Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

“Nghiên cứu giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng công trình xây dựng qua mô hình quản lý đầu tư xây dựng’

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 116 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Những năm gần đây, mặc dù bị ảnh hưởng bởi sự suy thoái kinh tế toàn
cầu, nhưng vốn đầu tư dành cho lĩnh vực xây dựng công trình (XDCT) vẫn
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư của Nhà nước. Theo thống kê,
hàng năm vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) khoảng từ (25 30%) GDP, hiện tại tổng số công trình đang triển khai xây dựng trên địa bàn cả
Nước khoảng 50.000 công trình, tỷ lệ các công trình có quy mô vừa và lớn ngày
càng nhiều. Vì vậy, vai trò quản lý nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng là vấn
đề cần được hết sức quan tâm, bởi vì công trình hoàn thành sẽ có tác động trực
tiếp đến sự an toàn, phát triển bền vững, phục vụ nhu cầu sản xuất, đem lại hiệu
quả kinh tế và chất lượng cuộc sống của con người.
Thời gian qua, cùng với việc phát triển kinh tế đất nước, công nghệ xây
dựng đã có những tiến bộ đáng kể, công tác quản lý chất lượng công trình
(CLCT) xây dựng ngày càng được nâng cao. Chúng ta đã xây dựng được
nhiều công trình đạt chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thẩm mỹ , góp phần
quan trọng trong tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn
còn không ít các công trình chưa đáp ứng được yêu cầu, gây mất an toàn , tốn
kém cả về kinh phí lẫn thời gian cho việc sửa chữa, khắc phục. Ví dụ như sự
cố do quản lý chất lượng (QLCL) ở một số công trình công cộng, một vài hồ
chứa nước thủy lợi - thủy điện , sập cầu Cần Thơ , cao ốc Pacific cuối năm
1997. . . Đó thực sự là những thảm họa , cướp đi sinh mạng của nhiều người,
gây thiệt hại không nhỏ cho xã hội. Trong những năm gầy đây Nhà nước đã
ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý CLCT xây
dựng, đưa ra nhiều giải pháp nâng cao CLCT trong quá trình trình thực hiện
Hiện nay Nhà nước đưa ra nhiều quy định, hướng dẫn về công tác quản
lý CLCT xây dựng thông qua hệ thống văn bản pháp luật , qua việc đào tạo
nâng cao năng lực và trách nhiệm đơn vị tham gia , tăng cường phân cấp trong



2

quản lý… Tuy vậy, cách thức tổ ch ức thực hiện , mô hình quản lý công tác
này ở một số Bộ, ngành và địa phương cũng chưa được thống nhất.
Để thực hiện theo đúng quy định, đáp ứng cơ chế thị trường có sự định
hướng của Nhà nước, trong lĩnh vực xây dự ng cần nghiên cứu mô hình quản
lý CLCT xây dựng phù hợp, hệ thống quản lý chất lượng chặt chẽ đảm bảo
mục tiêu các công trình được xây dựng có chất lượng, an toàn và hiệu quả .
Xuất phát từ yêu cầu trên , đề tài: “Nghiên cứu giải pháp đảm bảo và nâng
cao chất lượng công trình xây dựng qua mô hình quản lý đầu tư

xây

dựng’’ mang tính thực tế và cấp thiết.
2. Mục đích của Đề tài
Góp phần đảm bảo CLCT xây dựng thông qua nâng cao vai trò của
công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng ở Nước ta trong giai đoạn hiện nay .
Qua nghiên cứu đưa ra kiến nghị đề xuất mô hình quản lý CLCT xây dựng
phù hợp với điều kiện nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Công tác quản lý CLCT xây dựng
- Phạm vi nghiên cứu: các dự án công trình xây dựng thuộc nguồn vốn
ngân sách Nhà nước do các Bộ, ngành Trung ương và địa phương quản lý.
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
- Cách tiếp cận:
+ Tiếp cận qua các nghiên cứu, tài liệu đã công bố
+ Tiếp cận qua thực tế công trình đã xây dựng
+ Tiếp cận qua các nguồn thông tin khác
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp lý thuyết

+ Phương pháp tổng hợp, phân tích đánh giá, phương pháp chuyên gia


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
1.1. Chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm
1.1.1. Chất lượng sản phẩm
1.1.1.1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm
CLSP được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau: từ bản thân sản phẩm , từ
phía nhà sản xuất và cả phía thị trường . Nhưng hầu hết các quan điểm đều
thống nhất “Chất lượng là tập hợp các đặc điểm của một sản phẩm nhằm tạo
cho sản phẩm đó có khả năng thỏa mãn các nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu
tiềm ẩn”.
Theo tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO: “Chất lượng là khả
năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm , hệ thống hay quá trình để
đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”.
1.1.1.2. Đặc điểm của chất lượng sản phẩm
Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu, nếu một sản phầm vì lý do
nào đó mà không được nhu cầu chấp nhận thì bị coi là có chất lượng kém, cho
dù trình độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại. Đây là
một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà chất lượng định ra chính sách,
chiến lược của nhà kinh doanh. Mặt khác, nhu cầu luôn biến động nên chất
lượng cũng biến động theo thời gian, không gian, điều kiện sử dụng.
Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, cần xem xét đặc tính của đối
tượng có liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể. Các nhu cầu này
không chỉ từ phía khách hàng mà còn từ các bên có liên quan, ví dụ như các yêu
cầu mang tính pháp chế, nhu cầu của cộng đồng xã hội . Ngoài ra, chất lượng

không chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hóa mà cần xuyên suốt trong cả hệ
thống hay quá trình tạo ra sản phẩm
.


4

1.1.1.3. Phân loại chất lượng sản phẩm
Theo nghiên cứu và phân tích của các chuyên gia, CLSP được phân ra 6
loại như sau:
- Chất lượng thiết kế: là chất lượng thể hiện những thuộc tính chỉ tiêu của
sản phẩm được phác thảo trên cơ sở nghiên cứu và định ra để sản

xuất. Chất

lượng thiết kế được thể hiện qua các bản vẽ, các yêu cầu về vật liệu chế tạo, thử
nghiệm và hướng dẫn sử dụng . Chất lượng thiết kế có thể được hiểu là chất
lượng chính sách nhằm đáp ứng về lý thuyết đối với yêu cầu sử dụng, điều này
có đạt được trong thực tế hay không thì nó còn phụ thuộc nhiều yếu tố trong
quá trình thực hiện.
- Chất lượng chuẩn: là loại chất lượng mà thuộc tính và chỉ tiêu của nó
được phê duyệt trong quá trình QLCL của các cơ quan quản lý. Sau khi được
phê chuẩn thì chất lượng này trở thành pháp lệnh , văn bản pháp quy để các
bên liên quan thực hiện.
- Chất lượng thực tế: là mức độ thực tế đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của sản
phẩm và nó được thể hiện sau quá trình sản xuất, trong quá trình sử dụng sản
phẩm.
- Chất lượng cho phép: là mức độ cho phép về độ lệch giữa chất lượng
chuẩn và chất lượng thực tế của sản phẩm. Chất lượng cho phép do cơ quan
quản lý CLSP và hợp đồng giữa hai bên quy định.

