Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Thu thập tài liệu đê biển qua các thời kỳ đặc biệt là tình hình đê biển tỉnh Nam Định hiện nay. Tính toán đánh giá hiệu quả của các công trình phòng chống sạt lở đã và đang triển khai xây dựng tại Nam Định.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.55 MB, 132 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây với sự phát triển kinh tế, xã hội, nhu cầu đảm bảo
an ninh quốc phòng của cả nước, cùng với chiến lược vươn ra biển để khai thác một
cách hiệu quả hơn vùng biển nước ta, ngày càng có nhiều hoạt động xã hội, kinh tế
và quốc phòng trên phạm vi toàn vùng biển. Điều đó làm tăng rất nhiều khả năng
thiệt hại do các thiên tai thời tiết gây ra tại vùng biển và vùng ven biển Việt Nam.
Vấn đề này có thể được xem xét trên hai mặt. Thứ nhất là các hoạt động kinh tế xã
hội tại vùng biển và ven biển đã gây ra những thay đổi về môi trường tự nhiên theo
hướng bất lợi và làm gia tăng thiên tai và thiệt hại của thiên tai. Việc xây dựng các
công trình ven bờ biển đã ngăn cản dòng vận chuyển bùn cát tự nhiên dọc bờ, gây ra
bồi lấp tại các luồng tàu và xói lở bờ tại nhiều nơi. Các hồ chứa nước được xây
dựng tại thượng nguồn các con sông cũng ngăn dòng vận chuyển bùn cát ra biển,
làm tình hình xói lở bờ biển ngày càng trở nên nghiêm trọng. Ở rất nhiều khu vực,
rừng ngập mặn và rừng phòng hộ ven biển đã bị tàn phá để lấy đất cho các ao đầm
nuôi hải sản. Các rừng ngập mặn và rừng phòng hộ bị mất không những gây ra
những biến đổi về môi trường sinh thái theo hướng có hại, mà còn giúp cho sóng
lớn đánh thẳng vào đê biển, gây vỡ đê biển và ngập lụt. Những điều tra sau cơn bão
số 7 (bão Damrey) ngày 27/9/2005 cho thấy những khu vực rừng ngập mặn và rừng
phòng hộ ven biển còn được bảo vệ tốt thì đê biển không bị vỡ. Thứ hai là các hoạt
động kinh tế xã hội trên biển và vùng ven biển đã tạo nên sự tập trung rất cao về các
công trình xây dựng và tài sản có giá trị cao cũng như dân cư ở vùng ven biển. Điều
này cũng làm gia tăng mức độ thiệt hại một khi thiên tai thời tiết xảy ra. Thí dụ, cơn
bão số 7 (Damrey) năm 2005 cùng với gió mạnh đã gây sóng lớn và nước dâng tại
vùng bờ biển của nhiều tỉnh thuộc vùng ven biển Bắc Bộ như Hải Phòng, Thái
Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá. Sóng lớn, nước dâng kết hợp với triều
cường đã làm vỡ đê tại nhiều vị trí, gây thiệt hại về kinh tế xã hội hàng ngàn tỷ
đồng. Gần đây nhất là cơn bão Chan Chu tuy không xảy ra trong vùng biển nước ta
nhưng đã làm đắm nhiều tàu đánh bắt xa bờ và làm nhiều ngư dân thiệt mạng.




2

Bão mạnh thường kèm theo nước dâng bão. Trong trường hợp nước dâng bão
xảy ra đồng thời với triều cường, mực nước cao giúp sóng đánh trực tiếp vào đê
biển, tràn qua đê gây xói lở và có thể vỡ đê, gây ngập lụt trên diện rộng và thiệt hại
rất lớn cho vùng ven biển. Vì vậy, cần có một nghiên cứu chính xác các biện pháp
gia cố chống sạt lở hiệu quả nhất cho từng đoạn đê biển cho từng vùng miền khác
nhau, để có được tuyến đê vững chắc an toàn trong phòng chống thiên tai.
2. Mục đích của đề tài
Thu thập tài liệu đê biển qua các thời kỳ đặc biệt là tình hình đê biển tỉnh Nam
Định hiện nay. Tính toán đánh giá hiệu quả của các công trình phòng chống sạt lở
đã và đang triển khai xây dựng tại Nam Định.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu các phương pháp gia cố chống sạt lở bờ
trong sửa chữa nâng cấp đê biển.
Phạm vi nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của các phương pháp gia cố chống sạt
lở bờ trong sửa chữa nâng cấp đê biển tỉnh Nam Định.
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê kế thừa chọn lọc.
Khảo sát đo đạc hiện trường điểm đặc trưng để kiểm tra độ tin cậy tài liệu
thống kê.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TRÌNH XỬ LÝ CHỐNG SẠT LỞ BẢO VỆ BỜ
TRONG SỬA CHỮA NÂNG CẤP ĐÊ BIỂN

1.1. Tổng quan về công trình bảo vệ bờ
Việt Nam có đường bờ biển dài trên 3250 km chạy suốt dọc theo chiều dài
đất nước từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Với địa hình tự nhiên thấp trũng, lại trực
tiếp chịu tác động của sóng, thuỷ triều, bão, nước dâng,...nên tình hình xói lở tuyến
bờ biển và phá hoại hệ thống đê, kè biển diễn ra rất phức tạp. Chính vì vậy để bảo
vệ an toàn và ổn định cuộc sống của người dân sống trong khu vực ven biển, các
vùng cửa sông cũng như để phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước
thì việc bảo vệ bờ biển trở thành yêu cầu cấp thiết. Có rất nhiều các loại hình công
trình bảo vệ bờ biển như: Đê biển, đập hướng dòng, hệ thống mỏ hàn, hệ thống kè
lát mái, hệ thống rừng cây chắn sóng v.v..
Đối với mỗi hình thức công trình thì đặc điểm làm việc, các yếu tố tác động,
các hình thức kết cấu, qui trình thiết kế đều có những đặc điểm riêng.
Đê biển được xây dựng dọc theo bờ biển. Tại những vùng ven biển có cao độ
thấp như các tỉnh Hải Phòng, Thái bình, Nam Định.
Chức năng của đê biển là ngăn thuỷ triều. ngăn nước biển dâng và chắn sóng
để ổn định bờ biển, các vịnh cửa sông, bảo vệ cho các vùng dân sinh – kinh tế bên
trong bờ biển, phục vụ khai hoang lấn biển, hoặc nuôi trồng thuỷ sản.
Cấu tạo vật liệu xây dựng đê biển gồm: đê biển làm bằng vật liệu địa phương
và đê biển bằng đá xây, bêtông, bêtông cốt thép.
- Đê biển bằng vật liệu địa phương:
Phần lớn đê biển được đắp bằng vật liệu đất tại địa phương. Đê biển bao gồm
hai phần chủ yếu là thân đê và phần gia cố bảo vệ mái đê. Phần thân đê có thể làm
từ đất có khả năng chịu tải tốt như đất sét, đất á sét. Tuy nhiên, do khu vực xây
dựng không có đất tốt, nhiều nơi thân đê phải đắp làm bằng cát, hoặc bao tải cát.
Trong trường hợp đó, lớp bảo vệ có vai trò rất quan trọng.
- Đê biển bằng đá xây, bêtông, bêtông cốt thép:


