Tải bản đầy đủ (.pdf) (249 trang)

Nghiên cứu so sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.8 MB, 249 trang )

30 T ư P H Á P
Y i . m KHOA HỌC PHÁPLÝ
^ S-, p I
jỊ|Ì|ji
^
wemsãmm I Ị H ^ P I I l Ị t e
É ií
[

Isc

^v

IỊI m

I



;"-V ị r.

I MMmmmầ Xấ Hi HIM M BI ->- £
'ẨỢ'

'ẴẵẼS *$Ể**^<Ề " ' >

vv;\.
■v'-ir ^ y ti . s H n * *■
5>
u"


.J

>-•■ - 1111111 ->r .> w
'

"V"■■*■■’5âẩggSg|§â
^

-

'í"£á*,r

>^»§3 ữ~i., pp^ ,

*

-ì-r, í

'- /"**-. '^'A.
(■S ?-V
*,,"' ■• •'/>§ £w.x
^-'-'.^
^ sp s Ệ ip
..-^
, -Vật *t vx..
«11 '' I

' r

T


ầ Ệ
rJ

_

,

V

' >‘v>«*‘' ã^săS -/ í.‘*

•'í ;;ú TụìNlĩ NGHIÊN cứu KHOA HỌC CẤP BỘ
ỷĩi '-'*"■•■ỳ**1-'-"' ■■'■' Ị-'■'■-■•■-■■■■:■'■:.i''iĩ..'- ■■'■'•■■■

■•

{'-■•
* & ĩệ 'fr v C I

v;

ịỉg~

e ^ íỉ) ~

% ềjlÉ

• • '-• ' -


•-••*'i^vi|§^^,e^/Í!**í''r'^‘r‘•Ir.^ế. \i'*■^Ắi.ÌHí..
s' V '

'* 5

Ế f'ỉ^ r ^ [ỉ

jầjẨ

«

«

^ ^ ■ Ệ : '" : ;

4 !ÉBìlff ề s ẳfl $ẤR sổ sề tí LUẬNvft ĨKỌS TIỄU

SỒ I f ! Ệ S p

s p t ĨĨSầCH

NHIỆM t i m S ự e É

vớì

Tổ m

tồ? :‘TS. C m Thí Oanh
Khoa pháp luật hình sự /ivường Đại học Luật Hà Nội
Tliư ký cíc ịằá

: CN. Đầm Quang Ngọc

Ể m

m

ẫ i

m

MÊŨ.

Hể Nội - Ihúỉtg 5/2011

-*.«!

' -'

m


BỘ T ư PH Á P
V IỆN K H O A H Ọ C PHÁP LÝ

V& ?À Ti'
Ĩi
Êỉ y T
LS

CÔNG T R ÌN H N G H IÊ N


cứu K H O A H Ọ C

CAP BỘ

ĐỂ TÀI

NGHIÊN CỨU SO S Á N H c ơ SỞ LÝ LUẬN V À T H ự C TIỄN
CỦA VIỆC ÁP D Ụ N G TRÁCH NHIỆM H ÌN H s ự Đ ố i VỚI T ổ CHỨC

Chu nhiệm đề tài

: TS. Cao Thị Oanh
Khoa pháp luật hình sự - Trường Đại học Luật Hà Nội

Thư ký để tài

: CN. Đàm Q uang Ngọc

TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN
TRƯỜNG OẠI HỌC LLỊÂT HÀ l\n

PHÒNG DỌC --/y 4 4

Hà N ội - tháng 5 /2011


B Ả N G TỪ V IÉ T T Ắ T

CTTP

Nxb.

: Cấu thành tội phạm
: Nhà xuất bản

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TNHS

: Trách nhiệm hình sự


MỤC LỤC
Phần I: BÁO CÁO TỒNG THUẬT
Phần mỏ’ đầu

1. Tính cấp thiết của Đe tài
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài
3. Những vấn đề mới đặt ra nghiên cửu về lý luận và thực tiễn
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Cơ cấu của Báo cáo tổng thuật
Chưong 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự của
tổ chức

1.1. Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức
1.2. Các học thuyết về trách nhiệm hình sự của tổ chức
1.3. Các điều kiện trách nhiệm hình sự của tổ chức
1.4. Phạm vi trách nhiệm hình sự của tổ chức

1.5. Các hình thức trách nhiệm hình sự của tổ chức
Chưongo 2: Trách nhiệm
hình sụhình sự• một

• của tổ chức trong
o luật


số nước

2.1. Trách nhiệm hình sự của tổ chức trong luật hình sự các nước theo
hệ thống common law
2.2. Trách nhiệm hình sự của tổ chức trong luật hình sự các nước theo
hệ thống luật châu Ầu lục địa
2.3. Trách nhiệm hình sự của tổ chức trong luật hình sự các nước châu Á
2.4. Tính phổ biến và tính đặc thù trong quy định trách nhiệm hình sự
của tổ chức ở các nước trên thế giới
Chưong 3: Kiến nghị về quy định trách nhiệm hình sự của tổ chức
trongơ luật
• hình sự
• Việt
• Nam

3.1. Sự cần thiết của việc quy định trách nhiệm hình sự của tổ chức
trong luật hình sự Việt Nam
3.2. Những vấn đề pháp lý đặt ra khi quy định trách nhiệm hình sự của
tổ chức trong luật hình sự Việt Nam
3.3. Mô hình lý luận về trách nhiệm hình sự của tổ chức
Kết luân



Phần II: CÁC CHUYÊN ĐÊ

Chuyên đề 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của quy định trách nhiệm hình

108

sự đổi với tổ chức, pháp nhân trong luật hình sự Việt Nam
PGS.TS. Trần Văn Độ
Phó chánh án Tòa án nhân dân tôi cao, chánh án Tòa án
quân sự Trung ương
Chuyên đề 2: Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự

139

một số nước theo truyền thống luật châu Âu lục địa
TS. Trịnh Quốc Toản
Phó chủ nhiệm khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên đề 3: Một số vấn đề cơ bản về trách nhiệm hình sự của pháp

155

nhân trong luật hình sự một số nước theo truyền thống common law
TS. Trịnh Quốc Toản
Phó chủ nhiệm khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên đề 4: Trách nhiệm hình sự pháp nhân tại Mỹ

179

TS. Nguyễn Khắc Hải

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên đề 5: Trách nhiệm hình sự của tổ chức theo quy định của pháp

198

luật một số nước Asean
TS. Cao Thi Oanh
Trường Đại học Luật Hà Nội
Chuyên đề 6: Quy định về trách nhiệm hình sự của tổ chức ở Trung Quốc
TS. Đổng Hiểu Tùng và TS. Đỗ Đức Hồng Hà
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục

216


PHẦN I
BÁO CÁO TỎNG THUẬT KẾT QUẢ NGHIÊN c ứ u

PHẦN MỞ ĐẦU

,
,
1. Tính cấp thiết của Đe tài

<2011 /

Trong suốt hơn 60 năm kể từ khi Việt Nam giành được độc lập đến nay,
lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam luôn nhất quán chỉ quy định cá nhân là chủ
thể của tội phạm. Quy định này hoàn toàn phù họp với hệ thống lý luận luật hình

sự và cũng là cơ sở pháp lý khá phù hợp để xử lý các hành vi nguy hiểm đáng kể
cho xã hội xảy ra ở nước ta trong một quãng thời gian dài. Cho đến những năm
gần đây, với quá trình hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
thị trường, một mặt, chúng ta phải đối mặt với hiện tượng nhiều hành vi nguy
hiểm đáng kể cho xã hội được thực hiện bởi các tổ chức và mặt khác, chúng ta
cũng tham khảo được kinh nghiệm xử lý tội phạm do tổ chức thực hiện từ nhiều
nước trên thế giói. Thực tiễn đó đặt ra cho khoa học pháp lý hình sự nước ta
những câu hỏi lớn cần giải đáp là: chúng ta có nên quy dịrih tổ chúc là chủ thể
của tội phạm hay không? Nếu có thì chúng ta cần quy định như thế nào?
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng TNHS đối với tổ
chức ở Việt Nam hiện nay là một hướng nghiên cứu quan trọng góp phần trả lời
các câu hỏi đó.
Tính cấp thiết của đề tài "Nghiên cứu so sánh cơ sỏ' lý luận và thực tiễn của
việc áp dụng TNHS đối với tổ chức" được thể hiện trên ba phương diện cơ bản
sau đây:
-

