Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

tong hop cac bai thu hoach chinh tri he 908

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 31 trang )

TỔNG HỢP
CÁC BÀI THU HOẠCH
CHÍNH TRỊ HÈ


1. Bài thu hoạch chính trị hè - Trường Tiểu học Tân
Văn.
2. Bài thu hoạch chính trị hè - Trường THCS Lương
Thế Vinh.
3. Bài thu hoạch chính trị hè - Trường THPT Buôn
Mê Thuột.
4. Bài thu hoạch chính trị hè năm 2016.


Bài Thu Hoạch chính trị hè 20111
Họ và tên: Nguyễn Hữu Diện.
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học xã Tân Văn - Bình Gia - Lạng Sơn.
Câu hỏi:
Câu 1:Đ/c hãy nêu những đặc trưng cơ bản của XHCN mà nhân dân ta xây dựng
cương lĩnh phát triển xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH (Bổ
sung phát triển năm 2011)
Câu 2: Tại sao nói “ Phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung
việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân gắn kết chặt chẽ nguồn
nhân lực với phát triển và ứng dụng và khoa học công nghệ là một khâu đột phá
chiến lược trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020”.Liên
hệ trách nhiệm của bản thân.

Bài làm
Câu 1:
Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng và nhà nước của chủ tịch Hồ Chí Minh.Cương lĩnh 2011 còn chỉ rõ nước


ta trải qua thời kỳ quá độ sẽ là một quá trình lâu dài.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (năm 1991) của Đảng, mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây
dựng đã được phác họa với sáu đặc trưng. Trải qua nhiều kì đại hội Cương lĩnh
đã được sửa đổi bổ sung ở đại hội X và đặc biệt được bổ sung và nhấn mạnh hơn
trong Cương lĩnh bổ sung phát triển năm 2011 với 8 đặc trưng cơ bản như sau:
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội phải được biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm MarxLenin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước
mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ,
được sống cuộc đời hạnh phúc.Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta
đang xây dựng phải hướng tới việc hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu:
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Tư tưởng xuyên suốt của
cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với


dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn
thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ
quốc.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ .Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt chính trị của chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của chủ nghĩa
Marx-Lenin sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong
tư tưởng truyền thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân
là chủ, dân làm chủ. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu
còn được thể hiện trong nhận thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước

thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực). Dự thảo Cương lĩnh
(bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản
chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước.
Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực
tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà
nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp....
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là đặc trưng
thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta
đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và
phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản,
nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản
xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải
quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế. Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân.Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan
hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng
bước chế độ công hữu. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố đảm
bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường với
nhiều thành phần kinh tế.
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc .Tính ưu
việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện
khái quát, nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân

tộc...).Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi


vừa phải tiếp thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa,
phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn
hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên
tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH
mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành
sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân
ta đang xây dựng không chỉ được thể hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn được thể hiện qua đặc trưng
về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Về phương diện con người, chủ
nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người,
cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để
có con người xã hội chủ nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh
nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
đang xây dựng.Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Dự thảo Cương lĩnh
(bổ sung và phát triển) đã xác định hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng
thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là: có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con người, chăm lo
xây dựng con người, phát triển toàn diện con người (đức, trí, thể, mỹ) của Đảng
và Nhà nước ta.
- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt
trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là

quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam.
Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và
đang phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong
cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực
thù địch.
- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chủ nghĩa xã hội
mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí,
quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu
việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và
phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân


dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến
của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm
soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm,
lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân…
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước
trên thếgiới. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện
tính ưu việt trong các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể
hiện trong quan hệ đối ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và
nhân dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế…Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng,
cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác

nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế. Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực
vào các tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động
tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong
đặc trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.../.
Câu 2:
VÌ cùng với sự phát triển đến chóng mặt của nền kinh tế thế giới, Việt
Nam đang đứng trước những thời cơ thuận lợi nhưng cũng đầy thách thức.
chúng ta cũng đã ra nhập WTO, đã thông thương về mọi mặt, điều này cũng có
nghĩa chúng ta sẽ nhanh chóng tiếp nhận được những công nghệ cũng như nền
khoa học hiện đại tiên tiên tiến nhất của nước ngoài nhưng bên cạnh đó nếu
chúng ta không vận dụng được những thời cơ đó thì chúng ta cũng sẽ trở lên bị
tụt hậu.Nguồn lao động của nước ta vô cùng lớn nhưng còn thấp về trình độ tay
nghề nên dẫn đến giá nhân công rẻ là đương nhiên, Giáo dục thì có tiềm năng
nhưng phát triển chưa tương xứng.
Trong bài phát biểu của thủ tướng chính phủ nhiệm kì 2011-2016 cũng đã
khẳng định:
“Chúng ta đang sống trong một thời đại với ba đặc điểm kinh tế lớn chi
phối sự phát triển của mỗi quốc gia. Đó là: (1) Khoa học công nghệ phát triển rất
nhanh, rất mạnh, hơn bất kỳ một thời đại nào trước đó. Chính sự phát triển này
tạo ra làn sóng công nghiệp hóa lần thứ ba và hình thành nền kinh tế tri thức; (2)
Toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, các liên kết kinh tế xuất hiện ngày càng
nhiều, thúc đẩy sự phân công lao động ngày càng sâu sắc và hình thành các
chuỗi giá trị toàn cầu; cạnh tranh kinh tế diễn ra ngày càng quyết liệt và mỗi
quốc gia phải giành cho được ưu thế trong cuộc cạnh tranh đó; (3) Tình trạng
khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên
không tái tạo được, đòi hỏi con người phải tìm kiếm các dạng nguyên liệu, năng
lượng mới, bảo đảm phát triển bền vững.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy quốc gia nào xây dựng
và phát huy tốt nguồn lực con người thì hoàn toàn có thể thực hiện thành công

chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn. Những năm qua, chúng ta đã


thực hiện nhiều giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực và đã đạt nhiều thành
tựu quan trọng. Tuy nhiên, phát triển nguồn nhân lực vẫn còn nhiều bất cập, tỷ
lệ lao động chưa qua đào tạo còn lớn, chất lượng đào tạo thấp, cơ cấu ngành
nghề không hợp lý. Chúng ta đang thiếu cả cán bộ quản lý nhà nước, quản trị
doanh nghiệp; thiếu đội ngũ chuyên gia trong các ngành kinh tế kỹ thuật và công
nhân có tay nghề cao. Đây là những trở ngại lớn cho tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Chiến lược nhấn mạnh, phải đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ
lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động
lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh
vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử
dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu
cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao
đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng,
phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.
Phát triển nguồn nhân lực vừa là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài
theo tiến trình phát triển của tri thức nhân loại. Trong 5 năm tới, phải tập trung
chỉ đạo xây dựng và triển khai chương trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập
quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên
và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Đặc biệt coi trọng đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao, phục vụ tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng. Lấy nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo làm trục xoay chính, kết hợp
với mở rộng quy mô hợp lý. Quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng
tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính; thực hiện
kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi

trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã
hội.
Điểm nhấn mới trong khâu đột phá này là đặt việc phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự gắn kết với việc phát triển và
ứng dụng khoa học công nghệ. Điều này thể hiện tính hướng đích của sự phát
triển khoa học, công nghệ, bảo đảm chuyển tiềm năng trí tuệ của nguồn nhân lực
thành những thành quả ứng dụng và sáng tạo khoa học công nghệ - động lực then
chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững”.
Liên hệ bản thân:
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát
triển bền vững và lâu dài.Trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước giáo
dục sẽ tạo ra những đột phá mới cho sự phát triển về con người, về công nghệ
và nhất là Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao gắn kết với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ thì ngành giáo dục
sẽ là nghành tiên phong cho cuộc cách mạng này.Để ghóp phần làm lớn mạnh
cho Giáo dục nứớc nhà bản thân mỗi giáo viên chúng ta cũng cần thấy rằng