- Chất lượng tối ưu: biểu thị khả năng toàn diện đáp ứng nhu cầu của thị
trường trong điều kiện xác định với những chi phí xã hội thấp nhất. Nó nói
lên mối quan hệ giữa CLSP và chi phí.
- Chất lượng toàn phần: là mức chất lượng thể hiện mức tương quan giữa
hiệu quả có ích cho sử dụng sản phẩm có chất lượng cao và tổng chi phí để
sản xuất và sử dụng sản phẩm đó.
1.1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
CLSP bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhưng có thể chia thành hai nhóm
yếu tố chủ yếu bên ngoài và nhóm yếu tố bên trong.


5

 Nhóm yếu tố bên ngoài:
- Ảnh hưởng của nhu cầu nền kinh tế. Ở bất cứ trình độ nào và mục đích
sử dụng khác nhau , CLSP luôn bị chi phối , rằng buộc bởi hoàn cảnh , điều
kiện nhất định của nền kinh tế và được thể hiện ở các mặt:
+ Nhu cầu của thị trường: là xuất phát điểm của quá trình QLCL;
+ Trình độ kinh tế, trình độ sản xuất: đảm bảo chất lượng luôn là vấn đề
nội tại của bản thân nền sản xuất xã hội nhưng việc nâng cao chất lượng
không thể vượt ra ngoài khả năng cho phép của nền kinh tế;
+ Chính sách kinh tế: hướng đầu tư, hướng phát triển loại sản phẩm nào
đó cũng như mức thỏa mãn các nhu cầu được thể hiện trong chính sách kinh
tế có tầm quan trọng đặc biệt ảnh hưởng tới CLSP.
- Ảnh hưởng của sự phát triển của khoa học - kỹ thuật: với sự phát triển
mạnh của khoa học như hiện nay , trình độ chất lượng của bất cứ sản phẩm
nào cũng gắn liền và chịu sự chi phối của sự phát triển của khoa học

- kỹ


thuật, đặc biệt là sự ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Xu hướng chính của việc áp dụng các kỹ thuật tiến bộ hiện nay là:
+ Sáng tạo ra vật liệu mới hay vật liệu thay thế;
+ Cải tiến hay đổi mới công nghệ;
+Cải tiến sản cũ và chế thử sản phẩm mới.
- Ảnh hưởng của hiệu lực của cơ chế quản lý : có thể nói khả năng cải
tiến, nâng cao CLSP của mỗi tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế quản lý.
Hiệu lực quản lý nhà nước (QLNN) là đòn bẩy quan trọng trong việc QLCL
sản phẩm, đảm bảo cho sự phát triển ổn định của sản xuất , đảm bảo uy tín và
quyền lợi của nhà sản xuất và người tiêu dùng. Mặt khác, nó còn góp phần tạo
tính tự chủ, độc lập, sáng tạo trong cải tiến CLSP của các tổ chức, hình thành
môi trường thuận lợi cho việc huy động các nguồn lực, các công nghệ mới, tiếp
thu ứng dụng những phương pháp QLCL hiện đại.
 Nhóm yếu tố bên trong tổ chức: trong phạm vi một tổ chức có 4 yếu tố
cơ bản ảnh hưởng đến CLSP (theo tiếng Anh được biểu thị bằng quy tắc 4 M),
đó là:


6

Con người (men): đây là lực lượng lao động trong tổ chức , bao gồm tất
cả thành viên trong tổ chức , từ cán bộ lãnh đạo đến người thực hiện . Năng
lực, phẩm chất của mỗi thành viên và mối liên kết giữa các thành viên có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng.
Phương pháp (methods): phương pháp công nghệ, trình độ tổ chức quản
lý và tổ chức sản xuất của tổ chức. Với phương pháp công nghệ thích hợp,
trình độ quản lý và tổ chức sản xuất tốt sẽ tạo điều kiện cho tổ chức có thể
khai thác cao nhất khả năng nguồn lực hiện có, góp phần nâng cao SLSP.
Máy móc thiết bị (machines): đó là khả năng về công nghệ , máy móc
thiết bị của tổ chức. Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị có tác động rất lớn

trong việc nâng cao những tính năng kỹ thuật của sản phẩm và nâng cao năng
suất lao động.
Nguyên vật liệu (materials): vật tư, nguyên nhiên liệu và hệ thống tổ chức
đảm bảo vật tư, nguyên nhiên liệu của tổ chức. Nguồn vật tư, nguyên nhiên liệu
được đảm bảo những yêu cầu chất lượng và được cung cấp đúng số lượng, đúng
thời hạn sẽ tạo điều kiện đảm bảo và nâng cao CLSP [1]
1.1.2. Quản lý chất lượng sản phẩm
1.1.2.1. Khái niệm về quản lý chất lượng sản phẩm
Theo TCVN 8402-1994 “Quản lý chất lượng là tập hợp những hoạt động
chức năng quản lý chung nhằm xác định chính sách chất lượng, mục đích chất
lượng và thực hiện chúng bằng những phương tiện như lập kế hoạch, tổ chức thực
hiện, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ một hệ thống”.
Theo định nghĩa của
tiêu chuẩn ISO: Quản lý
chất lượng là "hoạt động
tương tác và phối hợp lẫn
nhau nhằm định hướng và
kiểm soát một tổ chức về
chất lượng".

Hình 1.1. Sơ đồ quản lý chất lượng sản phẩm [6]


7

1.1.2.2. Các nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm
a. Nguyên tắc thứ nhất là đ ịnh hướng bởi khách hàng: Hoạt động của
các doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng của mình và vì thế cần tìm hiểu
những nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng để không chỉ đáp ứng mà
còn vượt cao hơn những yêu cầu của họ.

b. Nguyên tắc thứ 2 là sự lãnh đạo: Lãnh đạo thiết lập sự thống nhất
đồng bộ giữa mục đích và đường lối của doanh nghiệp . Lãnh đạo cần tạo ra
và duy trì môi trường nội bộ trong doanh nghiệp để hoàn toàn lôi cuốn mọi
người thực hiện công việc để đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp.
c. Nguyên tắc thứ 3 là sự tham gia của mọi người: Con người là nguồn
lực quan trọng nhất của một đơn vị và sự tham gia đầy đủ với những hiểu biết
và kinh nghiệm của họ tạo sự phát triển cho đơn vị.
d. Nguyên tắc thứ tư là q uan điểm quá trình: Kết quả cũng như chất
lượng sẽ đạt được một cách hiệu quả khi các nguồn và các hoạt động có liên
quan được quản lý trong cả quá trình thực hiện.
e. Nguyên tắc thứ 5 là tính hệ thống: Việc xác định và quản lý chất
lượng một cách hệ thống các quá trình thực hiện có liên quan lẫn nhau , đảm
bảo mục tiêu chất lượng đề ra và đem lại hiệu quả cho đơn vị.
f. Nguyên tắc thứ 6 là cải tiến liên tục: Cải tiến liên tục là mục tiêu, đồng
thời cũng là phương hướng phát tr iển của mọi doanh nghiệp . Muốn có khả
năng cạnh tranh và mức độ chất lượng cao, doanh nghiệp cần phải liên tục cải
tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm.
g. Nguyên tắc thứ 7 là quyết định dựa trên sự kiện: Mọi quyết định và
hành động của hệ thống quản lý chất lượng và hoạt động kinh doanh muốn có
hiệu quả phải được xây dựng dựa trên việc phân tích đầy đủ thông tin và dữ
liệu liên quan.
h. Nguyên tắc thứ 8 là quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng:
Doanh nghiệp và người cung ứng phụ thuộc lẫn nhau và mối quan hệ tương
hỗ cùng có lợi sẽ nâng cao năng lực của cả hai bên để tạo ra giá trị.


