát về đại diện giữa vợ và chồng, chỉ ra những chỉ ra những khó, vướng mắc và
đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
 Sách tham khảo:
- Tác giả Nguyễn Ngọc Điện (2004), Bình luận khoa học Luật Hôn
nhân và gia đình, tập 2: “Các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng”, Nhà xuất bản


3

Trẻ, đã khái quát lên những vấn đề chung nhất về đại diện giữa vợ và chồng theo
pháp luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
 Đề tài nghiên cứu khoa học:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2015 về “Cơ sở lý luận
và thực tiễn của những điểm mới trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014”
do TS. Nguyễn Văn Cừ làm chủ nhiệm đề tài, đã chỉ ra những cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc ban hành cũng như các quy định mới của Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 so với những quy định trước đây, trong đó có vấn đề đại diện
giữa vợ và chồng.
 Luận văn Thạc sĩ
- Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Hạnh về “Đại diện giữa vợ và
chồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành” (2012). Luận văn chủ
yếu đi sâu phân tích các quy định về đại diện giữa vợ và chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000.

Ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, những công trình nghiên cứu này đã
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về đại diện giữa vợ và chồng, là nguồn
tài liệu tham khảo quan trọng trong quá thực hiện đề tài nghiên cứu này của tác
giả. Tuy nhiên, chưa có một bài viết, một công trình khoa học nào tập trung
nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về vấn đề đại diện giữa vợ và chồng theo
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 trong bối cảnh hiện nay. Do đó việc nghiên
cứu đề tài này là hoàn toàn mới, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định chung về đại diện theo
quy định của Bộ luật dân sự, quyền đại diện giữa vợ và chồng theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Luận văn cũng nghiên cứu một số trường
hợp cụ thể trên thực tế liên quan đến việc đại diện giữa vợ và chồng, phát hiện
những vướng mắc, bất cập còn tồn tại và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng.
 Phạm vi nghiên cứu


4

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những quy định trong Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 về đại diện giữa vợ và chồng, có sự so sánh với Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000. Ngoài ra, luận văn nghiên cứu vấn đề áp dụng
các quy định về đại diện giữa vợ và chồng trong thực tiễn.
4.

Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nhằm làm sáng tỏ một cách có hệ
thống về mặt lý luận cũng như những nội dung cơ bản của chế định đại diện giữa

vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nghiên cứu thực tiễn áp
dụng các quy định về đại diện giữa vợ và chồng, phát hiện những bất cập trong
thực tiễn và đề xuất những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật, nâng cao
hiệu quả của việc thực hiện quyền đại diện giữa vợ và chồng ở nước ta hiện nay.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, Luận văn thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể như sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đại diện giữa vợ và
chồng.
Thứ hai: Nghiên cứu, phân tích nội dung các quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 về đại diện giữa vợ và chồng; có so sánh với quy
định về vấn đề này trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Thứ ba: Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về đại
diện giữa vợ và chồng, qua đó, chỉ ra những bất cập, tồn tại của pháp luật về đại
diện giữa vợ và chồng.
Thứ tư: Trên cơ sở phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng pháp luật,
luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về chế
định đại diện giữa vợ và chồng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: đây là phương pháp quan
trọng được sử dụng chính trong quá trình thực hiện luận văn.


5

- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phân tích các vụ việc về đại diện
giữa vợ và chồng để làm rõ thực tiễn áp dụng chế định này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu một cách tập trung và hệ thống về
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng theo quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần xây dựng các giải pháp tổng
thể hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng, củng cố việc thực thi pháp
luật hiện nay, tạo điều kiện thuận lợi cho quá tình giải quyết các tranh chấp có
liên quan.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo có giá trị trong nghiên cứu, giảng
dạy và học tập luật tại các cơ sở đào tạo luật ở nước ta; đặc biệt, đối với chuyên
ngành Luật Hôn nhân và gia đình và pháp luật Dân sự.
Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực đối với mọi cá nhân, đặc
biệt là cho các cặp vợ chồng tìm hiểu các quy định về đại diện giữa vợ và chồng,
việc đại diện giữa vợ và chồng trong các trường hợp cụ thể, từ đó, góp phần thực
hiện pháp luật, tạo nền tảng cho việc xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh
phúc, bền vững.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đại diện giữa vợ và chồng
Chương 2: Nội dung quyền đại diện giữa vợ và chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định về đại diện giữa vợ và
chồng, những vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện


6

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG


1.1. Khái niệm về đại diện và đại diện giữa vợ và chồng
1.1.1. Khái niệm về đại diện
Trong đời sống, để thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần, các chủ thể
thường tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Tuy nhiên, có những
trường hợp mà các chủ thể không thể tự mình tham gia các giao dịch hay không
muốn tự mình tham gia giao dịch nên cần đến sự trợ giúp của chủ thể khác thông
qua hình thức đại diện. Do đó, có thể nói “đại diện là chế định có chức năng trợ
giúp xã hội, là một trong những thành quả của trí tuệ pháp lý của loài người,
mang tính nhân văn, nhân đạo” 1. Chính vì ý nghĩa pháp lý đó mà những quy
định về đại diện luôn được các nhà làm luật quan tâm.
Theo từ điển tiếng Việt thì “Đại diện là sự thay mặt (cho cá nhân hoặc
tập thể) ví dụ: đại diện cho nhà trai phát biểu trước nhà gái trong lễ ăn hỏi, đại
diện cho anh em bạn bè đến chúc mừng trong một dịp nào đó; hay còn có nghĩa
là người, tổ chức thay mặt ví dụ như: cơ quan cử đại diện ở nước ngoài”2.
Từ điển Luật học định nghĩa như sau: “Đại diện là việc một người, một
cơ quan, tổ chức nhân danh người, cơ quan, tổ chức khác thực hiện hành vi
pháp lý trong phạm vi thẩm quyền đại diện”3.
Quyền đại diện có thể là quyền năng đương nhiên, phát sinh từ việc thực
hiện chức năng trong hoàn cảnh hoạt động cụ thể (chẳng hạn nhân viên bán hàng
là đại diện của cửa hàng, của công ty trong quan hệ với khách hàng). Quyền đại
diện có thể được căn cứ theo luật hoặc các thể thức hành chính nhà nước (chẳng
hạn những quy định về người giám hộ). Quyền đại diện cũng có thể căn cứ vào
quyền năng được ủy quyền (chẳng hạn đại sứ thay mặt quốc gia trong quan hệ
đối ngoại). Hoạt động của đại diện trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
1

Hoàng Thế Liên (chủ biên, 2008), Bình luận khoa học BLDS năm 2005 tập 1, NXB CTQG Hà Nội, tr. 313.

2


Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, tr.576.

3

Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa - Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 225.


7

dứt các quan hệ về quyền và nghĩa vụ của chủ thể được đại diện. Trong quá trình
thực hiện quyền và nghĩa vụ đại diện, người đại diện không được thực hiện các
quan hệ thuộc phạm vi chức năng đại diện vì mục đích cá nhân hoặc vì các mục
đích khác với quyền lợi của chủ thể được đại diện.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015, đại diện được
hiểu: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại
diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi
chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
Như vậy, trong các định nghĩa này đã nêu rõ được về mặt chủ thể của
quan hệ pháp luật đại diện sẽ có người đại diện và người được đại diện cùng với
bên thứ ba khi người đại diện thực hiện các hành vi trong giao dịch. Người đại
diện là người nhân danh người được đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba vì
lợi ích của người được đại diện; người được đại diện là người được tiếp nhận,
thụ hưởng các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện xác lập, thực hiện
theo đúng phạm vi đại diện.
BLDS năm 2015 đã xác định rõ hơn chủ thể đại diện. Nếu như Điều 139
BLDS năm 2005 hướng đến người đại diện là “một người” thì Điều 134 BLDS
năm 2015 xác định rõ chủ thể đại diện là “cá nhân, pháp nhân” mà không giới
hạn về số lượng. Điều này phù hợp với thực tiễn, góp phần tạo điều kiện cho các
chủ thể tham gia vào quan hệ đại diện dễ dàng hơn, không bị bó buộc chỉ có một
chủ thể là người đại diện như trước kia.

Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua
người đại diện. Tuy nhiên, cá nhân không được để người khác đại diện cho mình
nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó. Ví dụ:
pháp luật không công nhận việc một cá nhân ủy quyền cho người khác thay mình
làm thủ tục ly hôn, kết hôn, hay lập di chúc, làm chứng minh thư nhân dân…
(các công việc có liên quan tới yếu tố nhân thân).
Đại diện được quy định cụ thể góp phần đảm bảo quyền và lợi ích của
các chủ thể ngay cả khi các chủ thể đó không thể tự mình tham gia được các giao
dịch dân sự, hạn chế được các rủi ro pháp lý, bảo vệ bên thiện chí, ngay tình


8

trong quan hệ đại diện.
1.1.2. Khái niệm đại diện giữa vợ và chồng
Sự kiện kết hôn gắn kết hai bên nam nữ trong quan hệ vợ chồng, tạo
dựng một gia đình. Sự gắn kết này không làm mất đi các quyền của hai bên vợ
chồng với tư cách là cá nhân mà còn mở rộng, phát sinh thêm các quyền giữa vợ
và chồng với nhau. Vợ, chồng có các quyền và nghĩa vụ về nhân thân với nhau,
tôn trọng, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để vợ hoặc chồng phát huy khả năng
của bản thân và thực hiện nhiệm vụ đối với gia đình và xã hội.
Vợ chồng bình đẳng với nhau trong mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn
hóa xã hội… Trong giao lưu dân sự, với tư cách là chồng hay vợ họ đều có các
quyền tự do bày tỏ ý chí của mình đồng ý hay không đồng ý việc xác lập, thực
hiện, chấm dứt các giao dịch để đảm bảo tốt nhất các quyền và lợi ích của mình;
có quyền lựa chọn những phương thức, hình thức nhất định, trực tiếp hay gián
tiếp tham gia giao dịch dân sự nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định của bản
thân cũng như gia đình.
Với tư cách là một chủ thể đặc biệt trong giao lưu dân sự, vợ, chồng vừa
tham gia với tư cách là cá nhân độc lập trong các quan hệ dân sự thương mại

