Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

công tác quản lý đảng viên của các đảng bộ phường trên địa bàn thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.47 KB, 118 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


TRẦN THẾ THUẬN

CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN
CỦA CÁC ĐẢNG BỘ PHƯỜNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

HÀ NỘI -2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


TRẦN THẾ THUẬN

CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN
CỦA CÁC ĐẢNG BỘ PHƯỜNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ
NƯỚC
MÃ SỐ: 60 31 02 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM VĂN THẮNG



HÀ NỘI - 2014


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

3

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ

8

CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN CỦA CÁC
ĐẢNG BỘ PHƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
1.1.

HỒ CHÍ MINH
Đảng bộ phường và những vấn đề cơ bản công tác quản

8

lý đảng viên của các đảng bộ phường trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh.
1.2. Công tác quản lý đội ngũ đảng viên của các đảng bộ

29

phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh - Thực
trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm.

Chương 2 MỤC TIÊU, YÊU CẦU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ

51

NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG
CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN CỦA CÁC
ĐẢNG BỘ PHƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
2.1. Những yếu tố tác động và mục tiêu, yêu cầu, phương hướng

51

tăng cường công tác quản lý đảng viên của các đảng bộ
phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
2.2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường công tác quản lý

62

đảng viên của các đảng bộ phường trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

87
89
93


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác quản lý đảng viên là một nội dung của công tác xây dựng đội
ngũ đảng viên. Công tác xây dựng đội ngũ đảng viên bao gồm: Quản lý, giáo
dục, rèn luyện, sàng lọc đảng viên và phát triển đảng viên mới. Cả lý luận
thực tiễn đã khẳng định quản lý tốt đảng viên là điều kiện, tiền đề để giáo
dục, rèn luyện, đánh giá, phân công công tác, sàng lọc đảng viên
Hiện nay việc quản lý đảng viên cực kỳ phức tạp. Đảng Cộng sản Việt
Nam là đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng bao quát toàn bộ các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Đảng viên của Đảng giữ các cương vị lãnh đạo
trong bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị. Đất nước phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế. Điều này
đặt ra nhiều vấn đề mới đối với công tác quản lý đảng viên. Thực trạng hiện
nay cho thấy, quản lý đảng viên gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Điều
đáng lo ngại là việc nắm các quan hệ chính trị - xã hội của đội ngũ đảng
viên. Những năm qua, quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây
dựng đội ngũ đảng viên, các đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh đã có nhiều chủ trương, giải pháp quản lý đảng viên. Nhờ đó đã trực
tiếp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; xây dựng tổ chức
đảng trong sạch vững mạnh.
Mặc dù vậy công tác quản lý đảng viên của các đảng bộ phường trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh còn nhiều sơ hở, thiếu sót, nhất là chưa
nắm chắc các quan hệ chính trị - xã hội phức tạp của đội ngũ đảng viên;
chưa ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống
của một bộ phận trong đội ngũ đảng viên. Có nhiều nguyên nhân của tình
hình, trong đó nguyên nhân cơ bản là một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa thấy
rõ sự cần thiết, tính chất khó khăn, phức tạp của công tác quản lý đảng viên
để có các chủ trương, giải pháp quản lý đảng viên một cách có hiệu quả.
Tình hình nhiệm vụ, của các đảng bộ phường, đời sống kinh tế - xã hội ở các
phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đang phát triển nhanh chóng



4
và diễn biến ngày càng phức tạp. Sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù
địch. Tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong
một bố phận cán bộ đảng viên. Những tiêu cực và tệ nạn xã hội diễn biến
ngày càng phức tạp ở các phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ đổi mới, chính đốn Đảng, nâng cao chất lượng cán bộ đảng viên ở
cơ sở có bước phát triển mới, yêu cầu ngày càng cao.Vì vậy, nghiên cứu
công tác quản lý đảng viên của các đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay đang là vấn đề cấp bách của công tác xây dựng Đảng.
Với lý do đó, tác giả lựa chọn vấn đề “Công tác quản lý đảng viên
của các đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”
làm đề tài luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý đảng viên đã được đề cập trong các tác phẩm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quán triệt
quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, đã có nhiều tập thể, cá nhân
cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học nghiên cứu về công tác quản lý
đảng viên trong các giai đoạn cách mạng. Trực tiếp đề cập đến công tác quản
lý cán bộ, đảng viên có các công trình:
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Xây dựng
Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004.
- Viện khoa học xã hội nhân văn quân sự: Từ điển công tác đảng,
công tác chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội, 2007.
- Sổ tay công tác đảng: Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008.
- Cẩm nang nghiệp vụ công tác đảng: Nxb CTQG, Hà Nội, 2005.
- Nguyễn Phi Long (2007), Quản lý đội ngũ cán bộ chủ chốt các xã ở
tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị.
- Nguyễn Phi Long, Quản lý các quan hệ xã hội - Một nội dung trong

quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên, Tạp chí Xây dựng Đảng số 5/2005.