4


Ngoài vật liệu bằng đất, đê biển còn được xây dựng bằng đá xây, bêtông,
bêtông cốt thép. Hình thức đê biển trong các trường hợp này là tường ngăn nước
biển và khu vực được bảo vệ thường là các thành phố, các khu vực sản xuất công
nghiệp.
Kè lát mái là loại công trình bảo vệ mái dốc, chống sự phá hoại của sóng và
dòng chảy trên mái công trình, chống sự rửa trôi của vật liệu thân đê, giữ ổn định
cho đê biển hoặc bờ biển và cũng để tạo cảnh quan. Kết cấu kè có 3 phần chính, đó
là chân kè, thân kè và đỉnh kè. Chân kè là giới hạn dưới của mái bảo vệ, làm nhiệm
vụ bảo vệ chống xói ở chân mái dốc, chống đỡ cho mái dốc và nó chính là một dạng
khớp nối đặc biệt giữa mái dốc và mặt ngang. Thân kè là phần bảo vệ mái dốc từ
chân đến đỉnh và đỉnh kè là phần bảo vệ đỉnh mái dốc, chống xói lở và phá hoại
công trình.
Hệ thống kè lát mái cũng như các công trình bảo vệ bờ biển nói chung chịu
rất nhiều tác động như tác động của tự nhiên và tác động của con người. Các yếu tố
tự nhiên không tác động một cách đơn lẻ, riêng biệt và diễn ra trong thời gian dài
gây ra sự giảm cấp về độ bền, hư hỏng, phá hoại bờ và công trình bảo vệ nó. Các
hoạt động nhân tạo như: khai hoang lấn biển, nuôi trồng thuỷ sản,... diễn ra ở nhiều
nơi và mang tính phổ biến có thể gây xói lở bờ biển nghiêm trọng với qui mô lớn.
Mặt khác hệ thống kè lát mái cũng dễ bị hư hỏng và phá hoại do điều kiện
làm việc của chúng có nhiều đặc điểm bất lợi, đó là phải chịu các tác động cơ học
mạnh như sóng, gió, thuỷ triều, áp lực nước đẩy ngược, xói ngầm; các tác động hoá
lý bất lợi như ăn mòn, xâm thực của nước biển và trong điều kiện diễn biến xói, bồi,
sạt lở... là hậu quả của các tác động qua lại lẫn nhau giữa sóng gió, dòng chảy với
đáy, bờ, bãi biển với các điều kiện địa kỹ thuật bất lợi gây ra.
Chính vì vậy, kết cấu kè phải đảm bảo ổn định trên lớp đất bề mặt của mái
dốc đê, linh hoạt và dễ biến dạng theo đất của mái dốc và nền; bền vững lâu dài
trong môi trường nước biển; dễ phát hiện được các hư hỏng, sự cố và dễ sửa chữa;
tận dụng vật liệu địa phương, giá thành hạ, đảm bảo mỹ quan và đáp ứng được yêu
cầu của các ngành kinh tế liên quan, như: giao thông thuỷ, thuỷ sản...



5

Thực tế cho thấy hệ thống đê kè đã thiết kế và xây dựng không đảm bảo
được các yêu cầu trên, trong quá trình sử dụng đã bị hư hỏng, phá hoại rất nhiều do
một số vấn đề:
- Cao trình đê thiết kế không đảm bảo chống được sóng và nước tràn trong
điều kiện gió bão lớn vượt cấp.
- Kết cấu và kích thước kè bảo vệ mái chưa hợp lý đối với từng khu vực.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu về kè lát mái bảo vệ đê biển cần phải được
quan tâm và chú trọng nhiều hơn.
Đập hướng dòng, hệ thống mỏ hàn, hệ thống rừng cây chắn sóng, bảo vệ mái
hạ lưu kết hợp đê tuyến 2 là những công trình có tác dụng hỗ trợ các công trình đê
kè làm nâng cao hiệu quả làm việc của các công trình đê kè đã sẵn có. Các biện
pháp công trình này sẽ được phân tích kỹ trong chương 3 của luận văn này.
1.2. Tình hình sạt lở, xuống cấp tại các công trình ở nước ta
Sự nghiệp xây dựng đê biển là sự nghiệp của quần chúng, gắn liền với lịch
sử phát triển của đất nước nên nó mang đặc điểm kĩ thuật dân gian và kĩ thuật hiện
đại. Ở các nước đang phát triển như nước ta tính hiện đại còn rất hạn chế. Hệ thống
đê biển nước ta hầu hết được phát triển trên các tuyến đê hình thành từ lịch sử thiếu
hẳn sự quy hoạch, thống nhất và khoa học. Hầu hết đê được đắp bằng đất không
được lựa chọn, nền đê là nền đất yếu. Chiều dài tuyến đê mới chiếm khoảng 42.3%
tổng chiều dài bờ biển và mới có khả năng chịu tải được với bão từ cấp 9 trở xuống.
Cụ thể là: Nước ta có tổng số hơn 2000km đê biển trải từ Quảng Ninh tới
Kiên Giang, trong đó đoạn đê biển từ Quảng Ninh tới Quảng Nam chịu tác động
của bão lớn nhiều nhất. Hiện nay các tuyến đê biển, đê cửa sông từ Quảng Ninh đến
Quảng Nam có tổng chiều dài khoảng 1.454km, trong đó có khoảng 853km đê biển,
còn lại là đê cửa sông. Đê biển vùng đồng bằng Bắc Bộ phần lớn được đắp từ đời
nhà Trần, đê biển Thanh Hoá, Nghệ An được hình thành từ những năm 1930, phần
lớn đê biển và đê cửa sông khu vực miền Trung được đắp trước và sau năm 1975.

Các tuyến đê biển ban đầu được đắp chủ yếu do nhân dân tự đắp để bảo vệ sản xuất.
Nhà nước hỗ trợ kinh phí để đắp một số tuyến đê biển quan trọng.


6

Các tuyến đê thường được đầu tư khôi phục, cải tạo, nâng cấp, tu bổ hàng
năm thông qua các dự án. Hiện trạng các tuyến đê biển tại các khu vực có thể tóm
tắt chung như sau:
1.2.1. Đê biển các tỉnh Bắc Bộ: Các tỉnh từ Quảng Ninh đến Ninh Bình
Vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ là nơi có địa hình thấp trũng, là một trung
tâm kinh tế của cả nước - đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, tập trung dân cư đông
đúc. Đây là vùng biển có biên độ thuỷ triều cao (từ 3 ÷ 4 mét) và nước dâng do bão
cũng rất lớn. Để bảo vệ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, các tuyến đê biển, đê
cửa sông ở khu vực này đã được hình thành từ rất sớm và cơ bản được khép kín.
Tổng chiều dài các tuyến đê biển, đê cửa sông khoảng 484 km, trong đó có trên 350
km đê trực tiếp biển.
Đê biển Bắc Bộ có bề rộng mặt đê nhỏ khoảng từ 3,0m ÷ 4,0m, nhiều đoạn
đê có chiều rộng mặt đê < 2,0m như một số đoạn thuộc các tuyến đê Hà Nam, đê
Bắc cửa Lục, đê Hoàng Tân (tỉnh Quảng Ninh), đê biển số 5, số 6, số 7, số 8 (tỉnh
Thái Bình), đê Cát Hải (Hải Phòng), mái phía biển 2/1 ÷ 3/1 (đối với đoạn đê đã
được nâng cấp từ 3/1 ÷ 4/1), mái phía đồng từ 1,5/1 ÷ 2/1 (đối với đoạn đã được
nâng cấp từ 2/1 ÷ 3/1), cao độ đỉnh đê dao động từ +3,5 ÷ +5,0, một số nơi sau khi
được đầu tư bởi dự án PAM 5325 có cao độ đỉnh đê (hoặc tường chắn sóng) là +5,5
như đê biển Hải Hậu, Giao Thuỷ (Nam Định), đê biển số I, II (Hải Phòng).
Chất lượng đất thân đê là đất thịt nhẹ, đất phù sa cửa sông. Hàm lượng cát
tăng đối với các tuyến xa dần cửa sông. Một số tuyến đoạn đê hoàn toàn bằng đất
cát như đê Hải Thịnh (Nam Định).
Mái đê cửa sông ven biển Bắc Bộ được bảo vệ phần lớn ở các tuyến bằng
trồng cỏ. Những đoạn chịu tác dụng trực tiếp của sóng, gió bảo vệ kè đá lát mái, kết

cấu kè đá đang sử dụng ở các địa phương là lớp đá hộc dày 30cm xếp khan trên một
lớp đá dăm dày 10cm, lát từ chân đê phía biển lên đến đỉnh đê. Trọng lượng mỗi
viên đá khoảng 10 ÷ 40kg. Một số nơi bãi biển bị bào mòn, ngoài lát mái đá làm kè
cần làm một số mỏ hàn dọc và ngang để bảo vệ bãi. Kè mỏ bằng đá hộc mái hai