Thứ nhất, về phương diện chính trị - pháp lý: Ngày 24-5-2005, Bộ Chính

trị đã có Nghị quyết số 48/NQ-TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam và một trong nhũng quan điểm chỉ đạo là xây dựng và
hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, đáp ứng yêu cầu
của quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam và quá trình hội nhập. Ngày 02-62005, Bộ Chính trị lại ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược Cải
1


cách tư pháp đến năm 2020, theo đó, cải cách tư pháp phải kế thừa truyền thống
pháp lý dân tộc, các thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù họp với hoàn
cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế đáp ứng được xu thế phát

triển của xã hội trong tương lai1.
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi đi sâu nghiên cứu nội dung

CO'

sở lý luận

và thực tiễn của việc áp dụng TNHS đối với tổ chức nhàm đưa ra các kết quả
nghiên cứu lý luận về áp dụng TNHS đối với tổ chức, phân tích các yếu tố kinh tế
- xã hội, lịch sử, truyền thống, cách tiếp cận về vấn đề áp dụng TNHS đối với tổ
chức ở các nước, đồng thời phân tích các yếu tố tương ứng ở Việt Nam. Trên cơ
sở đó đề xuất áp dụng kinh nghiệm của nước ngoài vào việc hoàn thiện quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam, đáp úng đòi hỏi của công cuộc đổi mới và hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng do Đảng Cộng
sản và Nhà nước Việt Nam khởi xướng.
-

Thứ hai, về phương diện ỉý luận: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn

của việc áp dụng TNHS đối với tổ chức có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận.
Những nghiên cứu về vấn đề này cho phép khẳng định tính khoa học và sự cần
thiết của việc áp dụng TNHS đối với tổ chức. Chính vì vậy, chúng cung cấp cơ sở
lý luận cho việc xác định phạm vi chủ thể của tội phạm (chỉ là cá nhân, là cá nhân
và pháp nhân hay cá nhân và tổ chức). Cơ sở lý luận này không chỉ góp phần
hoàn thiện lý luận của khoa học pháp lý hình sự mà cỏn là cơ sở để xây dựng và
hoàn thiện các quy định liên quan. Thực té cho thấy hiện nay, luật hình sự Việt
Nam chỉ quy định áp dụng TNHS đối với cá nhân trong khi rất nhiều quốc gia có
trình độ lập pháp khá cao trên thế giới quy định áp dụng TNHS đối với tổ chức,
trong số đó có cả những quốc gia cũng đã từng không thừa nhận vấn đề này trong
một thời gian dài (Ví dụ: Lux-xăm-bua). Hiện tượng đó càng cần được quan tâm

trong bối cảnh các nhà khoa học pháp lý hình sự nước ta hiện nay dường như vân
chưa có được tiếng nói chung về vấn đề TNHS đối với tổ chức. Tại tờ trình về
Dự thảo Bộ luật hình sự năm 1999, vấn đề này đã được nêu ra nhưng không được
1 Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/N Q -TW ngày 02-6-2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020.

2


thông qua vì lý do vấn đề này còn chưa phổ biến vả cũng chưa được nghiên cún
nhiều. Một lần nữa vấn đề này lại được bàn đến tại phiên họp thảo luận Dự thảo
luật sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 và đã nhận được ý kiến đồng tình
của một số đại biểu quốc hội. Đặc biệt, trong điều kiện Việt Nam tham gia mạnh
mẽ vào quá trình hội nhập quốc tế (trong đó có hội nhập pháp luật và hội nhập tư
pháp) như hiện nay, có thể khắng định rằng, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc áp dụng TNHS đối với tổ chức là việc làm có tính cấp thiết nhằm định
hướng cho sự vận động phù hợp của pháp luật, nắm bắt những kinh nghiệm của
thế giới trong việc áp dụng TNHS đối với tổ chức để đề ra phương hướng đổi
mới pháp luật hình sự của Việt Nam.
-

Thứ ba, về phương diện thực tiễn: Trong những năm gần đây, với sự phát

triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, hành vi gây thiệt hại đáng kể cho xã
hội do tổ chức thực hiện ngày càng trỏ' nên phổ biến, đặc biệt là các hành vi gây
thiệt hại về kinh tế, về môi trường. Ví dự: việc gây ô nhiễm môi trường của Công
ty Vedan Việt Nam làm thiệt hại hàng trăm tỷ đồng cho nông dân các tỉnh Đồng
Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Hồ Chí Minh; sự cố tràn dầu của tàu Neptune Aries
(Singapore) ngày 03-10-1994 tại cảng Cát Lái gây thiệt hại ước tính 20.000.000
USD; vấn đề dìm giá vì mục đích lợi nhuận của Tổng công ty xi măng ở nhũng
năm cuối thế kỷ XX và gần đây là hoạt động kinh doanh trái pháp luật của tập

đoàn Than khoáng sản Việt Nam, tập đoàn Vinasin... gây thiệt hại đặc biệt lớn
cho nền kinh tế cũng như xã hội nước ta. Ngoải ra, việc núp bóng dưới danh
nghĩa pháp nhân để phạm tội ngày càng tăng, tính chất nguy hiểm ngày càng cao.
Các hành vi phạm tội do pháp nhân thực hiện trong thời gian qua không ít như
buôn lậu, buôn bán hàng cấm, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép, trốn
thuế, lừa dối khách hàng, cố ý làm trái các quy định quản lý kinh tế, quảng cáo
gian dổi, làm hàng giả, buôn bán hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, sở
hữu công nghiệp, tẩy rửa tiền hoặc có những hành vi phạm tội khác liên quan tới
lĩnh vực tài chính - ngân hàng... Đa số những trường họp trên là do lãnh đạo,
người đại diện của pháp nhân thực hiện vì lợi ích của pháp nhân hoặc trong

3


lchuôn khổ hoạt động của pháp nhân với những thủ đoạn càng ngày càng tinh vi,
xảo quyệt, có tổ chức cao và có nhiều trường hợp mang tính quốc tế.
Các hoạt động trái pháp luật, gây thiệt hại nêu trên là quyết định của tập thể
hội đồng quản trị, lãnh đạo điều hành các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp.
Vì vậy, rõ ràng, trong những trường hợp này, việc xử lý vi phạm bằng pháp luật
dân sự, pháp luật hành chính đổi với tổ chức và chỉ truy cứu TNHS một số cá
nhân điều hành nhân danh, thay mặt và vì lợi ích tổ chức là chưa đủ để đạt được
mục đích răn đe, phòng ngừa ngăn chặn tái phạm, vi phạm pháp luật; không công
bằng trong việc xử lý đối với các cá nhân bị truy cứu TNHS cũng như gây ra
nhiều vướng mắc trong thủ tục xử lý vụ việc.
Kết quả nghiên cứu thực tiễn áp dụng TNHS đối với pháp nhân ở nước
ngoài cũng cho thấy khi chế định này được quy định trong luật thì sẽ cung cấp co
sở pháp lý cho việc xét xử số vụ việc đáng kể. Ví dụ: theo thông báo thống kê của
Bộ Tư pháp Cộng hòa Pháp tháng 5 năm 2005 thì từ năm 1994 đến năm 2002 các
tòa án Pháp đã xét xử 1442 vụ pháp nhân phạm tội, trong đó có 858 vụ là các tộ
xâm phạm trật tự tài chính, kinh tế xã hội (chiếm 59,5%), 352 vụ xâm hại quar

hệ nhân thân (chiếm 24,4), 174 vụ xâm phạm trật tự công cộng và môi trường
(chiếm 12,1%), 33 vụ xâm phạm sở hữu (chiếm 2,3%)...
Những phân tích trên cho thấy nghiên cứu so sánh các cơ sở lý luận Vỉ
thực tiễn của việc áp dụng TNHS đối với tổ chức là hướng nghiên cứu cần thiết
khách quan.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài

Xác định phạm vi chủ thể của tội phạm hay những đối tượng có thể bị áj
dụng TNHS là một trong những vấn đề lý luận cơ bản của khoa học luật hình sụ
Vì vậy, vấn đề này đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu như: giá'
trình luật hình sự, sách chuyên khảo, tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên, hiện nay I
Việt Nam cũng như trên thế giới chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu s
sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng TNHS đối với tổ chức để đưa r
phương hướng đổi mới pháp luật hình sự Việt Nam về vấn đề này.
4


(7 nước ngoài, có nhiều tài liệu liên quan đến đề tài như: ỉ) Mireille
Delmas-Marty, Mingxuan Gao, Association de recherches pénales européennes
(France, Pierre Truche, Section de Science criminelle, Institut universitaire de
Prance, Criminalité économique et atteintes à la dignité de la personne: Bilan
compaiatif et propositions, Edition: 2, Editions MSH, 1997; 2) Benoĩt Chabert et
Pierre-Olivier Sur, Droit pénal général, Dalloz, 2èmc'éd., 1997; 3) Frédéric
Debove et Franẹois Falletti, Précis de droit pénal et de procédure pénale, PUF,
2001; 4) Harald Renout, Droit pénal général, CPU, 2002; Ann Jacobs, Adrien
Masset, Actualités de droit pénal et de procédure pénale (I), Larcier, 2003; 5) B.
Fisse, 'Reconstructing Corporate Criminal Law: Deterrence, Retribution, Fault,
and Smctions", (1983) 56 South. Cal. L. R. 1141; 6) B. Fisse, "Corporate
Criminal Responsibility", (1991) 15 Crim. L.J. 166; 7) B. Fisse et J. Braithwaite,
"The Allocation


of Responsibility

for Corporate

Crime:

Individualism,

Collectivism and Accountability", (1988) ]1 Sydney L. Rev. 468; 8) B. Fisse,
"The Ảttribution of Criminal Liability to Corporations : A Statutory Model",
(1991) 13 Sydney L.R. 277; 9) L. Leigh, "The Criminal Liability of Corporations
and Other Groups: A Comparative View", (1981-82) 80 Michigan L. Rev. 1508,
1513-1514;

10) p. Prench, "The Corporation as a Moral Person", (1979) 16

American Philosophical Quarterly; 11) p. French, Collective and Corporate
Respor.sibility, 1984, New York, Columbia ưniversity Press; 12) Halsbury's law
o f Eng'and, 4 éd., vol. 11, London 1976; 13) I. H. Leigh, The Criminal Liability
o f Corporations in English Law (1969); 14) J.c. Smith and B. Hogan, Criminal
Law, 1996; 15) The Law Commission Working Paper No 44; 16) J. Groia & L.
Adams. " Searching for a Soul to Damn and a Body to Kick: The Liability of
Corponte Offìcers and Directors", (1990) Meredith Mem. Lect. 127; 17) J. c .
Coffee. '"No Soul to Damn: No Body to Kick': An Unscandalized ỉnquiry Into
The Príblem of Corporate Punishment", (1981) Michigan L. Rev. 386; 18) c .
Wells, Corporations and Criminal Responsibility, Clarendon Press, Oxford, 1993,
4. B. Fisse, "Criminal Law: The Attribution of Liability to Coiporations: A
Statutory Model", (1991) 13 Sydney L.R. 277; 19) D. Bergman, "Corporate
5



Sanctions and Corporate Probation", (1992) 142 New Law Journal, 1312; 20) c .
Kennedy,

"Criminal

Sentences

for

Corporations:

Alternative

Fining

Mechanisms", (1985) 73 Calif. L. Rev. 443; 21) c . D. Stone, "The Place of
Enterprise Liability in the Control of Corporate Conduct", (1980) 90 Yale L.J., à
la p. 7, note 27; People V. Canadian Fur Trappers Corp. (1928), 248 N.Y 159
(N.Y.C.A.); 22) c . T. Aspund, "Corporate Criminality: A Riddle Wrapped in a
Mystery Inside an Enigma", (1985) 45 C.R. (3d) 333, 336...
Ở trong nước, qua nghiên cún chủng tôi thấy có những tài liệu sau đây liên
quan đến đề tài: 1) Hệ thống tư pháp hình sự của một số nước châu Á (tài liệu
dịch của Dự án VIE/95/018); 2) Viện khoa học pháp lý, Luật so sánh, Thông tin
khoa học pháp lý số 7/1998; 3) Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Bộ Tư pháp), Tội
phạm kinh tế trong luật hình sự Nhật Bản và một số tội phạm kinh tế theo pháp
luật của Singapore - sổ chuyên đề giới thiệu một số chế định cơ bản của Dự án
Bộ luật hình sự (sửa đổi), tháng 3/98; 4) Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Bộ Tư
pháp), Số chuyên đề về luật hình sự của một số nước trên thế giới, 1998; 5)

PTS.TS. Dương Thị Thanh Mai và Th.s. Cao Xuân Phong (dịch và hiệu đính),
Tư pháp hình sự so sánh, Thông tin khoa học pháp lý 1999; 6) Viện Khoa học
pháp lý (Bộ Tư pháp), Chuyên đề về Tư pháp hình sự so sánh, Thông tin khoa
học pháp lý, Hà Nội, 1999 (sách dịch); 7) Lê Cảm, Hoàn thiện pháp luật hình sự
Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb. Công an Nhân
dân, Hà Nội 1999; 8) Phạm Hồng Hải, Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm
hay không?, Tạp chí Luật học, số 6/1999; 9) Lê Cảm, TNHS của pháp nhân - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân, sổ 3, 4/2000; 10)
PGS.TSKH. Lê Cảm (chủ biên), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung),
Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001; 11) Trịnh Quốc Toản, TNHS của pháp
nhân trong luật hình sự nước Anh, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội,
Kinh tế-Luật, T.XVIII, số 3. 2002; 12) PGS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo
trình luật học so sánh, Nxb. Công an nhân nhân, Hà Nội, 2002; 13) Viện khoa
học pháp lý, Nhũng vấn đề cơ bản về pháp luật hình sự của một số nước trên thế
giới Thông tin khoa học pháp lý số 8/2002; 14) Viện khoa học pháp lý, Một sô
6


vấn đề về cải cách tư pháp ở Trung Quốc, Thông tin khoa học pháp lý số
12/2003; 15) Trịnh Quôc Toản, TNHS của pháp nhân trong luật hình sự Vương
quốc Bỉ, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, số 3/2003; 16) Trịnh Quốc Toản, TNHS
của pháp nhân trong luật hình sự Hà Lan, Tạp chí Kiểm sát, số 5/2003; 17) Trịnh
Quốc Toản, Phạm vi và điều kiện áp dụng TNHS của pháp nhân trong luật hình
sự Anh, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế-Luật, T.XIX, số 1.
2003; 18) Trịnh Quốc Toản, Những vấn đề cơ bản về TNHS của pháp nhân trong
luật hình sự Thụy Sỹ, Tạp chí Toà án nhân dân, số 7 tháng 4-2005; 19) Trịnh
Quốc Toản, TNHS của pháp nhân trong luật hình sự Canada, Tạp chí Nhà nước
& Pháp luật, số 4/2006; 20) Hoàng Thị Tuệ Phương, TNHS pháp nhân, Luận văn
Thạc sỹ luật học, Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, 2006; 21) PGS.TS. Phạm
Văn Lợi (chủ biên), Nghiên cứu, so sánh pháp luật hình sự của một số nước

