Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 18021820)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.32 KB, 30 trang )

Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Triều nhà Nguyễn là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến của Việt
Nam, mặc dù để mất nước vào tay thực dân Pháp, nhưng vương triều nhà Nguyễn
cũng đã có đóng góp nhiều cho sự phát triển của dân tộc ta.
Năm Nhâm Tuất 1802, Nguyễn Phúc Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, lên ngôi
Hoàng đế, tự đặt niên hiệu là Gia Long, lập ra một triều đại mới: Triều đại nhà
Nguyễn trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các vua nhà Nguyễn, từ Gia Long đến Tự
Đức, kế tiếp nhau xây dựng và củng cố nền thống trị, bảo vệ chế độ phong kiến trong
bối cảnh khủng hoảng suy vong.
Tuy nhiên, trong hơn nửa đầu thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam dưới triều nhà
Nguyễn, hầu như không phát triển lên được theo chiều hướng tiến bộ của thời đại.
Mâu thuẫn của xã hội sâu sắc làm bùng lên hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn của
nông dân, của các dân tộc ít người, và cuối cùng nước Việt Nam trở thành đối tượng
của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Về tình hình chính trị: Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đóng đô ở Phú Xuân
(Huế), giữ nguyên các đơn vị hành chính cũ của hai miền, đặt quan chức giữ trấn.
Năm Giáp Tý 1804, được sự đồng ý của vua nhà Thanh, vua Gia Long đổi tên nước là
Việt Nam, đến năm Mậu Tuất 1838, vua Minh Mệnh lại đổi quốc hiệu là Đại Nam.
Chính quyền trung ương được tổ chức như các triều đại trước, đứng đầu là
vua, nắm mọi quyền hành. Để tập trung hơn nữa mọi quyền hành về tay mình, các vua
1


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
nhà Nguyễn đặt lệ “Tứ bất” (không đặt Tể tướng, không lấy Trạng nguyên, Đông cung
không lập Thái tử và Chính cung không lập Hoàng hậu). nhưng đến thời vua Bảo Đại
– vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn là trường hợp đặc biệt, vua Bảo Đại đã phong cho


vợ làm Nam Phương Hoàng hậu.
Dưới vua là 6 Bộ và 5 phủ đô đốc, ngoài ra có Đô sát viện(Ngự sử đài cũ);
Hàn lâm viện, Tôn nhân phủ; Quốc tử Giám, Nội vụ phủ v.v… giúp vua còn có Văn
thư phòng, sang thời Minh Mệnh đổi thành Nội các, chuyên lo việc công văn giấy tờ
và đi theo vua. Vua Mimh Mệnh còn đặt thêm Viện Cơ Mật, gồm bốn viên đại thần
chuyên bàn với vua các việc “quốc gia đại sự”.
Về luật pháp: Năm Tân Mùi 1811, vua Gia Long giao cho Tổng trấn Bắc
thành là Nguyễn Văn Thành tổ chức biên soạn bộ luật mới. Đến năm Ất Hợi 1815, bộ
luật nhà Nguyễn được biên soạn xong và ban hành với cái tên là Hoàng triều luật lệ,
hay Luật Gia Long. Bộ luật sao chép hầu như nguyên vẹn bộ luật nhà Thanh đương
thời, gồm tất cả 398 điều, chia thành 7 chương và 30 điều tạp tụng.
Luật Gia Long là một bộ luật hà khắc, phản ánh rõ nét chuyên chế của giai
cấp thống trị, trên bước đường suy vong.Mọi tội phạm liên quan đến việc chống đối
triều đình đều bị trừng trị tàn bạo.Tuy nhiên, Luật Gia Long cũng có mặt tích cực là
trừng trị nặng tội tham nhũng và các tệ nạn xã hội.
Về Quân đội: Gồm ba bộ phận chính là Thân binh (hộ vệ vua); Cấm binh (bảo
vệ thành); Tinh binh và Biền binh (quân địa phương, ngoài ra còn một số thuộc binh
(lính lệ).
Về mặt đối ngoại: Nhà Nguyễn rất khâm phục nhà Thanh (Trung Quốc), sau
khi đánh bại được nhà Tây Sơn, vua Gia Long đã cử ngay sứ thần sang nhà Thanh xin
cầu phong. Vua nhà Thanh đã đồng ý cho nước ta được đặt quốc hiệu là Việt Nam,
nhưng do phản ứng của nhân dân trong nước, nên đến năm 1813 vua Gia Long lại cho
đổi lại quốc hiệu là Đại Việt, và đến năm 1838, vua Minh Mệnh bất bình đã khẳng
định lại quốc hiệu là Đại Nam.

2


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
Sau khi xin cầu phong thì cứ 4 năm một lần, triều đình nhà Nguyễn cho sứ

thần sang nộp hai lần cống phẩm. Mỗi lần sứ thần nhà Thanh sang phong vương, các
vua nhà Nguyễn phải tổ chức đón tiếp rất tốn kém và phải ra tận Thăng Long để nhận.
Tình hình đó kéo dài mãi đến năm Kỷ Dậu 1849. Mọi việc quan trọng trong quan hệ
đối ngoại, các vua nhà Nguyễn hầu như đều cho sứ thần sang xin ý kiến của nhà
Thanh.
Đối với các nước láng giêng như Ai Lao và Campuchia, nhà Nguyễn thường
dùng vũ lực để khống chế, còn quan hệ đối với Xiêm (Thái Lan) cũng rất thất thường.
Một vấn đề lớn trong quan hệ đối ngoại của nhà Nguyễn lúc bấy giờ là mối quan hệ
với phương Tây. Các vua nhà Nguyễn đã “đóng cửa” chính sách bế quan tỏa cảng, cự
tuyệt việc quan hệ với các nước phương Tây đã trở thành một quốc sách của cả triều
nhà Nguyễn.
Về mặt văn hóa giáo dục:Từ giữa thế kỷXVIII, giáo dục thi cử của nước ta
ngày càng sa sút. Đến đầu thế kỷ XIX, sau khi lên ngôi Hoàng đế, Gia Long định tổ
chức lại việc giáo dục thi cử nhưng không làm được.Việc học hành phải mất mấy năm
mới dần dần được khôi phục.Năm Đinh Mão 1807 mới tổ chức được khoa thi Hương
đầu tiên của triều nhà Nguyễn, mà cũng chỉ tổ chức được ở những trường thi ở Bắc Hà
(số lượng người đỗ đạt rất ít). Từ sau đó, số trườngthi Hương trong cả nước rút xuống
còn 6 trường, kỳ hạn thi không cố định.
Đã có thi Hương nhưng chưa có thi Hội và thi Đình trong suốt thời kỳ vua Gia
Long trị vì. Đến đời vua Minh Mệnh vào năm 1822, nhà Nguyễn mới có điều kiện mở
khoa thi Hội đầu tiên, và khoa thi Hội năm Nhâm Ngọ đó, lấy đỗ 8 Tiến sỹ (Nguyễn
Ý, Lê Quang, Phan Hữu Tính, Hà Tôn Quyền, Đinh Văn Phác, Vũ Đức Khuê, Phan
Bá Đạt và Trần Lê Hiệu), đây là 8 Tiến sỹ đầu tiên của vương triều nhà Nguyễn.
Đến năm Minh Mệnh thứ 7 (năm 1826) thi Hội triều đình nhà Nguyễn cũng
chỉ lấy có 10 người đỗ Tiến sỹ. Vì lấy đỗ như vậy là quá ít so với các khoa thi Tiến sỹ
đời nhà Lê trước đó, cho nên đến khoa thi năm Ất Sửu 1829, Bộ Lễ quy định mỗi
khoa lấy thêm những người có điểm số gần sát với hạng Đệ tam giáp, nhưng tách
riêng ra làm một bảng phụ, gọi là Phó bảng. Như vậy, Phó bảng cũng được chọn luôn
3



Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
trong kỳ thi đại khoa, nhưng về mặt đãi ngộ thì không được như những người đỗ
chính bảng.
Đáng chú ý là ngay khoa thi đầu tiên, vua Minh Mệnh đã không cho ai đỗ
Trạng nguyên, và từ đó về sau lấy đó lam định lệ, lệ này chính là một trong bốn quy
định đặc thù của triều nhà Nguyễn mà sử thường gọi là lệ “Tứ bất”. Như vậy học vị
Phó bảng cũng có từ năm này, trong lịch sử khoa bảng của nhà Nguyễn tính từ năm
1829 đến năm thi Hương cuối cùng năm 1919 tròn đúng 90 năm, đã tuyển chọn được
260 Phó bảng trên 557 vị đại khoa của 39 khoa thi Hội.
Cả hai đời vua Minh Mệnh và Thiệu Trị vẫn mở khoa thi Hội theo định lệ là
cứ 3 năm thi một lần. Chỉ đến đời vua Tự Đức mới đặt Ân khoa, nghĩa là khoa thi vua
đặc ân cho mở thêm ngoài các năm quy định.
Việc tổ chức các khoa thi dưới triều nhà Nguyễn, nhất là thi Hội nhằm mục
đích kén chọn nhân tài giúp nước, bổ sung quan chức cấp cao cho chính quyền. Đó là
việc trọng đại, thậm chí là rất quan trọng, nên đã được triều nhà Nguyễn quan tâm.
Tuy nhiên sang đầu thế kỷ XX, những năm dưới triều vua Thành Thái và Duy
Tân, dư luận ngày càng phê phán lối học khoa cử lỗi thời. Đến năm Kỷ Mùi 1919,
khoa thi Hội dưới thời vua Khải Định đã trở thành khoa thi cuối cùng trong lịch sử
phong kiến Việt Nam.
Cuối cùng, vào ngày 30 tháng 8 năm Ất Dậu 1945, trước hơn 5 vạn nhân dân
thành phố Huế tập trung ở cửa Ngọ Môn, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn đồng thời
cũng là vị vua cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, vua Bảo Đại tuyên bố
thoái vị, trao ấn kiếm cho đại diện chính quyền Cách mạng và tuyên bố rằng: “Làm
công dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Vương triều nhà Nguyễn
đến đây đã sụp đổ hoàn toàn.
Như vậy, Vương triều nhà Nguyễn bắt đầu được thành lập từ năm 1802, đến
năm 1945 tồn tại đúng 143 năm. Trên thực tế thì năm 1883, khi triều nhà Nguyễn phải
ký hiệp ước Hác –măng (Harmand) chấp nhận để cho thực dân Pháp đặt quyền thống
trị trên toan bộ lãnh thổ nước ta thì các vị vua nhà Nguyễn sau đó cũng chỉ là bù nhìn.

4


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
Triều nhà Nguyễn là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến của Việt Nam, mặc
dù để mất nước vào tay thực dân Pháp, nhưng vương triều nhà Nguyễn cũng đã có
đóng góp nhiều cho sự phát triển của dân tộc ta.

1.

Lý Do Chọn Đề Tài:

Triều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế
với niên hiệu Gia Long năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh
thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi
nhục,Triều đại nhà Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những
cái đó triều đình Nhà Nguyễn mang lại, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh
giànhquyền lực, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất
mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó.
Gắn với triều Nguyễn là Nguyễn Ánh - Vua Gia Long, người kế tục sự nghiệp
các Chúa Nguyễn tiền bối - người lập nên vương triều nhà Nguyễn - vương triều cuối
cùng của nền đế chế phong kiến trung ương tập quyền Việt Nam.
Vậy, ông đã có những chính sách gì ? Những đóng góp của ông như thế nào
đối với triều Nguyễn cũng như sự nghiệp thống nhất đất nước lúc bấy giờ?. Chính vì
thế, tôi chọn đề tài này nhằm giải quyết các vấn đề nêu trên.
2.

Lịch Sử Nghiên Cứu Đề Tài:

Hiện nay, việc nghiên cứu về “Đóng góp của vua Gia Long đối với triều

Nguyễn” nhận được sự quan tâm rất lớn từ các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu.
Ta có thể kể ra các tác giả, tác phẩm như:

5


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
“Các triều đại Việt Nam” của tác giả Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng:
“Lịch sử Việt Nam Cổ Trung Đại” của tác giả Huỳnh Công Bá:
"Đại Nam Thực Lục" - (Quốc Sử Quán Triều Nguyễn) do Quốc sử quán triều
Nguyễn biên soạn. NXB Giáo Dục:
"Quốc sử quán triều Nguyễn" (2001). Khâm định Việt sử Thông giám cương
mục,Hà Nội: NXB Giáo Dục:
"Các Ông Hoàng Triều Nguyễn" (1994). Nguyễn Đắc Xuân, NXB Thuận Hóa
-Huế:
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã tham khảo và kế thừa các tác phẩm trên,
sau đótổng hợp lại để viết nên đề tài.
“Đóng góp của Vua Gia Long đối với triều Nguyễn ( 1802-1820)”
3.

Mục Tiêu Và Nhiệm Vụ Nghiên Cứu:

Trong đề tài này, tôi không làm công việc khôi phục lại hình ảnh về Vua Gia
Long và những đóng góp của ông đối với triều Nguyễn (1802-1820).
Trọng tâm của tôi là tìm hiểu về những đóng góp của ông đối với triều
Nguyễn (1802-1820).
Nhiệm vụ nghiên cứu đó chính là những đóng góp của vua Gia Long trên các
lĩnhvực:
+ Đối nội: (Chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo dục, và chính sách
quânsự)

+ Đối ngoại: (Những chính sách ngoại giao đối với Trung Quốc, Pháp, Các
nước phương Tây khác, và Các nước trong khu vực Đông Nam Á).
Trên cơ sở đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về những đóng góp của ông đối với
triều Nguyễn (1802-1820).
4.

Phương Pháp Luận Và Phương Pháp Nghiên Cứu:
6


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
Chúng tôi đứng trên lập trường của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho quá trình nghiên cứu của mình.
Đề tài đã sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là phương pháp
lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu còn sử dụng các
phương pháp khác như: Sưu tầm, phân tích, tổng hợp…
5.

Đối Tượng Và Phạm Vi Nghiên Cứu:

Nhân vật lịch sử Vua Gia Long và những đóng góp của Ông đối với triều
Nguyễn (1802-1820)
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Về thời gian, quá trình cai trị của ông (từ năm
1802 đến khi ông mất năm 1820). Về không gian, tình hình nước ta sau sự suy yếu
củaVương triều Tây Sơn.
6.

Đóng Góp Của Đề Tài:

Đề tài này thành công sẽ giúp cho chúng ta sẽ có một cái nhìn cụ thể, hệ thống

về những đóng góp to lớn của Vua Gia Long đối với nhà Nguyễn (1802-1820).Đồng
thời sẽ cung cấp một tài liệu nghiên cứu cho Giảng viên, Sinh viên, về những đóng
góp của ông đối với triều đại nhà Nguyễn triều đại cuối cùng của nước ta.

7


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)

CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI VUA GIA LONG
Vua Gia Long tên là Nguyễn Phúc Ánh (Anh), ngoài ra còn có tên là Chủng
và Noãn, con thứ 3 của Nguyễn Phúc Côn (Luân) và bà Nguyễn Thị Hoàn. Nguyễn
Phúc Ánh sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (8-2-1762).
Năm 1775, lợi dụng sự suy sụp của triều đình chúa Nguyễn do cuộc khởi
nghĩa Tây Sơn, quân Trịnh vào chiếm Phú Xuân khiến Nguyễn Phúc Ánh phải trốn
vào Nam. Từ đó ông bôn tẩu gian nan, tìm đủ mọi cách chiêu tập lực lượng để giành
lại vương quyền cho họ Nguyễn.
Năm 1792, vua Quang Trung mất, quân Tây Sơn ngày càng yếu và quân
Nguyễn ngày càng lớn mạnh. Năm 1801, quân Nguyễn do Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy
đã đánh chiếm Quy Nhơn và chiếm Thuận Hóa.
Ngày 1-2-1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên
hiệu là Gia Long, chính thức lập nên triều đại nhà Nguyễn. Tháng 3 năm 1804, Hoàng
đế Gia Long đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam.
Sau khi Vua Quang Trung mất triều đình Tây Sơn lâm vào bối rối, chia rẽ và
suy yếu. Con trai của Vua Quang Trung là Nguyễn Quang Toản mới tuổi được đưa
lên ngôi. Trong khi vua còn nhỏ tuổi, lợi dụng chức vụ Thái Sư, Bùi Đắc Tuyên đã ra
sức lộng hành, tự quyền sinh sát và tìm cách bắt bớ, giết hại những người chống lại
8



Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
mình. Cùng lúc đó ở triều đình Phú Xuân các triều thần cũng đang xung đột, tìm cách
hãm hại lẫn nhau. Tướng sĩ nhiều người nãn lòng. Đối với nhân dân họ không nhìn
Tây Sơn như những đại diện của mình nữa. Loạn lạc chiến tranh quá nhiều khiến cho
họ quá đỗi cực khổ và quá chán nãn. Lợi dụng tình hình rối ren đó. Ông đem quân
đánh Tây Sơn. Sau khi thắng trận ông cử các tướng coi giữ Đồng Hới và sông Gianh
rồi đem quân về Phú Xuân lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu Gia Long (6/1820), tuyên bố
chính thống, đồng thời chuẩn bị tiến quân ra Bắc Hà thống nhất đất nước.
Ngay sau khi lên ngôi, ông sai Trịnh Hoài Đức cầm đầu một sứ bộ mang quốc
thư, phẩm vật, sách ấn của vua Thanh phong cho nhà Tây Sơn sang triều đình Trung
Quốc để cầu phong vương cho mình. Vào năm 1804 vua Thanh sai Ấn sát sứ Quảng
Tây là Tề Bố Sâm sang tuyên phong cho Vua Gia Long và công bố quốc hiệu Việt
Nam.
Nhà Vua cho xây dựng Kinh Thành Huế theo một đồ án đại quy mô, xứng
đáng với triều đại lớn và hùng mạnh. Đồng thời ông cũng quy định tỉ mỉ và nghiêm
ngặt các lễ nghi liên quan đến sinh hoạt của triều đình.
Gia Long làm Hoàng đế được 18 năm (1802-1819), mất vào ngày 19 tháng
Chạp năm Kỷ Mão (ngày 3 tháng 2 năm 1820), hưởng thọ 58 tuổi. Sau khi mất, bài vị
Hoàng đế Gia Long được đưa vào thờ ở
Thế Miếu và có Miếu hiệu là Thế Tổ.
Hoàng đế Gia Long có 31 người con (13 con trai và 18 con gái).

9


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)

CHƯƠNG 2: NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA VUA GIA LONG
2.1. ĐỐI NỘI
2.1.1. Chính sách chính trị.

Nhà Vua đã tiến hành thiết lập chế độ trung ương tập quyền. Trong đó
nhà Vua là tối cao, vô tỉ nắm cả lập pháp, hành pháp, tư pháp, giám sát cả tổng chỉ huy
về quân đội. Ông đã xếp đặt lại cơ cấu điều hành quốc gia: Và đặt ra lệ “ tứ bất” gồm
4 điều không lập: không đặt hoàng hậu, không đặt chức Tể tướng, không lấy trạng
nguyên và không phong tước vương cho người ngoài hoàng tộc. Để tránh lộng quyền
tổ chức và dựa trên cơ sở giống nhà Lê.
* Tổ chức chính quyền trung ương
Vua nắm quyền hành tối cao, giúp Vua có lục bộ gồm, Lại, Công, Lễ, Hộ,
Binh, Hình do thượng thư (tương đương nhự bộ trưởng ngày nay) đứng đầu và tả hữu
thị lang giúp việc đô sát viện do Tả, Hữu đô ngự sử đứng đầu với hoạt động ấn định
quyền hạn các chức tước, lương bổng, văn võ theo các cấp bậc. Ông cũng cho thi hành
chế độ tiền dưỡng liêm để phòng trừ tệ nạn tham nhũng trong hàng ngũ quan lại nhà
Nguyễn.
* Tổ chức chính quyền địa phương

10


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
Ông phân chia đất nước thành 2 tổng trấn: (Bắc Hà, Nam Hà), 2 vùng (miền
Trung và Kinh kỳ). Gồm 23 trấn và 4 doanh cụ thể.
Tổng trấn Bắc Hà.
+ Nội trấn (5): Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ, Sơn
Tây
+ Ngoại trấn (6): Cao Bằng, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Quảng Yên, Thái Nguyên,
Tuyên Quang
Vùng miền Trung gồm 7 Trấn độc lập: Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận.
Vùng Kinh kỳ gồm 4 Doanh: Trực Lệ Quảng Đức, Quảng Bình, Quảng Nam
và Quảng Trị.

Tổng trấn Nam Hà.
Gồm 5 Trấn: Biên Hòa, Hà Tiên, Phiên An, Vĩnh Thanh, Vĩnh Tường
Hai vùng tổng trấn Bắc Hà và Nam Hà sẽ do hai quan Tổng trấn đứng đầu
cùng với Phó tổng trấn hai vị quan Tổng trấn sẽ nắm toàn quyền về luật pháp, kinh tế
lẫn quân sự . Về các Trấn thì có quan Lưu trấn (gồm Trấn thủ, Cai Bạ và Ký lục).
Dưới Trấn là phủ, huyện, châu với các vị quan đứng đầu lần lượt là Tri Phủ, Tri
Huyện, Tri Châu. Ngoài ra, ông còn là vị vua đã chính thức xác định chủ quyền của
Việt Nam trên khu vực quần đảo Hoàng Sa khi Vua chiếm đóng quần đảo này năm
1816. Đây là lần đầu tiên tổ chức hành chính được tổ chức một cách chính quy như
thế trên một lãnh thổ thống nhất trong lịch sử Việt Nam.
* Tổ chức luật pháp.
Sau khi lên ngôi Vua Gia Long rất quan tâm đến hoạt động lập pháp. Vào năm
1811 ông sai đình thần soạn luật lệ, lấy Nguyễn Văn Thành sung chức Tổng đài, tham
khảo pháp luật của nhà Thanh và luật Hồng Đức để làm một bộ luật riêng của triều
đại. Đến năm 1812, sách soạn xong, Ông xét lại, làm bài tựa và cho ban hành. Đến
năm 1815, sách được in và phân phát với tên gọi “Hoàng Việt luật lệ” thường gọi là
11


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
luật Gia Long, được thi hành trong suốt thời gian trị vị của triều Nguyễn đến cả đầu
thời Pháp thuộc.
2.1.2. Chính sách kinh tế.
Dưới thời của ông, việc thu thuế được tổ chức lại, phân ra nhiều thứ thuế
kèm theo các chính sách quản lý và miễn trừ thích hợp. Thứ thuế quan trọng đầu tiên
là thuế điền (hay thuế ruộng, thuế tính trên ruộng): ruộng được chia làm 4 hạng chịu 3
mức thuế khác nhau qua hình thức nộp thóc. Loại thuế thứ hai là thuế đinh (thuế thân),
đánh theo từng địa phương, tính theo từng suất đồng niên. Ông còn có cả việc phân
biệt cả cư dân chính hộ (dân cư trú lâu) và khách hộ (dân từ nơi khác đến cư trú) khi
tính thuế; nhưng lệ này về sau không được duy trì. Ngoài các thứ thuế trên, còn có các

loại thuế: thuế sâm, thuế hương, thuế chiếu, thuế gỗ, thuế từ việc cho phép khai thác
mỏ đều có quy định riêng, thường tiền thuế sẽ nộp bằng tiền hay là bằng sản vật. Thuế
sẽ được giảm nếu địa phương gặp thiên tai địch họa dựa theo mức độ thiệt hại. Ngoài
ra, nếu nhà nào có người đi làm đường, đào sông, xây thành...; cũng được giảm thuế.
Nếu đã nộp thuế sản vật thì miễn thuế đinh, thuế dành cho các thương thuyền nước
ngoài cũng được định lại: cứ dựa trên kích thước thuyền mà đánh thuế nhiều hay ít..
Để tạo cơ sở tính thuế, cùng với điền bạ (để quản lý ruộng đã nêu) dân chúng được
quản lý qua sổ đinh bạ: 5 năm làm một lần mọi người từ thường dân tới quan lại từ 18
tuổi đến 59 tuổi đều phải được thống kê vào sổ đinh. Để giải quyết vấn đề tiền tệ, ông
cho lập xưởng đúc tiền tại Bắc Thành, về sau ở cả Gia Định thành và ở các trấn để đúc
tiền đồng và tiền kẽm ngoài ra còn cho đúc vàng bạc theo nén và lượng với tỉ lệ quy
đổi một lượng vàng đổi lấy 10 lượng bạc để phục vụ cho lưu thông thương mại trong
nước. Mỗi đồng tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ "Gia Long thông bảo", một
mặt in chữ "thất phân", mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng. Đồng thời với tiền tệ là việc
đo lường: Ông cho chuẩn hóa lại các thước vuông đo ruộng có trước đó, chế ra thước
đo ruộng mới là loại thước đồng hai mặt khắc chữ: một mặt Gia Long cửu niên thu bát
nguyệt và mặt kia là ban hành đạc điền xích, công bộ đường kính tạo. Năm 1813, ông
còn cho làm ra cân thiên bình, cấp cho các doanh, trấn, để dùng vào việc cân đo kim
loại và sản vật địa phương. Riêng hai kim loại màu là vàng và bạc thì dùng cân trung
bình.