5
- Nguyễn Văn Doãn (2008), Quản lý đảng viên là người công giáo ở
các đảng bộ của huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị.
- Nguyễn Đình Hương, Tăng cường công tác quản lý cán bộ, Tạp chí
Xây dựng Đảng số 10/2004.
- Hồng Sơn, Sơ kết làm điểm sử dụng bộ chương trình quản lý cơ sở dữ
liệu ở Đảng bộ Hải Dương, Tạp chí Xây dựng Đảng số 5/2004.
- Lê Đức Bình, Nhân dân giám sát tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên,
Tạp chí Xây dựng Đảng số 5/2004.
- Trần Quốc Huy, Bàn về quản lý và đánh giá cán bộ, đảng viên, Tạp
chí Xây dựng Đảng số 7/2006.
- Cao Ngọc Hải, Một số biện pháp tăng cường công tác quản lý cán bộ,
Tạp chí Xây dựng Đảng số 8/2006.
- Vũ Ngọc Dũng, Việc chi bộ phân công nhiệm vụ cho đảng viên ở xã,
phường, thị trấn, Tạp chí Xây dựng Đảng số 12/2006.
- Mạch Quang Thắng, Một số vấn đề đặt ra cho việc xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa số 9/2006.
Tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới góc độ của khoa học xây dựng Đảng
các đề tài trên đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn công tác quản lý đảng
viên gắn với đặc điểm tổ chức, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị. Quán triệt
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, các tác giả đều khẳng định vai
trò đặc biệt quan trọng của quản lý đảng viên. Các công trình đã đánh giá thực
trạng công tác này; rút ra các bài học kinh nghiệm về quản lý đảng viên.
Khẳng định những yêu cầu khách quan của quản lý đảng viên. Tuy mỗi đề tài
có mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu khác nhau,
nhưng đều thống nhất cho rằng, quản lý đảng viên là một tất yếu khách quan.

Vì vậy, phải quán triệt quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, nhiệm vụ, nội dung
công tác quản lý đảng viên đã xác định trong nghị quyết, văn kiện của Đảng
vào xác định phương hướng, mục tiêu, chủ trương, giải pháp quản lý đảng
viên ở các tổ chức đảng.


6
Kết quả nghiên cứu của các đề tài đã cung cấp cơ sở khoa học cho việc xác định
các chủ trương, giải pháp quản lý đảng viên của mỗi tổ chức đảng. Cho đến nay chưa có
đề tài nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống công tác quản lý đảng viên của các đảng
bộ phường Thành phố Hồ Chí Minh với tính chất là một công trình khoa học độc lập. Vì
vậy, đề tài luận văn không trùng lặp với các công trình khoa học, luận văn, luận án đã
công bố trong những năm gần đây. Tác giả luận văn trân trọng, kế thừa kết quả của các
công trình trên để nghiên cứu vấn đề “Công tác quản lý đảng viên của các đảng bộ
phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

* Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn; đề xuất những
giải pháp tăng cường quản lý đảng viên của các đảng bộ phường trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về công tác quản lý đảng viên của các
đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đánh giá thực trạng, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm quản
lý đảng viên của các đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay.
- Xác định mục tiêu, yêu cầu, phương hướng và đề xuất những giải pháp
tăng cường quản lý đảng viên của các đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu : Công tác quản lý đảng viên của các đảng
bộ phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
* Phạm vi nghiên cứu : Nghiên cứu lý luận, thực tiễn, giải pháp quản lý
đảng viên của 259 đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ 2010
đến nay; các giải pháp có giá trị ứng dụng đến năm 2025.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư


7
tưởng Hồ Chí Minh , quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng.
* Cơ sở thực tiễn : Thực tế công tác quản lý đảng viên của các đảng bộ
phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu các báo cáo tổng kết về
công tác quản lý đảng viên của các đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh; điều tra khảo sát thực tế, trao đổi tọa đàm với cán bộ lãnh đạo, đảng
viên để rút ra những kết luận cần thiết phục vụ cho nội dung nghiên cứu đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu: Đề tài dựa trên phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của
các khoa học xã hội và nhân văn, trong đó chú trọng sử dụng các phương
pháp nghiên cứu: Lôgic-lịch sử; tổng kết thực tiễn; phân tích, tổng hợp; khảo
sát, điều tra thực tế và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý
luận và thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho cấp ủy, tổ chức đảng các cấp,
trước hết là đảng bộ phường ở Thành phố Hồ Chí Minh xác định các chủ
trương, giải pháp tăng cường công tác quản lý đảng viên. Đề tài có thể sử
dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Xây
dựng Đảng ở các trường chính trị tỉnh, thành phố, huyện, quận
7. Kết cấu của đề tài. Đề tài gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết

luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ ĐẢNG VIÊN CỦA CÁC ĐẢNG BỘ PHƯỜNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1. Đảng bộ phường và những vấn đề cơ bản về
công tác quản lý đảng viên của các đảng bộ phường
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
1.1.1.Đảng bộ phường và đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ phường
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
* Khái quát tình hình, đặc điểm Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là một trong 5 Thành phố trực thuộc
Trung ương của Nước ta, về mặt hành chính, Thành phố được chia thành 19
quận và 5 huyện, toàn Thành phố có 322 đơn vị hành chính cấp xã, phường,
bao gồm: 259 phường, 58 xã và 5 thị trấn… với tổng diện tích: 2.095,01
km2, theo kết quả điều tra dân số ngày 01/4/2009, dân số thành phố là
7.162.864 người; mật độ 3.419 người/ km 2, lượng dân tập trung chủ yếu
trong nội thành, gồm 5.881.511 người, mật độ lên đến 11.906 người/ km 2.
Sự phân bố dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh không đồng đều, ngay
cả các quận nội thành. Trong khi các quận 3, 4, 5, 11 có mật độ lên đến trên
40.000 người/ km 2 thì các Quận 2, 9, 12 chỉ khoảng 2000 - 6000 người/km 2,
các huyện ngoại thành rất thấp.
Mặc dù Thành phố Hồ Chí Minh có thu nhập bình quân đầu người rất
cao so với mức bình quân của cả nước (năm 2013 bình quân 4.500 USD),
nhưng khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn do những tác động của nền
kinh tế thị trường, những người hoạt động trong lĩnh vực thương mại cao
hơn nhiều so với ngành sản xuất, sự khác biệt xã hội còn thể hiện rõ giữa các