8

1.1.2.3. Các phương pháp quản lý chất lượng sản phẩm
a. Kiểm tra chất lượng

Kiểm tra chất lượng là hoạt động như đo đạc , thử nghiệm, định cỡ một
hay nhiều đặc tính của đối tượng và so sánh kết quả với yêu cầu nhằm xác
định sự phù hợp của mỗi đặc tính . Như vậy kiểm tra chỉ là một sự phân loại
sản phẩm đã được sản xuất một cách bị động . Nói theo ngôn ngữ hiện nay thì
chất lượng không được tạo dựng nên qua kiểm tra.
Để khắc phục vấn đề trên
, vào những năm1920 người ta đã bắt đầu chú trọng
đến những quá trình tạo ra sản phẩm
, hơn là đợi đến khâu cuối cùng mới tiến hành
sàng lọc sản phẩm. Cũng từ đó, khái niệm kiểm soát chất lượng được ra đời
.
b. Kiểm soát chất lượng
Theo định nghĩa, kiểm soát chất lượng là các hoạt động và kỹ thuật mang
tính tác nghiệp được sử dụng để đáp ứng các yêu cầu chất lượng.
Để kiểm soát chất lượng , người ta kiểm soát các yếu tố ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình tạo ra chất lượng sản phẩm. Việc kiểm soát này nhằm ngăn
ngừa sản xuất ra sản phẩm khuyết tật

. Nói chung, kiểm soát chất lượng là

kiểm soát các yếu tố gồm : con người, phương pháp, quá trình thực hiện; đầu
vào, thiết bị và môi trường
c. Kiểm soát chất lượng toàn diện
Kiểm soát chất lượng toàn diện là một hệ thống có hiệu quả để nhất thể
hoá các nỗ lực phát triển, duy trì và cải tiến chất lượng của các nhóm khác
nhau vào trong một tổ chức sao cho các hoạt động marketing, kỹ thuật, sản
xuất và dịch vụ có thể tiến hành một cách kinh tế nhất, cho phép thoả mãn
nhu cầu khách hàng.
Kiểm soát chất lượng toàn diện trong xây dựng sẽ huy động nỗ lực của
mọi đơn vị vào các quá trình có liên quan đến duy trì và cải tiến chất lượng ,

nâng cao năng suất lao động. Điều này sẽ giúp tiết kiệm tối đa trong sản xuất ,
dịch vụ đồng thời thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng.


9

d. Quản lý chất lượng toàn diện
Quản lý chất lượng toàn diện được định nghĩa là phương pháp quản lý
của một tổ chức, định hướng vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của mọi
thành viên và nhằm đem lại sự thành công dài hạn thông qua sự thỏa mãn
khách hàng và lợi ích của các thành viên của đơn vị và của xã hội.
Mục tiêu của QLCL toàn diện là cải tiến CLSP và thỏa mãn khách hàng
ở mức tốt nhất cho phép
1.2. Dự án và dự án đầu tư xây dựng công trình
1.2.1. Khái niệm về dự án
Dự án được hiểu là một công việc với các đặc tính như nguồn lực (con
người, tài chính, máy móc), có mục tiêu cụ thể, phải được hoàn thành với thời
gian và chất lượng định trước, có thời điểm khởi đầu và kết thúc rõ ràng, có
khối lượng và công việc cụ thể cần thực hiện, có nguồn kinh phí bị hạn chế và
là sự kết nối hợp lý của nhiều phần việc lại với nhau.
Theo Viện quản lý dự án Quốc tế PMI 2007: Quản lý dự án là một quá
trình đơn nhất, gồm một tập hợp các hoạt động có phối hợp và được kiểm
soát, có thời hạn bắt đầu và kết thúc, được tiến hành để đạt được một mục tiêu
phù hợp với các yêu cầu quy định, bao gồm cả các ràng buộc về thời gian, chi
phí và nguồn lực.
1.2.2. Dự án đầu tư xây dựng công trình
1.2.2.1. Khái niệm về dự án đầu tư xây dựng công trình (XDCT)
- Dự án đầu tư có XDCT thì được gọi là dự án đầu tư xây dựng (ĐTXD)
công trình
- Dự án đầu tư XDCT là tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc bỏ

vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo những CTXD nhằm mục đích
phát triển, duy trì, nâng cao CLCT hoặc sản phẩm, dịch vụ trong một thời hạn
nhất định [1]
1.2.2.2. Đặc điểm của dự án đầu tư xây dựng công trình
Sản phẩm của dự án đầu tư XDCT thường mang tính đơn chiếc, được


10

xây dựng và sử dụng tại chỗ, vốn đầu tư lớn, thời gian xây dựng và thời gian
sử dụng lâu dài ; kích thước và khối lượng công trình lớn , cấu tạo phức tạp.
Dẫn đến, sản phẩm CTXD thường có tính biến động , chi phí sản xuất lớn và
công tác thực hiện tiến hành ngoài trời nên phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự
nhiên; ngoài ra, việc tổ chức quản lý thực hiện liên quan đến nhiều cấp, nhiều
ngành và trình độ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội từng thời kỳ nên tương
đối phức tạp . Do vậy, khi triển khai xây dựng đôi khi có tính rủi ro c ao, quá
trình thực hiện thường phải điều chỉnh so với kế hoạch tiến độ ban đầu ; giá
thành dự án thay đổi do biến động giá cả.
Những đặc điểm của dự án đầu tư XDCT, cho thấy việc tạo ra sản phẩm
công trình đảm bảo chất lượng có sự khác biệt so với việc sản xuất tạo ra sản
phẩm của các ngành công nghiệp khác.
1.2.2.3. Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình
Khi nói đến quản lý dự án (QLDA) thì có rất nhiều nhà khoa học đưa ra
các luận điểm về quản lý dự án.
- Theo Luật Xây dựng: QLDA xây dựng là quá trình lập kế hoạch, điều
phối thời gian, nguồn lực và giám sát quá trình phát triển của dự án nhằm đảm
bảo cho công trình dự án hoàn thành đúng thời hạn, trong phạm vi ngân sách
được duyệt, đạt được các yêu cầu đã định về kỹ thuật, chất lượng; đảm bảo an
toàn lao động, vệ sinh môi trường (VSMT) bằng những phương pháp và điều
kiện tốt nhất cho phép.