7

phía 1/1 mặt rộng 1m dài 70m, xây dựng thành hệ thống như ở khu vực Văn Lý Hải Hậu (Nam Định).
Sau khi được đầu tư khôi phục, nâng cấp thông qua dự án PAM 5325 và quá
trình tu bổ hàng năm và đặc biệt là sau bão số 7 năm 2005 các tuyến đê biển nhìn
chung đảm bảo chống được mức nước triều cao tần suất 5% có gió bão cấp 9. Tuy
nhiên, tổng chiều dài các tuyến đê biển rất lớn, các dự án mới chỉ tập trung khôi
phục, nâng cấp các đoạn đê xung yếu. Mặt khác, do tác động thường xuyên của
mưa, bão, sóng lớn nên đến nay hệ thống đê biển Bắc Bộ vẫn còn nhiều tồn tại,
trong đó các tồn tại chính được tóm tắt như sau:
Nhiều đoạn thuộc tuyến đê biển Hải Hậu, Giao Thuỷ thuộc tỉnh Nam Định
đang đứng trước nguy cơ bị vỡ do bãi biển liên tục bị bào mòn, hạ thấp gây sạt lở
chân, mái kè bảo vệ mái đê biển, đe doạ trực tiếp đến an toàn của đê biển. Một số
đoạn trước đây có rừng cây chắn sóng nên mái đê phía biển được bảo vệ. Đến nay
rừng cây chắn sóng bị phá huỷ, đê trở thành trực tiếp chịu tác động của sóng, thuỷ
triều nên nếu không được bảo vệ sẽ có nguy cơ vỡ bất cứ lúc nào. Có đoạn trước
đây đê có 2 tuyến nên tuyến đê trong không được bảo vệ mái, đến nay tuyến đê
ngoài đã bị vỡ nên tuyến đê trong cấp thiết phải được củng cố, bảo vệ chống vỡ.
- Còn 257,5 km đê biển, đê cửa sông chưa đảm bảo cao trình thiết kế, cao độ
đỉnh đê khoảng từ +3,5 ÷ + 5,0m trong khi cao độ thiết kế là từ +5,0 ÷ +5,5m.
- Đa số các tuyến đê ban đầu được đắp có chiều rộng mặt đê ≤ 3,0m, đến nay
trừ các tuyến đê biển số I, II, III (chiều dài khoảng 46,913km) thuộc Hải Phòng có
chiều rộng mặt đê B = 5,0m, còn lại hầu như chưa được nâng cấp.
- Trừ một số đoạn đê đã được cải tạo nâng cấp để kết hợp giao thông ở Hải

Phòng, hầu hết mặt đê chưa được gia cố cứng hoá nên khi mưa lớn hoặc trong mùa
mưa bão mặt đê thường bị sạt lở, lầy lội, nhiều đoạn không thể đi lại được.
- Đến nay mới xây dựng được những đoạn kè xung yếu, nên những nơi mái đê
phía biển chưa có kè bảo vệ hoặc không còn cây chắn sóng vẫn thường xuyên bị sạt
lở hoặc có nguy cơ sạt lở đe doạ đến an toàn của đê biển, đặc biệt là trong mùa mưa
bão.


8

- Đất đắp đê chủ yếu là đất cát pha, có độ chua lớn không trồng cỏ được, có
tuyến được đắp chủ yếu bằng cát phủ lớp đất thịt như đê biển Hải Hậu tỉnh Nam
Định, chỉ có một số đoạn đê nâng cấp sau bão số 7 được bảo vệ phía đồng còn lại
hầu hết mái đê phía đông chưa có biện pháp bảo vệ, nên thường xuyên bị xói, sạt
khi mưa, bão, đặc biệt tuyến đê biển tỉnh Nam Định.
- Dải cây chắn sóng trước đê biển nhiều nơi chưa có, có nơi đã có nhưng do
công tác quản lý, bảo vệ còn bất cập nên bị phá hoại (như vụ phá rừng ngập mặn để
nuôi trồng thuỷ sản ở Kim Sơn, Ninh Bình), nhiều nơi ở vùng xa cửa sông không
thể trồng được cây chắn sóng. Vì vậy, đê biển đa phần chịu tác động trực tiếp của
sóng gây sạt lở.
Như vậy, có thể thấy rằng đê biển Bắc Bộ mặc dù đã được đầu tư tu bổ, nâng
cấp thông qua dự án PAM 5325 dự án đầu tư sau bão số 7 năm 2005 nhưng chưa
đáp ứng được yêu cầu đặt ra hiện nay. Nhiều đoạn chưa được nâng cấp nên còn
thấp, nhỏ thiếu cao trình, mặt đê nhỏ, hầu hết chưa được cứng hoá dễ bị xói sạt, lầy
lội khi mưa, bão nên không đáp ứng được yêu cầu giao thông, gây khó khăn cho
việc ứng cứu khi mưa bão. Đặc biệt một số đoạn bãi biển bị hạ thấp gây sạt lở kè
bảo vệ mái đê biển, một số đoạn đê đang đứng trước nguy cơ có thể bị phá vỡ bất
cứ lúc nào.

Hình 1.1: Mặt cắt điển hình đê biển Bắc Bộ

(1)Thân đê; (2) Kè lát mái; (3) Tường hắt sóng; (4) Chân kè (chân khay)
1.2.2. Đê biển Trung Bộ
1.2.2.1. Đê biển Bắc Trung Bộ: Các tỉnh từ Thanh Hoá đến Hà Tĩnh
Vùng ven biển Bắc Trung Bộ là vùng đồng bằng nhỏ hẹp của hệ thống sông
Mã, sông Cả, cũng là một trong những vùng trọng tâm về phát triển kinh tế, địa