quận nội thành so với các huyện ngoại thành


9
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng
là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Nước ta.
* Đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Đảng bộ phường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là tổ chức cơ sở
đảng ở đơn vị hành chính trong hệ thống tổ chức 4 cấp của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hệ thống tổ chức hành chính các cấp của
Nhà nước ta có: cấp trung ương, cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
và tương đương, cấp quận, huyện và tương đương; cấp xã, phường, thị trấn.
Căn cứ Quy định số 94-QĐ/TW ngày 03 tháng 3 năm 2004 của Ban
Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, thị trấn,
các đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có chức năng:
Đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là hạt nhân
chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo thực hiện chức năng quản lý hành chính
Nhà nước và quản lý đô thị trên địa bàn; xây dựng hệ thống chính trị
phường vững mạnh, xây dựng phường giàu đẹp văn minh; không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm
tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
* Nhiệm vụ của đảng bộ phường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Một là, lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc
phòng. Đảng bộ phường lãnh đạo chính quyền phường thực hiện các chủ
trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo nghị quyết đại hội đảng bộ và
cấp trên; tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh tế và
hộ gia đình phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ đúng chính sách, pháp luật
Nhà nước, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; động viên nhân dân làm

tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước; xây dựng phường giàu đẹp văn minh.
Lãnh đạo chính quyền thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ quản lý
hành chính nhà nước, quản lý đô thị trên địa bàn; thực hiện nhiệm vụ xây
dựng cơ sở hạ tầng theo quy hoạch; chăm lo phát triển sự nghiệp văn hóa,


10
giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, xóa đói giảm nghèo.
Lãnh đạo xây dựng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện
phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát mọi hoạt
động của chính quyền theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
Nhà nước, mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; kịp thời
giải quyết những vướng mắc nảy sinh trong cộng đồng dân cư ở phường theo
đúng pháp luật, không để tích tụ mâu thuẫn trở thành điểm nóng, không để
xảy ra tình trạng khiếu kiện tập thể, vượt cấp hoặc lợi dụng dân chủ để gây
mất ổn định chính trị.
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và chính sách hậu
phương quân đội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đề cao
tinh thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản của Nhà nước,
của tập thể, tính mạng và tài sản của nhân dân; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ
nạn xã hội, nhất là tệ ma túy, mại dâm.
Hai là, lãnh đạo công tác tư tưởng. Thường xuyên giáo dục, bồi
dưỡng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phát huy truyền
thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong các tầng lớp nhân dân, nhất là
trong thanh, thiếu niên; xây dựng tình đoàn kết thương yêu, gắn bó, giúp đỡ
lẫn nhau; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở tổ dân phố, khu dân cư
và trong từng gia đình; chú trọng tuyên truyền và nhân rộng người tốt, việc
tốt, các nhân tố tích cực trên mọi lĩnh vực.
Tuyên truyền, vận động làm cho nhân dân hiểu và chấp hành đúng
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước và các

nhiệm vụ ở địa phương, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng
lớp nhân dân để báo cáo lên cấp trên.
Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh chống các quan
điểm sai trái, những hành vi nói, viết và làm trái với đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật Nhà nước; đấu tranh ngăn chặn bệnh thực dụng, cục bộ,
bè phái, gia trưởng, bảo thủ và các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan, phòng


11
chống sự suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Ba là, lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ. Lãnh đạo xây dựng chính
quyền, các tổ chức đảng trong hệ thống chính trị phường, các đơn vị hành
chính, sự nghiệp, kinh tế ở phường vững mạnh; xây dựng và thực hiện quy
hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tích cực tạo nguồn cán bộ tại
chỗ, từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ công chức phường.
Đảng ủy phường xây dựng quy chế về công tác tổ chức, cán bộ; nhận
xét, đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, đãi ngộ đối với
cán bộ thuộc quyền; quản lý và kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với
cán bộ ở cơ sở theo phân cấp; giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, có tín nhiệm
trong tổ chức đảng và nhân dân vào các chức danh chủ chốt của hội đồng
nhân dân, ủy ban nhân dân phường, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân theo luật định và điều lệ của mỗi tổ chức. Đảng ủy phường đề xuất ý
kiến trong việc lựa chọn, giới thiệu cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo của
Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân ở cấp trên và cán bộ chủ chốt do cấp
trên quản lý.
Bốn là, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đảng
bộ phường lãnh đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
ở phường vững mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định
và điều lệ của mỗi tổ chức. Thực hiện tốt các chính sách về dân tộc, tôn
giáo của Đảng, Nhà nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy

quyền làm chủ của nhân dân, thi đua thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ
được giao.
Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tham gia xây
dựng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà
nước và các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của phường, trước hết là
những chủ trương, chính sách về xây dựng và quản lý đô thị, giải quyết việc
làm và các chính sách xã hội khác.
Năm là, Xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh. Đảng bộ


12
phường đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng đảng bộ và chi
bộ trong sạch vững mạnh, gắn với xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng
viên, nhất là việc phát hiện và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác; xây dựng và nâng cao chất lượng
lãnh đạo của các chi bộ, tổ đảng ở tổ dân phố, khu dân cư. Thực hiện đúng
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ,
chế độ tự phê bình và phê bình; thực hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng
sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục
và tính chiến đấu.
Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên, nêu cao vai trò tiền phong
gương mẫu, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, công dân mẫu mực;
nghiêm chỉnh chấp hành, tuyên truyền và vận động nhân dân, thuyết phục
nhân dân chấp hành nghị quyết của tổ chức đảng, quyết định của chính
quyền và chương trình hành động của các đoàn thể nhân dân. Đảng ủy
phường xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện để đảng viên thực hiện nhiệm vụ
học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mọi mặt.
Đảng ủy phường xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý, phân công
nhiệm vụ và tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Làm tốt công tác động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng viên, xử lý nghiêm,
kịp thời những vấn đề cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật
Nhà nước.
Làm tốt công tác tạo nguồn phát triển đảng viên, bảo đảm về điều kiện
và quy trình, chú trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên và những người
lao động giỏi có uy tín trong quần chúng.
Xây dựng cấp ủy và bí thư cấp ủy bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất
chính trị, đạo đức, năng lực, thực sự là trung tâm đoàn kết, hoạt động có hiệu
quả được đảng viên và nhân dân tín nhiệm. Định kỳ hàng tháng, năm cấp ủy
tổ chức để quần chúng tham gia góp ý xây dựng Đảng. Bí thư cấp ủy cơ sở,
chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân tự phê bình trước đại