Asean, sách chuyên khảo, Nxb. Tư pháp, 2010. Ngoài ra, Bộ luật hình sự một số
nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Thụy Điển, Cộng hòa Pháp, Mỹ... đã được dịch
ra tiếng Việt cũng có giá trị tham khảo nghiên cứu về vấn đề này.
Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài qua
những tài liệu đã thu thập được, chúng tôi rút ra những kết luận chính như sau:
-

Thứ nhất, Các công trình nghiên cứu về TNHS của tổ chức ở trong và

ngoài nước có thể được chia thành hai loại là các công trình tổng thuật, thông tin
về TNHS của tổ chức và các công trình nghiên cứu trực tiếp về cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc áp dụng TNHS đối với tổ chức. Trong đó, tất cả các công trình
nghiên cứu trong nước đều tập trung nghiên cứu về TNHS của pháp nhân (hẹp
hon TNHS của tổ chức). Hầu hết các công trình nghiên cứu về vấn đề này được
thực hiện ở mức độ bài viết tạp chí, trong đó, phần lớn là các bài giới thiệu những
quy định về áp dụng TNHS đối với pháp nhân ở một số nước trên thế giới như:
Anh, Pháp, Canada, Bỉ, Trung Quốc... Một số bài viết khác có phân tích cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc áp dụng TNHS đối với pháp nhân ở Việt Nam nhưng
những phân tích này chỉ dừng lại ở mức sơ lược và thiếu tính hệ thống, chủ yếu
thể hiện quan điểm của cá nhân. Có thể khẳng định rằng, những nội dung được

7


thể hiện trong các công trình này chưa cho phép kết luận về sự cần thiết và khả
năng điều kiện của việc áp dụng TNHS đối với to chức ở Việt Nam.
- Thứ hai, vấn đề TNHS đối với tổ chức là vấn đề khá phức tạp. Ngay ở
nhũng nước có quy định vấn đề này thì nội dung quy định cụ thể cũng rất khác
nhau. Chẳng hạn, về phạm vi những tổ chức bị áp dụng TNHS, có nước quy định
chỉ những tổ chức có tư cách pháp nhân mới có thể là chủ thể của tội phạm (bên

cạnh chủ thể phổ biến là cá nhân) nhưng có nước lại quy định TNHS không chí
được áp dụng đổi với pháp nhân mà còn được áp dụng đối với cả các nhóm, các
tập đoàn, các đơn vị, các hội tạm thời, hội có đối tưcrng kinh doanh chưa đăng ký,
hội thương mại đang thành lập... Quy định về phạm vi các tội mà tổ chức có thể
phải chịu TNHS ở các nước cũng không giống nhau. Có những nước quy định tổ
chức có thể phải chịu TNHS về mọi tội phạm nhưng có nước lậi quy định tổ chức
chỉ chịu TNHS trong những trường hợp pháp luật quy định. Quy định về các loại
hình phạt áp dụng đối với tổ chức cũng có sự khác biệt. Bên cạnh các nước quy
định phạt tiền là hình phạt duy nhất áp dụng đối với tổ chức lại có những nước áp
dụng nhiều loại hình phạt khác nhau đối với tổ chức như: phạt tiền, tịch thu tài
sản của pháp nhân, giải thể pháp nhân, cấm tiến hành hoạt động nhất định, niêm
yết bản án, quyết định đã được Tòa án tuyên hoặc thông báo quyết định đó trên
các phương tiện nghe nhìn... Do tính chất phức tạp của vấn đề TNHS của tổ chức
mà ngay ở những nước quy định vấn đề này cũng có những quan điểm khác
nhau.
3. Nhũng vấn đề mới đặt ra nghiên cứu về lý luận và thực tiễn

Đây là công trình đầu tiên trong khoa học pháp lý hình sự Việt Nam
"Nghiên cứu so sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng TNHS đối với tổ
chức", mà trong đó, bằng việc phân tích khoa học sẽ giải quyết một cách đồng bộ,
có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc áp dụng TNHS đối với tổ
chức. Từ nhận thức chung đó, đề tài đặt ra những vấn đề mới cần nghiên cứu là:
- Thứ nhất: Nghiên cứu TNHS của tổ chức trong luật hình sự mót số nước
đại diện cho các hệ thống pháp luật khác nhau. Tìm ra và cố gắng luận giải nhũng


điểm tương đồng và khác biệt trong quy định của luật hình sự của các nước đó
trong bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể của họ.
- Thử hai: Tìm ra được cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định và áp
dụng TNHS đối với tổ chức ở một số nước.

- Thứ ba: Đánh giá sự cần thiết và khả năng áp dụng TNHS đối với tổ chức
ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận để nghiên cứu đề tài là phép duy vật biện chứng và
phép duy vật lịch sử.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học xã hội được sử dụng
nghiên cứu đề tài bao gồm: phương pháp so sánh; phương pháp xã hội học;
phương pháp logic; phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích, tổng hợp;
phương pháp hệ thống hóa...
+ Các phương pháp nghicn cứu đặc thù của khoa học luật so sánh như: so
sánh theo thòi gian và không gian; so sánh bên trong và bên ngoài; so sánh vi mô
và so sánh vĩ mô; so sánh khách thể nghiên cứu; so sánh quy phạm (tiêu chuẩn)...
5. Cơ cấu của Báo cáo tổng thuật

Ngoài phần mở đầu và kết luận, Báo cáo tổng thuật kết quả nghiên cứu Đe
tài gồm 3 chương như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận qua nghiên cứu so sánh về TNHS của tổ
chức
- Chương 2: TNHS của tổ chức trong luật hình sự một số nước
- Chương 3: Kiến nghị về TNHS của tổ chức trong luật hình sự Việt Nam

9


Ch irong 1
NHỮNG VẤN ĐÊ LÝ LUẬN VÈ TRÁCH NHIỆM HÌNH s ự







CỦA TỔ CHỨC
1.1. Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức

Khi nghiên cứu vấn đề TNHS của tổ chức ở một số nước thuộc các hệ
thống pháp luật khác nhau, chúng tôi thấy rằng, mặc dù quy định TNHS của tổ
chức là xu thế tất yếu hiện nay trong pháp luật hình sự thế giới, nhưng cũng có
không ít nước vẫn chưa chấp nhận chế định này. Vì vậy, trong khoa học luật hình
sự trên thế giới vẫn tồn tại hai quan điểm lý luận trái ngược nhau về vấn đề này:
quan điểm phản đối và quan điểm ủng hộ TNHS của tổ chức trong luật hình sự.
1.1.1. Quan điểm phản đổi trách nhiệm hình sự của to chức

Nghiên cún vấn đề TNHS của tổ chức trong luật hình sự nhiều nước trên
thế giới cho thấy các lý do để những người không ủng hộ TNHS của tố chức mà
đại diện chủ yếu là các nhà hình sự học theo học thuyết cổ điển (hay còn gọi là
học thuyết truyền thống) đưa ra để bác bỏ chế định này là: 1/ TNHS của tổ chức
không phù hợp với nguyên tắc hành vi và nguyên tắc lỗi trong luật hình sự; 2/
TNHS của tổ chức không phù họp với nguyên tắc cá thể hóa TNHS và mục đích
giáo dục của hình phạt; 3/ khả năng áp dụng hình phạt (hình thức TNHS) đối với
tổ chức; và 4/ TNHS của tổ chức không phù họp với quan niệm đạo đức, nguyên
tắc công bằng trong luật hình sự2.
-

Theo học thuyết cổ điển, truyền thống, tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu

thuộc hành vi khách quan (actus reus - Lat.) và dấu hiệu lỗi chủ quan (mens rea Lat.). Hành vi khách quan của tội phạm phải do chính người phạm tội trực tiếp
thực hiện. Pháp nhân là một thực thể pháp lý trừu tượng. Pháp nhân là một người

vô hình, do các thành viên hợp lại, và đại diện cho tất cả các thành viên. Do
2 Xem: Trịnh Quốc Toàn, TNHS của pháp nhân trong luật hình sự nước Anh, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia
Hà Nội, kinh tế - luật, số 3. 2002; TN H S của pháp nhân trong luật hình sự vương quốc Bỉ, Tạp chí Nhà nước &
pháp luật, số 3/2003; TNHS của pháp nhân trong luật hình sự Hà Lan, Tạp chí Nghiên cứu châu Au, sô
2(50)/2003; Phạm vi và điều kiện áp dụ n s TN H S của pháp nhân trong luật hình sự Anh, tạp chí khoa học Đại học
quôc gia Hà Nội, kinh tề - luật, số 1. 2003; TNH S của pháp nhân trong luật hình sự Pháp, Tạp chí Nhà nước &
pháp luật, số 10/2004.