nhưng bên cạnh đó lại tham gia với tư cách là chủ thể đặc biệt đại diện cho vợ
hoặc chồng mình và đôi khi còn là đại diện cho cả gia đình. Ý chí của vợ chồng
trong nhiều trường hợp là điều kiện có hiệu lực của một số quan hệ pháp luật
nhất định, quyết định của người này đòi hỏi phải có sự thống nhất của người kia
và ngược lại. Do đó, đại diện giữa vợ và chồng là một vấn đề cần thiết được đặt
ra, bảo đảm lợi ích của cả hai bên vợ, chồng, quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể
thứ ba trong các giao dịch.
Vợ, chồng thực hiện quyền đại diện cho nhau theo pháp luật hoặc theo
ủy quyền trong các quan hệ về tài sản. Đại diện theo pháp luật được xác lập theo
quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Đại diện theo ủy quyền, được xác lập trên cơ sở sự ủy quyền giữa người
đại diện là vợ (chồng) và người được đại diện là chồng (vợ). Trong đó, ý chí của
người ủy quyền, người được ủy quyền phải được thể hiện một cách công khai,


9

minh bạch, đúng thể thức mới có giá trị pháp lý.
Về nguyên tắc, việc thực hiện quyền đại diện cho nhau giữa vợ và chồng
được thực hiện theo các quy định chung của pháp luật dân sự, tuy nhiên, do quan
hệ vợ chồng là quan hệ đặc biệt bị chi phối bởi yếu tố tình cảm nên trong quan
hệ đại diện giữa vợ và chồng trong các giao dịch về tài sản với người thứ ba
cũng có sự khác biệt. Việc xác định ý chí của vợ hoặc chồng trong việc đại diện
cho nhau ngoài việc đồng ý của vợ chồng, vì lợi ích của phía bên kia, còn bị chi
phối bởi lợi ích đặc trưng chỉ tồn tại trong đời sống vợ chồng đó là lợi ích của
các con và của gia đình.
Có thể đưa ra khái niệm đại diện giữa vợ và chồng như sau:
Đại diện giữa vợ và chồng là việc một bên vợ hoặc chồng nhân danh
bên kia hoặc nhân danh vợ chồng, xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch theo
quy định của Luật HN&GĐ, BLDS và các luật khác liên quan hoặc theo ý chí

của vợ (hoặc chồng) ủy quyền cho chồng (hoặc vợ) thực hiện thay trong các
giao dịch mà pháp luật đòi hỏi phải có sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng, nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, của gia đình và bên thứ ba
trong giao dịch.
1.2. Cơ sở của việc quy định về đại diện giữa vợ và chồng
Việc đại diện giữa vợ và chồng là một quan hệ xã hội đã có từ lâu trong
đời sống xã hội. Hành vi đại diện của vợ, chồng cho nhau trong các quan hệ dân
sự không những để thực hiện chức năng của gia đình mà còn thực hiện quyền
năng dân sự do pháp luật quy định. Việc quy định về đại diện giữa vợ và chồng
dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
1.2.1. Cơ sở lý luận
Đại diện là một trong những quyền nhân thân gắn liền với vợ chồng.
Quyền đại diện giữa vợ và chồng trước hết xuất phát từ quyền con người, quyền
tự do của công dân, đảm bảo các quyền và lợi ích của những chủ thể pháp luật
ngay cả khi họ không thể trực tham gia được các giao dịch dân sự, kinh tế,
thương mại, lao động... và các quan hệ xã hội khác.
Có rất nhiều văn bản pháp lý quy định về các quyền tự do cơ bản của


10

công dân, mà quan trọng nhất là Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam và BLDS.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam quy định công dân có các quyền
tự do cơ bản như quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội… được Nhà
nước công nhận, tôn trọng và bảo vệ. Đó là quyền tự do kinh doanh các ngành
nghề mà pháp luật không cấm, quyền có việc làm, lựa chọn nghề nghiệp, việc
làm và nơi làm việc, đồng thời công dân còn có quyền sở hữu thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất, quyền thừa kế… Các quyền tự do
cơ bản của công dân đã được ghi nhận nhằm bảo đảm lợi ích về mọi mặt cho
công dân. Mọi công dân đều được Nhà nước bảo vệ và hưởng quyền như nhau.