- Theo Viện QLDA Quốc tế PMI 2007: QLDA chính là sự áp dụng các
hiểu biết, khả năng, công cụ và kỹ thuật vào một tập hợp rộng lớn các hoạt
động nhằm đáp ứng yêu cầu của một dự án cụ thể.
Tóm lại:
Quản lý dự án XDCT là tổ chức, điều hành phân phối các nguồn lực hợp
lý để đạt được mục tiêu đề ra, trong sự ràng buộc bởi điều kiện không gian,
thời gian, quy mô kết cấu công trình và những quy định bắt buộc.


11

Bản chất của quản lý DAĐT xây
dựng là môn khoa học cần có những
kiến thức về quản lý, chuyên môn
và các kiến thức hỗ trợ (pháp luật,
tổ chức nhân sự, kỹ thuật, môi
trường, tin học...)

Hình 1.2. Sơ đồ Quản lý DAĐT xây dựng

1.3. Công trình xây dựng và quản lý chất lượng công trình xây dựng
1.3.1. Các khái niệm liên quan
1.3.1.1. Công trình xây dựng
Là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây
dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị với nền đất, bao gồm
phần trên và dưới mặtđất, phần trên và dưới mặt nước và được xây dựng theo thiết
kế. Công trình xây dựng bao gồm công trình xây dựng công cộng, nhà ở, công trình
công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, năng lượng và các công trình khác [1]
1.3.1.2. Chất lượng công trình xây dựng
Theo quan niệm hiện đại, CLCT xây dựng, xét từ góc độ bản thân sản

phẩm xây dựng, CLCT xây dựng được đánh giá bởi các đặc tính cơ bản như:
công năng, tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật, độ bền vững, tính thẩm mỹ, an toàn
trong khai thác sử dụng, tính kinh tế và đảm bảo về thời gian phục vụ của công
trình.
Theo cách nhìn rộng hơn , CLCT xây dựng được hiểu không chỉ từ góc
độ bản thân sản phẩm xây dựng và người hưởng thụ sản phẩm xây dựng mà
bao gồm cả quá trình hình thành sản phẩm xây dựng cùng với các vấn đề l iên
quan khác. Một số vấn đề cơ bản liên quan đến CLCT xây dựng là:
- CLCT xây dựng cần được quan tâm ngay từ khi hình thành ý tưởng về
XDCT, từ khâu quy hoạch, lập dự án, đến khảo sát thiết kế, thi công... cho
đến giai đoạn khai thác, sử dụng và dỡ bỏ công trình sau khi đã hết thời hạn
phục vụ. CLCT xây dựng thể hiện ở chất lượng quy hoạch xây dựng, chất


12

lượng dự án ĐTXD công trình, chất lượng khảo sát, chất lượng các bản vẽ
thiết kế...
- CLCT tổng thể phải được hình thành từ chất lượng của nguyên vật liệu,
cấu kiện, chất lượng của công việc xây dựng riêng lẻ, của các bộ phận, hạng
mục công trình.
- Các tiêu chuẩn kỹ thuật không chỉ thể hiện ở các kết quả thí nghiệm

,

kiểm định nguyên vật liệu , cấu kiện, máy móc thiết bị đưa vào công trình mà
còn ở quá trình hình thành và thực hiện các bước công nghệ thi công, chất
lượng các công việc của đội ngũ công nhân, kỹ sư lao động trong quá trình
thực hiện các HĐXD.
- Chất lượng luôn gắn với vấn đề an toàn công trình . An toàn không chỉ

là trong khâu khai thác sử dụng mà phải đảm bảo an toàn trong giai đoạn thi
công xây dựng đối với bản thân công trình, với đội ngũ công nhân kỹ sư cùng
các thiết bị xây dựng và khu vực công trình.
- Tính thời gian trong xây dựng không chỉ thể hiện ở thời hạn hoàn thành
toàn bộ công trình để đưa vào khai thác sử dụng mà còn thể hiện ở việc đáp
ứng theo tiến độ quy định đối với từng hạng mục công trình.
- Tính kinh tế không chỉ thể hiện ở số tiền quyết toán công trình chủ đầu
tư (CĐT) phải chi trả mà còn thể hiện ở góc độ đảm bảo lợi nhuận cho cho
các nhà đầu tư thực hiện các hoạt động dịch vụ xây dựng như lập dự án, khảo
sát thiết kế, thi công xây dựng...
Ngoài ra, CLCT xây dựng cần chú ý vấn đề môi trường không chỉ từ góc
độ tác động của dự án tới các yếu tố môi trường mà cả tác động theo chiều
ngược lại của các yếu tố môi trường tới quá trình hình thành dự án.
Tóm lại: CLCT xây dựng là đáp ứng các yêu cầu đặt ra trong những điều
kiện nhất định. Nó thể hiện sự phù hợp về quy hoạch, đạt được độ tin cậy
trong khâu thiết kế, thi công, vận hành theo tiêu chuẩn quy định, có tính xã
hội, thẩm mỹ và hiệu quả đầu tư cao, thể hiện tính đồng bộ trong công trình,
thời gian xây dựng đúng tiến độ.


13

1.3.1.3. Quản lý chất lượng công trình xây dựng
Quản lý CLCT xây dựng là tập hợp các hoạt động từ đó đề ra các yêu cầu,
quy định và thực hiện các yêu cầu, quy định đó bằng các biện pháp như kiểm
soát chất lượng, đảm bảo chất lượng, cải tiến chất lượng. Hoạt động quản lý
CLCT xây dựng chủ yếu là công tác giám sát và tự giám sát của CĐT và các
chủ thể khác.
Nói cách khác: Quản lý CLCT xây dựng là tập hợp các hoạt động của cơ
quan, đơn vị có chức năng quản lý thông qua kiểm tra, đảm bảo chất lượng,

cải tiến chất lượng trong các giai đoạn từ chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư,
kết thúc xây dựng và đưa vào khai thác sử dụng.

Hình 1.3. Sơ đồ quản lý chất lượng công trình xây dựng

1.3.2. Nội dung hoạt động quản lý chất lượng công trình xây dựng theo
giai đoạn dự án
Hoạt động xây dựng (HĐXD) bao gồm: lập quy hoạch xây dựng, lập dự
án ĐTXD công trình, khảo sát xây dựng, thiết kế XDCT, thi công XDCT,
giám sát thi công XDCT, quản lý dự án đầu tư XDCT, lựa chọn nhà thầu
trong HĐXD và các hoạt động khác có liên quan đến XDCT.
Quản lý CLCT xây dựng là nhiệm vụ của tất cả các chủ thể tham gia vào