9

hình ven biển thấp trũng và cao dần về phía Tây. Đây là vùng thường xuyên chịu
ảnh hưởng của thiên tai (đặc biệt là bão, áp thấp nhiệt đới), biên độ thuỷ triều nhỏ
hơn vùng biển Bắc Bộ, vùng ven biển đã bắt đầu xuất hiện các cồn cát có thể tận
dụng được như các đoạn đê ngăn mặn tự nhiên.
Chất lượng đất đắp đê: phần lớn các tuyến là đất thịt, nhẹ pha cát. Một số
tuyến nằm sâu so với cửa sông và ven đầm phá, đất thân đê được đắp là đất sét pha
cát, đất thịt nặng. Cũng có nhiều tuyến đê ven biển thân đê là đất cát như các tuyến
đê ở các huyện Quảng Xương, Tĩnh Gia (Thanh Hoá) Diễn Châu, Kỳ Anh (Nghệ
An) v.v...
Mặc dù đã được quan tâm đầu tư khôi phục, nâng cấp thông qua các dự án
PAM 4617, OXFAM, CEC, CARE, đặc biệt ADB hỗ trợ khôi phục sau trận bão số
4 năm 2000 và dự án đầu tư sau bão số 7 năm 2005 nhưng tuyến đê biển nhìn chung
là thấp, nhỏ. Một số tồn tại chính của các tuyến đê biển Bắc Trung Bộ như sau:
- Còn khoảng 222,8 km đê biển, đê cửa sông thấp, nhỏ, chưa đảm bảo cao
trình chống lũ, bão theo tần suất thiết kế (cao độ đỉnh đê còn thiếu từ 0,5 ÷ 1,0m so
với cao độ thiết kế).
- Chiều rộng mặt đê còn nhỏ: chỉ có một phần nhỏ được đầu tư mới có chiều
rộng khoảng 4,0m và trên 4m, còn lại đa số có chiều rộng mặt đê dưới 4,0m, đặc
biệt còn có nhiều đoạn mặt đê nhỏ hơn 2,0m gây khó khăn trong việc chống lũ, bão
cũng như giao thông (nhiều tuyến đê xe ô tô không thể đi lại dọc theo tuyến đê).
- Bãi biển ở một số đoạn vẫn có xu hướng bị bào mòn, hạ thấp gây sạt lở chân

kè, đe doạ đến an toàn của đê biển như đoạn Ninh Phú, Hậu Lộc (tỉnh Thanh Hoá),
đoạn kè Cẩm Nhượng, đê Hội Thống (tỉnh Hà Tĩnh).
- Toàn bộ mặt đê chưa được gia cố cứng hoá, lại không bằng phẳng nên về
mùa mưa bão mặt đê thường bị sạt lở, lầy lội nhiều đoạn không thể đi lại được.
- Mái phía biển nhiều nơi chưa được bảo vệ, vẫn thường xuyên có nguy cơ sạt
lở đe doạ đến an toàn của đê, đặc biệt là trong mùa mưa bão.
- Mái đê phía đồng phần lớn chưa được bảo vệ nên bị xói, sạt khi mưa lớn
hoặc sóng tràn qua.


10

- Dải cây chắn sóng trước đê biển, đặc biệt là đê cửa sông nhiều hơn ở vùng
biển Bắc Bộ nhưng chưa đủ, cần tiếp tục trồng cây chống sóng và tăng cường công
tác quản lý, bảo vệ.
- Một vấn đề tồn tại lớn đối với các tuyến đê biển Bắc Trung Bộ là hệ thống
cống dưới đê rất nhiều về số lượng, hầu hết đã được xây dựng từ vài chục năm
trước đây với kết cấu tạm bợ và đang bị xuống cấp nghiêm trọng cần có quy hoạch
lại, sửa chữa và xây dựng mới để đảm bảo an toàn cho đê, phù hợp với quy hoạch
chung về phát triển sản xuất.
1.2.2.2. Đê biển Trung Trung Bộ: Các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Nam
Vùng ven biển Trung Trung Bộ là vùng có diện tích nhỏ hẹp, phần lớn các
tuyến đê biển đều ngắn, bị chia cắt bởi các sông, rạch, địa hình đồi cát ven biển.
Một số tuyến bao diện tích canh tác nhỏ hẹp dọc theo đầm phá. Đây là vùng có biên
độ thuỷ triều thấp nhất, thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai. Khác với vùng
cửa sông đồng bằng Bắc Bộ chủ yếu là bồi, các cửa sông miền Trung có thể thay
đổi tuỳ theo tính chất của từng con lũ, do vậy tuyến đê được đắp theo một tuyến,
không có tuyến quai đê lấn biển hoặc tuyến đê dự phòng.
Đê biển, đê cửa sông khu vực Trung Trung Bộ với nhiệm vụ ngăn mặn, giữ
ngọt, chống lũ tiểu mãn hoặc lũ sớm bảo vệ sản xuất ăn chắc 2 vụ lúa đông xuân và

hè thu, đồng thời phải đảm bảo tiêu thoát nhanh lũ chính vụ. Một số ít tuyến đê, bảo
vệ các khu nuôi trồng thuỷ sản. Đa số các tuyến đê biển bảo vệ diện tích canh tác
nhỏ dưới 3.000 ha.Với mục tiêu, nhiệm vụ như trên, đê không cần đắp cao, nhưng
cần phải gia cố 3 mặt để chống hư hỏng khi lũ tràn qua.


11

Hình 1.2: Mặt cắt điển hình đê biển Trung Bộ
(1) Thân đê ; (2) Kè lát mái; (3) Mặt đê cứng hoá ; (4) Chân kè (chân khay)
Phần lớn các tuyến đê được đắp bằng đất thịt nhẹ pha cát, một số tuyến nằm
sâu so với cửa sông và đầm phá đất thân đê là đất sét pha cát như đê tả Gianh
(Quảng Bình) đê Vĩnh Thái (Quảng Trị), ... Một số đoạn đê đã được bảo vệ 3 mặt
hoặc 2 mặt bằng tấm bê tông để cho lũ tràn qua như tuyến đê phá Tam Giang (Thừa
Thiên Huế), đê hữu Nhật Lệ (Quảng Bình), ... Ngoài các đoạn đê trực tiếp chịu tác
động của sóng, gió được xây dựng kè bảo vệ, hầu hết mái đê được bảo vệ bằng cỏ,
đê vùng cửa sông được bảo vệ bằng cây chắn sóng với các loại cây sú, vẹt, đước.
1.2.3. Đê biển Nam bộ (từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến Kiên Giang)
Sự phát triển đê biển Nam Bộ gắn liền với quá trình khai thác ruộng đất và
phát triển nông nghiệp của dải đất ven biển từ Bà Rịa - Vũng Tàu tới Kiên Giang.
Phong trào đắp đê ngăn mặn, đê biển và xây cống ngăn mặn, tiêu úng hầu
khắp các tỉnh có tiếp giáp với biển. Trong giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1985 đã
đắp được 14 hệ thống đê biển, ngăn mặn bảo vệ trên 650.000 ha đất nông nghiệp
thuộc các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Cà mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Vĩnh Long, Trà
Vinh... Quy mô nhỏ nhất là vùng bán đào Cà Mau, đã đắp 2 tuyến đê biển. Tuyến
phía Tây dài 93,5km qua các huyện U Minh, Phú Tân, Trần Băn Thời, ngăn mặn
cho 163.200ha. Tuyến phía đông dài 58km, đi qua huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi và thị
xã Bạc Liêu. Từ năm 1986-2005, hầu hết các tuyến đê biển đã hình thành, chủ yếu
là tu bổ và củng cố.
Đến nay đồng bằng ven biển Nam Bộ đã có 356,2 km đê biển bảo vệ. Nhiệm

vụ của các tuyến đê biển Nam Bộ là ngăn mặn, bảo vệ sản xuất 2 vụ lúa. Nhiều
tuyến bảo vệ diện tích rất lớn trên 10.000 ha như đê biển ở huyện Hòn Đất, Hà Tiên
(Kiên Giang)... Riêng tỉnh Cà Mau có 239 km đê biển trên chiều dài bờ biển 307 km