mình sẽ là những nguyên tố hạt nhân trong sự phát triển đó cho nên việc rèn
luyện bản thân thành những con người ưu tú, có trách nhiệm với nghề với đất
nước là việc bắt buộc với mỗi nhà giáo chúng ta. Ý thức rõ điều này bản thân tôi
trong những năm qua luôn không ngừng phấn đấu học tập rèn luyện về chuyên
môn, nghiệp vụ, trau dồi những tri thức mới đồng thời tích cực áp dụng triệt để
công nghệ thông tin vào quá trình giảng dạy, lên lớp.Thực hiện tốt các nội quy.
quy chế cơ quan đơn vị, học hỏi đồng nghiệp, thường xuyên cập nhật những
thay đổi, những thông tin mới về chuyên môn, về giáo dục trên các báo đài,
internet..vv để tránh bị tụt hậu cũng như theo kịp tốc độ phát triển của xã hội
công nghệ khoa học hiện nay và người ta thường nói rằng “nhiều người tốt sẽ
tạo nên một xã hội tốt, nhiều con người ưu tú sẽ đưa đến một xã hội cường
mạnh”. Còn chúng ta những nhà giáo cũng sẽ lại càng phải nỗ lực không ngừng

rèn luyện phấn đấu để tạo ra những thế hệ tương lai năng động tài giỏi,góp phần
xây dựng một xã hội văn minh giàu đẹp với nền khoa học hiện đại bên cạnh
những con người lao động có trình độ cao đã được tạo nên bằng chính nền giáo
dục của nước nhà.\ .


PHÒNG GD & ĐT NHA TRANG
TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH
Giáo viên: Nguyễn Thị Thanh Hải
BÀI THU HOẠCH CHÍNH TRỊ HÈ 2009
Câu hỏi: Qua học tập chuyên đề “Nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phục vụ nhân
dân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh”. Anh (chị) nhận thức nội dung nào sâu sắc nhất?
Liên hệ với nhiệm vụ được giao của bản thân hiện nay để thực hiện tốt nhiệm vụ mục tiêu năm
học 2009 – 2010.
TRẢ LỜI
Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về đạo đức và thực hành đạo đức. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người có giá trị
toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Bối cảnh đất nước cũng khác nhiều so với lúc sinh thời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những đổi thay trong đời sống kinh tế- xã hội Việt Nam, đặc biệt là
quy mô nhỏ bé của nền kinh tế, những khó khăn do thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra càng
khẳng định việc thực hành đạo đức theo tấm gương Hồ Chí Minh là việc làm có ý nghĩa hết sức
to lớn.
Tiếp tục thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, năm 2009, cán bộ, đảng viên, công chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể
chính trị - xã hội triển khai học tập chuyên đề: “Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh về việc nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân”. Và gắn với 40 năm thực hiện di chúc thiêng liêng của Bác, tôi xin có một số ý
kiến nhận thức của bản thân như sau:
Nói về những phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam, Bác Hồ chỉ rõ: Mỗi người
đều phải tuân theo đạo đức công dân. Đạo đức công dân, theo Bác là hăng hái tham gia công

việc chung, bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc, cần, kiệm xây dựng nước nhà… Người
nói, mỗi người đều phải có bổn phận với đất nước. Nước là của dân và dân là chủ của nước. Tổ
quốc là Tổ quốc chung. Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do. Nếu mất nước thì ai cũng phải
làm nô lệ. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm công dân trước hết và bao trùm nhất là
trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Trước hết, về ý thức trách nhiệm, theo Bác Hồ, đó là thể
hiện trong mối quan hệ với nhiệm vụ được giao, với công việc phải làm. Khi được giao việc gì,
bất kỳ to, hay nhỏ, khó hay dễ, đều phải dồn hết tâm huyết làm đến nơi, đến chốn, tự giác làm.
Nếu làm việc theo lối cẩu thả, dễ làm, khó bỏ, làm cho qua chuyện, gặp sao làm vậy… là
không có tinh thần trách nhiệm. Ý thức trách nhiệm còn thể hiện không thụ động, trông chờ, ỷ
nại; phải chủ động nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, thực hiện đúng
đường lối quần chúng.
Bác Hồ căn dặn cán bộ, đảng viên, Đảng, Chính phủ đề ra đường lối, chính sách; cán bộ
phải nghiên cứu, hiểu suốt, thấm nhuần… Từ đó, căn cứ tình hình thực tế đơn vị, địa phương
mình rồi đặt ra kế hoạch rõ ràng, tỉ mỉ, thiết thực; tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân thi


đua thực hiện. Đồng thời, phải bàn với dân, hỏi han, gom góp sáng kiến của quần chúng. Lãnh
đạo quần chúng và hoan nghênh quần chúng phê bình, “Phải đi đúng đường lối quần chúng.
Thế là có tinh thần trách nhiệm đối với Đảng, đối với Chính phủ, đối với nhân dân”.
Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh là
mọi người đều phải có trách nhiệm với Đất nước - Tổ quốc. Tổ quốc và nhân dân có mối quan
hệ máu thịt, theo nghĩa “đồng bào”. Thế nên, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân là phải đặt
lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải tận tâm, tận lực, tận tình phụng
sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Và phải tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, xác định vì
nhân dân mà làm việc: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải
hết sức tránh”. Bác Hồ đã nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Phục vụ nhân dân là phải “Làm cho dân có ăn. Làm cho
dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”.

Phục vụ nhân dân theo tư tưởng Bác Hồ là hướng dẫn nhân dân tự chăm lo đời sống của
chình mình (hướng dẫn tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm…); là đề ra được các chủ trương,
chính sách đúng đắn vì lợi ích của nhân dân (hợp lòng dân). Bác đã căn dặn, việc to, việc nhỏ
đều phải phù hợp với lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng, thì mới có thể
phục vụ được quần chúng, “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị
sửa chữa…”. Phụng sự, phục vụ nhân dân phải luôn luôn thấu triệt cán bộ là công bộc, là đày
tớ của dân. Bác Hồ đã dạy: “Làm cán bộ, tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân.
Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi học suốt đời mới thuộc được”.
Làm đày tớ thì phải học dân, hỏi dân, hiểu dân. “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được
dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân”.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về ý thức trách nhiệm trước Tổ quốc, Đảng và dân tộc
là trên hết, là mục đích cao cả nhất, đó là trách nhiệm của một người dân mất nước, khi nước
nhà chưa giành được độc lập, tự do. Vì vậy, Người xác định trách nhiệm: “Riêng phần tôi, xin
đem hết toàn lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dẫu phải hy sinh tính
mệnh cũng không nề”. Đó là tấm gương suốt đời, tất cả vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân “Cả
đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân...
Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc, lợi dân”.
Trước khi “từ biệt thế giới này”, đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin, Bác viết trong bản Di chúc:
“Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù
phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được
phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân hết sức rộng
lớn và sâu sắc. Trước hết là ở nhận thức về Tổ quốc, về nhân dân, về vị trí, vai trò của cán bộ,
đảng viên, công chức. Dân là chủ, là gốc của nước. Cán bộ là công bộc, là đày tớ của dân. Phục
vụ nhân dân là nhiệm vụ của mọi cán bộ, công chức, là gốc của mọi công việc. Đó cũng là
những vấn đề cốt lõi của việc nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân theo tấm gương đạo đức Bác Hồ kính yêu.
Tuy nhiên, sự cần thiết phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong bối cảnh hiện nay không phải chỉ vì những gì đang diễn ra trước mắt chúng ta, như
kinh tế khó khăn; tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn... mà phải nhận thức sâu

sắc rằng, thực hành đạo đức là vấn đề cơ bản và lâu dài, không chỉ đối với những nước
theo định hướng XHCN mà cả nhân loại. Nhận thức không chỉ dừng lại ở chỗ kêu gọi cần