14

quá trình hình thành nên sản phẩm xây dựng bao gồm: Chủ đầu tư, các nhà
thầu, các tổ chức và cá nhân liên quan trong công tác khảo sát , thiết kế, thi
công xây dựng, bảo hành và bảo trì, khai thác và sử dụng công trình.
Nếu xem xét ở một khía cạnh Hoạt động quản lý CLCT xây dựng, thì
chủ yếu là công tác giám sát của CĐT và các chủ thể khác . Có thể gọi chung
công tác giám sát là giám sát xây dựng. Nội dung công tác giám sát và tự
giám sát của các chủ thể có thể thay đổi tuỳ theo nội dung của HĐXD. Có thể
tóm tắt nội dung hoạt động của các chủ thể giám sát trong các giai đoạn của
dự án xây dựng như sau:
- Trong giai đoạn khảo sát: ngoài sự giám sát của CĐT, nhà thầu khảo sát
xây dựng phải có bộ phận chuyên trách tự giám sát công tác khảo sát;
- Trong giai đoạn thiết kế: nhà thầu tư vấn thiết kế tự giám sát sản phẩm
thiết kế theo các quy định và chịu trách nhiệm trước CĐT và pháp luật về chất
lượng thiết kế XDCT. CĐT nghiệm thu sản phẩm thiết kế và chịu trách nhiệm

về các bản vẽ thiết kế giao cho nhà thầu;
- Trong giai đoạn thi công XDCT: có các hoạt động QLCL và tự giám sát
của nhà thầu thi công xây dựng; giám sát thi công XDCT và công tác nghiệm
thu của CĐT; giám sát tác giả của nhà thầu thiết kế XDCT và ở một số dự án
có sự tham gia giám sát của cộng đồng;
- Trong giai đoạn bảo hành công trình CĐT, chủ sở hữu hoặc chủ quản lý
sử dụng công trình có trách nhiệm kiểm tra tình trạng CTXD, phát hiện hư
hỏng để yêu cầu sửa chữa, thay thế, giám sát và nghiệm thu công việc khắc
phục sửa chữa đó;
Bên cạnh sự giám sát , tự giám sát của các chủ thể , quá trình triển khai
XDCT còn có sự tham gia giám sát của nhân dân, của các cơ quan QLNN về
CLCT xây dựng;
Tất cả các hoạt động giám sát nêu trên đều góp phần đảm bảo chất lượng
của CTXD. Kết quả của hoạt động giám sát được thể hiện thông qua hồ sơ
QLCL, bao gồm các văn bản phê duyệt, biên bản nghiệm thu và bản vẽ hoàn
công, nhật ký giám sát của CĐT, nhật ký thi công của nhà thầu, các thông báo,
công văn trao đổi, văn bản thống nhất,.. Việc thực hiện các hoạt động giám sát
chất lượng, lập và lưu trữ hồ sơ QLCL được gọi chung là công tác QLCL.


15

Hình 1.4. Sơ đồ hoạt động quản lý CLCT xây dựng theo vòng đời dự án [8]

1.3.3. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng công trình xây dựng
Việc đánh giá CLCT xây dựng còn nhiều ý kiến khác nhau. Cho đến nay,
vẫn chưa có tổ chức nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về các hệ
thống đánh giá cũng như các tiêu chí đánh giá CLCT xây dựng. Tuy nhiên,
xuất phát từ các cơ sở lý luận, thực tiễn xây dựng và hệ thống quy chuẩn, tiêu
chuẩn kỹ thuật và văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam, bước đầu có thể

đánh giá quản lý CLCT xây dựng như sau:
Thứ nhất, cần xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng
Hệ thống này cần quy định rõ phương pháp đo lường và đánh giá chấ

t

lượng của một CTXD dựa trên các tiêu chuẩn được chấp thuận có liên quan .
Nó cho phép đánh giá chất lượng và so sánh khách quan chất lượng của công
trình này so với công trình khác thông qua một hệ thống tính điểm.
Thứ hai, xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng với các mục tiêu sau:
Xây dựng được điểm chuẩn về chất lượng đánh giá năng lực

(bao gồm

kinh nghiệm, năng lực thiết bị , nhân lực, tài chính…) nhà thầu thi công xây
dựng. Thiết lập hệ thống đánh giá chất lượng tiêu chuẩn về năng lự c nhà thầu
thi công xây dựng. Đánh giá chất lượng của một dự án xây dựng dựa trên các
tiêu chuẩn có liên quan được chấp thuận. Đưa ra tiêu chí để đánh giá năng lực


16

của các nhà thầu tham gia trong lĩnh vực xây dựng và tạo cơ sở dữ liệu để phục
vụ công tác phân tích thống kê.
Thứ ba, hệ thống đánh giá chất lượng phải bao gồm các nội dung sau:
 Đánh giá năng lực của nhà thầu tham gia xây dựng: Hệ thống đánh giá
chất lượng (HTĐGCL) đặt ra các tiêu chuẩn về chất lượng năng lực nhà thầu
đối với các bộ phận khác nhau của CTXD và đối với công trình có tính chất
khác nhau. Chất lượng năng lực của nhà thầu thi công xây dựng được đánh
giá theo yêu cầu của tiêu chuẩn có liên quan , và các tiêu chí được công nhận

nếu năng lực của nhà thầu tuân thủ tiêu chuẩn. Những tiêu chí này được đánh
giá trên cơ sở tính điểm theo HTĐGCL (có thể theo %) đối với dự án XDCT
có nhiệm vụ và quy mô cụ thể . HTĐGCL đánh giá được thực hiện thông qua
kiểm tra hiện trường và sử dụng các kết quả kiểm tra. Việc đánh giá năng lực
nhà thầu theo cách này nhằm khuyến khích các nhà thầu thi công xây dựng
làm tốt mọi công việc ngay từ khâu chuẩn bị và trong cả quá trình thực hiện;
 Việc đánh giá của HTĐGCL một dự án xây dựng được thực hiện dựa
trên kết quả kiểm tra - đánh giá độc lập các giai đoạn khảo sát , thiết kế, thi
công, giám sát, kiểm định, quản lý dự án…Mọi công tác đánh giá phải thực
hiện theo yêu cầu của tổ chức đánh giá, tổ chức này được cơ quan QLNN về
CLCT xây dựng đào tạo. Tổ chức thực hiện đánh giá phải đăng ký với cơ quan
QLNN về CLCT xây dựng mới đủ điều kiện để đánh giá chất lượng CTXD theo
HTĐGCL;
 Phương pháp đánh giá và quy trình chọn mẫu để đánh giá : Trước khi
tiến hành đánh giá bộ phận công trình hay dự án cần xá c định phương pháp
đánh giá thông qua việc lấy mẫu và sử dụng phương pháp thống kê

. Những

mẫu được lấy đảm bảo tính khách quan trong suốt quá trình thực hiện dự án
hay trong các giai đoạn xây dựng khác nhau. Tất cả các vị trí kiểm tra phải
thuận tiện cho việc đánh giá và các mẫu được lựa chọn phải bảo đảm mang
tính đại diện cho toàn bộ công trình và phải được phân tích đánh giá theo các
tiêu chuẩn quy định hiện hành;