13
diện của nhân dân và chịu trách nhiệm khi để xảy ra quan liêu, tham nhũng,
lãng phí ở địa phương.
Đảng ủy phường thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên
chấp hành Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật Nhà nước và quy
định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không
được làm. Phối hợp với các tổ chức cơ sở đảng trên địa bàn và các tổ chức
cơ sở đảng có đảng viên, cán bộ công chức đang cư trú trên địa bàn thực
hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật Nhà nước và các nhiệm vụ
của địa phương.
Tóm lại, đảng bộ phường là tổ chức cơ sở đảng, là hạt nhân chính trị ở
cơ sở: đây là nơi quán triệt, chấp hành chủ trương, đường lối, nhiệm vụ
chính trị của cấp trên; cụ thể hóa, đề ra nhiệm vụ của cấp mình và trực tiếp
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ đó, biến chủ trương, đường
lối, nhiệm vụ của Đảng thành hiện thực trong cuộc sống. Đảng bộ phường là
nơi quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, lắng nghe ý
kiến, tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân; đây là nơi tổng kết thực

tiễn, bổ sung vào chủ trương, đường lối của Đảng ngày càng hoàn thiện và
đúng đắn, có lý có tình, hợp với ý Đảng lòng dân, là cơ sở vững chắc thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng của Đảng.
* Một số đặc điểm các đảng bộ phường ở thành phố Hồ Chí Minh
Hiện nay Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh có 2.762 tổ chức cơ sở đảng,
trong đó khối phường là 259 phường; quận có số đảng bộ phường cao nhất là
Quận Bình Thạnh với 20 đảng bộ phường, quận có số đảng bộ phường thấp
nhất là Quận Bình Tân với 9 đảng bộ phường, các quận còn lại bình quân có
15, 16 đảng bộ phường như Quận 4, 5, 8, 10, Tân Bình, Gò Vấp…
Tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh so với năm
2009 đến nay tăng 75 cơ sở, trong đó khối phường tăng 5 cơ sở.
Các đảng bộ phường ở Thành phố Hồ Chí Minh có những điểm khác
nhau về cơ cấu tổ chức, địa giới hành chính, mật độ dân cư và đặc điểm tình
hình ở từng khu vực: tùy số lượng đảng viên của đảng bộ phường, số lượng


14
cấp ủy có khác nhau dao động từ 9 đến 15 cấp ủy viên và từ 3 đến 5 cấp ủy
là ban thường vụ đảng ủy phường; một số địa bàn phường tập trung đồng
bào tôn giáo, dân tộc...; do đặc điểm có quận hình thành từ sau giải phóng
chủ yếu các quận nằm trung tâm Thành phố như Quận 1, 3, 4, 5, Bình
Thạnh, Tân Bình... Có quận thành lập sau như: Quận 9, 2, Bình Tân, Tân
Phú... Nên các phường cũng có những đặc điểm khác nhau; phần lớn đều
đang trong quá trình đô thị hóa, chỉnh trang đô thị nên có phường là đô thị
hoàn chỉnh, có phường bán đô thị, có phường đô thị một phần; có phường
tập trung nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất... Chính vì vậy ít nhiều tác
động đến đảng viên và công tác quản lý điều hành của cấp ủy về phát triển
kinh tế,văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, công tác xây dựng Đảng và
vận động nhân dân trên địa bàn từng phường.
* Đội ngũ đảng viên của các đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố

Hồ Chí Minh
Đội ngũ đảng viên của các đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh là những đảng viên đang công tác trong hệ thống chính trị
phường, những đảng viên nghỉ hưu. Ngoài ra còn có những đảng viên công
tác ở các cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành của thành phố và Trung ương
có gia đình cư trú trên địa bàn phường.
Năm 2009 Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh có tổng số là 127.574
đảng viên đến năm 2013 tăng lên là 156.377 đảng viên trong đó khối quận là
88.992 đảng viên và khối phường là 65.765 đảng viên chiếm tỷ lệ 73,89%,
độ tuổi bình quân hiện nay là 48,42 tuổi; đảng viên khối phường bình quân
chiếm tỷ lệ từ 65% đến 75% tổng số đảng viên của quận, số lượng đảng viên
của các đảng bộ phường thuộc quận cũng giống như các đảng bộ quận thuộc
Thành phố Hồ Chí Minh, phân bổ không đồng đều có phường quá đông
đảng viên, song cũng có phường quá ít đảng viên. Đảng viên khối phường
phần đông là đảng viên hưu trí, đảng viên cao tuổi đảng chiếm tỷ lệ từ 50%
đến 60% tổng số đảng viên phường [Phụ lục 2].
Đội ngũ đảng viên của các đảng bộ phường trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh sống và hoạt động trong hoàn cảnh có nhiều đặc điểm mới; trước