phải nâng cao ý thức trách nhiệm, mà phải thấy nếu không nêu cao ý thức trách nhiệm
trong mọi công việc, đặc biệt là phòng, chống tham nhũng, lãng phí, là chết. Thực tiễn cho
thấy loài người muốn tồn tại và phát triển cần hai nguồn nhựa sống: nguồn nhựa vật chất
- phải có kinh tế làm nền tảng; nguồn nhựa tinh thần - phải có văn hóa, đạo đức làm nền
tảng. Đó là hai chân của đời sống con người. Riêng đối với Việt Nam, một nước nông
nghiệp phương Đông đi lên CNXH từ hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến chuyên chế,
gần trăm năm dưới chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, lại càng phải chú trọng
đạo đức.
Với mỗi người giáo viên chúng ta thì vấn đề đạo đức lại càng phải được đặt lên
hàng đầu. Qua học tập chuyên đề thì nội dung sâu sắc nhất đối với tôi đó là: “Nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”
1. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là công việc rất quan trọng và rất cần
thiết
Hồ Chí Minh coi phát triển giáo dục là một trong những công việc đầu tiên của cách mạng.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Bây giờ xây dựng kinh tế, không có cán bộ không làm được. Không
có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán
bộ, giáo dục là bước đầu". Hồ Chí Minh coi sự nghiệp giáo dục và đào tạo phải được quan tâm,
quán triệt thường xuyên, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Khi dân tộc bước vào cuộc trường kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh yêu cầu: ta cần phải có một nền giáo dục
kháng chiến và kiến quốc, vì chúng ta phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn
chỉ kháng chiến và kiến quốc. Khi cách mạng Việt Nam cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược, Hồ Chí Minh nêu rõ: "Văn hóa giáo dục phải phát triển mạnh để phục vụ yêu
cầu của cách mạng. Văn hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà". Khi đế quốc Mỹ mở
rộng chiến tranh ra cả nước, Hồ Chí Minh xác định: Trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh,
sự nghiệp giáo dục của chúng ta vẫn phát triển nhanh, mạnh hơn bao giờ hết. Trong hoàn cảnh

nào cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt, học tốt. Như vậy, với Hồ Chí Minh, cách mạng càng phát
triển thì càng đòi hỏi đông đảo đội ngũ cán bộ các thế hệ, đòi hỏi dân trí phải được nâng cao,
giáo dục phải phát triển để làm nhiệm vụ chăm lo bồi dưỡng các thế hệ cách mạng, trong đó
đặc biệt quan trọng là thế hệ trẻ.
2. Mục đích của việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Mục đích hàng đầu là đào tạo cán bộ cho cách mạng. Trong thư gửi các thầy cô giáo và học
sinh dự bị đại học ở Thanh Hóa tháng 4-1952, Hồ Chí Minh viết: "Giáo dục cần nhằm vào mục
đích thật thà phụng sự nhân dân". Nền giáo dục cách mạng đào tạo con em những người lao
động thành "những người công dân có ích cho nước Việt Nam".
Trường học là nơi đào tạo những người chủ tương lai của đất nước. Theo Người, trường
học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những
công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà. Về mọi mặt, trường học
của chúng ta phải hơn hẳn trường học của thực dân và phong kiến. Đó là một nền giáo dục làm
phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của học sinh; là con đường làm cho con em chúng
ta thành những trò giỏi, con ngoan, bạn tốt, và mai sau là những công dân dũng cảm, cán bộ
gương mẫu, người chủ xứng đáng của chế độ xã hội chủ nghĩa. Với thanh niên, phải giáo dục


họ "luôn luôn nâng cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách
mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho.
Thường xuyên giáo dục cán bộ trẻ, tiếp tục chăm sóc bồi dưỡng giáo dục họ để "làm việc, làm
người, làm cán bộ, để phụng sự Đảng, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt
mục đích ấy phải giáo dục đạo đức "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" cho họ".
Để đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh cho rằng, cần gột rửa nền giáo dục thực
dân phong kiến. Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục thực dân, đó là nền giáo dục nhằm thực
hiện chính sách ngu dân. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925), Hồ Chí
Minh tố cáo: Để có thể đánh lừa dư luận bên Pháp và bóc lột dân bản xứ một cách êm thấm,
bọn cá mập của nền văn minh không những đầu độc nhân dân An Nam bằng rượu và thuốc
phiện, mà còn thi hành một chính sách ngu dân triệt để. Đó là nền giáo dục "nhồi sọ" làm hư

hỏng các thế hệ trẻ Việt Nam. Người viết: Trong mấy mươi năm nô lệ, đế quốc và phong kiến
đã dùng giáo dục nô lệ để "nhồi sọ" thanh niên ta, làm cho thanh niên ta hư hỏng. Hồ Chí Minh
chủ trương, khi cách mạng thành công sẽ thực hiện nền giáo dục cách mạng. Nhưng "Trước hết
phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại, như: Thái độ thờ ơ
đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy
theo lối nhồi sọ"
3. Nội dung giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ
- Bồi dưỡng, giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau một cách toàn diện
Hồ Chí Minh yêu cầu trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách
mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất; đào tạo thế hệ trẻ
thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa "hồng" vừa "chuyên".
Đạo đức và tài năng là cả hai nội dung không thể thiếu được đối với nhiệm vụ bồi dưỡng, giáo
dục, trong đó đạo đức là gốc. Năm 1964, Người nói: "Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả
tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng". Trên nền tảng giáo
dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên
môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian
không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật.
- Bồi dưỡng, giáo dục phải trên tất cả các mặt "đức, trí, thể, mỹ", thể hiện ở 5 nội dung sau
đây:
Thứ nhất, giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ.
Thứ hai, quan tâm đến việc bồi dưỡng nâng cao chí khí cách mạng cho tuổi trẻ.
Thứ ba, giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ.
Thứ tư, giáo dục nâng cao trình độ chính trị, học vấn, khoa học, kỹ thuật và quân sự.
Thứ năm, giáo dục, bồi dưỡng nếp sống văn hóa, thể chất cho tuổi trẻ.
4. Phương pháp giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ
- Giáo dục phải phù hợp với mỗi đối tượng, giáo dục là một khoa học.
Trong thư gửi giáo viên, học sinh cán bộ thanh niên và nhi đồng (ngày 31-10-1955), Người chỉ
ra: "Mỗi một cấp giáo dục cần nhận rõ nhiệm vụ của mình trong lúc này:
Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên
tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc

xây dựng nước nhà.


Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích
hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời
sống thực tế.
Tiểu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu
khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn
khổ của người lớn, phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu".
- Giáo dục phải gắn liền với xã hội, học đi đôi với hành. Giáo dục phải xuất phát và bám chắc
vào mục tiêu giáo dục. Người nói: "Chúng ta phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo
nhân tài kháng chiến và kiến quốc" .Tháng 9-1945, trong Thư gửi các học sinh, Hồ Chí Minh
viết: "Đối riêng với các em lớn... phải sẵn sàng mà chống quân giặc cướp nước, đấy là bổn
phận của mỗi công dân. Các em lớn chưa hẳn đến tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy,
nhưng các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện
thêm cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng
thủ đất nước". Với các em nhỏ, Người khuyên cứ từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một đội, giúp
nhau học hành. Khi học rảnh, mỗi tuần cả đội đem nhau đi giúp đồng bào. Trong kháng chiến,
Hồ Chí Minh chủ trương cần có một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc. Người yêu cầu:
1. Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho phù hợp với sự nghiệp kháng chiến và kiến
quốc.
2. Muốn như thế chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc cho các trường.
Ngày 31-8-1960, trong thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường và các lớp
bổ túc văn hóa, Người nhắc nhở: "Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và
Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân".
- Giáo dục phải phối hợp nhà trường - xã hội - gia đình.
- Thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục.
- Giáo dục phải gắn liền với thi đua.
5. Vai trò của các thế hệ đi trước, của thầy giáo trong việc bồi dưỡng thế hệ trẻ
- Hồ Chí Minh khẳng định, giáo dục thế hệ trẻ phải thực hiện phương pháp nêu gương.