10


không phải là thực thê hữu hình, nên pháp nhân không thê tự mình trực tiêp thực
hiện hành vi phạm tội; hành vi phạm tội được quy kết cho pháp nhân là do những
cá nhân, đó là các cơ quan, nhân viên thừa hành hoặc người được ủy quyền của
pháp nhân thực hiện3. Mặc dù trong thực tiễn, các cơ quan, nhân viên thừa hành
hoặc người được ủy quyền của pháp nhân có thể phạm tội trong khi thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình, nhưng không thể nói hành vi đó là hành vi của
pháp nhân; và vì vậy, sẽ là không hợp ]ý nếu quy kết hành vi phạm tội đó cho
chính bản thân pháp nhân4.
Từ góc độ chủ quan, lỗi là thái độ tâm lý (nhận thức và ý chí) của người
phạm tội đối với hành vi người đó thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó gây
nên. Cũng theo quan điểm này, pháp nhân không có thể xác và cũng chẳng có
linh hồn, nó chỉ là những cấu trúc pháp lý được thiết lập nhằm phục vụ các lợi ích
cá nhân của những thành viên của pháp nhân. Các nghị quyết, các quyết định của
pháp nhân chỉ là kết quả của con số cộng các ý chí cá nhân của các thành viên
chứ không phải từ sự mong muốn của chính bản thân pháp nhân5. Savigny nhấn
mạnh: “Pháp nhân... chỉ là một thực thể trừu tượng... sự tồn tại thực tế của nó
dựa trên các quyết định của một hoặc một số những ngưòi đại diện mà chiểu theo
sự trừu tượng được xem như là các quyết định của chính bản thân pháp nhân, một
sự đại diện như thế... loại trừ ý chí theo đúng nghĩa”6. Nhưvậy,


có thể nói là

không có lỗi nào có thể được quy kết cho pháp nhân - một thực thể trừu tượng
không có nhận thức và cũng không thể có ý chí7.
Nói tóm lại, theo quan điểm truyền thống này thì nếu đối với các thể nhân,
có thể quy kết hành vi vật chất khách quan của vụ việc phạm tội và thái độ chủ
quan tội lỗi của chính họ cho mỗi tội phạm thì pháp nhân dưới lăng kính của học
thuyết cố điển, vì không có thể hành động trực tiếp, không có sự bấu víu trực tiếp
nào vào thực tế khách quan và thiếu tự do ý chí, khả năng nhận thức nên nó (pháp

3 Xem
et s.
4 Xem
Xem
Xem
Xem

M .F.C Von Savigny, Traitẻ de droit rotnciin, trad. de ch. ruenoux, Paris, librairie ílrmin didot 1841, t.2, 311
Leffort, Precis de droit criminel, Paris, Sirey, 1877, 2 18,2Ĩ9.
M .F.C V on Savigny, Traỉtẻ de droit romain, trad. tài liệu đã dẫn, p. 312.
M .F.C Von Savigny, Traité de droit romain, trad. p. 312.
A. Braas, Précis de droit criminel, Bruxlles- liège, Bruylant, 1946, no 122.

11


nhân) về bản chất là những thực thể không tương thích cho việc thực hiện hành vi
phạm tội8.
- Việc trừng trị pháp nhân, tổ chức không chỉ không công bằng mà còn tỏ ra

khó tương họp với nguyên tắc cá thể hoá hình phạt9. Nguyên tắc cá thể hoá hình
phạt đòi hỏi tòa án khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong từng
trường hợp phải căn cứ vào hành vi và sự tham gia cụ thể của họ vào tội phạm bị
truy cứu, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đặc biệt là các yếu tố nhân thân
người phạm tội. Trong khi một tội phạm được thực hiện trong khuôn khổ hoạt
động của pháp nhân, thì hoặc là toàn bộ các thành viên của pháp nhân đã phạm
tội cần phải bị trừng trị có sự phân biệt và tương xứng với lỗi của từng người,
hoặc là chỉ trừng trị một hoặc một số người trong pháp nhân đã cùng (đồng
phạm) thực hiện hành vi phạm tội. Sẽ là đúng, công bằng nếu chỉ trừng trị những
người đó; sẽ là không công bằng nếu lại trừng trị cả những thành viên khác trong
pháp nhân10 chỉ vì lý do họ thuộc về một tập thể hoặc là họ phụ thuộc vào nó.
Nếu trừng trị một thực thể như vậy cuối cùng sẽ không công bằng và không có
lợi. Trừng phạt một thực thể tập thể sẽ gây thiệt hại tới quyền và lợi ích hợp pháp
của các cá nhân khác thuộc pháp nhân vốn là nhũng người hoàn toàn không biết
đến, không có lỗi gì liên quan đến hành vi phạm tội của những người khác.
Donnedieu De Vabres viết: “Nằm trong sự tất yếu của sự việc là bắt một pháp
nhân phải chịu một hình phạt có những hậu quả bất lợi đối với những người thú
ba vô tội”11.
- Những người theo học thuyết cổ điển chống lại TNHS của pháp nhân
không chỉ bằng lý lẽ là pháp nhân không có khả năng phạm tội, không thế có lỗi
mà hơn thế, họ cho rằng các chế tài hình sự, lả sự kết án về mặt đạo đức và mệnh
lệnh bắt buộc trái với ý muốn của các thể nhân, nhất thiết không thể áp dụng

8 Xem Haus, Principes généraux de droit pénal belge, Gand, Librairie générale ad. hoste, no 266.
9 Xem A. Braas, Précis de droit criminel. Tài liệu đã dẫn, số 122; J. Constant, traité élém entaire de droit pẻnal
liège, imp. nationales, 1965, t .l, 155.
10 Xem R. Garraud, Traité de droit crim inel, Paris, Sirey, 1926, 69.
11 Xem Donnedieu De Vabres, Traite de droit criminel et de législation pénale com parée. Tài liệu đã dẫn, tr. 149.