15
thời cơ và thách thức quyết liệt, đội ngũ đảng viên vẫn từng bước trưởng
thành. Tuyệt đại đa số đảng viên vững vàng trước những biến động trong
nước và thế giới, kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội do
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, hăng hái đi đầu trong công cuộc
đổi mới, hoàn thành các nhiệm vụ được giao, giữ vững phẩm chất, đạo đức
cách mạng trong sáng, lối sống trong sạch, lành mạnh. Nhiều đảng viên tại
các địa bàn phức tạp về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, điều kiện khó
khăn đã năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước
dân, trước Đảng, mạnh dạn tìm tòi, thử nghiệm nhiều cách làm mới, đạt hiệu

quả cao, được nhân dân tin yêu, ủng hộ, góp phần nâng cao uy tín, vai trò,
lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Đại bộ phận đảng viên của các đảng
bộ phường có ý thức tổ chức kỷ luật cao, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối,
Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước, những quy định của địa phương.
Tuy nhiên, vẫn còn không ít đảng viên yếu kém. Tình trạng quan liêu, cục
bộ địa phương, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, kém về trình
độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, tụt hậu về trí tuệ, năng lực tư duy, năng
lực tổ chức và hoạt động thực tiễn trước yêu cầu đổi mới, phát triển luôn đòi
hỏi sự năng động của thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là địa bàn trọng
điểm tập trung chống phá bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt
trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động.
Do lịch sử để lại, với vị trí trung tâm - thủ phủ của chế độ Mỹ - ngụy,
một bộ phận đảng viên nói chung và đảng viên của các phường trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng có mối quan hệ chính trị - xã hội khá phức
tạp. Mối quan hệ này đan xen trong từng gia đình, từng địa phương.
Một đặc điểm đáng quan ngại là tuổi đời bình quân của đội ngũ đảng viên
của các đảng bộ phường khá cao [Bảng 1.3]. Số đông các đồng chí là cán bộ
hưu trí về sinh hoạt chi bộ trên địa bàn phường, tuyệt đại đa số các đồng chí
sống dựa vào lương hưu và tiền tiết kiệm, cơ bản trang trải được cuộc sống


16
nhưng khá chật vật, khó khăn do hoàn cảnh, tuổi cao, sức khỏe kém đã làm hạn
chế rất lớn đến sự tham gia đóng góp xây dựng chi bộ, đảng bộ phường.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về công tác quản lý đảng viên của các
đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
* Quan niệm công tác quản lý đội ngũ đảng viên của các đảng bộ
phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Quản lý là một thuộc tính khách quan trong hoạt động của con người và
tổ chức xã hội. Trong xã hội, quản lý xã hội nói chung là quá trình tổ chức,

điều hành các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu, yêu cầu nhất định, dựa trên
những quy luật khách quan. Mỗi một lĩnh vực hoạt động có đối tượng, chức
năng xã hội khác nhau mà hoạt động quản lý có mục đích, nhiệm vụ, nội
dung, phương pháp khác nhau. Quản lý nhà nước là sự tác động, tổ chức, điều
chỉnh mang tính quyền lực nhà nước, thông qua hoạt động của bộ máy nhà
nước, bằng phương tiện, công cụ, cách thức tác động của nhà nước đối với
các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội theo đường lối, quan điểm của giai cấp cầm quyền.
Đặc trưng của quản lý nhà nước là tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế xã hội theo pháp luật.
Trong lĩnh vực kinh tế, quản lý được hiểu là quá trình điều khiển các
hoạt động các bộ phận của một tổ chức kinh tế, yếu tố của sản xuất làm cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ chức kinh tế ấy được vận hành một
cách thông suốt và đạt được mục đích xác định. Trong quản lý kinh tế, người
ta còn có các khái niệm riêng cho từng yếu tố, bộ phận của sản xuất kinh
doanh như quản lý nguồn nhân lực, quản lý tài chính, quản lý công
nghệ.......Theo từ điển tiếng Việt khái niệm quản lý có các nghĩa: “1. Trông
coi, giữ gìn theo những yêu cầu nhất định; 2. Tổ chức và điều khiển các hoạt
động theo những yêu cầu nhất định”.
Những quan niệm trên về quản lý tuy có cách diễn đạt cụ thể khác
nhau, nhưng đều có điểm chung là: Quản lý là sự tác động của chủ thể quản
lý đến khách thể quản lý. Chủ thể quản lý là tổ chức, cá nhân được ủy quyền,


17
trao quyền để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý của tổ chức nào đó.
Hoạt động quản lý là hoạt động có tổ chức và điều khiển, có tính chủ
động và sáng tạo. Điều này có nghĩa là, hoạt động quản lý bao giờ cũng có
nhiệm vụ, yêu cầu, nội dung, phương thức và phải tuân theo những nguyên tắc
xác định. Là quá trình tổ chức, điều hành của chủ thể đối với một quá trình xã
hội và hành vi hoạt động của con người, vì vậy phải xác định rõ mục đích,

nhiệm vụ, phương thức quản lý. Mục đích quy định tính chất và phương thức
quản lý. Mục đích, nhiệm vụ quản lý càng xác định rõ ràng, chính xác, đầy đủ
và hiện thực bao nhiêu thì sẽ tạo tiền đề cho xác định phương thức quản lý
chính xác bấy nhiêu. Phương thức quản lý là cách thức, biện pháp tác động vào
đối tượng quản lý để thực hiện mục mục đích, nhiệm vụ quản lý đã xác định.
Khi bàn về phương thức quản lý người ta thường đề cập đến xây dựng các kế
hoạch, các chế độ, quy chế, quy định, công tác giám sát, kiểm tra, kiểm soát, sử
dụng cơ sở vật chất, các phương tiện kỹ thuật.....
Hoạt động quản lý luôn chịu sự chi phối bởi tính chất, đặc điểm của
ngành, lĩnh vực hoạt động của tổ chức, cá nhân. Chẳng hạn, do chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước mà phương thức quản lý hành chính nhà nước sẽ
khác với phương thức quản lý của các tổ chức chính trị - xã hội khác. Nhà
nước sử dụng pháp luật và các công cụ cưỡng chế của Nhà nước để tổ chức
và điều chỉnh các quá trình xã hội và các hành vi của công dân. Các tổ chức
chính trị - xã hội như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông
dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh... hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật Nhà nước, các tổ chức này dựa vào điều lệ, các nghị
quyết, quy chế, chương trình, kế hoạch hoạt động của mình để tổ chức và
điều chỉnh các mối quan hệ nội bộ và hành vi các thành viên, hội viên.
Vì vậy, khi nghiên cứu khái niệm quản lý một mặt phải nắm vững
những vấn đề có tính quy luật chung của hoạt động quản lý, đồng thời phải
nắm vững tính đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động, từng tổ chức để xác định