17

 Việc đánh giá phải thực hiện theo quy trình và dựa vào tiêu chuẩn của
HTĐGCL. Tiêu chuẩn này xác định các yêu cầu về chất lượng năng lực và

thủ tục đánh giá chất lượng các CTXD.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công trình xây dựng
Cũng như các lĩnh vực khác của sản xuất và kinh doanh, chất lượng
CTXD và công tác QLCL có nhiều nhân tố ảnh hưởng. Tuy nhiên, Luận văn
chỉ xem xét các nhân tố này theo các nhóm yếu tố chủ quan và khách quan.
1.4.1. Ảnh hưởng theo nhóm yếu tố chủ quan
Trước hết phải kể đến nhà thầu thi công xây dựng - người biến sản phẩm
CTXD từ bản vẽ thành hiện thực. Do vậy nhà thầu thi công đóng vai trò
quan trọng trong công tác quản lý CLCT xây dựng. Nếu lực lượng này
không nắm vững kỹ năng QLCL, không ý thức được tầm quan trọng của
công tác quản lý CLCT xây dựng, chỉ chạy theo lợi nhuận và thành tích
thì sẽ rất dễ gây ảnh hưởng không tốt tới CLCT về lâu dài là thương hiệu
và phát trát triển của nhà thầu;
Tiếp theo là CĐT và chủ quản lý sử dụng công trình, những người có
trách nhiệm rất lớn đến CLCT, những đối tượng này cần phải nắm vững quy
định về QLCL, lựa chọn các nhà thầu đủ năng lực và quản lý, giám sát chặt
chẽ để đảm bảo sản phẩm do mình đầu tư, quản lý đạt chất lượng tốt;
Sau đó là các nhà thầu khảo sát, thiết kế, giám sát, thí nghiệm, kiểm
định, cũng là những đối tượng có tác động không nhỏ đến CLCT;
Ngoài yếu tố con người, chất lượng nguyên vật liệu cũng là yếu tố ảnh
hưởng lớn đến CLCT, bởi nguyên vật liệu là một bộ phận cấu thành nên
CTXD, nhưng với tình trạng hiện nay luôn có những vật liệu kém chất lượng
lưu thông song hành với vật liệu tốt trên thị trường. Nếu không quản lý tốt, cứ
đưa nó vào sử dụng thì sẽ là nguy cơ lớn ảnh hưởng đến CLCT. Công tác
quản lý vật liệu ở đây phải thực hiện từ khâu lựa chọn vật liệu đến khâu thí
nghiệm, kiểm định, bảo quản, sử dụng vật liệu;
Một yếu tố nữa có ảnh hưởng đến CLCT là các quy định quản lý, các
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật. Các văn bản quy phạm pháp luật này nếu thực



18

sự khoa học, hợp lý, phù hợp với thực tế sản xuất sẽ góp phần nâng cao chất
lượng CTXD. Ngược lại sẽ cản trở sản xuất và ảnh hưởng đến CLCT trên
bình diện toàn quốc.
1.4.2. Ảnh hưởng theo nhóm yếu tố khách quan
Ta có thể thấy thời tiết khắc nghiệt (mưa, nắng, gió, bão, …) cũng có
ảnh hưởng đến chất lượng và tiến độ thi công công trình; điều kiện địa chất
phức tạp đôi khi cũng ảnh hưởng đến chất lượng thi công, đặc biệt là các hạng
mục nền, móng công trình.
Ví dụ 1: Công trình cầu Thanh Trì, khi thi công cọc khoan nhồi đã
không đạt yêu cầu chịu tải do điều kiện địa chất bất lợi, dẫn đến phải bổ sung
cọc, gây chậm tiến độ.
Ví dụ 2: Đáy hố móng đập công trình Cửa Đạt (Thanh Hoá) với cao
trình thiết kế (+1,00). Khi mở móng ra, qua khảo sát, đánh giá và ý kiến tham
gia của các chuyên gia trong và ngoài nước thấy địa chất nền tốt hơn so với
thiết kế nên đã quyết định nâng cao trình hố móng lên + 15,00, tuy giảm được
chi phí, nhưng mất thời gian xử lý, gây chậm tiến độ công trình
1.5. Vai trò và ý nghĩa của quản lý chất lượng công trình xây dựng
1.5.1. Vai trò của quản lý chất lượng công trình xây dựng
Công tác quản lý CLCT xây dựng có vai trò to lớn đối với nhà nước, CĐT,
nhà thầu và các doanh nghiệp xây dựng nói chung, cụ thể như:
a. Đối với Nhà nước: Công tác QLCL tại các CTXD được đảm bảo sẽ tạo
được sự ổn định trong xã hội, tạo được niềm tin đối với các nhà đầu tư trong và
ngoài nước tham gia vào lĩnh vực xây dựng, hạn chế được những rủi ro, thiệt hại
cho những người sử dụng CTXD nói riêng và cộng đồng nói chung.
b. Đối với chủ đầu tư: Đảm bảo và nâng cao CLCT sẽ thoả mãn được
các yêu cầu của CĐT, tiết kiệm được vốn cho Nhà nước hay nhà đầu tư và
góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội . Ngoài ra, đảm bảo và nâng
cao chất lượng tạo lòng tin , sự ủng hộ của các tổ chức xã hội và người hưởng

lợi đối với CĐT, góp phần phát triển mối quan hệ hợp tác lâu dài.


19

c. Đối với nhà thầu: Việc đảm bảo và nâng cao chất lượng CTXD sẽ tiết
kiệm nguyên vật liệu , nhân công, máy móc thiết bị , tăng năng suất lao động .
Nâng cao CLCT xây dựng có ý nghĩa quan trọng tới nâng cao đời sống người
lao động, thuận lợi cho việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ đ ối với nhà
thầu. CLCT xây dựng gắn với an toàn của thiết bị và nhân công nhà thầu
trong quá trình xây dựng . Ngoài ra, CLCT đảm bảo cho việc duy trì và nâng
cao thương hiệu cũng như phát triển bền vững của nhà thầu
1.5.2. Ý nghĩa của việc quản lý chất lượng công trình xây dựng
Quản lý CLCT xây dựng là một vấn đề sống còn được Nhà nước và cộng
đồng hết sức quan tâm. Nếu công tác quản lý CLCT xây dựng thực hiện tốt sẽ
không xảy ra sự cố, tuổi thọ công trình đáp ứng thời gian quy định trong hồ sơ
thiết kế, phát huy hiệu quả dự án, đáp ứng đầy đủ nhiệm vụ theo q uyết định
phê duyệt. Do vậy, việc nâng cao công tác quản lý CLCT xây dựng không chỉ
là nâng cao CLCT mà còn góp phần chủ động phòng chống tham nhũng, ngăn
ngừa thất thoát trong xây dựng. Theo thực tế, ở đâu tuân thủ nghiêm ngặt
những quy định của Nhà nước về quản lý CLCT thì ở đó CLCT tốt và hạn chế
được tiêu cực trong xây dựng . CTXD khác với sản phẩm hàng hoá thông
thường khác vì CTXD có phạm vi ảnh h ưởng tương đối rộng, được thực hiện
trong một thời gian dài , do nhiều người tham gia , gồm nhiều vật liệu tạo nên
thường xuyên chịu tác động bất lợi của thời tiết và điều kiện tự nhiên. Cũng vì
đặc điểm đó, việc nâng cao công tác quản lý CLCT xây dựng là rất cần thiết,
bởi nếu xảy ra sự cố thì sẽ gây ra tổn thất rất lớn về người và của, tác động xấu
đến môi trường vùng hưởng lợi
, đồng thời cũng rất khó khắc phục hậu quả.
Nâng cao công tác quản lý CLCT xây dựng là góp phần nâng cao chất

lượng sống cho con người. Mỗi công trình được xây dựng có CLCT bảo đảm ,
tránh được xảy ra những sự cố đáng tiếc thì sẽ tiết kiệm được đáng kể cho ngân
sách quốc gia. Số tiền đó sẽ được dùng vào công tác đầu tư cho phát triển kinh
tế xã hội, góp phần nâng cao đời sống nhân dân , hoặc dùng cho công tác xóa
đói giảm nghèo.