12



được cho pháp nhân, tô chức. Dù sao chăng nữa các pháp nhân cũng không thể
chịu một hình phạt nào đó có hữu ích12.
Đã một thời gian dài các nhà hình sự học theo học thuyết cổ điển nói về sự
không thể trừng trị pháp nhân hoặc chí ít cũng là khó khăn về mặt thực tế khi áp
dụng chế tài hình sự cho pháp nhân13. Các hình phạt được coi là đặc trưng, truyền
thống và có hiệu quả trong luật hình sự như tử hình, phạt tù ... không thể áp dụng
được đối với pháp nhân. Người ta có thể phạt tù, băt giam như thế nào đối với
một thực thể mà bản chất của nó là vô hình? làm thế nào có thể tước mạng sống
của một chủ thể giả tưởng mà bản chất của nó là thiếu sự tồn tại của thực thể hữu
hình14. Vì vậy, việc quy định TNHS nhưng không thể áp dụng các hình phạt đặc
trưng trên đối với pháp nhân làm cho việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân
không còn có nhiều ý nghĩa, không đạt được mục đích giáo dục, phòng ngừa.
Ngược lại, mặc dù các học giả theo học thuyết truyền thống không chối bỏ
khả năng áp dụng các loại hình phạt khác như phạt tiền, tịch thu tài sản, tước một
số quyền... nhưng họ lại đưa ra lập luận là việc trừng trị một pháp nhân sẽ dẫn
đến việc xử lý không có sự phân biệt các thành viên của pháp nhân, sẽ dẫn đến
trừng trị cả với những người không tham gia phạm tội15. Theo Thomas Hobbes,
cái giá thực sự khi áp dụng TNHS, xét đến cùng, chính các pháp nhân không phải
chịu mà là những cá nhân cụ thể trong pháp nhân như: người góp cổ phần, cổ
đông, người lao động... phải chịu. Như vậy, chế định TNHS của pháp nhân
không thể chấp nhận được về phương diện pháp lý cũng như về đạo lý16.
1.1.2. Quan điểm ủng hộ trách nhiệm hình sự của pháp nhân
Nghiên cứu so sánh vấn đề TNHS của pháp nhân cho thấy rằng càng ngày,
nhất là từ nửa cuối thế kỷ trước đến nay, ngày càng có nhiều văn bản từ cả góc độ
pháp luật quốc tế lẫn các quốc gia quy định TNHS của tổ chức. Đồng thời, cũng

12 Xem: Kensuke itoh, N hũng thành tựu và hạn chế về mặt lý luận trong việc pháp luật hoá TNHS của tổ chức tại
Nhật Bản trong sách luật N hật Bản, 1993-1997, Nxb. Thanh niên, 2000, tr. 166. M aistre, Les personnnes morales

et le problem e de leur reponsabilité pénale, Paris, A. Rousseaus, 1889, 275 et s.
Xem s. Glaser, L ’etat en personns m orales et le problem e de leur reponsabilité pénale, r.d.p.c., 1948-1949, 444.
Xem Donnedieu De V abres, Traite de droit crim inel et de législation pénalc comparée, Paris, Sirey, 1947,149.
Xem A. Huss, Sanctions pénales et les personns m orales, r.d.p.c., 1975-1976, 674.
5Xem Thom as Hobbes, Léviathan, Trad. par f. tricaud, Paris, Sirey, 1971, 247.

13


càng ngày càng có nhiêu nhà hình sự học ủng hộ TNHS của tô chức. Những
người theo quan điểm này không chỉ bác bỏ các lập luận của những người theo
hoc thuyết cổ điển, mà còn nhìn nhận vấn đề từ góc độ nhận thức hiện đại, từ
thực tiễn và nhu cầu phát triển xã hội hiện đại. Các nhà hình sự học ủng hộ việc
áp dụng TNHS của pháp nhân cũng đã có những lập luận khoa học để bảo vệ
quan điểm của mình. Với kết quả nghiên cứu của mình, chúng tôi hoàn toàn chia
sẻ các lập luận khoa học đó.
-

Quan điểm cho rằng chỉ duy nhất các thể nhân mới trực tiếp thực hiện

hành vi phạm tội, có năng lực biểu lộ ý chí của chính mình khi thực hiện hành vi
phạm tội và vì vậy, chỉ có thể nhân thực hiện tội phạm mới phải chịu TNHS.
Quan niệm cho rằng các pháp nhân chỉ là những trừu tượng pháp lý (íìction
juridique) ngày nay đã không còn được chấp nhận, không còn phù hợp với thực
tế tồn tại của các pháp nhân với tư cách là “đại diện cho các sức mạnh của thời
đại” 17.
Các học thuyết pháp lý và thực tiễn xét xử của toà án nhiều nước đã thoát
khỏi quan niệm trên và hình thành nên nhận thức mới về vị trí, vai trò của pháp
nhân trong xã hội cùng với việc từ bỏ quan niệm thuần tuý cho rằng chỉ có cá
nhân mới phải chịu TNHS18.

Pháp nhân không phải là một trừu tượng pháp lý thuần tuý, nó những đặc
tính không đổi được thừa nhận chung, có sự tồn tại thực tế của nó trong mối quan
hệ với các thành viên của pháp nhân, v ề thực tế, pháp luật đã ghi nhận và tổ chức
nó trên phương diện pháp lý. Pháp nhân có ý chí độc lập chứ không đơn thuần chỉ
là con số cộng ý chí của các cá nhân thành viên pháp nhân, tập đoàn được pháp
nhân hoá; pháp nhân có thể tự quyết định một cách tự do và theo đuổi những mục
tiêu cụ thể của mình và độc lập với những lợi ích của các cá nhân tạo nên pháp
nhân đó19. Nói cách khác, các tổ chức mặc dù bao gồm các cá nhân nhung đưọ'c

l7Actes du congrès (1920).
Xem M. H auriou aux sources du droit: Le pouvoir, L‘ordre et la liberté. Cahiers de la nouvelle joum ée, (23)
Paris, Bloud & gay, 1933, 126-127.
Xem M. Delmas-marty, Droit pénal d ’aftầires, Paris, 1993, 109; Y. M ayaud, La volonté à la lum ière du
nouveau code pénal, in m élanges en 1’honeur dư professeur j. languier, grenoble, pug, 1993, p. 214.

14


hình thành bởi những lợi ích tập trung và được tô chức thông qua các câu trúc
pháp lý xác định. Trong các tổ chức, những định hướng chủ đạo thể hiện những
mục tiêu của chính mỗi tập thê được đưa ra không chỉ hoàn toàn giới hạn bởi
tổng số các ý chí riêng của các thành viên tập đoàn. Pháp nhân, tổ chức hoàn toàn
có ý chí của riêng mình bởi vì nó sinh ra, tồn tại và phát triển bằng sự gặp gỡ
giữa các ý chí cá nhân của các thành viên của mình.
‘'Pháp nhân không phải là một thể nhân, mà là một tổ chức - tập hợp của
nhiều người - được pháp luật trao cho tư cách của một người trong các quan hệ
pháp luật. Hoạt động của một người (thể nhân) có thể bị chi phối bởi lý do tình
cảm, lý trí nhưng một hoạt động của pháp nhân thì không. Pháp nhân chỉ theo
đuổi những mục tiêu đặt ra trong văn kiện sáng lập tổ chức đó”20. "Trên thực tế,
hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể do một tập thể gây ra do kết quả của việc

đưa ra những quyết định sai trái. Một số tội phạm, trên thực tế, cũng có thể do cá
nhân hoặc tổ chức gây ra. Ví dụ, các tội phạm về kinh tế, về môi trường có thể là
kết quả của hành vi tập thể của xí nghiệp công nghiệp, đơn vị kinh doanh nào
đó”21.
Nói tóm lại, pháp nhân không phải là một chủ thể trừu tượng mà là một chủ
thể độc lập, có ý chí. Pháp nhân có thể, với nhiều danh nghĩa, được so sánh với
con người. “Nó có bộ não, có hệ thần kinh trung ương kiểm tra những gì nó làm.
nó cũng có tay để cầm công cụ và hành động theo các mệnh lệnh của hệ thần
kinh trung ương”22. Như vậy, pháp nhân rõ ràng là một thực thể có ý chí, có
mong muốn riêng của mình, được xử sự tự do và hưởng quyền tự chủ của chủ thể
có thể so sánh với quyền tự chủ của cá nhân và vì vậy có năng lực thực hiện tội
phạm một cách có lỗi và đương nhiên có thể bị xử lý về hình sự. Theo quan niệm
đã được thừa nhận chung, lỗi trong luật hình sự là thể hiện tự do ý chí của chủ thể
(tự do lựa chọn hành vi trái pháp luật, gây hại cho quan hệ xã hội trong khi có tự
do và có khả năng lựa chọn hành vi hợp pháp) thì pháp nhân cũng hoàn toàn tự
20Xem A rthur Taylor Von M ehren & Jam es Russell Gordley, The civil ỉavv system - an introduction to the
comparative study o f law, second edition, little, Brovvn & company. Boston & Toronto, 1977.
Đào Trí Úc, N hận thức đúng đắn hơn nữa các nguyên tấc về trách nhiệm cá nhân và lỗi trons việc xử lý TNHS,
Tạp chí N hà nước và pháp luật, số 9/1999. tr. 75.
22 Xem: H.L. Boỉĩon (eningeering) Coinpany ltcl. V. T.J. Graham &son ltd (1957) i.q.b. 159, 172.