- Phải xây dựng đội ngũ những "người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo".
Về phẩm chất của người thầy, Hồ Chí Minh yêu cầu:
+ "Phải thật thà yêu nghề mình";
+ "Phải có đạo đức cách mạng. Phải có chí khí cao thượng, phải "tiên ưu hậu lạc" nghĩa là khó
khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Đấy là đạo đức cách
mạng";
+ "Phải yên tâm công tác";
+ "Phải thật thà đoàn kết";
+ "Phải thương yêu các cháu như con em ruột thịt của mình";
+ "Phải luôn luôn ra sức thi đua công tác và học tập, thật thà phê bình và tự phê bình để cùng
nhau tiến bộ mãi".


Để thực hiện tốt nhiệm vụ mục tiêu năm học 2009 – 2010: “Năm học đổi mới quản lý và
nâng cao chất lượng giáo dục ". Toàn ngành Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tập trung thực hiện tốt
các nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
1. Tiếp tục thực hiện ba cuộc vận động và phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực" trong toàn ngành nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là giáo dục
đạo đức, nhân cách và kỹ năng sống cho học sinh
2. Đổi mới quản lý giáo dục
3. Triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
4. Tiếp tục phát triển mạng lưới trường, lớp và tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục.
5. Chăm lo và đầu tư cho phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
5.1. Tăng cường năng lực và nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên
5.2. Kiên quyết khắc phục việc thiếu giáo viên tại một số tỉnh, nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên được tuyển dụng.
5.3. Chuẩn hóa trong đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn và sử dụng cán bộ quản lý giáo dục
6. Đánh giá toàn diện kết quả thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010. Xây dựng
Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020. Triển khai thực hiện các đề án phát triển giáo dục
7. Một số nhiệm vụ đặc thù về giáo dục các bậc học.

LIÊN HỆ VỚI BẢN THÂN:
Với bản thân tôi, là giáo viên THCS tôi luôn nhận thức được nhiệm vụ của mình trong
vai trò công tác và các mối quan hệ trong cuộc sống, tôi luôn cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ
được giao. Có ý thức xây dụng tập thể đoàn kết. Trong cơ quan tôi luôn gương mẫu đúng mực
trong các mỗi quan hệ, tôn trọng hòa nhã với đồng nghiệp. Nhiệm vụ được giao của tôi là giảng
dạy và làm công tác chủ nhiệm. Để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao tôi đề ra phương hướng
phấn đấu và rèn luyện cho mình như sau:
- Về tinh thần trách nhiệm:
+ Nắm vững đường lối, chính sách , pháp luật của Đảng và Nhà nước. Có tinh thần
trách nhiệm trong công việc và hoàn thành tốt công việc được giao.
+ Nắm vững qui chế chuyên môn. Thường xuyên học tập và rèn luyện để nâng cao kiến
thức.
+ Dạy học đúng chuẩn kiến thức và kĩ năng.
+ Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tạo hứng thú cho các em.
+ Kết hợp tốt các phương pháp trong dạy học thúc đấy học sinh tư duy, sáng tạo; chấm
dứt việc dạy học chủ yếu qua “đọc - chép”.
- Phát huy hiệu quả thời gian làm việc đối với công chức, viên chức theo quy định
của pháp luật, nội quy, quy định của cơ quan, đơn vị.
+ Chấp hành tốt nội quy, quy định của nhà trường.
+ Đảm bảo đúng và sử dụng có hiệu quả thời gian làm việc ở nhà trường
+ Không uống rượu, bia, hút thuốc trước và trong giờ làm việc.
- Có ý thức tiết kiệm, chống lãng phí trong thực hiện nhiệm vụ hàng ngày.
+ Luôn có tinh thần trách nhiệm bảo vệ tài sản của cơ quan.
+ Sử dụng và bảo quản tài sản của nhà trường đúng mục đích có hiệu quả.
- Tinh thần thái độ với học sinh và phụ huynh:


+ Người thầy giáo phải luôn thương yêu, tôn trọng Hs là tấm gương sáng cho Hs noi
theo.
+ Về công tác chủ nhiệm cần bám sát học sinh, hiểu tâm lý phát triển của độ tuổi , có

mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình.
+ Có nghệ thuật trong cách ứng xử với học sinh. Có biện pháp giáo dục thích hợp với
từng đối tượng Hs, nhất là đối với Hs đặc biệt.
+ Phát huy khả năng dân chủ tự quản của Hs. Coi trọng tự giáo dục, GVCN thực sự là
cố vấn cho Hs, là trung tâm tập hợp các lực lượng giáo dục.
- Kiên quyết chống những biểu hiện quan liêu, né tránh, vô trách nhiệm trước yêu cầu
chính đáng của học sinh, phụ huynh.
- Luôn có thái độ cầu thị, thực sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến của HS, phụ huynh và
đồng nghiệp, kiên quyết khắc phục, sửa chữa những thiếu sót, khuyết điểm mà đồng nghiệp
đóng góp để giảng dạy tốt hơn.
- Nghiêm túc thực hiện quy định 115 của Bộ Chính trị, giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn
trong cán bộ, Đảng viên, công chức, viên chức.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau không chỉ
thể hiện tình cảm yêu thương vô bờ bến và sự chăm lo của Người đối với thế hệ trẻ, mà còn là
một nội dung quan trọng trong hệ thống các quan điểm lý luận của Người. Việc nghiên cứu
quán triệt quan điểm của Người về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là nhiệm
vụ của mọi cấp, mọi ngành, mọi cán bộ, đảng viên trong các lĩnh vực, nhưng trước hết là của
thanh niên, học sinh trong các nhà trường. Đặc biệt là đội ngũ thầy cô giáo chúng ta.

Nghiên cứu chuyên đ ề “Nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân”
Thứ tư, 10 Tháng 6 2009 15:01
Ngày 9-6, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn tỉnh để quán triệt chuyên đề “Nâng
cao ý thức trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Phát biểu khai mạc hội nghị, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Hải khẳng định: Cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
ngày càng có nhận thức sâu sắc hơn về những nội dung cơ bản, giá trị tinh thần to lớn của tư
tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Bước đầu đã tạo ra những chuyển biến quan trọng
trong nhận thức, ý thức rèn luyện tư tưởng, đạo đức lối sống và những hành động cụ thể theo
tấm gương của Bác ở các cấp, các ngành và trong quần chúng nhân dân. Đồng chí đề nghị đội

ngũ cán bộ chủ chốt của toàn tỉnh tập trung nghiên cứu sâu nội dung chuyên đề “Nâng cao ý
thức trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”; trên cơ sở đó tổ chức
tốt công tác tuyên truyền, vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể, nhằm thực hiện đạt kết quả
cao nhất việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đồng chí Phan Văn Phờ - Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy trong
phần trình bày chuyên đề “Nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,


phục vụ nhân dân” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đã nhấn mạnh: “Cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức trong tỉnh cần nêu cao tính tiên phong, gương mẫu. Dù ở vị trí nào cũng phải có
phẩm chất đạo đức, cấp bậc càng cao thì càng phải nêu gương về đạo đức. Mỗi cán bộ, đảng
viên, cán bộ quản lý, lãnh đạo cần phải xây dựng kế hoạch cá nhân làm theo Bác, với các nội
dung cụ thể, thiết thực, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp triển khai cuộc vận
động trong năm 2009 mà Ban Chỉ đạo Trung ương đã đề ra”.
Cũng tại hội nghị, các đại biểu được quán triệt Chỉ thị 34-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng
cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động diễn biến hòa bình trên lĩnh vực tư tưởng,
văn hóa”.