12


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
a. Tình hình nông nghiệp.
Về nông nghiệp, ruộng đất cũng được quản lý bằng các điền bạ ghi rõ về tình
trạng, vị trí thứ hạng đất ruộng. Mỗi làng làm 3 quyển gửi lên bộ đóng dấu, 1 quyển sẽ
lưu lại bộ, 1 quyển lưu lại tỉnh và 1 quyển gửi trả về làng. Bên cạnh đó, để bảo đảm
đất cày cho mọi người nông dân, vua Gia Long ngay từ khi mới lên ngôi đã ra lệnh

cấm trao đổi buôn bán ruộng công; và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền
công thổ trong đó cho phép điển cố tối đa 3 năm. Ngoài ra, ông còn cho ban Lệ quân
điền về cũng về vấn đề ruộng công này, trong đó thời hạn chia ruộng đất được rút
xuống ba năm và đối tượng chia ruộng trước hết nhằm ưu đãi quan lại và quân lính.
Tuy nhiên, chính sách này không hiệu quả lắm do tỉ lệ ruộng công còn rất ít, mà tỉ lệ
cấp lại lớn hơn hẳn thời Lê Sơ. Và tình trạng người dân không có đất vẫn còn là một
vấn đề cấp thiết lúc bấy giờ. vua Gia Long rất đề cao và khuyến khích nông nghiệp
tuy nhiên lại tỏ ra thiếu kinh nghiệm trị thủy các vùng phía Bắc dù cho nhà vua đã cho
đầu tư đắp đê không ít.
b. Tình hình thủ công nghiệp.
* Thủ công nghiệp nhà nước.
Triều đình nắm độc quyền trong ngành khai thác khoáng sản, cho các thương
nhân người Hoa khai thác để thu thuế. Các phường đội, thợ thủ công đều chịu sự quản
lý của triều đình, hầu hết thợ có kỹ năng và nguyên liệu thô đều được đưa vào các
xưởng thủ công của triều đình ở Huế. Vào năm 1803 ông cho lập xưởng đúc tiền ở
Thăng Long và đến năm 1812 nhà ông cho thương nhân Trung quốc đúc thêm tiền
kẽm theo quy ước của nhà nước. Thợ làm việc tại các công xưởng đều là các thợ giỏi
ở các nơi được trưng về kinh đô. Việc tiếp xúc với khoa học – kỉ thuật phương Tây đã
kích thích tinh thần sáng tạo của người thợ thủ công Việt Nam trong các công xưởng.
Một sĩ quan người Mĩ là John White đến Việt Nam vào năm 1820 cho rằng “Người
Việt Nam quả là những người đóng tàu thành thạo”
* Thủ công nghiệp địa phương
Trong nhân dân các nghề thủ công và làng thủ công cổ truyền tiếp tục phát
triển. Đất nước bình yên đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành nghề thủ công tăng
cường hoạt động. Các nghề ươm tơ, dệt lụa, làm đò sành sứ, rèn sắt đúc đồng, làm
13


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
giấy, vv… phát triển khắp mọi nơi. Mặc dù thủ công nghiệp có phát triển nhưng

phương thức sản xuất hầu như không thay đổi. Các làng thủ công vẫn gắn liền với
nông nghiêp như xưa, không hình thành các phường hội với quy chế riêng ở Tây Âu
thời trung đại. Bên cạnh đó chính sách nhà nước thiếu tính khuyến khích.
c. Tình hình thương nghiệp.
Việc thống nhất đất nước vào đầu thế kỷ 19 là một điều kiện thuận lợi cho
thương nghiệp phục hồi và tái phát triển sau một thời gian dài suy thoái. Ngoài ra, ông
cũng cho sửa sang đường sá, đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn
của người dân được tiện lợi.
+ Nội Thương
Trong vùng làng xã nông thôn, hoạt động thương mại cũng chỉ nhằm trao đổi
nông sản và hàng tiểu thủ công ở các chợ. Ở đó, ngoài những cửa hàng tạp hóa quy
mô nhỏ hay các cửa tiệm bán thuốc Bắc, còn có những nông dân bán thổ sản và nông
sản của mình và một số thương nhân nhỏ bán vải vóc, hàng xén, cau thuốc, đi rong từ
chợ này sang chợ khác. Việc mua bán giữa các tỉnh được đẩy mạnh: gạo được chở bán
từ Gia Định ra miền Trung, hàng thủ công miền Bắc được chở vào bán trong Nam.
Giữa thế kỷ XIX thì các thương khu đã thoát ly khỏi trạng thái chợ phiên có kỳ hạn và
đã có thương gia cùng thợ thuyền cư trú thường xuyên. Thị trấn Thanh Hoá được xem
là một trung tâm thương mại.
Ở kinh đô Huế, cư dân ở chen chúc thường hay có hoả hoạn nên năm 1837,
triều đình đã cho chỉnh trang lại đồng thời lập chợ Gia Hội có tất cả 399 gian, dài suốt
hơn 319 trượng, tất cả đều có cột bằng gạch, xây bằng vôi. Thuyền buôn Trung Quốc
chở đến vải vóc, đồ sứ, trà, thuốc Bắc, đồ chơi... và chở về thổ sản như cau khô, tơ
sống, gỗ, sơn, sừng tê và ngà voi."
+ Ngoại Thương
Khác với các triều đại trước, nhà Nguyễn nắm độc quyền ngoại thương và
kiểm soát chặt chẽ, nhà Nguyễn chủ trương “đóng cửa” không buôn bán với các nước
phương Tây, tàu thuyền Anh, Mĩ mấy lần đến xin thông thương nhưng đều bị từ chối.
14



Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
Điều đó cũng tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự chuyển biến của xã hội Việt
Nam.
2.1.3. Chính sách văn hóa – giáo dục.
+ Tư tưởng, tôn giáo.
Cùng với việc khôi phục chế độ trung ương tập quyền ngay sau khi bắt tay
vào công việc xây dựng đất nước Vua Gia Long đã ra sức đề cao Nho giáo, trở thành
ngọn cờ tinh thần thống nhất được toàn xã hội trong một nền tảng đạo lí, lễ nghi, nếp
sống, một diện mạo văn hóa Nho giáo khá điển hình. Và chịu ảnh hửng sâu sắc của
học thuyết Tống Nho. Để chấn hưng Nho ông đã cho xây dựng văn miếu ở Huế, và
Văn Thánh, Văn từ, Văn chỉ ở các địa phương, trùng tu lại văn miếu ở Hà Nội và xây
dựng Khuê Văn Các tại đây. Để tư tưởng Nho giáo được thấm sâu và lan rộng trong
toàn xã hội. Bên cạnh việc đề cao Nho giáo thì Phật giáo, Đạo giáo và các tín ngưỡng
khác được ông quan tâm như trùng tu xây dựng chùa chiền.
+ Giáo dục và khoa cử.
Vua Gia Long sau khi thống nhất đất nước, tuy biết võ bị là việc trọng yếu,
nhưng muốn xây dựng đất nước không thể không chú ý đến việc học hành, khoa cử.
Năm Đinh Mão (1807), ông định lệ tháng 10 năm đó tổ chức kỳ thi Hương. Đó là kỳ
thi đầu tiên của triều Nguyễn, và người trúng tuyển gọi là Hương cống, lề lối phỏng
theo thi cử thời Lê. Về sau, khi khoa cử đã khá hoàn bị, triều Nguyễn tổ chức nhiều
khoa thi khác nhau, trong đó khoa Tiến sĩ gồm có ba kỳ thi: Thi Hương (Hương thí),
thi Hội (Hội thí) và thi Đình (Điện thí), là khoa thi được chú trọng và quan trọng nhất
trong triều Nguyễn. Kỳ thi Hội mà ông định tổ chức vào năm Mậu Thìn (1808) và
Tiến sĩ triều Nguyễn cũng bắt đầu lấy đỗ từ năm đó. Ngoài ra, những ân khoa cũng
thường được mở, đó là những khoa thi tổ chức không đúng thời gian qui định, mà
nhân trong nước có chuyện mừng như đăng quang (vua lên ngôi), khánh thọ (mừng
thọ vua và thái hậu), hoặc sinh nhật hoàng tử đầu lòng… Những ân khoa này tổ chức
cũng giống như thi Hương, thi Hội bình thường.
Một nền giáo dục và khoa cử dựa trên nền tảng Nho học đã chấm dứt gần một
thế kỷ, tuy cũng nhận nhiều lời đàm tiếu của hậu thế, nhưng có một điều mà chúng ta