12

ngăn mặn cho 7 huyện ven biển, trên 11 huyện thị của tỉnh. Đê biển Nam Bộ ngoài
bảo vệ sản xuất và dân cư, còn có các loại đê hải sản do dân hoặc tập thể đầu tư bảo
vệ đồng muối như tỉnh Bến Tre có 15 ngư trường và 1.544 ha đồng muối. Thành
phố Hồ Chí Minh có 200 ha thủy sản. Đê Bình An bảo vệ thị xã Hà Tiên (Kiên
Giang).
- Về tuyến đê: Khác với đê biển miền Trung, đê biển Nam Bộ dài, có tuyến dài
trên 50 ÷ 60 km (đê biển 2 tỉnh Cà Mau, Kiên Giang) giống như đê biển Bắc Bộ có
nhiều tuyến trực tiếp biển, một số tuyến dài chạy dọc theo bờ biển phía đông và
biển tây (Cà Mau), biển Tây (Kiên Giang). Nhiều tuyến đê ven cửa sông như các
tuyến đê biển phía đông (Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre). Cũng có 2 loại tuyến đê
không khép bao vùng đất thấp như tuyến Thanh Phú, Ba Tri, Bình Đại (Bến Tre);
Tuyến 1 (tuyến trong) ngăn mặn và bảo vệ cho vùng lúa 1 vụ và 2 vụ, tuyến này
cách bờ biển 10 km còn tuyến 2 nằm sát biển nhiệm vụ chống sóng gió, chống cát
bay, hạn chế mặn và phục vụ nuôi trồng thủy sản trong khu vực giữa tuyến 1 và
tuyến 2.
Vùng biển đang bồi, đê được quai lấn ra biển như vùng mũi của Cà Mau.
Vùng này hàng năm bồi lấn ra biển, bình quân 50 ÷ 60 m. Ở tỉnh Sóc Trăng có
tuyến đê biển mới Mỹ Thanh - Vĩnh Châu - Lai Hoà thay cho tuyến cũ ở sâu phía
trong.
a.. Tình trạng kỹ thuật đê biển Nam Bộ
- Về cao độ, mặt cắt
Khác với đê biển Bắc Bộ, đê biển Nam Bộ có sự khác nhau về cao trình đỉnh
đê giữa các tuyến. Có tuyến chỉ trên +1, nhưng có tuyến +4 đến +5, có tuyến mặt đê

chỉ rộng 1,5 ÷ 2 m, những cũng có tuyến rộng 8 ÷ 10 m. Tuy nhiên, về tổng quan thì
cao độ đê phía biển đông cao hơn đê phía biển tây: cao độ đê biển đông từ +1,8 ÷
+5 như đê Gò Công đông (Tiền Giang), đê ở Bà Rịa - Vũng Tàu cao độ +4,5 ÷ +5.
Đê biển tây thuộc tỉnh Cà Mau và Kiên Giang mặt đê rộng 1,5 ÷ 2 m đối với
các tuyến đê đất thịt và rộng 6 ÷ 10 m đối với tuyến đê kết hợp với đường giao
thông như đê quốc phòng huyện Ba Tri (Bến Tre), đê Gò Quao đi Rạch Giá (Kiên


13

Giang) v.v... Một số tuyến như đê Vĩnh Châu (Sóc Trăng), Cầu Ngang (Trà Vinh),
Trần Văn Thời, U Minh (Cà Mau) mặt đê rộng 5m.
Nhìn chung đê biển Nam Bộ còn nhỏ thấp, có nơi còn thấp hơn mực nước
triều cao nhất như đê đông tỉnh Cà Mau. Đê ngăn mặn những nơi này hàng năm đến
mùa tháng X, XI, XII nhân dân được huy động hàng vạn ngày công đắp bờ "cơm
nếp" (con chạch).
Về chất lượng đất chân đê: Đê được hình thành ở một vùng đồng bằng rộng
lớn nên chất đất đắp đê hoàn toàn theo chất đất của từng vùng châu thổ rất nhiều
loại: đất thịt nhẹ, thịt nặng, cát pha, cát, sét, sét pha cát, sét pha bùn, bùn nhão...
Về nền đê: nhiều tuyến của đầu Cà Mau nằm trên nên cát có thành phần bùn
lớn hơn 50% là loại nền đất yếu. Do đó sẽ gặp khó khăn khi xây dựng các công
trình kiên cố như các cống đập ngăn triều, thậm chí đắp đê cao có thể dẫn đến sập,
lún.
- Ngoài hình thức đê như trình bày ở trên, đối với vùng bờ bị xói địa phương
còn xây dựng kè như kè Gò Công (Tiền Giang), kè Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh) kết
hợp với trồng cây chắn sóng đã giữ được ổn định cho các tuyến đê này.
b. Hiện trạng về ổn định đê biển Nam Bộ

Phía biển


Phía đồng
3
2

m1

m2
1

4

5

Hình 1.3: Mặt cắt điển hình đê biển Nam Bộ
(1) Thân đê ; (2) Kè lát mái ; (3) Chân khay ; (4) Mặt đê cứng hoá


14

So với đê biển miền Trung và đê biển Bắc Bộ thì đê biển Nam Bộ ổn định
hơn, mặc dầu tỷ lệ tuyến trực tiếp với biển so với tuyến cửa sông chiếm tỷ lệ cao 87
km /469 km.
- Đối với vùng bờ biển ổn định hoặc bồi các hư hỏng đê thường thường là sạt
lở nhỏ mái đê phía biển ở những đoạn đê không có cây chắn sóng. Những đoạn đê
có nền yếu (hữu cơ, bùn cát) khi nước triều lên xuống nhanh dòng chảy do triều sẽ
moi rỗng đất chân đê có thể dẫn đến sạt lở hoặc sập đê như một số đoạn ở đê biển
tỉnh Bến Tre.
- Đối với vùng bờ biển xói như đê Gò Công mấy năm trước đây tuy đê được
đắp to, rộng, có cơ đê phía đồng, kè đá lát mái và chân được đóng cọc thả khối bê
tông bảo vệ nhưng vẫn còn khả năng bị hư hỏng.

Nhìn chúng đê biển Nam Bộ là ổn định do các nguyên nhân sau đây:
- Hiếm có các điều kiện khí tượng hải văn bất lợi như bão mạnh và có nước
dâng cao.
- Chất đất đắp đê tuy có nhiều chủng loại khác nhau nhưng nhiều tuyến có
thành phần đất thịt, đất sét cao, chịu đựng được với tác dụng thường xuyên sóng gió
dưới cấp 5, 6.
- Nhiều tuyến có cây chắn sóng bảo vệ như cây mắn, chà là, cây dừa nước
v.v... dọc cả tuyến và rộng 200 ÷ 400 m như đê biển Vũng Tàu, Côn Đảo. Gò Công,
Sóc Trăng, Bến Tre, Cà Mau, Kiên Giang. Tình trạng rất lo ngại hiện nay là các
rừng cây này đang bị phá huỷ dần do việc phát triển đắp đê bao nuôi tôm, cua. Một
mặt cây bị chặt phá để dễ thu hoạch hải sản mặt khác cây bị chết dần do mất nguồn
phù sa và thay đổi môi trường sống vì đắp đê bao.
1.3. Các nguyên nhân gây ra hiện tượng sạt lở bờ
Hiện tượng sạt lở đê biển không phải ở Việt Nam mà xảy ra ở nhiều nơi trên
thế giới. Diễn biến cuá trình sạt lở vô cùng phức tạp nó là tổng hợp của các diều
kiện tự nhiên, hoặc là chính trong bản thân công trình đó. Việc xác định được
những nguyên nhân cơ chế phát sinh sói lở để tìm ra những giải pháp phù hợp với
điều kiện tự nhiên và lợi ích kinh tế.


15

Trong nhiều năm qua, nhiều địa phương nhiều tổ chức khoa học trong nước
và trên thế giới đã nghiên cứu một cách hệ thống các điều kiện tự nhiên tác động
vào công trình. Để đưa ra được những kết quả và những nhận xét xác định được
nguyên nhân, mức độ phạm vi, thời gian, chu kỳ sạt lở của sông biển. Cung cấp các
luận chứng khoa học cơ bản để xây dựng các công trình bảo vê và phòng chống các
hiện tượng sạt lở bờ rất là hữu hiệu.
Qua điều tra phân tích ta có thể đưa ra những nhận định về các tác nhân gây
ra hiện tượng sạt lở bờ chính như sau.