18
nội dung, hình thức, phương pháp quản lý của từng ngành, từng lĩnh vực hoạt
động cho phù hợp.
Như đã phân tích khái niệm quản lý tồn tại với tư cách là một hệ
thống có mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện hoạt động và chúng
được thực hiện bởi các chủ thể nhất định nhằm thực hiện mục đích, nội

dung, nhiệm vụ quản lý đã xác định.
Từ cách tiếp cận đó, có thể quan niệm: Quản lý đội ngũ đảng viên của
các đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là quá trình cấp
ủy, tổ chức đảng, từng đảng viên thực hiện các nội dung, hình thức, biện
pháp của công tác quản lý đảng viên theo đúng quy định của Điều lệ Đảng
và quy định, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương làm cơ sở cho việc
giáo dục, rèn luyện, phân công công tác, góp phần nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên.
Thực chất của công tác quản lý đảng viên của các đảng bộ phường trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức điều
chỉnh của cấp ủy, chi bộ thông qua thực hiện các nguyên tắc, các biện pháp, các
chế độ quy định của Đảng để am hiểu, nắm chắc mọi mặt của từng đảng viên,
giúp họ phấn đấu rèn luyện đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn đảng viên.
Mục đích quản lý đảng viên ở đảng bộ phường trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh là để cấp ủy, chi bộ nắm chắc tình hình mọi mặt của đảng viên,
làm cơ sở để giáo dục, rèn luyện đảng viên về phẩm chất chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống, năng lực theo tiêu chuẩn đảng viên mà Điều lệ Đảng quy
định, đáp ứng nhiệm vụ lãnh đạo của các đảng bộ phường.
Chủ thể quản lý đảng viên của đảng bộ phường trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh là cấp ủy, chi bộ, cán bộ quản lý, trong đó cấp ủy, chi bộ
dưới sự lãnh đạo của đảng ủy phường.
Đối tượng quản lý đảng viên của đảng bộ phường trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh là các đảng viên bao gồm các đảng viên có chức vụ, là cán
bộ, công chức và đảng viên không giữ chức vụ, đảng viên đang công tác cũng


19
như đảng viên nghỉ hưu đang sinh hoạt và chịu sự quản lý của đảng bộ
phường. Mặt khác đảng bộ phường còn phải quản lý đội ngũ đảng viên công
tác ở khác nhưng đang cư trú ở phường. Đội ngũ đảng viên phải phục tùng sự

lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra của cấp ủy, chi bộ. Báo cáo trung thực, thật thà với
cấp ủy chi bộ tình hình mọi mặt của bản thân và gia đình.Từng đảng viên và
đội ngũ đảng viên của đảng bộ phường là đối tượng của công tác quản lý đảng
viên. Đối tượng cụ thể trực tiếp chịu tác động của hoạt động quản lý đó là:
phẩm chất, năng lực, các mối quan hệ xã hội, lịch sử chính trị của từng đảng
viên; cơ cấu, chất lượng đội ngũ đảng viên. Tuy nhiên, giữa chủ thể quản lý
và đối tượng quản lý ở từng mối quan hệ cụ thể có thể có sự chuyển hóa.
Quản lý đảng viên là hoạt động quản lý đặc biệt có đối tượng là con
người và chịu tác động của nhiều yếu tố nên mỗi khi điều kiện, hoàn cảnh
cũng như đối tượng quản lý thay đổi thì nội dung, hình thức, biện pháp quản
lý cũng phải thay đổi cho phù hợp.
Công tác quản lý đảng viên cần phải được các tổ chức đảng quán triệt
và chấp hành nghiêm chỉnh theo những quy định của Trung ương. Các tổ
chức đảng và chi bộ cần tăng cường công tác quản lý đảng viên, đồng thời,
mỗi đảng viên phải tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ, tự giác
chấp hành kỷ luật Đảng, không một đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý
của tổ chức đảng.
Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi mà đất nước ta đang đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế và khu vực,
các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên trở nên đa dạng, phong phú. Hơn
nữa, các thế lực thù địch đang từng ngày, từng giờ chống phá Đảng ta với
nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng thì
công tác quản lý đảng viên càng có vai trò quan trọng. Có làm tốt công tác
quản lý đảng viên mới đánh giá đúng thực trạng chất lượng đảng viên, chất
lượng đội ngũ đảng viên, phân loại đảng viên chính xác và có những giải
pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, ngăn ngừa có


20

hiệu quả kẻ địch và những phần tử thoái hóa thâm nhập vào Đảng, bảo vệ
nội bộ Đảng trong sạch, đáng ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng.
* Nội dung quản lý đảng viên của đảng bộ phường trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh
- Quản lý về chính trị - tư tưởng. Là sự quản lý về quan điểm, lập
trường chính trị của tổ chức đối với cán bộ, đảng viên, biểu hiện ở quan điểm,
tình cảm, niềm tin, thái độ đối với với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ
của đảng bộ, của địa phương, cơ sở. Quản lý về chính trị - tư tưởng bảo đảm
cho đảng viên có lập trường tư tưởng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối
trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, tạo nên sự thống nhất ý chí,
hành động của toàn Đảng. Mỗi đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết của
Đảng, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu trong lao động, công tác. Đồng thời
qua sự quản lý này phát hiện những tư tưởng lệch lạc, hoặc những nhận thức
mơ hồ để có biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện cho đảng viên khắc phục những
nhận thức sai trái, không để cho tư tưởng, nhận thức sai trái, mơ hồ lây lan làm
ảnh hưởng đến nhận thức chung của chi bộ, đảng bộ. Trong điều kiện hiện nay,
khi sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều vấn
đề mới nảy sinh càng cần có sự thống nhất về tư tưởng chính trị. Các thế lực
thù địch đã và đang tăng cường phá hoại về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng
viên với những âm mưu thủ đoạn cực kỳ thâm độc xảo quyệt, đòi hỏi càng cần
phải quản lý chặt chẽ đảng viên về chính trị, tư tưởng. Thực hiện nghiêm túc
đảng viên nói và theo nghị quyết của Đảng
- Quản lý về trình độ, năng lực công tác. Mỗi đảng viên đều phải
thực hiện nhiệm vụ đảng viên theo quy định của Điều Lệ Đảng và trọng
trách được Đảng giao. Vì vậy tổ chức đảng, trước hết là cấp ủy phải nắm
vững trình độ, năng lực của đảng viên, thể hiện ở ý thức trách nhiệm, kết
quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Tổ chức đảng phải quản lý chặt chẽ,
nắm vững những mặt mạnh, ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế của đảng viên
để giúp đỡ đảng viên không ngừng nâng cao trình độ và năng lực hoạt động