15


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
phải nhìn nhận là nó đã sản sinh ra một lớp người khí tiết, trọng lễ nghĩa, xem thường
quyền lợi mà đại biểu là những nhà Khoa bảng triều Nguyễn. Vì lẽ đó, truyền thống
trọng lễ nghĩa, yêu chuộng nhân văn từ bao giờ đã trở thành một bộ phận quan trọng
cấu thành bản sắc văn hóa của người Việt. Đó cũng là sự đóng góp đáng kể của giáo
dục và khoa cử dựa trên nền tảng Nho học.
2.1.4. Chính sách quân sự.
Mỗi triều đại muốn tồn tại đòi hỏi phải có một tổ chức quân đội mạnh, quân
đội không chỉ là công cụ để bảo vệ triều đình, mà còn là lực lượng nòng cốt khi có
chiến tranh xảy ra. Để biết một đất nươc mạnh hay yếu, thì yếu tố quân đội càng thể
hiện vai trò của nó, và quân đội dưới thời vua Gia Long cũng vậy. Vì cuộc nội chiến
kéo dài với Nhà Tây Sơn, ông đã có được một đội quân tương đối mạnh, được trang bị
khí tài và tổ chức theo kiểu phương Tây. Sau chiến tranh, ông ban thưởng cho binh
lính, lập đền thờ người tử trận, rồi tinh giản quân đội bằng cách cho những người lính
già giải ngũ. Sau đó, ông đặt ra cách tuyển quân linh hoạt. Khu vực từ Quảng Bình
vào đến Bình Thuận thì cứ 3 nam tuyển 1 lính; từ Biên Hoà trở vào thì cứ 5 nam đinh
tuyển lấy 1 lính; từ Hà Tĩnh trở ra đến 5 nội trấn ở Bắc thành thì cứ 7 nam đinh tuyển
lấy 1 lính. Còn 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hoá, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Quảng Yên, thì cứ 10 nam đinh tuyển lấy một lính. Về bộ binh, ngoài các
đơn vị lính thường là lính cơ, lính mộ ở các trấn; khu vực kinh thành có thêm các loại
lính tinh nhuệ gồm thân binh, cấm binh, tinh binh. Thân binh chia làm các vệ gồm 500
người kèm thêm 50 người tập quân nhạc. Ngoài ra quân lính còn được tổ chức thành
các biền binh ban lệ gồm 3 phiên: trong đó 2 phiên về quán, còn một phiên ở lại thay
đổi cho nhau luân phiên. Tổng số binh của triều đình lên đến gần 140.000 và có thể
huy động tăng thêm rất lớn.
Vũ khí cho quân đội gồm súng tay thạch cơ điểu thương, đại bác và gươm
giáo. Khu vực kinh thành có ba trường tập bắn dành cho quân đội. Ngoài ra,ông còn

cho chế tạo nhiều loại vũ khí và trang bị theo mẫu đã mua của Phương Tây, đến mãi
sau này chính sách này vua Minh Mạng cũng tiếp nối thực hiện. Lực lượng hải quân
cũng được chú trọng vì địa thế đường biển dài của Việt Nam. Ông cho tuyển mộ các
cư dân sống gần biển về doanh Quảng Đức và doanh Quảng Nam lập thành 6 vệ thuỷ
16


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
quân đóng tại kinh thành. Còn ở các cửa biển đều có một cơ lính thủy và đặt súng để
phòng thủ và trông giữ việc đi lại của tàu nước ngoài. Ngoài ra, người ta còn ghi nhận
là ông đã cho đóng loại thuyền lớn kiểu Tây bọc đồng để đi lại tuần tra biển. Và mọt
trong sự nghiệp lẫy lừng của vua Gia Long đó chính là khẳng định chủ quyền trên hai
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Bởi vì, Thủy quân vốn là sức mạnh của quân đội
nhà Nguyễn. Từ thời chúa Nguyễn, lực lượng thủy quân đã là một binh chủng tinh
nhuệ và hùng mạnh, là một lực lượng chủ chốt trong việc bảo vệ đất nước và quản lý,
giám sát an ninh vùng biển, đường biển.Ông rất chú trọng phát triển lực lượng thủy
quân và kỹ thuật đóng tàu, đặc biệt là tàu chiến. Nhà vua đã lệnh cho Bộ Công biên
soạn cuốn “Duyên hải lục” ghi chép độ sâu của thủy triều ven biển và cây số đường
biển.
Như vậy cùng với việc phát triển thủy quân, tiếp nối truyền thống các chúa
Nguyễn vua Gia Long đã có công lớn trong việc thực thi, khẳng định chủ quyền ở
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên biển Đông. Đây là sự nghiệp lẫy lừng, quan trọng
và là dấu son trong cuộc đời của vị vua có số phận đặc biệt này. Ngay từ khi lên ngôi,
dù phải lo toan rất nhiều việc ngổn ngang sau những năm dài chiến tranh, quản lý cả
một vùng lãnh thổ quốc gia rộng lớn nhất từ trước tới thời điểm đó, nhưng ông đã thể
hiện tầm nhìn xa trông rộng về vấn đề biển đảo.

2.2. ĐỐI NGOẠI
2.2.1. Đối với Trung Quốc.
Ngay sau khi thắng hoàn toàn Tây Sơn, chiếm cả Bắc Hà, ông liền cho

thượng thư Binh bộ là Lê Quang Định đi sứ sang Trung Quốc để cầu phong vì cả lý do
ngoại giao lẫn cả quan niệm Thiên tử của Nho giáo về nước lớn nước nhỏ. Đồng thời
với việc xin phong,ông cũng yêu cầu được đổi quốc hiệu là Nam Việt. Ban đầu hoàng
đế nhà Thanh là Gia Khánh không chấp nhận quốc hiệu "Nam Việt" để tránh lầm với
nước Nam Việt của nhà Triệu lúc này đã gồm nhiều phần lãnh thổ của Trung Quốc.
Tuy nhiên, ông vẫn kiên trì lập trường của mình dù vua nhà Thanh đã bài bác tới vài
lần để tỏ cho Trung Quốc biết nếu không cho đổi thì ông sẽ không thụ phong. Cuối
cùng Gia Khánh cho đổi Nam Việt thành Việt Nam thì ông mới chấp nhận. Năm Giáp
Tí (1804) nhà Thanh sai quan sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang tuyên phong
17