BLDS năm 2015 cũng quy định quyền tự do kinh doanh của cá nhân, cá
nhân được tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh, thành lập doanh nghiệp, tự do
giao kết hợp đồng, tự do tiến hành xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch dân
sự mà không vi phạm quy định của pháp luật…
Như vậy các quy định về quyền tự do cơ bản của công dân tại Hiến pháp
và BLDS 2015 đã quy định đầy đủ, cụ thể mọi công dân đều có thể tiến hành
thực hiện các hoạt động mà pháp luật không cấm, tự mình tiến hành các giao
dịch dân sự… Tuy nhiên, trong một số trường hợp cá nhân không thể tự mình
thực hiện được các quyền cơ bản (như quyền tự do kinh doanh, quyền thành lập
doanh nghiệp, quyền tự mình xác lập các giao dịch dân sự) vì lý do thể chất, sức
khỏe, sự hiểu biết, vì điều kiện thời gian… nên trong những trường hợp này họ
có thể cử người đại diện cho mình để thực hiện thay họ các quyền tự do cơ bản
đó. Chính vì vậy quyền đại diện đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật để
khắc phục những hạn chế, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong quá trình
thực hiện các giao dịch dân sự.
Trong mối quan hệ vợ chồng cũng vậy, việc đại diện giữa vợ và chồng
hết sức cần thiết và quan trọng. Vợ, chồng với tư cách là công dân, vừa là chủ
thể của quan hệ hôn nhân và gia đình, vừa là chủ thể của quan hệ dân sự. Khi
tham gia các giao dịch dân sự, vợ, chồng có quyền thay mặt bên kia hoặc thay
mặt vợ chồng trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch khi một bên bị mất
NLHVDS, bị ốm đau, hay không đủ thời gian, điều kiện tiến hành các quyền của


11

mình, tránh việc các giao lưu dân sự giữa vợ chồng với người thứ ba bị gián
đoạn, kìm hãm sự phát triển chung của xã hội.
Thứ hai, việc quy định về đại diện giữa vợ và chồng cũng xuất phát từ
nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận của các đương sự trong pháp luật dân sự.
Nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận trong các quan hệ dân sự, được

ghi nhận trong BLDS, đảm bảo cho các cá nhân có quyền tự do thỏa thuận để
xác lập các quyền và nghĩa vụ, miễn sao các thỏa thuận đó không vi phạm điều
cấm của pháp luật và đạo đức xã hội. Trong khuôn khổ pháp luật, các cá nhân có
thể thỏa thuận giúp đỡ nhau và thỏa mãn lợi ích của nhau. Các chủ thể có quyền
tự do thể hiện ý chí của mình đối với việc xác lập hay không xác lập quan hệ đại
diện. Tính độc lập, tự quyết định của chủ thể thể hiện rõ ở việc chủ thể có quyền
và nghĩa vụ nhất định khi tham gia vào quan hệ đại diện. Tuy nhiên không phải
quan hệ nào cũng có thể đại diện được.
Đối với những công việc có tính chất phục vụ nhu cầu sinh học, đáp
ứng nhu cầu thể chất của con người nhằm đảm bảo sự phát triển, tồn tại bình
thường của mỗi cá nhân (như ăn, uống…) hoặc những hoạt động liên quan đến
quyền nhân thân của cá nhân thì không thể do người khác làm thay, tức là không
thể đại diện được. Đại diện chỉ đặt ra đối với những công việc, hoạt động có tính
chất quan trọng, gắn liền với lợi ích của cá nhân, liên quan đến quyền và nghĩa
vụ pháp lý như giao kết hợp đồng, vay tiền… Sự tự do ý chí này cũng không thể
tùy tiện mà buộc phải tuân theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, trên cơ sở bình đẳng nam – nữ, việc pháp luật ghi nhận, quy
định về đại diện không chỉ để đảm bảo quyền và lợi ích của cá nhân được thực
hiện tốt nhất mà còn đảm bảo quyền và lợi ích của người phụ nữ trong xã hội,
xóa bỏ rào cản, định kiến của xã hội về giới, tạo một xã hội bình đẳng và phát
triển.
Trong thời đại ngày nay, khi xã hội phát triển đến trình độ cao hơn,
quyền con người cũng từ đó được quan tâm và bảo vệ một cách thực chất, thì
những tư tưởng pháp lí như bình đẳng vợ chồng tất yếu sẽ được ghi nhận một
cách đầy đủ không chỉ trên phương diện pháp lý mà ở cả góc độ thực tiễn. Vấn


12

đề bình đẳng giới và bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ đã được Nhà nước Việt