Tiếp tục thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, năm 2009, cán bộ, đảng viên, công chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể chính trị
- xã hội triển khai học tập chuyên đề: “Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về
việc nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân”.
Nói về những phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam, Bác Hồ chỉ rõ: Mỗi người đều phải
tuân theo đạo đức công dân. Đạo đức công dân, theo Bác là hăng hái tham gia công việc chung,
bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc, cần, kiệm xây dựng nước nhà… Người nói, mỗi
người đều phải có bổn phận với đất nước. Nước là của dân và dân là chủ của nước. Tổ quốc là
Tổ quốc chung. Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do. Nếu mất nước thì ai cũng phải làm nô
lệ. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm công dân trước hết và bao trùm nhất là trách
nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân.

Đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, Người yêu cầu, vừa phải thực hiện đạo đức
công dân, vừa thực hiện đạo đức của người cán bộ - đạo đức cách mạng, nghĩa là: “Nhận rõ
phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”. Xuất phát từ quan niệm
“dân là chủ và dân làm chủ”; Nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Chính phủ,
cán bộ, công chức nhà nước là công bộc của dân, phải nêu cao ý thức trách nhiệm phục vụ
nhân dân. Trong bức thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng ngày 17-10-1945
Bác viết: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều
là đày tớ của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như
trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”.
Với cán bộ, đảng viên, cần nhận thức rõ, nêu cao ý thức trách nhiệm hết lòng, hết sức phụng sự
Tổ quốc, phục vụ nhân dân, là mục đích và bản chất của Đảng. Bác Hồ đã khẳng định, Đảng ta
là đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là đảng của nhân dân lao động, của dân tộc. Đảng là
đội tiên phong của giai cấp và dân tộc; đại biểu cho lợi ích giai cấp và dân tộc. Đảng lấy dân
làm gốc. Đảng cầm quyền, nhưng dân làm chủ. Đảng cầm quyền là để bảo đảm cho dân làm
chủ. Người dân uỷ thác quyền lực đó cho những chức danh cụ thể, kể cả chức vụ Chủ tịch
nước. Trong buổi gặp các nhà báo đầu năm 1946, Bác Hồ đã tuyên bố: “Tôi tuyệt nhiên không


ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh vác chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy
thác thì tôi phải gắng làm…”.
Cán bộ, đảng viên, công chức phải phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân vì theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, sự nghiệp cách mạng là do nhân dân tiến hành. Nhân dân là người làm ra lịch sử.
Sức mạnh của nhân dân là vô địch. Không có nhân dân, Đảng, Chính phủ không có lực lượng.
Có dân là có tất cả: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân. Trước hết, về ý thức trách nhiệm, theo Bác Hồ, đó là thể hiện trong
mối quan hệ với nhiệm vụ được giao, với công việc phải làm. Khi được giao việc gì, bất kỳ to,
hay nhỏ, khó hay dễ, đều phải dồn hết tâm huyết làm đến nơi, đến chốn, tự giác làm. Nếu làm
việc theo lối cẩu thả, dễ làm, khó bỏ, làm cho qua chuyện, gặp sao làm vậy… là không có tinh
thần trách nhiệm. Ý thức trách nhiệm còn thể hiện không thụ động, trông chờ, ỷ nại; phải chủ

động nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, thực hiện đúng đường lối quần
chúng.
Bác Hồ căn dặn cán bộ, đảng viên, Đảng, Chính phủ đề ra đường lối, chính sách; cán bộ phải
nghiên cứu, hiểu suốt, thấm nhuần… Từ đó, căn cứ tình hình thực tế đơn vị, địa phương mình
rồi đặt ra kế hoạch rõ ràng, tỉ mỉ, thiết thực; tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân thi đua
thực hiện. Đồng thời, phải bàn với dân, hỏi han, gom góp sáng kiến của quần chúng. Lãnh đạo
quần chúng và hoan nghênh quần chúng phê bình, “Phải đi đúng đường lối quần chúng. Thế là
có tinh thần trách nhiệm đối với Đảng, đối với Chính phủ, đối với nhân dân”.
Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh là mọi
người đều phải có trách nhiệm với Đất nước - Tổ quốc. Tổ quốc và nhân dân có mối quan hệ
máu thịt, theo nghĩa “đồng bào”. Thế nên, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân là phải đặt lợi
ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải tận tâm, tận lực, tận tình phụng sự
Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Và phải tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, xác định vì nhân
dân mà làm việc: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức
tránh”. Bác Hồ đã nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Phục vụ nhân dân là phải “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có
mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”.
Phục vụ nhân dân theo tư tưởng Bác Hồ là hướng dẫn nhân dân tự chăm lo đời sống của chình
mình (hướng dẫn tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm…); là đề ra được các chủ trương, chính
sách đúng đắn vì lợi ích của nhân dân (hợp lòng dân). Bác đã căn dặn, việc to, việc nhỏ đều
phải phù hợp với lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng, thì mới có thể phục
vụ được quần chúng, “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa
chữa…”. Phụng sự, phục vụ nhân dân phải luôn luôn thấu triệt cán bộ là công bộc, là đày tớ
của dân. Bác Hồ đã dạy: “Làm cán bộ, tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân.
Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi học suốt đời mới thuộc được”.
Làm đày tớ thì phải học dân, hỏi dân, hiểu dân. “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được


dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân”.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về ý thức trách nhiệm trước Tổ quốc, Đảng và dân tộc là

trên hết, là mục đích cao cả nhất, đó là trách nhiệm của một người dân mất nước, khi nước nhà
chưa giành được độc lập, tự do. Vì vậy, Người xác định trách nhiệm: “Riêng phần tôi, xin đem
hết toàn lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dẫu phải hy sinh tính mệnh
cũng không nề”. Đó là tấm gương suốt đời, tất cả vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân “Cả đời
tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân... Bất
kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc, lợi dân”.
Trước khi “từ biệt thế giới này”, đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin, Bác viết trong bản Di chúc:
“Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù
phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được
phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân hết sức rộng lớn và
sâu sắc. Trước hết là ở nhận thức về Tổ quốc, về nhân dân, về vị trí, vai trò của cán bộ, đảng
viên, công chức. Dân là chủ, là gốc của nước. Cán bộ là công bộc, là đày tớ của dân. Phục vụ
nhân dân là nhiệm vụ của mọi cán bộ, công chức, là gốc của mọi công việc. Đó cũng là những
vấn đề cốt lõi của việc nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân theo tấm gương đạo đức Bác Hồ kính yêu.
Bản đăng ký
Làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng,
hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
( Mẫu số 1: Dùng cho Đảng viên )
- Họ và tên: Phạm Tuyết Lan
- Chức vụ: Giáo viên
- Đơn vị: Trường THCS Phong Hải – Yên Hưng – Quảng Ninh
Sau khi được nghiên cứu, học tập chuyên đề “ Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
về nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân ” Tôi
xin đăng ký làm theo tấm gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách
nhiệm hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trong thời gian tới như sau:
1- Nhận thức của bản thân về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức
trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh – Một danh nhân văn hóa thế giới, một vị lãnh tụ vĩ đại đã chèo lái con

thuyền Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người còn là một nhà tư
tưởng lớn có tầm nhìn chiến lược, toàn diện về mọi lĩnh vực, đặc biệt là tư tưởng Hôc Chí
Minh ngay từ khi Người bắt đầu hoạt động Cách mạng.
- Nghiên cứu, học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những nhiệm
vụ, biện pháp tốt nhất để nâng cao trình độ lý luận của cán bộ Đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là một tấm gương đạo đức về nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân. Theo Người, khi chúng ta phụ trách một công việc gì đó, bất kỳ to hay


nhỏ, chúng ta phải luôn luôn nhớ đến việc đó với quan hệ cách mạng, ảnh hưởng tới Tổ quốc,
nhân dân , chúng ta phải toàn tâm, toàn lực làm trọn nhiệm vụ, chỉ làm cho xong, làm qua loa,
tức là có hại cho Tổ quốc, có hại đến nhân dân, cả cuộc đời của Bác hết lòng, hết sức phụng sự
Tổ quốc, phục vụ Cách mạng, phục vụ nhân dân. Sức thuyết phục to lớn của tư tưởng, đạo đức
Hồ Chí Minh chính là ở sự cao đẹp của toàn bộ cuộc sống và cuộc đời hoạt động Cách mạng
của Người. Đó là sự thống nhất giữa động cơ, lời nói, nói ít làm nhiều, làm với tinh thần trách
nhiệm cao. Người không những tự mình rèn luyện, làm gương cho mọi người noi theo mà còn
biểu dương những điển hình tiên tiến, những tấm gương tiểu biểu để giáo dục cho mọi người.
- Là một Đảng viên trong thời kỳ đổi mới, khi mà đời sống chính trị thế giới đã và đang có
những biến đổi phức tạp tôi nhận thấy việc học tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về
nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân là việc làm
cần thiết.
2- Suy nghĩ của bản thân về sự cần thiết nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng,