20

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Với những quan điểm và lý luận thực tiễn về chất lượng sản phẩm và
quản lý chất lượng sản phẩm cũng như chất lượng công trình và quản lý chất
lượng công trình của dự án đầu tư xây dựng. Cho ta thấy được đặc điểm, nội
dung hoạt động và phương thức đánh giá chất lượng, yêu tố ảnh hưởng đến
chất lượng công trình xây dựng trong quá trình tạo ra một công trình xây
dựng đảm bảo yêu cầu chất lượng, đáp ứng thẩm mỹ và hiệu quả đầu tư theo
các giai đoạn của dự án.
Quản lý chất lượng công trình trong hoạt động xây dựng có vai trò , ý
nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng công trình, chủ
động phòng chống tham nhũng, ngăn ngừa thất thoát trong xây dựng, ngăn
chặn được các sự cố đáng tiếc xảy ra, tạo nên sự ổn định an sinh chính trị
đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế của Đất nước.
Ở Nước ta, trong những năm vừa qua cùng với sự hội nhập kinh tế , lĩnh
vực đầu tư xây dựng c ông trình đã có những bước phát triển mạnh mẽ , công
tác quản lý chất lượng công trình xây dựng ngày càng được quan tâm và hoàn
thiện hơn; tuy nhiên vẫn còn những tồn tại

nhất định. Trong chương 2 của

Luận văn, tác giả sẽ nêu và p hân tích hiện trạng công tác quản lý chất lượng

công trình để thấy được những việc đã làm được và các vấn đề cần khắc phục
trong công tác quản lý đầu tư xây dựng công trình, làm cơ sở đưa ra những đề
xuất cho vấn đề nghiên cứu.


21

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
CHẤT LƯỢNG
CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM
2.1. Các văn bản liên quan đến quản lý chất lượng xây dựng
Quản lý CLCT xây dựng được thực hiện bằng các văn bản quy phạm,
pháp luật của Nhà nước. Trong thời gian qua, các văn bản quy phạm này đã
đổi mới theo sự phát triển của nền kinh tế đất nước và hướng tới tiệm cận với
thông lệ, tập quán Khu vực và Quốc tế. Nội dung đó đã thể hiện tính pháp lý
ngày càng rõ ràng hơn, trách nhiệm của chủ thể các ngành, các cấp đã phân định
rõ hơn; đặc biệt, đã tách dần chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh ra khỏi
chức năng QLNN về CLCT xây dựng. Chính quyền không can thiệp trực tiếp
mà gián tiếp thông qua công cụ pháp luật tác động vào công tác quản lý sản xuất
hàng ngày giữa người đặt hàng (Chủ đầu tư) và người bán hàng (Nhà thầu) để
làm ra sản phẩm xây dựng - một loại sản phẩm đặc thù có tính đơn chiếc, thể hiện
cụ thể như sau:
- Bản chất của QLNN về CLCT xây dựng mang tính vĩ mô, định hướng,
hỗ trợ và cưỡng chế của cơ quan công quyền. Các cơ quan QLNN chịu trách
nhiệm về tình hình CLCT xây dựng trên địa bàn được phân cấp quản lý chứ
không phải là chất lượng cụ thể của từng công trình.
- Nội dung QLNN về CLCT xây dựng là tổ chức xây dựng văn bản pháp
luật để tạo hành lang pháp lý, điều chỉnh hành vi và mối quan hệ của các chủ
thể tham gia HĐXD nghiên cứu, soạn thảo và ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn

kỹ thuật nhằm đưa ra các tiêu chí chuẩn mực để làm ra sản phẩm xây dựng và
đánh giá CLSP cần đạt được, từ đó hướng tới việc hoàn thành công trình có
chất lượng cao thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
Sau khi đã tạo được môi trường pháp lý và kỹ thuật, Nhà nước phải tổ chức
hướng dẫn, kiểm tra, cưỡng chế các chủ thể thực hiện theo quy định của pháp
luật về công tác bảo đảm CLCT xây dựng, nhằm không chỉ bảo vệ lợi ích của
CĐT, của các chủ thể khác mà cao hơn là lợi ích của cả cộng đồng.


22

Tóm lại: Cơ sở để quản lý CLCT xây dựng là những văn bản của Nhà
nước, tiêu chuẩn của ngành, quy chuẩn Quốc gia và tiêu chuẩn cho công trình
được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Hồ sơ lập thiết kế công trình với quyết
định phê duyệt là những căn cứ để thực hiện quản lý CLCT xây dựng. Các
văn bản đó luôn luôn được bổ sung, cập nhật các tiến bộ xã hội và phát triển
của khoa học để làm công cụ cho pháp luật về HĐXD.
Ví dụ 1: Về phân loại, phân cấp CTXD
Theo quy định tại Nghị định số 49/NĐ-CP về phân loại, phân cấp công
trình, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 33/2009/TT-BXD ngày
30/9/2009 về Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia - Phân loại, phân cấp CTXD dân
dụng, công nghiệp và hạ tầng kỹ thuật đô thị; tuy nhiên, vẫn còn thiếu về
phân loại và cấp công trình giao thông, thủy lợi và các công trình nông nghiệp
khác, nên sắp tới Nhà nước sẽ cho sửa đổi, bổ sung
Ví dụ 2: Về công tác QLCL khảo sát xây dựng, thiết kế và thi công
XDCT xây dựng
Theo quy định tại Nghị định 209/NĐ-CP và 49/NĐ-CP của Chính phủ
chưa nêu rõ trách nhiệm quản lý của CĐT và các nhà thầu tham gia XDCT.
Nghị định số 209/NĐ-CP cũng không đề cập hệ thống QLCL và công tác
QLCL của nhà thầu giám sát thi công xây dựng khi được CĐT thuê, Bộ Xây

dựng đã ban hành Thông tư số 27/2009/TT-BXD đã nêu rõ những công việc
trên nhưng vì là văn bản quy phạm pháp luật, nên tính pháp lý không mạnh
như Nghị định nên sắp tới Nhà nước đang nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Nghị
định 209/NĐ-CP và 49/NĐ-CP.
Qua các thời kỳ việc hình thành, phát triển và đổi mới, các văn bản
QLNN về CLCT xây dựng ở Nước ta, có thể thống kê được như sau:
 Trước khi có Luật Xây dựng: Văn bản đầu tiên về quản lý HĐXD
là Nghị định số 232/NĐ-CP ngày 06/6/1981, tiếp đó là Nghị định 385/NĐHĐBT ngày 07/8/1990 sửa đối bổ sung thay thế Nghị định số 232/CP ngày
06/6/1981; Nghị định 177/CP ngày 20/10/1994 về quản lý dự án đầu tư”;
Nghị định 42/NĐ-CP ngày 16/7/1996. Sau sửa thành Nghị định 52/1999/NĐ-