Nam ghi nhận, đề cao trong Hiến pháp, trong pháp luật và các chính sách phát
triển kinh tế – xã hội.
Kế thừa và phát triển các quy định của Luật HN&GĐ năm 1959, Luật
HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014 ghi
nhận nguyên tắc bình đẳng về mọi phương diện trong quan hệ pháp luật giữa vợ
chồng; vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt
trong gia đình; trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy
định trong Hiến pháp, Luật HN&GĐ và các Luật khác có liên quan.
Quy định này của Luật HN&GĐ năm 2014 đã thể hiện sự nhất quán của
hệ thống pháp luật của Nhà nước ta ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện
nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ vợ chồng; nó có ý nghĩa to lớn và thiết thực
cả về kỹ thuật lập pháp và bảo đảm thực thi pháp luật. Đặc biệt các quy định về
đại diện giữa vợ và chồng đã đảm bảo quyền bình đẳng thực chất giữa vợ và
chồng trên thực tế, khẳng định vai trò, vị trí như nhau của người chồng và người
vợ trong gia đình, cũng như ngoài xã hội.
Thứ tư, xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích chung của gia đình, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng thì việc đặt ra vấn đề đại diện là vô cùng
cần thiết.
Trong suốt thời kỳ hôn nhân, nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh
thần của vợ hoặc chồng cũng như quyền lợi của gia đình thì vợ chồng phải tham
gia nhiều giao dịch với người khác. Việc vợ, chồng xác lập, thực hiện các giao
dịch dân sự như kinh doanh, mua bán, trao đổi, cho vay, bảo lãnh… có thể liên
quan đến tài sản chung của vợ chồng hoặc có thể liên quan đến tài sản riêng của
vợ hoặc chồng. Do đó, việc xác định trách nhiệm của vợ, chồng trong từng
trường hợp cũng khác nhau.
Trong khi đó, các văn bản pháp luật chuyên ngành chỉ nói đến các cá
nhân với tư cách là chủ thể của các quan hệ pháp luật dân sự, thương mại chứ
không đề cập đến việc họ tham gia với tư cách là người vợ hoặc người chồng
trong gia đình. Luật HN&GĐ dưới góc độ luật chuyên ngành điều chỉnh trực tiếp



13

quan hệ hôn nhân và gia đình đặt ra vấn đề đại diện là một trong những đảm bảo
cần thiết cho việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của người đại diện phù hợp
với quy định của pháp luật, đảm bảo lợi ích của người được đại diện cũng như
lợi ích chung của gia đình.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Khi kết hôn người vợ và chồng phát sinh những quan hệ mới nhưng hai
người vẫn là hai cá thể có những quyền công dân đặc biệt.
Trong đời sống vợ chồng đôi khi có nhiều hiện tượng xảy ra ngoài ý
muốn như vợ hoặc chồng mắc bệnh tâm thần không có khả năng tự mình thực
hiện hành vi nhất định, hoặc bị sa ngã vào các tệ nạn, ma túy, rượu và các chất
kích thích khác, phá tán tài sản dẫn tới bị hạn chế NLHVDS. Trong những
trường hợp này, pháp luật quy định quyền đại diện giữa vợ và chồng nhằm đảm
bảo lợi ích của người vợ (chồng) được đại diện và lợi ích của gia đình.
Khi tiến hành giao dịch dân sự vì lý do chủ quan hoặc khách quan mà vợ
hoặc chồng không thể tự mình tiến hành giao dịch, để đảm bảo quyền và lợi ích
của mình, họ có thể ủy quyền cho chồng hoặc vợ đại diện thực hiện giao dịch đó.
Bản thân sự đáp ứng nhu cầu của vợ chồng cũng ngày càng được chuyên nghiệp
hóa, người này có thể thành thạo trong lĩnh vực này nhưng lại không thành thạo
trong lĩnh vực khác, và để đáp ứng được nhu cầu sống gia đình hoặc kinh doanh,
người này có thể phải nhờ tới sự thành thạo của người kia và ngược lại. Đó là
chưa kể sự đa dạng, phong phú trong các hoạt động giao dịch, một người không
thể đảm đương được nhiều việc cùng một lúc nên cần tới sự hành động của
người kia cho lợi ích của chính mình và lợi ích của gia đình. Vì vậy vấn đề đại
diện được đặt ra.
Mặc dù đại diện giữa vợ và chồng được quy định trong Luật HN&GĐ
năm 2000, tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất
cập, thể hiện ở các khía cạnh sau:

Tình trạng người chồng lấn át quyền của người vợ trong cuộc sống gia
đình, bắt nguồn từ thói quen gia trưởng, tư tưởng định kiến về giới còn rơi rớt
trong xã hội Việt Nam… người chồng đã áp đặt mọi hành vi, ứng xử của người