1.3.1. Nguyên nhân do bão
Hiện nay do yêu cầu về mặt kỹ thuật phải phù hợp với sự phát triển của kinh
tế đất nước nên đa số các hình thức gia cố đều không có khả năng chống được bão
cấp 11 và trên cấp 11. Các hiện tượng sạt lở nguyên nhân do bão được chia ra các
hình thức như sau .
+ Kết cấu kè bảo vệ mái đê phía biển những đoạn trực tiếp chịu tác động
của sóng còn chưa đủ kiên cố, đồng bộ để chống gió bão cấp 11, trên cấp 11.
Hầu hết các đoạn đê bị phá hỏng là trực diện với biển chịu tác động trực tiếp
của sóng lớn. Thực tế qua các trận bão năm 2005 - 2007 cho thấy, những đoạn đê
trực tiếp biển, mái phía biển được bảo vệ bằng đá hộc lát khan, đá xây từ cao trình
+3,50 trở lên (từ cao trình +3,50 trở xuống bảo vệ bằng cấu kiện bê tông do trước
đây không đủ kinh phí đầu tư) là không đảm bảo ổn định bền vững; bão số 7 năm
2005 sóng lớn đã làm hư hỏng nặng, hoặc phá huỷ phần đá lát khan, đá xây từ cao
trình +3,50 trở lên, dẫn đến vỡ đê biển như: đê biển I - Đồ Sơn, đê biển Cát Hải, đê
biển Nam Định. (Những đoạn mái đê phía biển được bảo vệ toàn bộ bằng các loại
cấu kiện bê tông đúc sẵn có đủ chiều dày, trọng lượng phù hợp thì không bị phá
hoại trong bão).
1.3.2. Nguyên nhân do Sóng
“Sóng” là dao động (có chu kỳ) tại nơi có cột nước, có vận tốc và có áp lực.
Sóng được hình thành khi gió thổi trên mặt nước và năng lượng gió được chuyển
hoá thành năng lượng sóng. Sóng là một trong những yếu tố có tác động mạnh đến


16

bờ biển và các công trình ven biển. Khi sóng chuyển động tới bờ biển, nó bị vỡ và
giải phóng năng lượng tạo thành các xoáy khuấy động bùn cát, làm hạt bùn cát nổi
lơ lửng trong nước và bị dòng nước chảy cuốn trôi. Năng lượng sóng càng lớn thì
càng có nhiều bùn cát bị vận chuyển.
1.3.3. Nguyên nhân do tác động tải trọng lên mái đê khi có bão lớn xảy ra

a. Trường hợp mực nước triều thấp
Trong trường hợp mức nước triều thấp với các loại vật liệu khác nhau, hướng
gió khác nhau, độ sâu bãi khác nhau. Trường hợp xấu nhất hướng gió vuông góc với
bờ, cấu kiện bê tông phẳng không có mố giảm sóng và độ sâu bãi < (-1.00) đê kè bị
phá hoại ở phía chân kè. Lưu lượng tràn qua đê phá đê từ phía sau không đáng kể.
Qua quan sát thực tế cơ chế phá hoại đê kè được thể hiện như sau:
Áp lực sóng tác động vào mái kè một phần sóng cuộn xuống chân kè moi cát
và các vật liệu nhẹ ra biển kết quả chân kè bị xói bào mòn các vật liệu nhẹ bị cuốn
trôi ra ngoài. Các vật liệu này chưa kịp trôi đi đã bị các cơn sóng tiếp theo cuốn đập
trở lại và các vật liệu này tác động lên mái kè gây hư hỏng và bào mòn mái kè.
Quan sát trong thời gian dài nhận thấy các viên đá bị lăn trên mái kè sau một thời
gian các viên đá sắc cạnh trở thành các viên cuội tròn. Các viên cuội này bị trôi dạt
thành đống tại các khu vực cuối kè hay tại các tường ngăn.

Hình 1.4. Cấu kiện bị sóng đánh trôi dạt trên mái kè
Phần tác động sóng thứ 2 tạo thành sóng leo. Do mái kè dài và không có vật
cản các cơn sóng leo rất cao lên mái kè và rút xuống tạo áp lực âm. Các đợt sóng
khác nhau đợt trước chưa rút khỏi mái kè thì đợt sau đã ập vào giữa 2 đợt sóng trên
có hướng vận chuyển trái ngược khi gặp nhau gây xung đột tạo thành vùng sóng
cuộn giữa khu vực mái kè tạo thành vùng xung lực moi các viên vật liệu trong mái


17

kè ra và gây hư hỏng kè. Trong trường hợp mực nước thấp mái đê kè thường bị hư
hỏng nặng từ cao trình (+2.00) trở xuống. Bãi bị thoái mạnh chân khay bị hư hỏng.

Hình 1.5. Mực nước triều thấp gió và dòng ven phá hoại chân kè

Hình 1.6. Tác động của sóng làm lún


Hình 1.7. Mái kè bị đánh sập bóc hết cấu

mái kè.

kiện và khoét hết đất đá

b. Trường hợp mực nước triều trung bình
Trong trường hợp mức nước triều trung bình tần suất thiết kế 5% ứng với mực
nước tại Văn Lý (+2.29) với các loại vật liệu khác nhau, hướng gió khác nhau, độ
sâu bãi khác nhau. Trường hợp xấu nhất hướng gió vuông góc với bờ, cấu kiện bê
tông phẳng không có mố giảm sóng và độ sâu bãi < (-1.00) đê kè bị phá hoại mạnh
ở phía chân kè và đỉnh kè. Lưu lượng tràn qua đê phá đê từ phía sau rất lớn vượt chỉ
tiêu cho phép 10 l/s trong trường hợp bão có gió cấp 9 cấp 10 trở lên nếu mặt đê,
mái phía đồng không được gia cố tốt sẽ bị xói mặt và mái đê phía đồng. Trên tất cả
tuyến đê Nam Định gặp trường hợp này nhiều đoạn đê sẽ bị phá hỏng từ phía trong
đồng gây sập và vỡ đê. Các khu vực trọng điểm bãi thấp khả năng vỡ đê rất lớn.
Ngược lại với các trường hợp trên khu vực chân kè tương đối ổn định. Đê kè bị phá
hoại ở phần đỉnh đê trở xuống trường hợp này đã xảy ra trong bão số 7 năm 2005 và
đã xuất hiện các dạng hư hỏng phổ biến như sau. trên hình 1.8


18

Hình 1.8. Mái kè hư hỏng từ cao trình (+2.90) kên mặt đê
c. Trường hợp mực nước triều cao
- Khi gặp mực nước triều cao tác động phần đá lát khan bị hư hỏng toàn bộ
đoạn đê phía dưới đắp bằng đất thịt sự hư hỏng đỡ hơn những đoạn đê đắp bằng đất
cát ngoài bọc đất thịt.


Hình 1.9. Phần đá lát khan mặt đê bị sóng đánh hư hỏng
- Nước tràn qua đê gây sạt đê từ phía trong đồng dẫn đến vỡ đê:
Khi phần lát khan bị hư hổng gặp triều cao, nước tràn qua đê gây xói mòn và
hạ thấp cao trình đê. Hiện tượng này rất phổ biến và diễn ra trên nhiều đoạn đê.