do khi lựa chọn hành vi của mình. Vì vậy, trừ một số tội phạm được kết tội khách
quan (strict liability) ở một số quốc gia theo hệ thống common law, việc quy kết
TNHS cho pháp nhân là hoàn toàn họp lý trên cơ sở lỗi chứ không phải là quy tội
khách quan.
- Một vấn đề nữa đặt ra là pháp nhân không tự mình thực hiện tội phạm mà
phải qua hành vi của các cá nhân. Vậy thì, việc quy kết hành vi đó cho pháp nhân
là có hợp lý hay không.
Nhìn chung tuyệt đại đa số các học giả ủng hộ thiết lập TNHS của pháp

nhân trong luật hình sự đều ủng hộ học thuyết đồng nhất hoá hành vi của tập thể
với hành vi cá nhân trong những điều kiện nhất định23. Xuất phát từ sự tương tự
hình thức giữa pháp nhân và cá nhân, những người ủng hộ học thuyết này quy kết
sự biểu lộ các quyết định của tập thể vào sự tồn tại một ý chí thống nhất trong cá
nhân của người đại diện, người lãnh đạo pháp nhân. Các pháp nhân có ý thức, ý
chí, mong muốn của riêng mình cùng với tư cách như các cá nhân. Theo quy định
của pháp luật, quy chế, điều lệ của pháp nhân thì người đại diện, người lãnh đạo
được thay mặt cho pháp nhân ra các quyết định, thực hiện các hành vi thuộc thẩm
quyền của pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân. Mọi hậu quả có lợi cũng như bất
lợi phát sinh từ hành vi theo sự lựa chọn trên cơ sở tự do ý chí của người đại diện,
người lãnh đạo đều do pháp nhân thụ hưởng hoặc gánh chịu. Vì vậy, khi người
đại diện, người lãnh đạo thực hiện nghĩa vụ hoặc nhiệm vụ của pháp nhân thì ý
chí và hành vi của họ được đồng nhất hoá với pháp nhân, tức là được coi như !à ý
chí và hành vi của pháp nhân24.
- Các nhà hình sự học ủng hộ TNHS của pháp nhân cũng đã phan bác quan
điểm cho rằng các pháp nhân về bản chất ià những thực thể vô hình nên không
thể áp dụng hình phạt đối với nó.
Theo các nhà hình sự học theo quan điểm này, cùng với sự phát triên
mạnh mẽ của khoa học về hình phạt, quan điểm không thể áp dụng hình phạt với
pháp nhân đã không còn có sức thuyết phục. Mặc dù tử hình hoặc các hình phạl
Các học thuyết về cơ sở TNHS cùa pháp nhân sẽ được phân tích cự thề hơn ở mục 1.2 cùa đề tà:'.
Xem Phạm Hồng Hài, Pháp nhân có thể là chù thể của tội phạm hay không? Tài liệu đã dẫn, tr. 16.

16


tước hoặc hạn chế quyên tự do thân thê không thê áp dụng với pháp nhân phạm
tôi nhưng những loại hình phạt khác dần dần được phát triển tương họp hoàn toàn
vái bản chất các tổ chức và pháp nhân phạm tội với mục đích làm cho nó phải
chịu hậu quả pháp lý bất lợi của hành vi phạm tội mà nó đã gây ra cho xã hội.

Năm 1880, trong một quyết định xử phạt một pháp nhân về tội phỉ báng và bôi
nhọ (defamatory libel)25, Lord Blacbum, thẩm phán viện nguyên lão (house of
lord) đã nhận định: “Trong một mức độ nhất định, tôi đồng ý là pháp nhân không
thể bị phạt tù, một pháp nhân không thể bị treo cổ hoặc bị phạt tử hình nếu hình
phạt như vậy là hình phạt cho trọng tội liên quan. Nhưng, phạt tiền có thể buộc
một pháp nhân phải chịu và pháp nhân này có thể trả tiền bồi thường thiệt hại vật
chất. Vì vậy, tôi hoàn toàn không đồng ý với quan điểm cho rằng một thực thể
pháp lý được thành lập với mục đích phát hành báo chí, không thể bị xét xử và
tuyên phạt một hình phạt tiền... hoặc với quan điểm là một pháp nhân gây hại cho
cộng đồng nhung lại không thừa nhận pháp nhân này phạm tội gây thiệt hại đó
hoặc một tội tương tự”.
Lịch sử phát triển pháp luật hình sự trong thế giới hiện đại cho thấy rõ xu
hướng giảm hoặc thay thế các hình phạt được cho là truyền thống quá nghiêm
khắc như tử hình, tước tự do bằng các hình phạt nhân đạo hon không tước tự do
nhưng có giá trị phòng ngừa cao hơn, đặc biệt là các hình phạt liên quan đến tài
sản hoặc hoạt động của tổ chức. Pháp nhân có các quyền và có tài sản. Vì vậy,
đối với pháp nhân có thể áp dụng các hình phạt tước hoặc hạn chế quyền hoặc tài
sản. Kinh nghiệm tư pháp hình sự trong lĩnh vực này ở nhiều nước như Anh, Hoa
Kỳ, Canada, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Trung Quốc... đã chỉ ra ràng hệ thống hình phạt
đủ mềm dẻo để cung cấp những hình phạt và những biện pháp cưỡng chế phù
họp cho việc xử phạt các tổ chức liên quan đến sự tồn tại của nó như giải thể,
đóng cửa; liên quan đến hoạt động của nó như cấm tiến hành những hoạt động
nhất định; hoặc liên quan đến tài sản như phạt tiền, tịch thu tài sản... các hình
phạt này không chỉ có i n

i K

*




có giá trị phòng ngừa cao.

TRƯỜNG ĐẠI HỌ j i m HÀ

PHÒNG D O C ■
The pharm aceutical society.

V.

■ -I

The London and provincial supply association ltd (18 8 0 )”5 ảpp. cặs. 857, 869.

87»:

r

17

ẻi l M



O ỈO II'