T
ư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm,
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân
09/07/2009 11:07
Nhân loại đang bước vào năm cuối của thập niên đầu thế kỷ XXI với nhiều thay đổi nhanh
chóng. Cùng với những vấn đề về toàn cầu hóa kinh tế, cách mạng khoa học- công nghệ, chiến
tranh cục bộ, xung đột vũ trang..., nền kinh tế Mỹ lâm vào khủng khoảng tài chính nặng nề nhất

từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 1929-1933 và đang lan rộng ra nhiều nước. Cuộc khủng
hoảng còn diễn biến phức tạp, khó lường trước, có thể kéo dài trong một vài năm, gây ra suy
giảm, suy thoái kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, một vấn đề nổi lên là nhân loại đang tìm
cách vượt ra khỏi cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế với một trong những giải pháp quan
trọng hàng đầu là nêu cao ý thức trách nhiệm, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.
Trong bài phát biểu nhậm chức, Tổng thống Mỹ B. Obama đề cập “nền kinh tế của chúng ta
đặc biệt bị suy yếu, một hậu quả của sự tham lam và vô trách nhiệm của một số đối tượng”.
Ông cho rằng “những ai đang leo lên quyền lực bằng con đường tham nhũng, rằng các vị đang
đi sai con đường lịch sử”. Cũng như Thủ tướng Đức, Tổng thống Mỹ tuyên bố với Quốc hội
sẵn sàng chịu trách nhiệm trước gói kích cầu do ông đề nghị. Phát biểu trước Quốc hội Mỹ, B.
Obama cho biết đã bắt đầu nghiên cứu kỹ lưỡng ngân sách liên bang và xác nhận có thể cắt
giảm khoảng 2 nghìn tỷ USD trong vòng mười năm tới; giải quyết triệt để tình trạng lãng phí,
nạn tham nhũng và lạm dụng trong các chương trình quốc gia. Cùng với việc công khai thu
nhập, khước từ phi đội trực thăng bảo vệ mới, Tổng thống Obama đã phê phán gay gắt tập đoàn
AIG chi tiền thưởng - tiền cứu trợ từ Chính phủ, tức là tiền thuế của dân - không đúng lúc.


Tổng thống Mỹ cho rằng “làm sao họ - một công ty rơi vào khủng hoảng do sự khinh suất và
tham lam - có thể biện hộ được sự xúc phạm trắng trợn đối với người nộp thuế, những người đã
bỏ tiền ra giúp công ty thoát hiểm... Đây không phải là chuyện tiền bạc. Đây là những vấn đề
liên quan tới giá trị nền tảng của chúng ta”.
Không chỉ ở Mỹ, ở Đức, mà hầu như cả thế giới đang nỗ lực cao độ trong việc thực thi các
giải pháp hữu hiệu về chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm để cứu vớt các nền kinh tế. Nước
Nga, sau khi Tổng thống và Thủ tướng công khai tài sản, nhiều quan chức đã công khai tài sản.
Thủ tướng Nhật công du bằng máy bay nhỏ. Hàn Quốc cắt giảm dùng xe công xuống còn 30%;
Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn thép Busan Hàn Quốc đi xe Deawoo. Trung Quốc có
“Ngày tiết kiệm trong công sở” và thưởng 10% tài sản cho người tố cáo tham nhũng. Philippin
có “Ngày không ô tô trong quân đội”, tắt điều hòa sau 16 giờ 30 v.v… Một số Bộ trưởng, Thủ
tướng các nước xin từ chức, vì tự thấy không làm tròn trách nhiệm của nhân dân giao (1).
Rõ ràng là vấn đề nêu cao đạo đức công dân, phòng, chống tham nhũng, thực hiện trách

nhiệm của người đứng đầu trên thế giới, cung cấp nhiều thông tin và gợi cho ta nhiều suy nghĩ
bổ ích về việc thực hành đạo đức. Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành trung ương khóa X (12009) kiểm điểm “việc nghiên cứu, vận dụng kinh nghiệm của các nước về phòng, chống tham
nhũng còn ít; việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng còn chậm”.
Điều quan trọng nhất là bức tranh của thế giới càng củng cố và khẳng định tư tưởng và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên một giá trị phổ biến toàn nhân loại trong một thế
giới đã có nhiều thay đổi.
Bối cảnh đất nước cũng khác nhiều so với lúc sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những
đổi thay trong đời sống kinh tế- xã hội Việt Nam, đặc biệt là quy mô nhỏ bé của nền kinh tế,
những khó khăn do thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra càng khẳng định việc thực hành đạo đức
theo tấm gương Hồ Chí Minh là việc làm có ý nghĩa hết sức to lớn.
Tuy nhiên, sự cần thiết phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong bối
cảnh hiện nay không phải chỉ vì những gì đang diễn ra trước mắt chúng ta, như kinh tế khó
khăn; tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn... mà phải nhận thức sâu sắc rằng, thực hành
đạo đức là vấn đề cơ bản và lâu dài, không chỉ đối với những nước theo định hướng XHCN mà
cả nhân loại. Nhận thức không chỉ dừng lại ở chỗ kêu gọi cần phải nâng cao ý thức trách
nhiệm, mà phải thấy nếu không nêu cao ý thức trách nhiệm trong mọi công việc, đặc biệt là
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, là chết. Thực tiễn cho thấy loài người muốn tồn tại và phát
triển cần hai nguồn nhựa sống: nguồn nhựa vật chất - phải có kinh tế làm nền tảng; nguồn nhựa
tinh thần - phải có văn hóa, đạo đức làm nền tảng. Đó là hai chân của đời sống con người.
Riêng đối với Việt Nam, một nước nông nghiệp phương Đông đi lên CNXH từ hàng ngàn năm
dưới chế độ phong kiến chuyên chế, gần trăm năm dưới chế độ thực dân không kém phần
chuyên chế, lại càng phải chú trọng đạo đức.
Những năm qua, chúng ta phát triển đất nước trên thế kiềng ba chân: xây dựng Đảng là then
chốt, xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm và xây dựng văn hóa làm nền tảng tinh thần của
xã hội. Tuy nhiên, việc xây dựng văn hóa, đạo đức thường diễn ra chậm hơn so với xây dựng
kinh tế. Thậm chí khi GDP đang ở mức cao (8,48% năm 2007), các nhà khoa học đã cảnh báo
nguy cơ đang tiềm ẩn trong sự tăng trưởng kinh tế, mà nguy cơ này lại nằm ở “vốn xã hội”.
Nơi này nơi khác, mức độ này mức độ khác, chúng ta đang phải trả giá cho sự tăng trưởng