23

CP ngày 08/7/1999 “Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” đã cải cách hành
chính và phân rõ quản lý nguồn vốn, điều chỉnh vị thế của CĐT.
 Khi có Luật xây dựng: Sự kiện quan trọng nhất trong tiến trình pháp
chế hóa HĐXD của Nước ta là, tại kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khóa XI ngày
26/11/2003 ban hành Luật xây dựng số 16/2003/QH11; đến ngày 19/6/2009
Quốc hội thứ XII ban hành Luật số 38/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung các nội
dung liên quan đến ĐTXD cơ bản. Sau đó là các văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn (Nghị định, thông tư, các quyết định...), nội dung đã khá đầy đủ và
chi tiết, cụ thể như sau:
- Nghị định của Chính phủ: số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về quản lý
dự án đầu tư XDCT; số 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004, số 49/2008/NĐ-CP
ngày 18/4/2008 về quản lý CLCT xây dựng; số 23/2009/NĐ-CP ngày
27/02/2009 về xử phạt vi phạm hành chính trong HĐXD;
- Thông tư của Bộ Xây dựng: số 03/2009/TT-BXD ngày 26/3/2009 quy
định về QLDA đầu tư XDCT; số 27/2009/TT-BXD ngày 31/7/2009 hướng
dẫn một số nội dung về quản lý CLCT xây dựng; số 22/2009/TT-BXD ngày

06/7/2009 quy định về điều kiện năng lực trong HĐXD; số 22/2010/TT-BXD
ngày 03/12/2010 quy định an oàn lao đông (ATLĐ) trong thi công xây dựng;
số 03/2011/TT-BXD ngày 06/4/2011 hướng dẫn hoạt động kiểm định, giám
định và chứng nhận an toàn chịu lực, sự phù hợp về CLCT xây dựng;
Ngoài ra, đối với các Bộ, Ngành có chức năng quản lý đầu tư XDCT đã
ban hành một số văn bản quản lý, như: Thông tư số 84/2011/TT-BNNPTNT
ngày 12/12/2011 của Bộ NN&PTNT về quản lý dự án XDCT sử dụng nguồn
vốn NSNN do Bộ quản lý; Quy chế tư vấn giám sát thi công XDCT trong
ngành giao thông vận tải (GTVT) kèm theo Quyết định số 22/2008/QĐBGTVT ngày 20/10/2008 của Bộ GTVT…
Nhận xét chung: các văn bản trên đã quy định các nguyên tắc cơ bản,
quy định chi tiết việc quản lý , tổ chức thực quản lý CLCT hiện xây dựng của
các tổ chức, cá nhân tham gia, đồng thời xác định và phân định rõ trách nhiệm
các chủ thể tham gia hoạt động liên quan đến CLCT xây dựng, gồm cơ quan
QLNN, Chủ đầu tư và nhà thầu trong HĐXD


24

- Đối với quản lý nhà nước: thông qua công cụ pháp luật nhằm bảo vệ lợi
ích của Quốc gia và lợi ích cộng đồng và thực hiện trách nhiệm QLNN về CLCT
xây dựng, giám sát sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể; trong đó chứ năng
QLNN được Thủ tướng Chính phủ quy định rõ “Bộ Xây dựng thống nhất
QLNN về CLCT xây dựng trong phạm vi cả nước; Các Bộ có quản lý CTXD
chuyên ngành phối hợp với Bộ Xây dựng trong việc QLCL các CTXD chuyên
ngành; UBND cấp tỉnh theo phân cấp có trách nhiệm QLNN về CLCT xây
dựng trong phạm vi địa giới hành chính do mình quản lý”
- Đối với Chủ đầu tư: với tư cách là người quản lý khách hàng, nên phải
có bộ phận có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với loại và cấp công
trình tiến hành công việc giám sát quá trình làm ra sản phẩm của các nhà thầu,
đánh giá CLSP do các nhà thầu cung cấp giúp CĐT thử nghiệm sản phẩm

đảm bảo chất lượng, an toàn và hiệu quả;
- Đối với các nhà thầu HĐXD: là người làm ra các sản phẩm, như khảo
sát, thiết kế, thi công, cung ứng...phải tổ chức tự kiểm tra CLSP mình làm ra
và cam kết chất lượng trước khi bàn giao cho khách hàng.
Mô hình tổng quát QLNN về CLCT và quá trình tạo ra sản phẩm CTXD đảm bảo
chất lượng theo quy định của Nhà nước, thể hiện như sơ đồ Hình 2.1 và Hình 2.2

Hình 2.1. Sơ đồ Quản lý NN về CLCT Hình 2.2. Sơ đồ tạo ra CTXD đảm
xây dựng ở Nước ta

bảo chất lượng


25

2.2. Thực trạng về công trình và quản lý chất lượng công trình xây dựng
ở Việt Nam
2.2.1. Giới thiệu
Từ khi Đảng, Nhà nước ta thực hiện đường lối đổi mới, ngành xây dựng
đã có nhiều cơ hội để phát triển, các lực lượng quản lý và các đơn vị trực tiếp
tham gia hoạt động trong lĩnh vực xây dựng không ngừng lớn mạnh về mọi
mặt, làm chủ được công nghệ thiết kế, công nghệ thi công, xây dựng được
những công trình quy mô lớn, phức tạp mà hầu hết trước đây phải thuê các tổ
chức chuyên gia nước ngoài. Kết quả hoạt động đó đã thể hiện như sau:
 Về cơ chế, chính sách pháp luật có liên quan
Hệ thống các văn bản pháp lý về quản lý CLCT đến nay đã cơ bản hoàn
thiện, đầy đủ để tổ chức quản lý, kiểm soát xây dựng, đã tách bạch, phân định
rõ trách nhiệm đối với việc đảm bảo CLCT giữa cơ quan QLNN ở các cấp,
CĐT và các nhà thầu tham gia. Điều kiện năng lực của các chủ thể tham gia
HĐXD; nội dung, trình tự, trong công tác QLCL cũng được quy định cụ thể,

làm cơ sở cho công tác kiểm tra của cơ quan quản lý ở các cấp, tạo hành lang
pháp lý tăng cường hiệu lực, hiệu quả QLNN về CLCT xây dựng
Các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cũng được hoàn thiện, tuy chưa thật
hoàn chỉnh nhưng đã tạo nên khung pháp lý về QLCL, giúp cho các chủ thể
tham gia thực hiện công việc một cách khoa học và thống nhất góp phần đảm
bảo và nâng cao CLCT xây dựng.
 Công tác quản lý chất lượng dần hoàn thiện
Công tác QLCL từ Trung ương đến các bộ, ngành và các địa phương đã
được xây dựng và đang tiếp tục hoàn thiện. Tại phần lớn các tỉnh, thành phố
đã thành lập các Phòng Quản lý CLCT xây dựng - đầu mối quản lý CLCT trên
địa bàn. Trung tâm Kiểm định chất lượng xây dựng trực thuộc các sở Xây dựng
cũng được hình thành, phát triển, hoạt động ngày một hiệu quả, đúng vai trò là
công cụ đắc lực cho các cơ quan QLNN về quản lý CLCT trên phạm vi cả nước:
- Với công tác thiết kế : Lực lượng này đang được Nhà nước chú ý đ ặc


×