14

vợ, người vợ không có tiếng nói trong gia đình, mọi việc của gia đình sẽ do
người chồng quyết định và thực hiện. Đặc biệt đối với một số gia đình người dân
tộc thiểu số, gia đình sinh sống ở vùng biên giới, hải đảo thì quyền đại diện giữa
vợ và chồng chưa thực sự được đảm bảo.
Những vi phạm về quyền đại diện giữa vợ và chồng còn diễn ra khá phổ
biến. Các tranh chấp liên quan đến một bên vợ hoặc chồng đại diện cho nhau
thực hiện các giao dịch dân sự nhưng đã vượt quá phạm vi đại diện hoặc có hành
vi lừa dối trong các văn bản ủy quyền giữa vợ và chồng… khiến cho các giao
dịch không được thực hiện, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của vợ, chồng, của
gia đình và bên thứ ba có liên quan.
Những hạn chế, bất cập của Luật HN&GĐ năm 2000 về đại diện giữa
vợ và chồng khi áp dụng vào thực tiễn như: về hình thức của đại diện theo ủy
quyền giữa vợ và chồng, trường hợp vợ chồng đại diện cho nhau trong kinh
doanh, trường hợp một bên đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản… chưa có sự quy định rõ ràng cụ thể.
Từ những thực tiễn nêu trên đòi hỏi pháp luật cần quy định về đại diện
giữa vợ và chồng cụ thể, linh hoạt, phù hợp với xã hội và thực tiễn áp dụng hiện
nay.
Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay và sự tác
động của nền kinh tế thị trường đã khuyến khích, tạo điều kiện vợ chồng tham
gia ngày càng sâu rộng vào các quan hệ dân sự và thương mại. Sự tăng nhanh về
số lượng các mô hình kinh tế đã tận dụng và phát huy được sức mạnh của toàn
dân vào sự nghiệp phát triển kinh tế, trong đó sự tham gia của gia của mỗi gia

đình mà hạt nhân là vợ chồng vào quá trình này là hết sức năng động.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các hình thức kinh doanh mà vợ
chồng có thể lựa chọn đầu tư rất phong phú và đa dạng như: Kinh tế hộ gia đình,
thành lập doanh nghiệp, tham gia thị trường chứng khoán, kinh doanh bất động
sản, tham gia các hợp đồng cho thuê tài sản… để tìm kiếm lợi nhuận. Vì vậy,
vấn đề đại diện giữa vợ chồng cũng phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu của hoạt
động sản xuất kinh doanh trong điều kiện mới.


15

Trước thực trạng đó, Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định một số vấn
đề về đại diện giữa vợ và chồng trong hoàn cảnh kinh tế xã hội mới, điều đó là
phù hợp, đảm bảo hiệu quả điều chỉnh của pháp luật cũng như đảm bảo tính
thống nhất về đại diện trong các giao dịch mà hệ thống pháp luật điều chỉnh.
1.3. Bản chất pháp lý và đặc điểm của đại diện giữa vợ và chồng
1.3.1. Bản chất pháp lý
- Bản chất pháp lý của quan hệ đại diện giữa vợ và chồng là đại diện
trong quan hệ dân sự với tư cách là cá nhân.
Trong quan hệ dân sự, cá nhân bên cạnh việc tự bản thân mình trực tiếp
kí kết thực hiện các giao dịch, có thể tham gia một cách gián tiếp và được hưởng
lợi từ các giao dịch đó thông qua một người khác thay mặt mình, đó chính là
người đại diện.
Đại diện là một chế định truyền thống trong luật dân sự, là một biện
pháp hỗ trợ hữu ích để thực hiện một cách tốt nhất năng lực pháp luật của các
chủ thể.
Với tư cách là một chủ thể đặc biệt trong giao lưu dân sự, vợ, chồng vừa
tham gia với tư cách cá nhân độc lập trong quan hệ dân sự, thương mại, nhưng
bên cạnh đó lại tham gia với tư cách đặc biệt đại diện cho chồng hoặc vợ mình
và đôi khi còn là đại diện cho cả gia đình.

Đại diện giữa vợ và chồng là một trường hợp đặc biệt trong quan hệ đại
diện và vợ, chồng cũng là những chủ thể đặc biệt trong pháp luật về đại diện.
Khi tham gia quan hệ đại diện, vợ, chồng phải tuân thủ quy định của pháp luật
về đại diện và chỉ được thực hiện, xác lập giao dịch trong phạm vi đại diện, nếu
vượt quá phạm vi đại diện hoặc trái với quy định của pháp luật về đại diện thì
phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả của giao dịch.
- Đại diện giữa vợ và chồng là đại diện gắn liền với tài sản chung của
gia đình, gắn với tài sản riêng của mỗi bên.
Xuất phát từ tính chất của quan hệ hôn nhân là cùng chung ý chí, cùng
chung công sức trong việc xây dựng gia đình, đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt
chức năng xã hội của nó như: chăm sóc, nuôi dưỡng các thành viên gia đình,