Hình 1.10. Sóng trùm qua đê và hạ thấp

Hình 1.11. Sóng tràn qua và gây vỡ đê

cao trình đê tạo lỗ vỡ

Táo Khoai – Hải Hậu

- Phá hoại mái đê phía đồng:
Nhiều trường hợp sóng tràn qua mặt đê do chưa kịp phá hoại kè phía trước các
cơn sóng phá hoại đê từ phía sau Hiện tượng nay xảy ra hầu hết trên các tuyến đê.


19

Hình 1.12. Sóng trùm qua gây sạt lở đê từ trong đồng
1.3.4. Nguyên nhân do nền và vật liệu đắp đê
Do các đoạn đê được hình thành rất lâu đời trải qua nhiều thời gian các quá
trình tôn tạo áp trúc và tôn cao để dần hoàn thiện mặt cắt đê hoàn chỉnh nên đất đắp
của các giai đoạn là không đồng đều. Đất đắp ở từng đoạn đê cũng khác nhau do
phải phụ thuộc vào nguồn vật liệu tại chỗ. Đất đắp đê thường là đất tại chỗ có các
chỉ tiêu cơ lý thấp, tính trương nở cao, co ngót lớn, dễ tan rã do vậy khi bị ngập
nước khả năng chịu lực giảm, nếu không có các biện pháp bảo vệ vững chắc thì sẽ
không có khả năng chống chọi được triều cường và bão cường độ mạnh xảy ra.
1.3.5. Các nguyên nhân khác

- Nguyên nhân về khảo sát địa hình, địa chất.
- Nguyên nhân về thiết kế công trình.
- Nguyên nhân về thi công.
- Nguyên nhân về quản lý sử dụng.
1.4. Các phương pháp sử lý chống sạt lở
1.4.1 Sử dụng các hình thức kè lát mái để hộ bờ
Kè lát mái là loại công trình bảo vệ mái dốc, chống sự phá hoại của sóng và
dòng chảy trên mái công trình, chống sự rửa trôi của vật liệu thân đê, giữ ổn định
cho đê biển hoặc bờ biển và cũng để tạo cảnh quan. Kết cấu kè có 3 phần chính, đó
là chân kè, thân kè và đỉnh kè. Chân kè là giới hạn dưới của mái bảo vệ, làm nhiệm
vụ bảo vệ chống xói ở chân mái dốc, chống đỡ cho mái dốc và nó chính là một dạng
khớp nối đặc biệt giữa mái dốc và mặt ngang. Thân kè là phần bảo vệ mái dốc từ
chân đến đỉnh và đỉnh kè là phần bảo vệ đỉnh mái dốc, chống xói lở và phá hoại
công trình.


20

Hình 1.13. Kè hộ bờ đá lát khan và cấu kiện bê tông đúc sẵn
1.4.2 Sử dụng các hình thức kè giữ bãi ngoài đê
Kè mỏ hàn: Mỏ hàn là công trình chỉnh trị một đoạn sông hoặc một đoạn bờ
biển. Chức năng của hệ thống mỏ hàn là ngăn chặn dòng bùn cát ven biển, làm giảm
lưu tốc dòng chảy, giảm vận chuyển bùn cát dọc ven bờ, tạo ra vùng nước tĩnh hoặc
xoáy nhẹ giữ bùn cát gây bồi cho vùng bãi bị xâm thực, che chắn cho bờ khi sóng
truyền tới, giảm lực xung kích của sóng tác dụng vào bờ, hướng dòng chảy ven bờ
đi chệch ra xa để không gây đào xói bờ biển. Nhờ có hệ thống mỏ hàn từ bờ vươn ra
biển, bùn cát chuyển động dọc bờ được ngăn chặn, tạo điều kiện cho bùn cát bồi
lắng vào khoảng giữa 2 mỏ hàn, mở rộng và nâng cao thềm bãi.

Hình 1.14. Mỏ hàn bằng ống buy bê tông bên trong bỏ đá hộc.


Hình 1.15. Kè mỏ hàn chữ T bằng cấu kiện bê tông khối lớn


21

1.4.3 Trồng các loại cây ngập mặn
Khu vực bãi cao trồng cây chắn sóng để giữ và tạo bãi chống sự suy thoái
nhanh của bãi hiện nay, tạo cảnh quan và môi trường của khu vực.

Hình 1.16. Rừng ngập mặn nguyên sinh và trồng mới.
Trên đây là một số hình thức sử lý chống sạt lở thường gặp đã và đang áp
dụng cho đê biển của Việt Nam. Những hình thức này dễ thi công và đảm bảo yêu
cầu về kinh tế của các địa phương, phù hợp với sự phát triển kinh tế khu vực.
1.5. Các vấn đề tồn tại thường gặp
Cơ chế phá hoại của công trình đê kè biển có thể được tổng hợp dưới dạng
cây sự cố, cho thấy mối quan hệ giữa những nguyên nhân và sự hư hỏng kết cấu bảo
vệ mái. Nếu chia những khả năng có thể xảy ra của từng trường hợp, có thể tính
được tổng xác xuất xảy ra sự cố của công trình và tìm được những vị trí xung yếu.
Nhưng nếu không có lượng thông tin đó thì vẽ cây sự cố để có một bức tranh tổng
thể sẽ rất có ích. Một nhà thiết kế có kinh nghiệm có thể thấy ngay bằng trực giác,
nhưng dẫu sao cây sự cố vẫn thực sự là một công cụ rất hữu ích.
Khi tính toán người thiết kế đã không lường trước được những bất lợi xảy ra
khi xây dựng xong công trình bởi một vài lý do như yếu tố chủ quan hoặc phù hợp
với tình hình kinh tế lúc bấy giờ nên các công trình thường mang tính chắp vá dẫn
đến không đồng bộ cho các khu vực. Ví dụ như “Theo Pilarcyzk (1998) một số tác
giả không gợi ý áp dụng kè lát mái cho việc chống xói lở lâu dài” vì tác dụng phụ
có hại đối với đường bờ, chẳng hạn như:
Đẩy nhanh xói lở bờ biển trước công trình.
Làm tăng độ dốc mặt cắt.



22

Tăng khả năng vận chuyển bùn cát dọc bờ, có thể dẫn đến phá hoại tổng thể
công trình bảo vệ.
Hiện nay bãi phía biển của công trình trước và sau khi có các biện pháp bảo
vệ đê là rất khác nhau bãi thường bị thụt giảm cao trình, hiện nay có những nơi khi
thiết kế tính toán cao trình đỉnh ống buy bằng hoặc thấp hơn cao trình mặt bãi
nhưng sau một thời gian làm việc do sự biến đổi bãi cát nên hầu như tất cả các ống
buy trật ra khỏi mặt bãi, có những chỗ ống buy không còn cát giữ chân bị lật gây
mất an toàn cho công trình.
Do quá trình thi công không đảm bảo so với yêu cầu thiết kế, do thiết kế
không đánh giá đúng thực trạng diễn biến thời tiết cũng như những khó khăn do
chính vị trí công trình gây ra. Hệ quả các công trình thường xuyên xảy ra sự cố như
bong tróc, bị ăn mòn, nứt nẻ và sụt sạt.