thực tiễn để hoàn thành nhiệm vụ được giao.


21
- Quản lý hoạt động chính trị - xã hội. Các mối quan hệ xã hội của
đảng viên thể hiện ở việc tham gia vào các hoạt động, các phong trào thi đua;
quan hệ đồng chí đồng đội, quan hệ cấp trên cấp dưới, quan hệ với địa
phương nơi gia đình cư trú, quan hệ gia đình... Việc quản lý này giúp cho tổ
chức đảng đánh giá đúng tư cách đảng viên, ngăn ngừa, đề phòng và ngăn
chặn những tiêu cực, những tệ nạn xã hội đang hàng ngày, hàng giờ tác động
vào mỗi người hòng làm tha hóa, biến chất cán bộ, đảng viên.
- Quản lý đảng viên qua hồ sơ đảng viên. Hồ sơ đảng viên sẽ giúp cấp
ủy, chi bộ nắm được lai lịch chính trị, các quan hệ xã hội, hoàn cảnh gia đình,
quá trình công tác của mỗi đảng viên, làm cơ sở cho đánh giá và bồi dưỡng
giúp đỡ đảng viên trong học tập công tác và rèn luyện. Quản lý hồ sơ đảng
viên bao gồm: Hồ sơ kết nạp đảng; giấy chuyển sinh hoạt đảng; bổ sung hồ sở
đảng viên theo định kỳ; hồ sơ đảng viên từ nơi khác chuyển đến; sổ danh sách
đảng viên; phiếu đảng viên; phiếu bổ sung hồ sơ đảng viên.
Hồ sơ đảng viên phải được sắp xếp theo yêu cầu dễ tìm, dễ thấy, dễ bảo
quản. Định kỳ đối chiếu danh sách đảng viên với hồ sơ đảng viên; kịp thời
phát hiện những hư hỏng trong hồ sơ đảng viên để xử lý ngay. Nơi lưu giữ hồ
sơ đảng viên phải có phương tiện chống mối mọt, ẩm ướt, phòng hỏa, lũ lụt,
thực hiện đúng chế độ phòng gian, bảo mật. Cán bộ, đảng viên muốn nghiên
cứu hồ sơ đảng viên phải được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền và thực hiện
đúng quy định hướng dẫn. Trong quá trình nghiên cứu tuyệt đối không được
tẩy xóa, sửa chữa hoặc ghi thêm, đưa thêm hoặc rút bớt tài liệu trong hồ sơ.
Khi đảng viên xem hồ sơ của mình nếu thấy có vấn đề gì chưa đồng tình thì
phải báo cáo cấp ủy quản lý hồ sơ xem xét, giải quyết.
Quản lý đội ngũ đảng viên bao gồm quản lý về số lượng và chất lượng
đảng viên; các vấn đề về cơ cấu, giới tính, dân tộc, tôn giáo, tuổi đời, tuổi

đảng. Quản lý về chất lượng là quản lý về trình độ, năng lực, khả năng và
mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng đảng viên và cả đội ngũ đối với việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng.
* Hình thức, biện pháp quản lý đảng viên


22
Kết hợp giữa quản lý của chi bộ với đảng viên tự quản lý; kết hợp
quản lý đảng viên với quản lý cán bộ; quản lý thông qua kiểm tra, phân tích
đánh giá chất lượng đảng viên; quản lý bằng thực hiện các quy định chế độ
về sinh hoạt và thủ tục hành chính đảng ở chi bộ; phát huy vai trò trách
nhiệm của các tổ chức, các lực lượng để quản lý đảng viên; dựa vào cấp ủy,
chính quyền nơi gia đình đảng viên cư trú. Mỗi hình thức, biện pháp có vị
trí, vai trò tác dụng và cách tiến hành khác nhau nhưng đều nhằm mục tiêu
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
- Quản lý thông qua hoạt động tự phê bình và phê bình trong
sinh hoạt đảng. Tự phê bình và phê bình trong Đảng là hoạt động đấu
tranh giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ Đảng (gồm đảng viên
và tổ chức đảng), giữa những mặt tốt, tích cực với những mặt, những
khuynh hướng, những yếu tố tiêu cực lạc hậu, nhằm khuyến khích phát
huy những mặt tốt, mặt tích cực, loại bỏ, hạn chế, khắc phục mặt tiêu
cực lạc hậu, làm cho đảng viên và tổ chức đảng không ngừng tiến bộ.
Tự phê bình và phê bình nhằm quản lý, giáo dục rèn luyện đảng
viên, làm cho bản thân và đồng chí của mình không ngừng tiến bộ, phê
bình không phải để nói xấu, đả kích, hạ uy tín của đồng chí mình.
Thông qua tự phê bình và phê bình làm cho nội bộ tổ chức đảng mạnh
hơn, đoàn kết thống nhất được củng cố, chống chia rẽ bè phái.
- Quản lý thông qua kiểm tra, giám sát. Công tác kiểm tra, giám
sát là hoạt động thường xuyên của toàn Đảng, được tiến hành đối với
tổ chức đảng và đảng viên nhằm theo dõi, xem xét tình hình chấp hành

Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, chính sách,
pháp luật, thực hiện nhiệm vụ quyền hạn được phân công.
Cấp ủy, chi bộ tiến hành kiểm tra, giám sát đảng viên trong việc
chấp hành Điều lệ Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nghị quyết,
chỉ thị của cấp trên và của cấp mình; kiểm tra, giám sát các hoạt động
của đảng viên, việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống và việc giữ mối
quan hệ với tổ chức đảng nơi cư trú. Qua kiểm tra, giám sát cấp ủy, chi
bộ sẽ có đầy đủ thông tin về đảng viên và đội ngũ đảng viên để kịp thời
chấn chỉnh, uốn nắn những hạn chế lệch lạc.


23
- Phối hợp với chi bộ nơi cư trú trong công tác quản lý đảng viên.
Quản lý đảng viên là quản lý toàn diện, trong tình hình hiện nay, quản
lý đạo đức, lối sống được xem là nội dung quan trọng; muốn quản lý tốt
nội dung này tổ chức đảng có đảng viên đang công tác cần kết hợp
chặt chẽ với chi bộ nơi đảng viên đang cư trú theo Quy định số 76QĐ/TW ngày 15 tháng 6 năm 2000 của Bộ Chính trị “Về việc đảng viên
đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên
giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa
vụ công dân nơi cư trú” để kịp thời ngăn ngừa, chấn chỉnh những vi
phạm có thể xảy ra.
- Quản lý đảng viên thông qua phong trào cách mạng của quần
chúng ở địa phương. Đảng viên là người tuyên truyền đưa đường lối
chủ trương, chính sách của Đảng vào quần chúng nhân dân, trực tiếp
tổ chức, giáo dục và lãnh đạo quần chúng thực hiện. Đảng viên là
người duy trì và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng
nhân dân. Mặt khác, phong trào cách mạng của quần chúng là môi
trường tốt nhất để quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, sàng lọc đội
ngũ đảng viên. Chính phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở là
môi trường lớn để đội ngũ đảng viên thể hiện phẩm chất và năng lực của

mình, đồng thời, phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân giúp
đảng viên tự hoàn chỉnh mình và giúp cấp ủy, chi bộ làm tốt công tác quản
lý đảng viên.
- Phát huy vai trò tự quản lý của từng đảng viên. Chất lượng quản
lý đảng viên là quá trình giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tổ chức
đảng với trách nhiệm của từng đảng viên. Đó là hai mặt của một quá
trình, trong đó phát huy tính tích cực, tự giác tự quản lý của từng đảng
viên bao giờ cũng có ý nghĩa quyết định trực tiếp. Sự hình thành, phát
triển về phẩm chất và năng lực, đạo đức, lối sống của đảng viên nói
chung là một quá trình phấn đấu lâu dài bền bỉ, thông qua nhiều hình
thức đào tạo, bồi dưỡng ở nhà trường, sự tự giác rèn luyện của đảng
viên trong hoạt động thực tiễn.

* Vai trò của công tác quản lý đảng viên. Quản lý đảng viên là khâu
quan trọng của công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, xây dựng cấp ủy, chi
bộ trong sạch vững mạnh, làm cơ sở cho việc giáo dục bồi dưỡng rèn luyện


24
đảng viên về phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, phát triển hoàn thiện
năng lực đáp ứng tiêu chuẩn đảng viên.
Chi bộ là trường học giáo dục, rèn luyện đảng viên, nơi kết nạp đảng
viên và thi hành kỷ luật đối với đảng viên. Do đó đội ngũ đảng viên được
quản lý tốt sẽ là điều kiện quan trọng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của chi bộ. Chỉ có quản lý tốt đội ngũ đảng viên, luôn phát huy vai
trò tiên phong gương mẫu của họ thì mới bảo đảm cho cấp ủy, chi bộ lãnh
đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị.
Không thể có chi bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn
diện, nếu công tác quản lý đội ngũ đảng viên ở đó bị buông lỏng, có nhiều
đảng viên yếu kém. Quản lý đảng viên bảo đảm cho cấp ủy, tổ chức đảng am

hiểu đầy đủ, nắm chắc mọi mặt của từng đảng viên và cả đội ngũ, trên cơ sở
đó đề ra chủ trương, kế hoạch, biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục rèn
luyện đảng viên theo tiêu chuẩn đảng viên. Vì vậy quản lý đảng viên là điều
kiện nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến xây dựng chi bộ trong sạch vững
mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Quản lý đảng viên sẽ giúp cho mỗi đảng viên nhận rõ những điểm mạnh
và điểm yếu của mình, trên cơ sở đó phát huy tính tích cực chủ động tự giác
trong sinh hoạt, rèn luyện để không ngừng phát triển về phẩm chất năng lực của
người đảng viên. Quản lý đảng viên sẽ trực tiếp góp phần nâng cao nhận thức,
xây dựng động cơ, thái độ phấn đấu đúng đắn; nâng cao ý thức tu dưỡng phẩm
chất đạo đức cách mạng và năng lực; có khả năng tự đánh giá, tự xem xét, tự
phát triển hoàn thiện bản thân theo tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản.
* Đặc điểm quản lý đảng viên của các đảng bộ phường trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh
Một là, Quản lý đảng viên của các đảng bộ phường trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh dựa trên những quy định chặt chẽ của Điều lệ
Đảng, gắn chặt với quản lý xã hội, quản lý nhà nước ở cơ sở. Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam là bộ luật của Đảng quy định tôn chỉ mục đích, hệ tư
tưởng, các nguyên tắc về tổ chức, sinh hoạt, bộ máy, quy định về tiêu chuẩn,


×