16

phát triển kinh tế… nên pháp luật quy định giữa vợ chồng phát sinh tài sản thuộc
sở hữu chung. Bên cạnh đó, Luật HN&GĐ cũng quy định vợ chồng có quyền có
tài sản riêng.
Tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng có nguồn gốc và thời điểm xác
lập khác nhau, đối với mỗi loại tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được
quy định khác nhau nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người
có tài sản, đồng thời đảm bảo được lợi ích chung của gia đình và con cái.
Pháp luật thừa nhận quyền đại diện của vợ, chồng cho nhau trong xác
lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng linh hoạt
trong việc thực hiện các chức năng gia đình. Vợ hoặc chồng thay mặt cho nhau
hoặc cho gia đình trực tiếp thực hiện các giao dịch dân sự, kinh doanh, thương
mại… liên quan đến tài sản chung của cả vợ chồng hoặc những giao dịch liên
quan tới tài sản riêng của mỗi bên.
Trên cơ sở đại diện hợp pháp, vợ hoặc chồng có thể tự mình xác lập,
thực hiện các giao dịch trên tài sản chung, tài sản riêng phù hợp với lợi ích của

gia đình, của cá nhân vợ, chồng. Trong một số trường hợp, nghĩa vụ phát sinh từ
các giao dịch ấy có thể ràng buộc cả vợ và chồng một cách liên đới, nghĩa là
chồng hoặc vợ, dù không trực tiếp đứng ra giao dịch, phải có trách nhiệm cùng
với vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản chung, thậm chí bằng tài sản
riêng của mình.
- Đại diện giữa vợ và chồng nhằm đảm bảo lợi ích của người được đại
diện, đảm bảo quyền, lợi ích của gia đình.
Trong quan hệ đại diện, mục đích người đại diện xác lập quan hệ với
người thứ ba là vì lợi ích của người được đại diện. Hay nói cách khác quyền và
lợi ích trong quan hệ với người thứ ba được chuyển cho người được đại diện.
Trong quan hệ vợ chồng, việc vợ hoặc chồng thực hiện bất cứ hành vi
nào liên quan đến tài sản chung đều phải xuất phát từ mục đích và vì lợi ích
chung của gia đình. Do đó, mỗi hành động đại diện của người này không chỉ vì
lợi ích của người kia mà còn là lợi ích của gia đình, của con cái. Bên cạnh đó, vợ
chồng khi đại diện cho nhau để thực hiện một giao dịch nào đó thì yếu tố lợi ích


17

của người được đại diện luôn được đảm bảo vì khi đó lợi ích của người được đại
diện nhiều khi là thống nhất với lợi ích của người đại diện và lợi ích của hai
người phù hợp với lợi ích chung của gia đình.
Đại diện giữa vợ và chồng vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của vợ chồng.
Quyền đại diện cho nhau giữa vợ và chồng được quy định nhằm giải quyết
những vấn đề cơ bản sau: Bảo vệ quyền lợi của người được đại diện (vợ hoặc
chồng) trong trường hợp bị mất NLHVDS hoặc bị hạn chế NLHVDS trong các
quan hệ về tài sản; bảo vệ lợi ích chính đáng của gia đình trong các giao dịch dân
sự liên quan đến tài sản chung; ngăn chặn những hành vi lạm quyền của một bên
vợ hoặc chồng làm ảnh hưởng đến tài sản chung hoặc tài sản riêng; đảm bảo
quyền lợi hợp pháp cũng như ngăn chặn những rủi ro trong giao dịch với người

khác có quan hệ tài sản đối với vợ hoặc chồng.
1.3.2. Đặc điểm của đại diện giữa vợ và chồng
Đại diện giữa vợ và chồng là một quyền nhân thân gắn liền với vợ chồng
và chỉ tồn tại trong quan hệ hôn nhân hợp pháp, cho nên nó mang nhiều nét
tương đồng với đặc điểm của quyền nhân thân của vợ chồng.
Đại diện giữa vợ và chồng có những đặc điểm sau:
- Đại diện giữa vợ và chồng chỉ đặt ra với hai người được pháp luật
thừa nhận là vợ chồng.
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội, phong tục, tập quán cũng như
truyền thống văn hóa, pháp luật của mỗi quốc gia có những lựa chọn khác nhau
về cách thức xác lập quan hệ vợ chồng. Việc xác lập quan hệ vợ chồng giữa hai
bên nam nữ không chỉ nhằm thỏa mãn những nhu cầu tình cảm cá nhân thuần
túy mà còn là thể hiện trách nhiệm của người kết hôn đối với việc tạo lập một gia
đình - nền tảng cơ bản của xã hội.
Theo quy định của pháp luật HN&GĐ Việt Nam hiện hành, nam nữ xác
lập quan hệ vợ chồng phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn
và đăng ký kết hôn. Các điều kiện kết hôn bao gồm: điều kiện về tuổi kết hôn, sự tự
nguyện kết hôn, không thuộc các trường hợp cấm kết hôn và phải được đăng ký