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
tại Thăng Long, ông cho người đem đồ sang cống tạ và lập lệ triều cống: 3 năm một
lần. Và mối quan hệ với nhà Thanh luôn trong tình trạng êm đẹp.
2.2.2. Đối với Pháp.
Với người Pháp, ông vẫn tiếp tục những biểu hiện tỏ ra thân mật với người
Pháp. Ông trả công hậu hĩ cho những người đã từng theo giúp mình, một số sĩ quan
người Pháp cũng được làm quan trong triều đình Huế với những ưu đãi đặc biệt. Về
mặt hình thức vua Gia Long là người có những quan hệ tốt với nước Pháp, đối xử với
họ như những ân nhân. Mặc dù rất hậu đãi với người Pháp nhưng ông chỉ cho bổng
lộc, chức tước mà không ban quyền hạn, do đó họ không chi phối được chính sự nhà
Nguyễn. Nhà Vua thường cảnh tỉnh các triều thần về mối đe dọa sự an nguy của quốc
gia từ sự thông thương và truyền đạo của Pháp. Nhà Vua đã nhiều lần tỏ ra rất hài lòng
về việc trước kia không nhận được cứu viện của triều đình Louis XVI. Khoảng năm
1818, thuyền chiến Pháp "La Cybèle" chở theo bá tước Achille de Kergariou cập cảng,
xin được gặp nhà vua để bàn việc thực hiện hiệp ước trước kia nhưng do Kergariou
không có quốc thư nên ông không tiếp. Khi thuyền trưởng tàu La Cybèle đòi vua Gia
Long thực hiện các điều khoản trong hiệp ước trước kia, ông sai quan đáp lại rằng do
trước Pháp không thực hiện thì nay bỏ, phớt lờ hoàn toàn các vị quan người Pháp

trong triều đình. Việc thất bại liên tục cố gắng tạo dựng mối quan hệ đặc biệt cho
người Pháp ở Việt Nam làm cho các ông quan Pháp trong triều chán chường. Đến độ
khoảng một năm sau, 1819, khi người Pháp lại tiếp tục quay trở lại qua hai tàu "La
Rose" và "La Henri" thì Chaigneau xin đi theo luôn vì lý do "thăm nhà" và "đi tìm
vacxin đậu mùa". Tuy nhiên, việc ông mời các sĩ quan Pháp huấn luyện quân đội và
củng cố thành trì cho nhà Nguyễn cũng làm cho ông trở thành người mở đầu cho ảnh
hưởng của người Pháp tại Việt Nam. Chính những biểu hiện đó khiến người ta thường
đánh giá vua Gia Long trong bản chất Nguyễn Ánh, phê phán ông về những hành
động khi ông đang còn là Nguyễn Ánh. Do vậy, hình ảnh ông trở nên không tốt đẹp vì
sự tồi tệ mà Nguyễn Ánh đã tạo ra trong lịch sử dân tộc.
2.2.3. Đối với các nước Phương Tây khác.
Vua Gia Long hầu như không có chính sách giao thiệp chính thức với các
quốc gia thuộc thế giới phương Tây khác ngoài Pháp: đơn cử như năm 1804, nước
Anh sai một sứ giả tên là John W. Roberts tới xin dâng lễ vật và quốc thư với mong
18


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
được mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, Quảng Nam nhưng mọi việc chẳng đến đâu.
Nguyên nhân thất bại của Roberts là tại vì một sứ giả tiền trạm là Thuyền trưởng
Allan trong khi mang quốc thư của David Lance (một nhà quản lý ở công ty Đông Ấn,
cấp trên của Roberts) khi tới gặp vua Gia Long thông báo về chuyến viếng thăm của
Robert có hơi lỡ lời khi nói chuyện về vấn đề Trà Sơn; việc này cộng với sự kiện nước
Anh chiếm Ấn Độ trước đó và sự dèm pha của Chaigneau và Vannier khiến ông nghi
ngờ mục đích của người Anh rồi sau đó từ chối luôn. Sau đó họ còn tiếp tục dâng thư
xin hai ba lần nữa nhưng đều bất bại. Đối với người Mỹ, khoảng năm 1803, một
thuyền của Hoa Kỳ tên là "Frame" dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Jeremiah Briggs
đến Đà Nẵng rồi sau đó, dưới lời khuyên của người Pháp, đã đi ra Huế để gặp ông.
Sau khi đến Huế và rời thuyền khoảng 6 ngày, Briggs đã được ông cho phép buôn bán
ở Việt Nam. Thời gian sau đó, nhiều thuyền khác của người Mỹ tới Việt Nam: ví dụ

ngày 7 tháng 6 năm 1819, một tàu tên là "Franklin" với thuyền trưởng khác là ông
John White đã ghé vao vùng Nam Hà và được quan Tổng trấn đón tiếp chu đáo. Sau
đó, White rời Việt Nam đến Manila, Philippines rồi quay lại cùng với một tàu khác tên
là "'Marmion" với thuyền trưởng John Brown và tìm cách buôn bán ở Việt Nam
nhưng bất thành. Ngoài hai tàu trên còn có một số tàu Mỹ khác viếng thăm Việt Nam
nhưng hầu như không có hoạt động gì đáng kể như tàu "Aurora of Salem" của thuyền
trưởng Robert Gould hay "Beverly" của thuyền trưởng John Garner. Sau thời gian đó,
người Mỹ không còn viếng thăm Việt Nam lần nào nữa.
Tuy chính sách nhìn chung là lạnh nhạt vậy, nhưng ông vẫn giữ gìn nhưng
không thắt chặt mối liên lạc chính thức cũng như các cam kết chính trị với chính phủ
phương Tây để khỏi sa vào những lỗi lầm dẫn đến số phận như Ấn Độ. Bên cạnh đó,
Ông còn thi hành một chính sách "giúp đỡ người từ xa tới" của Nho giáo tàu thuyền
của bất kỳ nước nào gặp rắc rối trong vùng lãnh hải của Việt Nam đều được giúp đỡ
tùy theo mức độ cần thiết; điều mà các vua Nguyễn sau đều noi theo.
2.2.4. Đối với các nước khu vực Đông Nam Á.
Với ba quốc gia láng giềng là Chân Lạp, Xiêm La, và Vạn Tượng; thời kỳ
ông cai trị cũng là thời kỳ Việt Nam khẳng định ảnh hưởng của mình trong khu vực.
Năm Nhâm Tuất (1802), vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân không theo Xiêm La nữa mà
19


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
sai sứ đến xin được thần phục ông nước Đại Việt. Ngày 2 tháng 9, ông phong cho Nặc
Ông Chân làm Quốc vương Cao Miên rồi sai Ngô Nhơn Tĩnh, Trần Công Đàn làm
Chánh phó sứ mang sắc phong và ấn mạ vàng có núm hình lạc đà đến Chân Lạp, làm
lễ sách phong, rồi định ra lệ cống tiến mỗi 3 năm 1 lần, lấy năm Đinh Mão (1807) làm
đầu. Ba người em của Nặc Ông Chân (Ang Chan II) là Nặc Ông Nguyên (Ang
Suguon), Nặc Ông Lem tức Nặc Ông Em (Ang Im), và Nặc Ông Đôn (Ang Duong)
muốn tranh quyền của anh mình nên sang Xiêm La cầu cứu. Xiêm La đòi Nặc Ông
Chân chia quyền nhưng ông từ chối, Xiêm La liền cho quân sang đánh và buộc Nặc

Ông Chân bỏ chạy sang cầu cứu Việt Nam. Ông viết thư trách cứ Xiêm La và Xiêm
La đáp lại là họ chỉ giúp anh em Nặc Ông Chân giảng hòa chứ không đối kháng với
Việt Nam. Vua Gia Long liền cho Lê Văn Duyệt kéo 10.000 quân sang buộc Xiêm La
cho Nặc Ông Chân về nước và rút quân hoàn toàn ra khỏi Chân Lạp. Lê Văn Duyệt
dâng sớ xin xây thành Nam Vang (Phnom Penh) và thành La-Lêm. Khi xây xong Vua
Gia Long cho Nguyễn Văn Thoại đem 1.000 quân sang trấn giữ và xác lập quyền "bảo
hộ" của Việt Nam tại Chân Lạp.
Đối với Xiêm La, ngay trước khi lên ngôi, Ông đã từng sáu lần cho sứ mang
hoa vàng hoa bạc sang tặng vua Rama I nhằm cảm ơn Xiêm giúp đỡ; và dù ngay sau
khi lên ngôi gặp phải vấn đề Chân Lạp thì mối quan hệ Việt Nam-Xiêm La vẫn được
cả hai nước cố gắng giữ gìn. Ông còn nhiều lần bày tỏ sự lo ngại của ông, nếu ngôi
vua Xiêm bị bỏ trống, và ông đã nhiều lần gây áp lực lên triều vua Rama I chọn ra
một thái tử nối ngôi (đặc biệt vào các năm 1804 và 1805). Cuối cùng vua Xiêm cũng
chọn Rama II, một người được triều Gia Long yêu thích. Tuy vậy, nhà Vua vẫn đề
phòng Xiêm La, điều này được thể hiện qua việc Ông đã nhiều lần xét đến việc thành
lập liên minh với Miến Điện để chống Xiêm (khi này Miến Điện và Xiêm La đang có
chiến tranh) nhưng vẫn chưa quyết, để rồi sau này vị vua nối ngôi Minh Mạng từ chối
hẳn việc Miến Điện. Đối với Vạn Tượng, Việt Nam và Xiêm La hình thành một thế
giằng co ảnh hưởng: Vua Vạn Tượng Inthavong trước kia có cùng hỗ trợ ông đánh
Tây Sơn thường tỏ ra ngả về phía Việt Nam nhiều hơn là phía Xiêm dù lúc này cả
Xiêm và Việt Nam đều đang có ảnh hưởng tại Vạn Tượng. Ông đưa ra nhiều chính
sách chiêu dụ Inthavong: tại Việt Nam, Inthavong được đón tiếp dưới danh hiệu quốc
vương, trong khi ở Xiêm ông Vua này chỉ được gọi là Chao (lãnh chúa); và vào
20