Hình 1.17. Sạt mái kè ở Hải Hậu Và Giao Thủy
Khi có dự án xây dựng chúng ta cần phải có những đánh giá đúng đắn hiện
trạng của công trình, cần nghiên cứu những công trình đã xây dựng bên cạnh và
công trình xây dựng trước đó trên nền cũ để đề ra những biện pháp tối ưu nhằm hạn
chế những sự cố hư hỏng không đáng có xảy ra.
1.6. Các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước về phòng chống sạt lở
Đến nay đã có khá nhiều nghiên cứu về biển, cả trong và ngoài nước, trong
đó có thể kể đến một số đề tài nghiên cứu trong nước được đánh giá cao về ý nghĩa
khoa học và đưa vào ứng dụng trong thực tiễn như: “Nghiên cứu hiện tượng nước
dâng do bão” mã số 84.48.146 (1984-1986), “Nước dâng do bão và gió mùa”
48B.02.02 (1986-1990), “Công nghệ dự báo nước dâng do bão ven bờ biển Việt
Nam” KT.03.06 (1991-1995), “Thủy triều Biển Đông và sự dâng lên của mực nước



23

biển ven bờ Việt Nam” KT.03.03 (1991-1995), “Cơ sở khoa học và các đặc trưng
kỹ thuật đới bờ phục vụ yêu cầu xây dựng công trình biển ven bờ” KHCN.06.10
(1996-2000). Các ứng dụng thực tế gồm:
- Điều kiện khí tượng thủy văn và động lực xây dựng cảng Vũng Áng (19961997);
- Điều kiện khí tượng thủy văn và động lực cảng Sao Mai, Hà Tiên (1998);
- Nghiên cứu các yếu tố khí tượng thủy văn và sa bồi luồng ra vào cửa Định
An (1998-2000);
- Nghiên cứu lập dự án khả thi chống xói lở khu vực xã Hải Trạch, huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình (2000-2001);
- Nghiên cứu phương án phục hồi thích nghi cho vùng cửa sông ven biển
Thuận An - Tư Hiền và đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (2000-2001);
- Tính toán chế độ thủy động lực cho luồng lạch cảng Hải Phòng (20002001);
- Tính toán chế độ nước dâng do bão cho vịnh Đà Nẵng (2000);
- Tính toán chế độ động lực cho các vùng cảng Chân Mây (2001), Dung Quất
(2001), cảng dầu Nghi Sơn (2002),...
- Sử dụng các kết quả tính toán phân bố nước dâng ven bờ theo tần suất trong
việc xây dựng Tiêu chuẩn ngành 14 TCN 130 2002 về hướng dẫn thiết kế đê biển
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
- Kết quả nghiên cứu tại Đại học Công nghệ Deftl ( Hà Lan) về rừng ngập
mặn.
- Sự giảm sóng trong rừng ngập mặn có loài bần ưu thế của Yoshihiro Mazda
và cộng sự.
- Công thức thực nghiệm tính sóng Bretshneider:
- Phương pháp Sumer and Fredsoe (2001): tính toán về độ sâu hố sói.
- Tính toán về chiều dày khối phủ của Hudson và Pilarczyk, K.W.
- Tính toán trọng lượng của viên vật liệu với công thức Hudson và Van Der
Meer, Cress.



24

- Vai trò của rừng ngập mặn trong việc bảo vệ các vùng biển của Phan
Nguyên Hồng và cộng sự.
1.7. Kết luận chương 1
Kế thừa các kết quả nghiên cứu, tổng hợp các số liệu về đê biển từ trước đến
nay, đồng thời với việc khảo sát, đánh giá, thu thập tài liệu, số liệu của đê biển trong
cả nước, phân tích các số liệu thu thập được của các đoạn đê biển từng vùng lịch sử
hình thành, vật liệu đắp đê ở khu vực đó. Trên cơ sở đó có những đánh giá khách
quan về khả năng có thể chịu đựng được các cơn bão lớn hơn cấp thiết kế và những
biến động của thời tiết thể ảnh hưởng tới sự ổn định của đê biển.
Nội dung chương 1 đã trình bày được tổng quan công trình bảo vệ bờ của các
vùng biển trên ba miền đất nước, nêu được những đặc điểm chung của các hình thức
đê kè và tình hình sạt lở xuống cấp đê kè biển của nước ta đưa ra được những
nguyên nhân và cách khắc phục có thể áp dụng cho từng đoạn đê kè của từng vùng
trong nước. Đưa ra được những giải pháp đã nghiên cứu và ứng dụng trên thế giới
và trong nước, trên cơ sở đó đề ra được những giải pháp cho những phần nghiên
cứu tiếp theo.
Do điều kiện nước ta có chiều dài bờ biển trên 3250 km chạy suốt dọc theo
chiều dài đất nước từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Việc cập nhật số liệu mới của
tình hình đê biển trong cả nước chưa thống kê được hoàn chỉnh. Mặt khác do điều
kiện luận văn này chỉ nghiên cứu về tình hình đê biển của tỉnh Nam Định nên học
viên sẽ cố gắng tập trung cập nhật và tìm hiểu các số liệu về đê biển tỉnh Nam Định
trong các nội dung sau sao cho tương đối đầy đủ và mới nhất.


25


CHƯƠNG 2
CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ CHỐNG SẠT LỞ BỜ
TRONG SỬA CHỮA NÂNG CẤP ĐÊ BIỂN
2.1. Đặc điểm của công trình bảo vệ bờ
Từ xa xưa, các khu vực ven sông, vùng châu thổ hay duyên hải ven biển luôn
là những nơi tập trung dân cư đông đúc. Những vùng này có vai trò rất quan trọng
đối với cuộc sống. Dưới tác động tương tác của môi trường nước và đất, hiện tượng
xói lở vùng ven bờ thường xuyên xảy ra trong tự nhiên, đặc biệt tại những khu vựa
đất yếu và những vị trí chịu tác dụng tập trung. Xói lở chỉ thực sự được chú ý khi nó
đe doạ đến cuộc sống của con người. Xói lở cũng giống như cỏ dại, nếu không ảnh
hưởng đến mùa màng hay cây trồng thì không cần thiết, thậm chí không nên có bất
cứ biện pháp can thiệp nào cả. Trong tự nhiên, đường bờ luôn giữ ở một trạng thái
cân bằng động, vùng này bồi sẽ dẫn đến xói lở ở vùng khác, quá trình xói lở cũng
có thể được dừng lại tạm thời khi hình thái đường bờ đạt đến một trạng thái cân
bằng tạm thời. Trước khi quyết định thực hiện một biện pháp chống xói bảo vệ bờ,
cần phải luôn có sự cân nhắc về sự cân bằng giữa hai phương án: đầu tư chống xói
hoặc giữ nguyên hiện trạng tự nhiên chấp nhận thiệt hại. Chu kỳ của quá trình bồi
và xói đường bờ biển diễn biến trong nhiều thập kỷ. Trong giai đoạn bồi, con người
sử dụng những vùng đất mới được bồi để phát triển nông nghiệp. Đến giai đoạn xói
lở, câu hỏi đặt ra là có nên bảo vệ vùng đất đang sử dụng này không? Và nếu có thì
chi phí cho việc bảo vệ này là bao nhiêu? Thông thường thì chi phí cho các công
trình bảo vệ bờ biển là rất tốn kém. Vì vậy, nếu các hoạt động kinh tế chỉ được thực
hiện ở phía rìa ngoài thì nên bỏ vùng đất mới này và coi dải cát tự nhiên là đường
bờ cơ bản. Nếu trong thời gian đó đã có sự hình thành và phát triển hoàn chỉnh các
khu dân cư hay đô thị thì việc bảo vệ bờ cần được xem xét kỹ càng, đặc biệt khi mật
độ tập trung dân cư đông đúc. Tuy nhiên, các công trình công cộng và dân dụng chỉ
nên xây dựng phía sau đường giới hạn xói để đảm bảo an toàn. Đường giới hạn xói
này liên quan đến các quá trình thuỷ động diễn ra tại khu vực cửa và vùng ven biển
và tuổi thọ dự kiến của các công trình. Giả sử một khách sạn dự kiến khai thác trong



×