nóng mà coi nhẹ giáo dục đạo đức, yếu kém trong việc dạy làm người, không chú trọng phát
triển bền vững với những yếu tố về môi trường, tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội. Thiếu
tinh thần trách nhiệm, quan liêu dẫn tới tham nhũng, lãng phí- một trong những nguyên nhân
gây ra sự bất công, bất bình, bức xúc trong xã hội, làm suy giảm kinh tế và lòng tin của nhân
dân.
Với một cái nhìn tổng quan như trên, chúng ta dễ dàng nhận thức được rằng, trong bối cảnh
mới, tuy tình hình, đặc điểm đất nước và thế giới thay đổi nhiều, nhưng tư tưởng và tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh thì không hề thay đổi, mang giá trị trường tồn.
Trong di sản về đạo đức, cùng với việc đề cập đạo đức công dân, đạo đức của từng ngành,
từng lĩnh vực, từng lứa tuổi, Hồ Chí Minh chủ yếu đề cập đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên, và khi nói tới cán bộ, Người thường so sánh với nhân dân. Mệnh đề “Nâng cao ý thức
trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” là Hồ Chí Minh chủ yếu
đề cập tới trách nhiệm của cán bộ đương chức, đương quyền, so với nhân dân, họ là những
người có quyền. Tại sao như vậy?
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhưng nhân dân cần được tổ chức và có
người dẫn đường. Cán bộ là gốc của mọi công việc. Mọi việc thành bại đều liên quan tới cán bộ
tốt hay xấu. Nhưng cán bộ lại là đầy tớ của dân, người phục vụ dân. Cán bộ, đảng viên là tấm
gương của xã hội, “đi trước để làng nước theo”. Gương sáng thì dân soi, gương mờ thì dân
quay lưng lại. Hồ Chí Minh chỉ rõ “đã là cán bộ thì so với nhân dân, ít nhiều đều có quyền
hành, cấp cao thì quyền to, cấp thấp quyền nhỏ, Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là
có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”.
Cán bộ phải hiểu vai trò, vị trí của dân và tự hiểu vai trò, vị trí của mình trong tiến trình cách
mạng. Sự hiểu biết đó để thấy rằng quyền lực cán bộ đang thi hành là quyền lực của dân, trong
tay dân, do dân ủy thác. Khi được ủy thác quyền lực thì cán bộ- như Bác dặn- phải hết sức làm,
cũng như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận, bao giờ đồng bào cho lui
thì phải vui lòng lui. “Đồng bào cho lui” nghĩa là khi cán bộ không còn tín nhiệm với nhân dân
nữa, hoặc tự thấy chức vụ mình đảm nhiệm quá lớn so với tài, đức của mình, hoặc công việc
phụ trách trước dân mà mình không hoàn thành... thì phải được miễn nhiệm, bãi nhiệm hay từ
chức.
Cán bộ đảng viên phải hiểu rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng là

của dân, thì việc phục vụ dân, công bộc của dân là lẽ đương nhiên. Mặt khác phải thấy rằng Tổ
quốc là Tổ quốc chung của mọi con dân nước Việt, con Lạc cháu Hồng, mọi người phải có
trách nhiệm phụng sự Tổ quốc, đặc biệt trong đó, cán bộ là đội ngũ ưu tú của dân tộc thì càng
phải nêu cao tinh thần phục vụ Tổ quốc. Bác Hồ đã dạy: “Các Vua Hùng đã có công dựng
nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Mỗi cán bộ phải nhận thức đúng đắn, sâu sắc rằng, sự khác biệt về chất của các thắng lợi
chống ngoại xâm dưới sự lãnh đạo của Đảng so với các thắng lợi dưới các triểu đại phong kiến
trước đây là ở chỗ thắng lợi do Đảng lãnh đạo đã “biến người nô lệ thành người tự do”. Cách
mạng Tháng Tám 1945 đã dựng lên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đó trở đi, nước ta là
nước dân chủ: Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ
xã đến chính phủ Trung ương đều do dân cử ra.


Những nhận thức nêu trên cho thấy việc nêu cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng
sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của cán bộ là điều tất yếu, dễ hiểu và người cán bộ của dân- chứ
không phải cha mẹ của dân như thời thực dân phong kiến- phải phục vụ tốt đời sống nhân dân,
phục vụ hàng ngày, phục vụ suốt đời.
Nội dung nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân
trước hết thể hiện ở chỗ, người cán bộ phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước để tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân thực hiện, tạo nên sự đồng
thuận trong xã hội, làm cho nhân dân hiểu và tin đường lối của Đảng. Trách nhiệm của cán bộ
là hướng dẫn nhân dân thực hiện đúng và tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Cán bộ, cùng với việc chấp hành nghiêm đường lối của Đảng, thì phải đi đúng đường lối của
quần chúng. Tức là đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; việc gì
cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; có khuyết điểm thì thật thà phê bình
trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; sẵn sàng học hỏi nhân dân; tự mình
phải làm gương mẫu cần, kiệm, liêm chính để nhân dân noi theo. Đồng thời phải khắc phục các
nguyên nhân của bệnh quan liêu. Đó là xa nhân dân, dẫn đến không nắm vững dân tình, dân
tâm, dân ý. Khinh nhân dân, cho dân không hiểu chính trị, lý luận như mình. Sợ nhân dân, tức
là khi có khuyết điểm thì sợ dân phê bình, sợ mất thể diện, sợ phải sửa chữa. Không tin cậy

nhân dân, tức là không hiểu rằng không có lực lượng nhân dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm
cũng không xong; có lực lượng nhân dân thì việc khó mấy, to mấy, làm cũng được. Không hiểu
biết nhân dân, tức là cán bộ quên rằng nhân dân cần lợi ích thiết thực- lợi ích gần, xa; riêng,
chung; bộ phận, toàn cục; đối với nhân dân, không thể lý luận suông, chính trị suông. Không
yêu thương nhân dân, tức là cán bộ chỉ biết đòi hỏi dân, không biết giúp đỡ, có trách nhiệm với
dân.
Điều có ý nghĩa quan trọng nhất là phải làm tròn nhiệm vụ. Nhận thức chung về làm tròn
nhiệm vụ là làm tròn phần việc được giao; lời nói đi đôi với việc làm và phải chịu hậu quả về
việc không hoàn thành nhiệm vụ, lời nói không đi đôi với việc làm.
Làm tròn nhiệm vụ về phía hệ thống chính trị (Đảng, Quốc hội, Chính phủ) thì phải điều tra,
nghiên cứu, cân nhắc cẩn thận, nhằm vào lợi ích chung của nhân dân mà đặt chính sách. Mọi
công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Hồ Chí Minh viết: “Sự lãnh đạo
trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng.
Nghĩa là gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó,
sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần
chúng, và làm cho nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực
hành ý kiến đó. Đồng thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng
hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những
khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành”(2). Ngược
lại, “vì không biết gom góp ý kiến của quần chúng, kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý
kiến của những người lãnh đạo thành ra lý luận suông, không hợp với thực tế”. Có nghị quyết,
chính sách rồi thì phải “nghiêm ngặt kiểm tra, các địa phương phải kiên quyết thực hành những
nghị quyết của Đảng. Kiên quyết chống lại cái thói nghị quyết một đường, thi hành một
nẻo”(3). “Đảng phải luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế


nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến
lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”(4).
Về phía cán bộ, đảng viên, phải đem hết trí tuệ, tâm huyết và lực lượng làm trọn vẹn, có hiệu
quả phần việc được giao, dù đó là việc to hay nhỏ, dễ hay khó. Làm tốt công việc không có