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
khoảng năm 1802 Vua Gia Long công nhận quyền cai trị của Inthavong trên đất Xiang
Khouang. Vị vua nối ngôi của Inthavong là Chao Anou cũng tiếp tục chính sách tương
tự, và Việt Nam tuy vẫn đối xử tốt với Vạn Tượng nhưng vẫn vị nể Xiêm.

Bên cạnh đó Chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn tại Đà Nẵng đầu thế kỷ
XIX cũng quan trọng. Bởi vì Sau khi lên ngôi (1802), vua Gia Long đã chọn Đà Nẵng
làm nơi đón tiếp các sứ thần đến quan hệ ngoại giao, thương mại... Từ đây, cảng Đà
Nẵng trở thành hải cảng chính thức và duy nhất thực thi chính sách ngoại giao của nhà
Nguyễn với các nước đến quan hệ qua đường biển. Chọn Đà Nẵng làm cửa ngõ giao
thương, mục đích của nhà Nguyễn là bảo đảm an ninh quốc gia, giám sát hoạt động
của các giáo sĩ phương Tây, nghe ngóng tình hình của các nước trong khu vực và thế
giới, tiếp nhận tinh hoa văn hóa thế giới tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển.
Giống như các chúa Nguyễn trước đây, đối với các nước trong khu vực Châu
Á, nhà Nguyễn có quan hệ thân thiện hữu nghị với một số nước khác trong khu vực
Đông Nam Á; đối với các nước phương Tây là Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Hà Lan... Tuy nhiên, nhà Nguyễn chỉ cho tiếp các nước phương Tây tại Đà Nẵng
với những điều kiện hết sức chặt chẽ, khắt khe tùy theo mối quan hệ ấm lạnh, mà
nguyên nhân của chính sách này là do hoạt động do thám của tàu thuyền các nước
phương Tây và các giáo sĩ ở nước ta mà ra. Chủ trương trên của nhà Nguyễn thể hiện
sự kỳ thị đối với các nước phương Tây và sự lo xa về vấn đề an ninh quốc gia. Trước
hết, đó là sự xâm nhập ngày càng sâu của Thiên Chúa giáo đối với nước ta khiến cho
truyền thống “Tam giáo đồng quy” bị đe dọa nghiêm trọng. Điều này sẽ tạo nên sự
phá vỡ vị trí của Nho giáo trong đời sống xã hội nước ta, mà Nho giáo là công cụ duy
trì trật tự của xã hội, là công cụ giúp cho nhà nước phong kiến thiết lập nên một trật tự
xã hội theo chiều hướng có lợi, bảo vệ vững chắc địa vị của giai cấp thống trị, đồng
thời, Nho giáo đã có một thời gian dài ăn sâu, bám rễ, có vị trí khá vững chãi trong đời
sống xã hội Việt Nam (cũng như một số quốc gia khác ở Phương Đông), được xã hội
Việt Nam đón nhận và chấp nhận sự tồn tại, có thời kỳ đã trở thành quốc giáo ở nước
ta. Thiên Chúa giáo không phù hợp với xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, đặc biệt có nguy
cơ phá vỡ, làm lung lay, ảnh hưởng đến tôn ti, trật tự xã hội mà giai cấp phong kiến đã
21



Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
thiết lập và duy trì. Mặt khác, nhà Nguyễn còn lo xa bởi sự xâm nhập của Thiên Chúa
giáo cũng sẽ ảnh hưởng đến phong tục tập quán của dân tộc. Chính vì vậy, trong triều
Nguyễn (đặc biệt sau khi cuộc chiến xâm lược của Thực dân Pháp nổ ra), tư tưởng chi
phối từ cung đình xuống dân chúng, đó là 3 vấn đề chính: Chính đạo hay Tà giáo (Nho
giáo hay Thiên Chúa giáo?), Chiến hay Hòa (đánh Pháp hay đầu hàng?), Duy tân hay
Thủ cựu (ủng hộ cải cách hay không?). Tiếc rằng nhiều sĩ phu yêu nước đã quay lưng
lại với xu hướng cải cách và ủng hộ việc “cấm đạo” của triều đình và được thi hành
ngày càng gay gắt. Chính sách này tuy có hạt nhân hợp lý và có ý nghĩa bảo vệ an
ninh quốc gia, nhưng trong thực tiễn thì “lợi bất cập hại”.
Các sứ thần phương Tây đến Đà Nẵng phải có đủ hai điều kiện, đó là phải có
quốc thư của nước xin giao thương và lễ vật. Lễ vật thường là những đồ vật hiếm lạ,
hiếm và có thể là quý giá của quốc gia đó nhưng không là điều kiện bắt buộc như quốc
thư phải có mới được đón tiếp. Sứ giả không có quốc thư là không đủ tư cách, dù là sứ
giả nước Pháp - nước có nhiều ơn nghĩa với nhà Nguyễn cũng không được đón tiếp.
Ví dụ như năm 1817 “tàu Pháp đến đậu ở Đà Nẵng, đưa cho Nguyễn Văn Thắng xin
được vào dâng sản vật nhưng không có quốc thư, vua không tiếp”. Và khi có đủ các
điều kiện vua vẫn không tiếp vì vấn đề an ninh hoặc vấn đề tế nhị khác, tuy nhiên một
quan đại thần thay vua vào Đà Nẵng đón tiếp sứ thần.
Như vậy, chủ trương của nhà Nguyễn không muốn mở rộng quan hệ với các
nước phương Tây, nhất là khi âm mưu bành trướng xâm lược của phương Tây ngày
càng lộ rõ thì nhà Nguyễn hạn chế giao thương, đồng thời tăng cường phòng phủ Đà
Nẵng. Đà Nẵng được chú trọng trong công tác tổ chức phòng thủ hơn là chú trọng
trong công tác ngoại thương. Chủ trương và biện pháp giao thương chặt chẽ còn biểu
hiện trong hoạt động ngoại giao diễn ra tại Đà Nẵng. Thông thường, tàu thuyền của sứ
thần các nước đến cảng Đà Nẵng, sau khi có thông báo có quốc thư và lễ vật xin đệ
trình lên vua của các quan sở tại, tàu thuyền của họ sẽ được cập cảng sau khi đã qua
khám xét, sau đó được phép cử người lên bờ có sự giám sát của quan binh địa phương
mua những nhu yếu phẩm cần thiết như thực phẩm, nước uống, than củi... Và tất cả ở
lại trên tàu chờ các quan địa phương viết báo cáo xin ý kiến của nhà vua. Chỉ thị của

vua thường đến sau 10 đến 15 ngày sau khi tàu cập cảng. Những trường hợp cấp bách
22