18

kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; hoặc được pháp luật công nhận là
vợ chồng trong một số trường hợp nhất định.
Trong pháp luật của các nước nói chung, khi được công nhận là vợ
chồng của nhau trước pháp luật thì về nguyên tắc họ có quyền đại diện cho nhau,
dù là một bên có thể chưa đủ NLHVDS theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên,
pháp luật phải quy định rõ điều đó là phải tương đồng với quy định của pháp luật
khác có liên quan.
Như vậy, nếu hai người không phải là vợ chồng hợp pháp theo quy định

của pháp luật thì sẽ không phát sinh đại diện giữa vợ chồng.
- Vợ, chồng đại diện cho nhau trong các quan hệ tài sản
Vợ, chồng chỉ đại diện cho nhau trong các quan hệ liên quan tới tài sản,
còn các quyền, nghĩa vụ về nhân thân của mỗi bên vợ chồng gắn liền với bản
thân vợ, chồng, thì không thể để người khác đại diện thực hiện thay những
quyền, nghĩa vụ đó. Những quyền và nghĩa vụ về nhân thân của mỗi bên vợ
chồng chỉ có thể do chính bản thân vợ hoặc chồng thực hiện mà không thể do
người kia thực hiện thay, nên cũng không thể đại diện cho nhau được. Ví dụ vợ
chồng cùng thực hiện nghĩa vụ, quyền của cha mẹ đối với con như nghĩa vụ,
quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con, giáo dục con… những quyền này là không thể
đại diện được cho nhau. Mỗi bên vợ hoặc chồng khi thực hiện quyền chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con là thực hiện các quyền, nghĩa vụ của bản thân mình
đối với con, không có nghĩa là thực hiện thay cho chồng hoặc vợ mình.
Khi tiến hành quyền đại diện cho nhau giữa vợ và chồng, bên đại diện sẽ
thay mặt chồng hoặc vợ mình quyết định việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các
giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng của
mỗi bên. Việc định đoạt tài sản trên thực tế làm chuyển dịch hay tăng, giảm tài
sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Đối với những giao dịch dân sự do một
bên vợ, chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình (như đi
chợ, thanh toán tiền điện, nước…) thì không nhất thiết phải được sự ủy quyền
của người còn lại. Khi đó, các giao dịch trên mặc nhiên được coi như đã có sự
đồng ý của người kia. Đối với các giao dịch dân sự có tính chất quan trọng, liên


19

quan đến tài sản chung mà theo quy định của pháp luật chỉ có thể được xác lập
với sự đồng ý của cả vợ chồng thì khi ấy vợ hoặc chồng tham gia giao dịch sẽ là
đại diện của nhau nếu được sự đồng ý ủy quyền của bên kia. Trong các loại giao
dịch này thì vợ chồng được ủy quyền cho nhau và việc ủy quyền nhất thiết phải

được thể hiện dưới hình thức văn bản.
- Trong quan hệ đại diện giữa vợ chồng, lợi ích của người đại diện,
người được đại diện thống nhất với nhau, và trong nhiều trường hợp gắn liền
với lợi ích chung của gia đình.
Khi người chồng là người đại diện cho vợ mình (hoặc ngược lại) thì về
bản chất là thay mặt vợ để thực hiện công việc, hay làm hộ vợ mình nhưng nhiều
khi đó lại là công việc chính người chồng phải làm, phải thực hiện. Có những
trường hợp vợ chồng đại diện cho nhau thì không chỉ nhân danh cho người được
đại diện mà nhiều khi còn nhân danh và thể hiện ý chí của chính bản thân mình.
Như vậy, tư cách chủ thể trong quan hệ đại diện giữa vợ và chồng nhiều khi là
thống nhất, trùng khớp với nhau.
Do tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân nên nhiều khi không có
tiêu chí để phân định rõ ràng tư cách ai là người đại diện và ai là người được đại
diện. Trong quan hệ đại diện giữa vợ và chồng, vợ, chồng đều có thể là người
đại diện hoặc người được đại diện, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống
vợ chồng. Đặc trưng này có được chính bởi sự thống nhất ý chí cũng như lợi ích
của cả vợ và chồng khi xác lập giao dịch dân sự. Hơn nữa, đối tượng tham gia
giao dịch còn là tài sản chung của vợ chồng, bởi vậy, trong giao dịch dân sự tư
cách người đại diện và người được đại diện nhiều khi không cần phân biệt rõ vì
không thật cần thiết.
Bên cạnh đó, trong quan hệ đại diện giữa vợ và chồng thì tư cách chủ
thể của vợ chồng trong giao dịch không những là vợ, chồng đại diện cho nhau
mà nhiều khi vợ chồng còn là người đại diện cho cả gia đình. Gia đình ở đây
ngoài vợ chồng thì còn con cái nên có ảnh hưởng không nhỏ đến những quyết
định của chủ thể khi giao dịch. Vì vậy mỗi hành động đại diện của một bên vợ


×