L

j



-

Quan điêm cho răng việc quy kêt TNHS và áp dụng hình phạt với pháp

nhân sẽ không công bằng và không phù họp với nguyên tắc cá thể hoá hình phạt
là không phù hợp với quan điểm hình sự học hiện đại. Ngược lại, có thể nói việc
áp dụng hình phạt đối với pháp nhân phạm tội còn thể hiện nguyên tắc công bằng
và bình đẳng, nguyên tắc mọi hành vi phạm tội không thoát khỏi sự trừng trị của
pháp luật hình sự được củng cố.
Theo khoa học hình sự hiện đại thì nguyên tắc cá thể hoá hình phạt không
thể tách rời khỏi nhận thức về chế tài áp dụng đối với pháp nhân, tổ chức. Nếu
pháp nhân, tổ chức là những thực thể có khả năng phạm tội thì có lý nào các pháp
nhân lại không bị chịu sự trách cứ về hình sự của nhà nước khi nó phạm tội. Chế
tài hình sự buộc phải áp dụng trực tiếp và chỉ đối với chính bản thân chủ thể
phạm tội, tức là đòi hỏi việc trừng trị nhằm trực tiếp vào những tổ chức, khi các
thực thể này phạm tội26. Công bằng không có nghĩa là phải trừng trị cá nhân này
hoặc cá nhân khác, thành viên của tổ chức hoặc pháp nhân có liên quan nhiều
hơn mà công bằng chính là buộc tổ chức cụ thể phạm tội phải chịu hình phạt.
Không có lý lẽ công bằng nào mà lại buộc cá nhân những người cẩp dưới vốn
chẳng có quyền hành gì và các nhà quản lý có trách nhiệm thành những người
phải hứng chịu hậu quả thay cho tổ chức phạm tội27. Cũng không có sự công
bằng nào mà về cùng một hành vi phạm tội lại có nhũng cách đối xử khác nhau,
đối với pháp nhân phạm tội cùng loại thì xử lý bằng các biện pháp trách nhiệm
dân sự hoặc trách nhiệm hành chính, còn đối với cá nhân những người lãnh đạo,
người đại diện của pháp nhân phạm tội vì lợi ích hoặc trong khuôn khổ hoạt động
của pháp nhân lại bị trừng trị bằng biện pháp TNHS nghiêm khắc hơn nhiều.
Trong những trường hợp tổ chức phạm tội thì “công lý đòi hỏi phải có hình
phạt trực tiếp đối với bản thân tổ chức đó. Và đến lưọt mình, bằng cáci thúc đẩ>
và củng cố nhận thức chung của công dân và đòi hỏi các tổ chức phái quản lý.

kiểm soát những ngi.iv cơ gây hại một cách tốt hơn, các hình phạt nảy tuộc các tc
chức nói trên phải thiết lập những hệ thống quản lý và kiểm soát ngay cơ mội
26 Xem V. Simonart, la personalité morale en droit comparé, Bruxelles, Bruylant, 1995, 256.
Xem: Kensuke Itoh, N hững thành tựu và hạn chế về mặt lý luận trong việc pháp luật hoá TNH S :ùa tồ chức tạ
Nhật Bản, Tài liệu đã dẫn, tr. 166.


cách có hiệu quả, qua đó góp phần bảo vệ môi trường và sức khoẻ của công
dân ”28•
Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt không thể tách rời mối liên hệ giữa tội
phạm và hình phạt. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đòi hỏi hình phạt áp dụng
đối với pháp nhân, tổ chức phạm tội phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội, tương xứng với các đặc điểm của tổ chức bị truy cứu
TNHS. Có như vậy, hình phạt được áp dụng mới đạt được tính hiệu quả trong
trừng trị cũng như phòng ngừa.
Quan điểm cho ràng việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân phạm tội là vi
phạm nguyên tắc cá thể hoá hình phạt, theo chúng tôi đã có sự nhầm lẫn về
nguyên tắc này. Thực tế cho thấy tất cả các bản án đều có thể gây ra những hậu
quả cho người thứ ba vô can. Bắt giam một người hoặc phạt họ với một hình phạt
tiền nghiêm khắc có thể cướp đi của gia đình họ một khoản thu nhập nhưng nó
không trái với nguyên tắc cá thể hoá hình phạt, bởi vì bản án không trực tiếp
nhằm chống lại các thành viên của gia đình người bị kết án mà là đối với người
phạm tội. Bản án kết tội đối với một pháp nhân khác với bản án có thể xảy ra của
các thành viên pháp nhân, nó không nhằm vào cá nhân các thành viên của pháp
nhân mà là chính pháp nhân - chủ thể chịu TNHS.
Tóm lại, có thể nói rằng về mặt lý luận, khoa học hình sự hiện đại đã giải
quyết tương đối cơ bản, có cơ sở khoa học và thực tiễn, phù họp với xu thế phát
triển của thời đại, vấn đề TNHS của pháp nhân. Ngày nay, việc thừa nhận TNHS
của pháp nhân là xu hướng phát triển chung trong pháp luật hình sự trên thế giới
ở mức độ pháp luật quốc tế lẫn pháp luật quốc gia. TNHS của pháp nhân đã chính

thức được khuyến nghị trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế29. TNHS của tổ

28 Xem: Kensuke Itoh, N hững thành tựu và hạn chế về m ặt lý luận trong việc pháp luật hoá TNHS của tồ chức tại
Nhật Bản, Tài liệu đã dẫn, tr. 166.
29 Nội luật hóa TNHS của pháp nhân là đối tượng khuyến cáo trong trong các văn bàn như Công ước quốc tế về
trừng trị việc tài trợ cho khủng bố của liên họp quốc; Công ước về đấu tranh chống tham nhũns năm 1997; Công
ước về bảo vệ môi trường bằng pháp luật hình sự đã được mở ra cho các nước thành viên tham gia ký từ ngày 4
tháng 11 năm 1998; Công ước liên họp quốc về chống tội phạm có tồ chức xuyên quốc gia; Công ước liên họp
quôc về chống tham nhũng; Khuyến cáo số 12 và 18 năm 1982 và 1988 của ù y ban các bộ trưởng hội đồng châu
Au về tình trạng tội phạm về kinh tế, thương mại; C ông ước cộng đồng châu Âu về chống tham nhũng bằns luật
hình sự ...

19


chức cũng đã được điêu chỉnh vê mặt lập pháp trong pháp luật hình sự của nhiêu
nước trên thế giới, không chỉ ở các nước theo truyền thống common lavv và châu
Âu lục địa mà còn được thừa nhận ỏ' cả một số nước châu Á, trong đó có các
nước Asean, các nước đông Á và đặc biệt là Trung Quốc, một nước láng giềng
của Việt Nam mà cách đây không lâu còn phản đối kịch liệt việc chấp nhận
TNHS của pháp nhân.
Tuy nhiên, ở các quốc gia, quy định TNHS của tổ chức hoặc pháp nhân
xuất phát từ các quan niệm khác nhau về lý luận và điều kiện kinh tế xã hội, nên
phạm vi, mức độ cũng như hình thức TNHS được áp dụng cũng có khác nhau.
Trong pháp luật hình sự, pháp nhân, tổ chức nào phải chịu TNHS; loại tội phạm
nào tổ chức phải chịu TNHS; nếu tổ chức hay pháp nhân phạm tội thì các loại
hình phạt nào, các biện pháp tư pháp hình sự nào đươc áp dụng... đang được quy
định rất khác nhau ở mỗi quốc gia.
1.2. Các học
về trách nhiệm

hình sự• của tố chức
• thuyết
d


Như đã phân tích trên, trong lịch sử pháp luật hình sự thế giới, một thời
gian dài, TNHS cá nhân, TNHS theo lỗi và cá thể hóa hình phạt được xác định và
ghi nhận như là những nguyên tắc của luật hình sự. Cùng với sự phát triển của
luật hình sự và tình hình tội phạm, khi mà tội phạm có tổ chức, các tổ chức phạm
tội phát triển; các tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm tham nhũng, tội khủng bố,
tội rửa tiền... xảy ra ngày càng nghiêm trọng, trong đó vai trò tổ chúc chủ yếu
thay thế cho cá nhân trong việc thực hiện tội phạm. Đặc biệt, trong mộ: sổ trường
họp nhiều khi khó giải thích tại sao lại truy cứu TNHS cá nhân... thì quan niệm
chỉ có TNHS cá nhân đã được thay đổi nhanh chóng, nhất là thời gian nửa sau thế
kỷ XX ở cả mức độ pháp luật quốc tế lẫn quốc gia.
Ở mức độ pháp luật quốc gia, số lượng các quốc gia quy định TNHS pháp
nhân hay tổ chức ngày càng tăng. Xu thế quy định TNHS của tổ chức lược coi là
tất yếu trong sự phát triển của luật hình sự thế giới. Ở các quốc gia theo hệ thống
thông luật, TNHS của tổ chức đã được quy định tương đối lâu; còn

CÍC

quốc gia

theo hệ thống luật lục địa, mặc dù muộn hơn nhưng cũng đã chắp nhận quan
20


×