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
thì phản hồi của triều đình trong vòng vài ba ngày. Nghi thức ngoại giao tổ chức tại
Đà Nẵng khá long trọng, được quy định cụ thể trước năm Gia Long thứ 17 (1817), khi
tàu các nước đến “kéo cờ và bắn 21 phát đại bác chào mừng, đồng thời trên thành
Điện Hải cũng phát 21 tiếng súng”. Nhưng về sau chỉ cho phép bắn từ 3 đến 6 phát
súng chào mừng quý khách mà thôi. Việc đón tiếp chính thức của nước chủ nhà có thể
diễn ra ở triều đình Huế nếu Vua đồng ý, nhưng thường tổ chức ở Đà Nẵng do đại
diện triều đình hoặc là quan của ty Thương Bạc vào phối hợp với quan binh sở tại.
Tuy không quy định cụ thể, tùy theo hoàn cảnh và tùy theo sứ thần thuộc quốc gia
nào, chức vụ gì và đi thuyền chiến hay thuyền buôn lớn hay bé mà nghi lễ đón tiếp
được tổ chức quy mô long trọng hay đơn giản khác nhau.
Với những lợi thế riêng, ngay từ buổi đầu thiết lập, nhà Nguyễn đã chọn Đà
Nẵng làm cửa ngõ đối ngoại chính thức của nước ta đối với các nước phương Tây.
Trong hoàn cảnh các nước phương Tây tranh nhau tìm kiếm thị trường, với sức mạnh
kinh tế và quân sự mỗi quốc gia phương Tây khi cử đặc sứ đến xin quan hệ với các
nước phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng đều muốn quốc gia sở tại dành
riêng cho quốc gia mình đặc quyền giao thương, đã làm cho cảng Đà Nẵng trở thành
nơi thu hút các sứ thần phương Tây đến xin quan hệ nhưng nhiều nhất là các phái
đoàn các nước Hoa Kỳ, Anh và Pháp - những quốc gia phát triển mạnh nhất lúc bấy
giờ. Điều đó làm cho chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn đối với các nước phương
Tây muốn vừa cẩn trọng, chặt chẽ và công bằng giữa các nước, lại vừa muốn đảm bảo
độc lập tự chủ của đất nước, đã không làm hài lòng các nước phương Tây, nhất là
nước Pháp - nước có nhiều “ơn nghĩa” với nhà Nguyễn. Có thể nói, chính sách ngoại
giao của nhà Nguyễn nói chung và tại Đà Nẵng nói riêng không sai, thậm chí có phần
khôn ngoan. Tuy nhiên, chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn còn quá nặng nề, khắt
khe cho nên đã đánh mất đi sự khéo léo trong quan hệ bang giao so với các triều đại

trước. Do quá lo sợ về nguy cơ thực dân, triều Nguyễn đã từng bước thực thi chính
sách “đóng cửa”, ngày càng tìm cách hạn chế ảnh hưởng của phương Tây trên đất Việt
Nam. Mặt khác, nhà Nguyễn áp dụng những biện pháp cực đoan nhằm gia cố thêm ý
thhức hệ Nho giáo với tư cách là bệ đỡ tư tưởng của nhà nước quân chủ. Nhà Nguyễn
ngày càng tỏ ra bảo thủ, đưa đất nước ngày càng lún sâu vào tình trạng trì trệ, lạc hậu
đến nỗi suy kiệt khả năng tự vệ. Chính đó là nguyên nhân trực tiếp, như một hệ quả tất
23


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
yếu của quy luật “nhân quả” trong việc Pháp xâm lược nước ta năm 1858 và cũng thật
“trớ trêu” khi Đà Nẵng lại là nơi đầu tiên gánh chịu những phát súng xâm lược của
thực dân Pháp.

KẾT LUẬN
Khi nhìn nhận về con người này, thật không đơn giản, là một núi mâu thuẫn,
mâu thuẫn do chính cuộc đời ông tạo ra, mâu thuẫn của hoàn cảnh lịch sử và đặc biệt,
từ đó tạo ra mâu thuẫn của dân tộc với sự đa dạng trong cách nhìn, cách nghĩ được sản
sinh tự nhiên từ ngàn vạn sự kiện thực hư, chính đáng và không chính đáng. Nếu
không thật sự khách quan và chiêm nghiệm theo nhiều chiều cạnh, lát cắt của lịch sử,
soi xét từ gần đến xa, từ sau đến trước, chủ thể và khách thể, hoá thân vào nhiều vị trí
để có góc nhìn trọn vẹn, hoặc luôn bị kiềm toả bởi một định kiến chủ quan, thủ cựu thì
thật khó thoát mình ra khỏi những sai lầm trong cách nhìn nhận vấn đề.
Trong lịch sử vương quyền, chưa một vị vua nào như Ông, trước khi ngồi trên
ngai vàng, cuộc đời và sự nghiệp lại nhiều gian lao và thách đố đến như vậy, cũng
chưa thấy ai đầy lòng kiên nhẫn để mưu nghiệp lớn như ông. Hơn hai mươi năm lăn
lộn, cận kề cái chết, nhưng ông vẫn vươn lên giành được thắng lợi cuối cùng. Mệnh
trời đã mỉm cười với ông. Ông đã chiến thắng.
Chúng ta tự hào vì chúng ta có Nguyễn Huệ Quang Trung, thì đồng thời
chúng ta cũng không thể lãng quên Nguyễn Ánh hoặc tuỳ tiện đánh giá về con người

này. Hai thế lực, hai trận tuyến, là kẻ thù không đội trời chung. Nhưng hai con người
này đều là thực thể Việt Nam. Mỗi người trong họ đã tạo cho người còn lại một môi
trường của sự thử sức, lòng can đảm và sự khôn ngoan để đoạt chiến thắng từ tay đối
24


Những Chính Sách Nhà Nguyễn Thời Gia Long ( 1802-1820)
phương. Đây là hai mặt trong một thể thống nhất biện chứng; mỗi người đều là căn cứ
để đánh giá và nhìn nhận người kia.
Những tài năng trác tuyệt thiên bẩm của Nguyễn Ánh là không thể phủ nhận.
Mười lăm tuổi (1777) cầm quân, xông pha trận mạc, quyết định những chiến thắng
quan trọng và là linh hồn của các thế lực Đàng Trong. Mười tám tuổi (1780), qua
những năm tháng thử lửa, ông đã chính thức được tôn vinh làm Chúa Nguyễn Nguyễn Vương. Sài gòn - Gia Định trở thành thủ đô trong thánh địa của triều đại Ông.
Trong sự va đập lịch sử thì lịch sử cũng biết tự chọn lựa. Một người đã đi đến đích, đã
chiến thắng ở trận cuối cùng, đó là Nguyễn Ánh.
Với hơn 200 năm tồn tại kế từ khi Nguyễn Hoàng gây dựng cơ nghiệp, các thế
lực phong kiến cát cứ và bản địa như Vương quốc Phù Nam, Vương quốc Chămpa
đều đã bị quy về một mối, sự tồn tại chỉ mang tính hình thức. Chúa Nguyễn đã tạo
điều kiện cho sự phát triển nền kinh tế văn hoá các vùng phía nam mà các thế kỷ trước
đó vẫn nằm trong tình trạng lạc hậu hoặc luôn bị sự khống chế của ngoại bang, điển
hình là Chân Lạp và Xiêm La. Sự lớn mạnh về chính trị, quân sự, kinh tế của Nam Bộ
gắn với lịch sử tồn tại của chính quyền trung ương tập quyền lúc đó: tập đoàn chúa
Nguyễn.
Trong quá trình tồn tại, bên cạnh những thành tựu vĩ đại do Nguyễn Huệ tạo
nên, đó là những chiến công hiển hách chống quân xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc,
tiến hành những cải cách kinh tế văn hoá, thì đồng thời những nhược điểm của các thế
lực khởi nghĩa mang nặng tính nông dân thường mắc phải cũng đã hiện ra trong nội
bộ Tây Sơn ngày càng trầm trọng, trầm trọng đến mức không phương cứu chữa.
Nguyễn Nhạc là sự hiện thân của sự bất cập này. Chính những mâu thuẫn đó đã tạo
cho các thế lực phong kiến Phương Nam nhìn nhận lại và quyết tâm ủng hộ Nguyễn

Ánh đến cùng. Những mâu thuẫn trong Tây Sơn xuất hiện mạnh ngay sau khi Nguyễn
Huệ tiến quân Bắc Hà lần thứ nhất tiêu diệt chúa Trịnh. Nguyễn Nhạc đã tức tốc ra tận
Thăng Long triệu hồi Nguyên Huệ trở về Phú Xuân, bỏ lại một Thăng Long hỗn độn,
quân hồi vô phèng với một đống quan lại và sĩ phu khủng hoảng lòng tin và phương
hướng. Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm đầy lòng trắc ẩn, muốn thoát khỏi sự kiểm
soát của Nguyễn Huệ, tranh bá đồ vương. Để rồi từ đó xô đẩy kẻ tiểu nhân bất tài Lê
25


×