nghĩa là không vấp váp khuyết điểm. Phải thấy rằng đó là sự vấp váp khuyết điểm trong tiến
bộ. Và trong trường hợp đó thì phải biết tự phê bình, hoan nghênh nhân dân phê bình, kiên
quyết dùi mài tinh thần trách nhiệm. Làm tròn phần việc đồng thời lời nói đi đôi với việc làm.
Nếu công việc không hoàn thành, lời nói không đi đôi với việc làm, nói nhiều làm ít, nói mà
không làm, nói một đường làm một nẻo, thì phải gánh chịu hậu quả.
Ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân phải gắn bó chặt chẽ giữa
xây và chống. Xây ý thức “việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy cũng phải hết sức làm; việc gì hại
cho dân, dù nhỏ mấy cũng phải hết sức tránh”. Chống thói đạo đức giả, bệnh thành tích- hình
thức, cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy. Quan liêu
mệnh lệnh, chủ quan, hấp tấp, tự tư tự lợi là trái hẳn với tinh thần trách nhiệm, cần phải tiêu
diệt.
Muốn làm tốt những điều đó, cần có một hệ giải pháp từ phía Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên.
Đảng phải tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc, toàn diện về Đảng
cầm quyền; nhận thức về những bài học thành công và chưa thành công trong quá trình lãnh
đạo cách mạng của Đảng. Những nhận thức tưởng như đơn giản hay “thuộc lòng”, nhưng
không phải ai cũng hiểu và hành được. Chẳng hạn, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”; “Đảng
có vững cách mạng mới thành công”, “Đảng là mỗi chúng ta”; “làm cán bộ tức là suốt đời làm
đày tớ trung thành của nhân dân”... Mấy chữ a, b, c đó - như cách nói của Bác- không phải ai
cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được.
Các giải pháp từ phía cán bộ, đảng viên gồm cả nhận thức và tu dưỡng. Trong nhận thức, rất
cần những đột phá mới về tư duy mang tính cách mạng và khoa học, thể hiện phẩm chất, bản
lĩnh, trí tuệ, năng lực của cán bộ. Cán bộ không dám “tự chỉ trích” với cái trí- bản lĩnh của
người cách mạng; không dám nói, không dám làm, không dám chịu trách nhiệm, theo kiểu
“đập đi, hò đứng”, “thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi’, “theo gió bẻ buồm”, thì nói
theo tinh thần của Lênin và Hồ Chí Minh- đó là một điều xấu hổ cho một Chính phủ là công
bộc của dân, cho Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; cho Đảng cầm quyền. Cùng
với nhận thức, cán bộ đảng viên cần tu dưỡng, rèn luyện hàng ngày, suốt đời, gắn với công việc
của mình về chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, về phương pháp
công tác và cách lãnh đạo, v.v..
Trong bối cảnh hiện nay, cùng với việc thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí quan liêu,

thì việc nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ và tinh thần dám chịu trách nhiệm, dám từ
chức của cán bộ lãnh đạo như là một ứng xử văn hóa- văn hóa từ chức- là phẩm chất đạo đức
hết sức quan trọng. Nó phải được xây dựng thành chế độ trách nhiệm, nhất là trách nhiệm của
người đứng đầu. Chỉ khi người cán bộ dám nghĩ dám làm, hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc và
nhân dân, dám chịu trách nhiệm và phải chịu trách nhiệm trước công việc được giao thì chúng
ta mới có thể vượt qua được khó khăn, thách thức, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục phát triển./.


Trường THPT Buôn Ma Thuột-Giáo viên: Bùi Văn Tiến (Tháng 8 năm 2010)

Trường: THPT Buôn Ma Thuột
Tổ: Địa lí
Giáo viên: Bùi Văn Tiến
BÀI THU HOẠCH
LỚP BỒI DƯỠNG CHÍNH TRỊ HÈ NĂM 2010
***
Anh (Chị) hãy trình bày cảm nghĩ của mình thông qua việc học tập các chuyên đề
về dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của ban chấp hành TW Đảng khóa X và nêu
nhận thức của bản thân sau khi được học tập chuyên đề: “Tư tưởng, tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn
minh”. Liên hệ bản thân phải làm gì để xây dựng Đảng “là trong sạch, là văn minh” trong
giai đoạn hiện nay?
1/Những nhận thức thông qua việc học tập các chuyên đề về dự thảo các văn
kiện trình Đại hội XI của ban chấp hành TW Đảng khóa X:
Các dự thảo văn kiện gồm: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
2011-2020; Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá X tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng; Báo cáo tổng kết việc thi hành Điều lệ Đảng và đề xuất
bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng. Hội nghị cũng sẽ thảo luận về phương hướng công tác
nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; quyết định về số lượng và phân bổ

đại biểu tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và một số vấn đề khác.
Theo tôi, đây là một khâu rất quan trọng trong xây dựng Đảng về chính trị - vấn đề
cốt tử của Đảng và là nhiệm vụ hàng đầu trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng.
2/Để không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, nối tiếp tinh thần cuộc vận
động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, năm nay 2010; Ban chỉ
đạo Trung ương cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
tiếp tục triển khai chuyên đề: “Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh “là đạo đức, là văn minh” với công tác gắn tổ
chức và tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp năm 2010, Qua nghiên cứu về chủ đề trên để
góp phần xây dựng tổ chức Đảng văn minh trong sạch vững mạnh Bản thân tôi tôi xin
trình bày những nội dung cơ bản đã thu hoạch được thông qua nhận thức và tự liên hệ
bản thân như sau:
Ñeå hưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh đối với tất cả cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; Bản thân hết sức tâm đắc
và nhiệt tình hưởng ứng để nghiên cứu và học tập. Luoân nghĩ rằng cuộc vận động này có
ý nghĩa chính trị sâu sắc, được mở ra rất đúng lúc; Vì hiện nay trong Đảng ta, nhân dân
ta, nhà nước ta có rất nhiều những hình ảnh, những con người có cuộc sống cao thượng,
họ lo toan cho đất nước cho sự nghiệp cách mạng, luôn luôn làm được nhiều việc thiện,

1


Trường THPT Buôn Ma Thuột-Giáo viên: Bùi Văn Tiến (Tháng 8 năm 2010)

vì Tổ Quốc chấp nhận hy sinh, là những tấm gương cho nhiều người noi theo. Nhưng
ngược lại cũng vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, thoái hóa biến
chất, làm sâu mọt đục khoét, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Chuyên đề học tập năm nay có nhiều ý nghĩa thiết thực chào mừng những sự kiện
trọng đại của dân tộc ta: Kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 120
năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh, 35 năm giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước,

kỷ niệm 40 năm thực hiện di chúc của Bác Hồ và 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Những sự kiện trọng đại ấy, và những thành quả của ngày hôm nay, chúng ta có được,
đều xuất phát từ sự chỉ đạo đúng đắn về đường lối, chính sách của Đảng và sự dẫn dắt tài
tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Xây dựng Đảng luôn là nhiệm vụ quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối
đổi mới ngày nay luôn đòi hỏi Đảng ta phải trong sạch vững mạnh, có tầm cao trí tuệ, sức
chiến đấu, đủ năng lực lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng. Đồng
thời xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh có ý nghĩa đến việc bảo vệ chế độ chính trị,
con đường phát triển đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu " Dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh".
* Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh vÒ xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh “
là đạo đức, là văn minh” cụ thể là:
Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều bài nói, bài viết về công tác xây dựng Đảng. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng rất phong phú, trong đó tập trung vào những điểm
chủ yếu sau:
+ Cách mạng Việt Nam "trước hết phải có đảng cách mệnh". “Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt";
+ Xây dựng Đảng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng:
Nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; nguyên tắc
tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh, tự giác; đoàn kết, thống nhất trong Đảng;
+ Quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài để Đảng xứng
đáng "là đạo đức, là văn minh";
+ Tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân. Đảng ta gắn bó với dân vì "Đảng là
con nòi của nhân dân"; mục đích của Đảng là "Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc".
Người nói: " Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân;
+ Mỗi đảng viên phải bằng hành động thực tế của mình để có niềm tin yêu của nhân dân,
chứ không phải "dán lên trán hai chữ cộng sản" là được dân tin, dân yêu, dân kính, dân
phục";
+ Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là yêu cầu của sự nghiệp cách mạng

của Đảng, của dân tộc.
* Trong giai đoạn hiện nay, trên thế giới nói chung, Việt Nam ta nói riêng đang
đứng trước những biến cố, sự thay đổi của môi trường và khí hậu; những thách thức lớn
của sự phát triển; Đặc biệt là “Diễn Biến Hoà Bình” của các thế lực thù địch nhằm phá

2


×